XXXXIX.1. Phẩm Chăn
trâu (1)
(Phần thứ tư tụng riêng)
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu người chăn trâu thành tựu
mười một pháp, thì bầy trâu không thể tăng
trưởng, cũng không thể giữ được trâu của mình. Thế nào là mười một?
Nếu người chăn trâu không phân biệt được hình
sắc trâu; không biết tướng mạo trâu; trâu cần cọ xát, tắm rửa mà không
biết cọ xát tắm rửa; không biết chăm sóc vết
thương trâu; không biết tùy thời un khói; không biết chỗ ruộng tốt
cỏ non cho trâu ăn; không biết chỗ an
ổn; cũng không biết chỗ lùa trâu qua sông, không biết thời thích hợp; khi
vắt sữa không chừa lại mà vắt lấy hết; có những con trâu trâu lớn sử dụng
được, không biết tùy thời giữ gìn. Này
các Tỳ-kheo! Ðó gọi là người chăn trâu thành
tựu mười một pháp, rốt cuộc không thể nuôi lớn
đàn trâu, không biết giữ gìn thân
chúng.
Nay trong chúng Tỳ-kheo cũng lại như thế, trọn không thể tăng
trưởng lợi ích. Thế nào là mười một? Ở
đây, Tỳ-kheo không phân biệt sắc kia; không hiểu tướng của nó; cần chăm
sóc kỳ cọ mà không biết chăm sóc kỳ
cọ; không chăm sóc vết thương; không biết tùy thời un khói; không
biết chỗ ruộng tốt cỏ non; không biết bến qua sông; cũng không biết chỗ an
ổn; không biết ăn đúng thời; không biết lưu
lại những gì còn thừa; không biết kính trọng các Tỳ-kheo trưởng
lão.
Thế nào là Tỳ-kheo không biết về sắc? Ở
đây, Tỳ-kheo có sắc tứ đại và
tứ đại sở tạo, thảy đều không biết. Như thế,
Tỳ-kheo không phân biệt về sắc.
Thế nào là Tỳ-kheo không phân biệt về tướng? Ở
đây, 'Tỳ-kheo không biết hành
động ngu, cũng không biết hành
động trí, không biết như thật. Như thế,
Tỳ-kheo không phân biệt tướng.
Thế nào là Tỳ-kheo đáng chăm sóc kỳ cọ mà
không chăm sóc kỳ cọ? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy
sắc lần khởi tướng sắc, có các niệm loạn động, lại không giữ gìn
nhãn căn. Do không khéo nhiếp niệm nên
gây ra các ương lụy, không giữ gìn nhãn căn.
Như thế, nếu Tỳ-kheo tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị,
thân xúc chạm trơn mịn, ý biết pháp khởi các loạn tưởng, cũng không giữ
gìn ý căn, không sửa đổi hành
động của mình. Như thế, Tỳ-kheo nên chăm
sóc kỳ cọ mà không chăm sóc kỳ cọ.
Thế nào là Tỳ-kheo không trị lành vết thương? Ở
đây, Tỳ-kheo khởi dục tưởng mà không
lìa bỏ, cũng không trừ ý niệm ấy. nếu khởi tưởng sân hận, tưởng sát hại,
khởi lên các tưởng ác, tưởng không lành thì trọn không rời bỏ. Như thế,
Tỳ-kheo không trị lành vết thương.
Thế nào là Tỳ-kheo không tùy thời xông khói? Ở
đây, Tỳ-kheo đối với pháp đã tụng
đọc, không tùy thời dạy lại cho người.
Như thế, 'Tỳ-kheo không tùy thời xông khói.
Thế nào là Tỳ-kheo không biết ruộng tốt cỏ non? Ở
đây, Tỳ-kheo không biết ý chỉ (Tứ niệm xứ),
không biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo không biết chỗ ruộng tốt cỏ non.
Thế nào là Tỳ-kheo không biết bến qua sông? Ở
đây, Tỳ-kheo không phân biệt được Tám đạo
phẩm Hiền Thánh. Như thế, Tỳ-kheo không biết bến qua sông.
Thế nào là Tỳ-kheo không biết chỗ đáng yêu
thích? Ở đây, Tỳ-kheo với mười hai bộ: Khế
kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Phương
đẳng, Thí dụ, Bổn sanh, Tự thuyết, Luận nghị,
Vị tằng hữu. Như thế, Tỳ-kheo không biết chỗ đáng yêu thích.
Thế nào là Tỳ-kheo không biết thời thích hợp? Ở
đây, Tỳ-kheo đi đến nhà khinh tiện,
nhà vui chơi. Như thế, Tỳ-kheo không biết thời thích hợp.
Thế nào là Tỳ-kheo không lưu lại vật thừa? Ở
đây, Tỳ-kheo có các Phạm chí hay Ưu-bà-tắc
tín tâm đến thỉnh thọ trai, song các Tỳ-kheo
đắm trước vào ăn uống, không biết
ngừng đủ. Như thế, Tỳ-kheo không lưu lại vật thừa.
Thế nào là Tỳ-kheo không kính trọng bậc trưởng lão, những Tỳ-kheo cao
đức? Ở đây, Tỳ-kheo không phát tâm
cung kính đối với các bậc đức độ. Như thế,
Tỳ-kheo có nhiều sai phạm. Ðó gọi là Tỳ-kheo không cung kính trưởng
lão.
Nếu có Tỳ-kheo thành tựu mười một pháp này, trọn không thể ở trong pháp
được nhiều lợi ích.
Nếu người chăn trâu thành tựu mười
một pháp, hay giữ gìn đàn trâu của
mình thì trọn không mất thời, có các lợi ích. Thế nào là mười một? Ở
đây, người chăn trâu biết sắc trâu, phân biệt
tướng trâu, cần tắm rửa kỳ cọ thì tắm rửa kỳ cọ, chăm
sóc các vết ghẻ lở, tùy thời xông khói, biết chỗ ruộng tốt cỏ ngon,
biết bến qua sông cần yếu, thương trâu của mình, phân biệt thời thích hợp
với trâu, cũng biết tánh tình trâu, nếu khi vắt sữa trâu thì biết chừa
lại, cũng biết tùy thời chăm sóc giữ gìn
những con trâu có thể sử dụng. Như thế, người chăn
trâu biết giữ gìn trâu. Như thế, này Tỳ-kheo! Nếu người chăn
trâu thành tựu mười một pháp không mất thời tiết, trọn không bị bại
hoại.
Như thế, Tỳ-kheo nếu thành tựu mười một pháp, nơi hiện pháp này
được nhiều lợi ích. Thế nào là mười
một pháp? Ở đây, Tỳ-kheo biết sắc, biết
tướng, biết cọ rửa, biết chăm sóc vết thương, biết xông khói, biết chỗ
ruộng tốt cỏ ngon, biết chỗ đáng yêu thích, biết chọn
đường đi, biết chỗ qua sông, biết ăn vừa đủ,
biết kính trọng Tỳ-kheo trưởng lão và tùy thời lễ bái.
Thế nào là Tỳ-kheo biết sắc? Ở đây Tỳ-kheo
biết sắc tứ đại, cũng biết tứ đại tạo sắc. Ðó gọi là Tỳ-kheo biết
sắc.
Thế nào là Tỳ-kheo biết tướng? Ở đây
Tỳ-kheo biết tướng ngu, biết tướng trí, biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo
biết tướng.
Thế nào là Tỳ-kheo biết cọ rửa? Ở đây, nếu
Tỳ-kheo khởi tưởng dục liền biết xa lìa, cũng không tha thiết, vĩnh
viễn không dục tưởng. Nếu tưởng sân, tưởng hại, và các tưởng ác bất thiện
khơi lên thì đều biết xa lìa, cũng
không tha thiết, vĩnh viễn không tưởng sân. Như thế, Tỳ-kheo biết cọ rửa.
Thế nào là Tỳ-kheo biết chăm sóc vết
thương? Ở đây, Tỳ-kheo nếu mắt thấy sắc không khởi tưởng sắc thì
cũng không nhiễm trước, mà làm trong sạch nhãn căn,
trừ bỏ lo buồn và pháp ác bất thiện, tâm không tham vui trong ấy,
giữ gìn nhãn căn. Như thế, Tỳ-kheo nếu tai
nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp
thì không khởi thức tưởng, cũng không nhiễm trước, mà thanh tịnh ý căn.
Như thế, Tỳ-kheo biết chăm sóc vết thương.
Thế nào là Tỳ-kheo biết xông khói? Ở đây,
Tỳ-kheo từ pháp được nghe, vì người giảng nói rộng. Như thế là
Tỳ-kheo biết xông khói.
Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ ruộng tốt, cỏ non? Ở
đây, Tỳ-kheo đối với Tám đạo phẩm Hiền Thánh
như thật mà biết. Ðó là Tỳ-kheo biết chỗ ruộng tốt cỏ non.
Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ đáng yêu?
Ở đây, nếu Tỳ-kheo nghe Như Lai nói pháp báu
thì tâm liền vui thích. Như thế, Tỳ-kheo biết chỗ
đáng yêu.
Thế nào là Tỳ-kheo biết chọn đường đi? Ở
đây, Tỳ-kheo đối với mười hai bộ kinh, chọn mà hành trì. Ðó là Khế
kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Phương
đẳng, Thí dụ, Bổn sanh, Tự thuyết, Luận nghị,
Vị tằng hữu. Như thế là Tỳ-kheo biết chọn
đường đi.
Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ qua sông? Ở
đây, Tỳ-kheo biết Tứ ý chỉ (Tứ niệm xứ), đó gọi là Tỳ-kheo biết chỗ
qua sông.
Thế nào là Tỳ-kheo biết ăn vừa đủ? Ở đây,
Tỳ-kheo được Phạm Chí, Ưu-bà-tắc tín tâm
đến thỉnh thọ trai, không tham ăn uống, có
thể tự biết đủ. Như thế Tỳ-kheo biết vừa đủ.
Thế nào là Tỳ-kheo tùy thời kính vâng Tỳ-kheo trưởng lão? Ở
đây, Tỳ-kheo thường dùng thần niệm ý
làm lành đối với các Tỳ-kheo trưởng lão.
Như thế, Tỳ-kheo tùy thời cung kính Tỳ-kheo trưởng lão.
Như thế, nếu thành tựu mười một pháp, ở trong hiện pháp
được nhiều lợi ích.
Thế Tôn bèn nói kệ:
Chăn trâu không lười biếng,
Người ấy được phước báo,
Sáu con trong sáu năm,
Dần dần thành sáu chục.
Tỳ-kheo thành tựu giới,
Với thiền, được tự tại,
Nếu sáu căn vắng lặng,
Sáu năm thành lục thông.
Như thế, Tỳ-kheo! Nếu có người lìa pháp ác này, thành tựu mười một pháp
này thì ở trong hiện pháp được nhiều lợi ích.
Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều
này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu Tỳ-kheo thành tựu mười một pháp, ắt có thể có sự lớn mạnh. Thế
nào là mười một? Ở đây, Tỳ-kheo thành
tựu giới, thành tựu chánh định, thành
tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, các căn
vắng lặng, ăn uống biết vừa đủ, thường tu hành cọng pháp, biết
phương tiện, phân biệt nghĩa thú, không đắm
trước lợi dưỡng. Như thế, Tỳ-kheo, có người thành tựu mười một pháp
này, liền có chỗ đạt đến.
Nay Ta lại bảo các Thầy, nếu có người trong mười một năm,
học pháp này thì người ấy hiện đời thành
A-na-hàm, chuyển thân liền thành A-la-hán. Các Tỳ-kheo, thôi không cần
mười một năm, hoặc chín, tám, bảy, sáu, năm,
bốn, ba, hai, chỉ một năm học pháp này, liền chứng quả thứ hai,
hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán. Hoặc không cần mười hai tháng, chỉ trong một
tháng tu hành này, Tỳ-kheo ấy chắc chắn thành hai quả, hoặc A-na-hàm, hoặc
A-la-hán.
Vì sao như vậy? Mười hai nhân duyên đều
phải xuất từ mười một pháp này. Ðó là sanh, lão, bịnh, tử, lo buồn
khổ não ... Tuy Ta dạy các Tỳ-kheo nên giống như Tỳ-kheo Ca-diếp. Nếu như
có người thực hành pháp khiêm tốn khổ hạnh thì khổ có gì sánh kịp hạnh
này? Vì sao? Tỳ-kheo Ca-diếp thành tựu mười một pháp này. Nên biết chư
Phật đời quá khứ thành Ðẳng Chánh Giác
cũng thành tựu mười một pháp khổ hạnh này. Nay Tỳ-kheo Ca-diếp vì thương
xót tất cả chúng sanh. Nếu cúng dường các Thanh văn
đời quá khứ thân sau sẽ được phước báu. Nếu cúng dường Ca-diếp, thân hiện
đời được phước báu. Nếu như Ta không thành Ðẳng Chánh Giác, sau sẽ
do Ca-diếp thành Ðẳng Chánh Giác. Do nhân duyên này nên Tỳ-kheo Ca-diếp
hơn các Thanh văn đời quá khứ. Ai có thể làm
như Ca-diếp, đây ắt là hạnh trên hết.
Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn vì vô số chúng sanh vây quanh trước sau, mà nói pháp.
Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất dắt nhiều chúng Tỳ-kheo
đi kinh hành. Các Tỳ-kheo Ðại
Mục-kiền-liên, Ðại Ca-diếp, A-na-luật, Ly-bà-da, Ca-chiên-diện, Mãn-tù-tử,
Ưu-ba-ly, Tu-bồ-đề, La-vân, A-nan v.v. mỗi
người đều dắt một số Tỳ-kheo tự vui cùng nhau. Ðề-bà-đạt-đa
cũng dắt nhiều chúng Tỳ-kheo tự đi kinh hành.
Thế Tôn thấy các đệ tử thần túc mỗi người
đều dẫn chúng của mình đi kinh hành.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Người đời, về thân căn và tánh
tình mỗi mỗi tự thích hợp với nhau. Người hiền cùng làm bạn với người
hiền, người ác cùng làm bạn với người ác. Cũng như sữa tương ưng với sữa,
bơ tương ưng với bơ, phần uế cùng tương ưng với phần uế. Ðây cũng như vật,
căn tánh, hành
động, pháp tắc của chúng sanh mỗi tự tương
ưng. Người hiền tương ưng với người hiền, người ác tương ưng với người ác.
Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Xá-lợi-phất dắt các Tỳ-kheo đi kinh hành
kia chăng?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Những người ấy đều là hàng có trí
tuệ.
Phật lại hỏi các Tỳ-kheo:
- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Mục-kiền-liên dắt các Tỳ-kheo
đi kinh hành không?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những Tỳ-kheo ấy đều là hàng có
thần túc.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy thấy Tỳ-kheo Ca-diếp dắt các Tỳ-kheo
đi kinh hành chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Các Thượng sĩ ấy đều là những
người thật hành mười một pháp đầu đà.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy thấy Tỳ-kheo A-nan-luật chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những Hiền sĩ ấy đều là hàng
Thiên nhãn đệ nhất.
Phật lại hỏi:
- Có thấy Tỳ-kheo Ly-việt chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những người ấy đều là hành nhập
định.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Ca-chiên-diên chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những Thượng sĩ ấy đều là người
phân biệt nghĩa lý.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Mãn-từ-tử chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những Hiền sĩ ấy đều là người
thuyết pháp.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy có thấy Ưu-ba-ly dẫn các Tỳ-kheo
đi kinh hành chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những người ấy đều là người giữ
gìn giới cấm.
Phật lại hỏi:
Các Thầy thấy Tỳ-kheo Tu-bồ-đề chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những Thượng nhơn ấy đều là bậc
Giải không đệ nhất.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo La-vân chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những Hiền sĩ ấy đều là người
đầy đủ giới.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo A-nan chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Những Hiền sĩ ấy đều là người
đa văn đệ nhất, nghe rồi không quên.
Phật lại hỏi:
- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Ðề-bà-đạt-đa
dắt các người đi kinh hành chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa vâng, thấy.
Phật bảo:
- Những người ấy lấy việc ác làm đầu,
không có gốc lành.
Thế Tôn bèn nói kệ:
Chớ cùng Ác tri thức,
Cùng người ngu làm việc,
Nên cùng Thiện tri thức,
Giao thiệp với người trí,
Nếu người vốn không ác,
Gần gũi với người ác,
Sau ắt thành nhân ác,
Tiếng ác đồn khắp nơi.
Bấy giờ, hơn ba mươi đệ tử của
Ðề-bà-đạt-đa nghe Thế Tôn nói bài kệ
ấy rồi, bèn bỏ Ðề-bà-đạt-đa đi đến chỗ Phật,
cúi đầu lễ chân Phật, xin sửa đổi tội nặng.
Các vị ấy lại bạch Thế Tôn:
- Chúng con ngu si mê lầm, không biết chơn ngụy, bỏ Thiện tri thức mà
gần Ác tri thức. Cúi xin Thế Tôn tha thứ, về sau không dám phạm.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Cho phép các Thầy sám hối lỗi lầm, sửa
điều đã làm, chỉnh đốn điều sắp làm,
đừng phạm lại.
Bấy giờ, đệ tử của Ðề-bà-đạt-đa,
vâng lời Thế Tôn dạy, ở chỗ vắng suy nghĩ nghĩa lý vi diệu, tự khắc phục hành
động của mình. Vốn là hàng quý tộc,
cạo bỏ râu tóc xuất gia học đạo, vì
muốn tu Phạm hạnh vô thượng, các Tỳ-kheo đều
đắc quả A-la-hán.
Tỳ-kheo nên biết! Cội nguồn của chúng sanh
đều tự theo loại với nhau. Người ác đi theo người ác, người hiền đi theo
người hiền. Cội nguồn của chúng sanh thời quá khứ và tương lai cũng
lại như thế, cùng theo loại với nhau. Cũng như tịnh tương ưng với tịnh,
bất tịnh tương ưng với bất tịnh. Cho nên, Tỳ-kheo nên học tương ưng với
tịnh, xả bỏ bất tịnh. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học
điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng lời.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại thành Câu-lưu-sa Pháp Hành, cùng với chúng
đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.
Bấy giờ, Tôn giả Tượng Xá-lợi-phất xả bỏ pháp y, tập theo hạnh cư sĩ.
Khi ấy, Tôn giả A-nan đắp y mang bát vào
thành khất thực, đi dần dần đến nhà
Tượng Xá-lợi-phất. Tượng Xá-lợi-phất đang kề
vai hai thiếu nữ. A-nan thấy như vậy, bèn khởi ý lo buồn không vui.
Tượng Xá-lợi-phất thấy A-nan rồi, rất hổ thẹn, bèn ngồi riêng một mình.
Bấy giờ, A-nan khất thực xong, ra khỏi thành,
đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi
một bên.
A-nan bạch Phật:
- Vừa rồi con vào thành khất thực, đi dần
đến nhà Tượng Xá-lợi-phất, thấy đang
kề vai hai cô vợ. Con thấy rất lo buồn.
Phật hỏi:
- Thầy thấy rồi khởi ý niệm gì?
A-nan bạch Phật:
- Con nhớ Tượng Xá-lợi-phất là người tinh tấn
đa văn, tánh hạnh nhu hòa, vì các
người Phạm hạnh nói pháp không chán. Vì sao hôm nay lại xả bỏ pháp phục,
tập hạnh cư sĩ? Con thấy rồi rất lo buồn. Bởi vì Tượng Xá-lợi-phất, có sức
oai thần lớn, oai đức vô lượng. Tự nghĩ xưa
con từng thấy vị ấy bàn luận với Thích-đề-hoàn-nhân,
tại sao ngày nay lại tập theo dục lạc làm ác?
Phật bảo:
- Như thế, A-nan! Như lời Thầy nói. Chỉ vì vị ấy không phải là
A-la-hán. Phàm là A-la-hán mới không bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ. Nhưng
này A-la-nan, chớ lo buồn! Sau bảy ngày, Tượng Xá-lợi-phất sẽ
đến đây, chấm dứt hữu lậu thành vô
lậu. Chỉ vì Tượng Xá-lợi-phất do nghiệp cũ lôi kéo nên như thế. Hạnh
nghiệp đời này
đầy đủ sẽ dứt hữu lậu.
Bấy giờ, Tượng Xá-lợi-phất sau bảy ngày đi
đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, giây lát
đứng dậy bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn cho phép con lần cuối tu hạnh Sa-môn.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Tượng Xá-lợi-phất liền
được làm Sa-môn ngay tại chỗ ngồi đắc
A-la-hán.
Tượng Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào
thành khất thực, lúc ấy có một Phạm chí sanh ý niệm rằng: "Các Sa-môn dòng
Thích này, chỗ nào cũng có, hiện diện khắp nơi, lại dứt tuyệt cả việc thi
hành chú thuật của chúng ta. Nay ta sẽ nói với người trong thành vết xấu
của Sa-môn này". Bấy giờ Phạm chí ấy nói mọi người trong thành rằng:
- Các Người có thấy Tượng Xá-lợi-phất chăng?
Ngày trước tự xưng là A-la-hán, nửa chừng bỏ pháp phục, tập hạnh
thế gian, vui chơi trong ngũ dục. Nay lại làm Sa-môn,
đi khất thực từng nhà ra vẻ trong
sạch, thấy phụ nữ khởi lên dục tính, trở về tinh xá nhớ nghĩ nữ sắc không
quên. Như con lừa mệt mỏi không kham chở đồ,
nằm mẹp không nhúc nhích; đệ tử dòng Thích này cũng như vậy, ngoài
hiện vẻ khất thực mà thấy người nữ thì suy nghĩ toan tính.
Tượng Xá-lợi-phất nghe Phạm chí ấy gieo rắc tiếng tăm
ác, bèn khởi nghĩ: "Người này rất ngu si, sanh tâm tật
đố, thấy người khác được lợi dưỡng sanh lòng
bỏn sẻn, ganh ghét. Nếu mình được lợi dưỡng
thì bèn vui mừng, đến nhà cư sĩ
phỉ báng. Nay ta phải chế ngự không cho làm ác, không khiến cho người này
chịu tội vô lượng".
Tượng Xá-lợi-phất bay lên hư không, bảo Phạm chí rằng:
Không mắt, không cách khéo,
Khởi tâm chê Phạm hạnh,
Tự làm việc vô ích,
Chịu khổ địa ngục lâu.
Tượng Xá-lợi-phất nói kệ ấy rồi, bèn trở về chỗ của mình. Khi ấy, dân
chúng trong thành nghe Phạm chí phỉ báng, lại nghe Tượng Xá-lợi-phất nói
kệ, đều khởi nghĩ rằng: "Nếu đúng như lời
Phạm chí, sao lại hiện thần túc khó bì, chúng ta lại thấy Sa-môn ấy
xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ". Khi ấy, phần
đông dân chúng, mỗi mỗi đến chỗ Tượng
Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ dưới chân, lui ngồi một bên. Mọi người hỏi
Tượng Xá-lợi-phất rằng:
- Có vị A-la-hán nào xả bỏ pháp phục, tập hạnh thế gian chăng?
Tượng Xá-lợi-phất đáp:
- Không có A-la-hán xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ.
Mọi người bạch Tượng Xá-lợi-phất:
- A-la-hán có vì duyên cũ mà phạm giới chăng?
Tượng Xá-lợi-phất đáp:
- Ðã đắc quả A-la-hán, trọn không phạm
giới.
Dân chúng lại hỏi:
- Người ở địa vị học đạo có vì
duyên cũ mà phạm giới chăng?
Tượng Xá-lợi-phất đáp:
- Có, nếu người còn ở vị học đạo, do duyên
xưa nên phạm giới.
Mọi người lại hỏi:
- Tôn giả trước đây là A-la-hán,
lại bỏ pháp phục, tập theo hạnh thế gian, vui chơi trong ngũ dục, nay lại
xuất gia học đạo. Trước vốn có thần túc, nay
vì sao như thế.
Tượng Xá-lợi-phất bèn nói kệ:
Ðược Thiền định thế gian,
Rốt ráo không giải thoát,
Chưa được vết diệt tận,
Lại tập theo ngũ dục.
Không củi, lửa không cháy,
Không gốc, cành không sanh,
Gái đá không mang thai,
La-hán không bị rơi.
Bấy giờ dân chúng lại hỏi Tượng Xá-lợi-phất:
- Tôn giả trước đây không phải A-la-hán
chăng?
Tượng Xá-lợi-phất đáp:
- Trước đây tôi không phải là
A-la-hán. Các cư sĩ nên biết, ngũ thông và lục thông mỗi thứ sai khác
nhau. Nay tôi sẽ nói về mười một thông ấy. Phàm hạng tiên nhơn
được ngũ thông đã dứt sạch dục ái, nếu
sanh về cõi trên lại rơi xuống dục giới. Hàng A-la-hán lục thông
đệ tử của Phật, được lậu tận thông tức ngay
nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dư, mà vào Niết-bàn.
Dân chúng lại thưa rằng:
- Chúng tôi quán sát lời nói của Tôn giả, thời ở thế gian không có
A-la-hán xả bỏ pháp phục, tập theo hạnh cư sĩ.
Tượng Xá-lợi-phất đáp:
- Như thế, như lời các ông nói, không có A-la-hán nào xả bỏ pháp phục,
tập hạnh cư sĩ. Có mười một pháp, A-la-hán không tập theo.
Thế nào là mười một? A-la-hán lậu tận trọn không xả bỏ pháp phục, tập
theo hạnh cư sĩ; A-la-hán lậu tận trọn không tập hạnh bất tịnh; A-la-hán
lậu tận trọn không sát sanh; A-la-hán lậu tận trọn không trộm cắp;
A-la-hán lậu tận không lưu lại vật thừa; A-la-hán lậu tận trọn không nói
dối; A-la-hán lậu tận trọn không khiến đôi bên
gây gổ. A-la-hán lậu tận trọn không còn hồ nghi; A-la-hán lậu tận trọn
không sợ sệt; A-la-hán lậu tận trọn không theo học thầy khác, lại cũng
không thọ bào thai. Ðó gọi là các Hiền sĩ A-la-hán lậu tận trọn không làm
theo mười một hạnh.
Bấy giờ, dân chúng bạch với Tượng Xá-lợi-phất:
- Chúng con nghe Tôn giả nói, thấy hàng ngoại
đạo dị học như bình rỗng không có gì.
Nay thấy nội pháp như bình đựng mật ngọt.
Chánh pháp Như Lai cũng lại như thế. Nay Phạm chí ấy chịu tội vô lượng.
Tượng Xá-lợi-phất bay lên hư không, ngồi kiết-già nói kệ:
Không hiểu việc đây, kia,
Tập theo thuật ngoại đạo,
Gây đấu tranh đôi bên,
Người trí không làm thế.
Dân chúng thành Câu-lưu-sa thưa Tượng Xá-lợi-phất rằng:
- Lời nói của Tôn giả hơn nhiều, thật khó sánh kịp, cũng như người mù
được sáng mắt, người điếc được nghe. Nay lời
nói của Tôn giả cũng thế, dùng vô số phương tiện nói giáo pháp.
Ngày nay chúng con tự quy y Phật, Pháp, Tỳ-kheo Tăng.
Cúi xin Tôn giả nhận chúng con làm Ưu-bà-tắc, trọn
đời giữ năm giới, không sát sanh...
Bấy giờ, Tôn giả Tượng Xá-lợi-phất vì dân chúng nói pháp vi diệu, khiến
họ phát tâm hoan hỷ, họ đều từ chỗ đứng dậy,
làm lễ mà lui.
Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe Phạm chí phỉ báng Tượng Xá-lợi-phất song
không đến đâu, còn không dám nhìn
Tượng Xá-lợi-phất, huống gì cùng bàn luận, liền
đến chỗ Phật, đem tất cả nhân duyên ấy
thưa với Phật.
Phật bảo A-nan rằng:
- Phàm luận về A-la-hán bình đẳng, nên
nói chính là Tượng Xá-lợi-phất. Vì sao? Nay Tượng Xá-lợi-phất
đã thành A-la-hán. Xưa kia nghe
đồn về danh tiếng A-la-hán, nay mới đạt được.
Hàng thế tục được ngũ thông, không
phải là hạnh chơn thật, sau ắt bị mất. Hàng lục thông là hạnh chơn
thật. Vì sao? Tượng Xá-lợi-phất trước có ngũ thông, sau
được lục thông. Thầy cũng nên học như
Tượng Xá-lợi-phất. Ðây là nghĩa ấy nên ghi nhớ vâng làm.
Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ nói về pháp nhân duyên, nên khéo suy nghĩ ghi nhớ, tu tập
hạnh ấy.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, Thế Tôn bảo:
- Thế nào là pháp nhân duyên?
Nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh
sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái
duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, ưu bi khổ não
không thể tính kể. Như thế thành thân năm ấm
này.
Thế nào gọi là vô minh? Nghĩa là không biết Khổ, không biết Tập, không
biết Diệt, không biết Ðạo. Ðây là vô minh.
Thế nào gọi là hành? Hành có ba loại, thế nào là ba? Là thân hành, khẩu
hành, ý hành. Ðó là hành.
Thế nào gọi là thức? Ðó là sáu thức thân. Thế nào là sáu? Là nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Ðó là thức.
Thế nào gọi là danh? Là thọ, tưởng, hành, thức. Ðó là danh.
Thế nào gọi là sắc? Là thân tứ đại và
sắc thân do tứ đại tạo nên. Ðó là sắc.
Sắc khác danh khác, nên gọi là danh sắc.
Thế nào gọi là lục nhập? Là nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập,
thân nhập, ý nhập. Ðó là lục nhập.
Thế nào gọi là xúc? Là sáu xúc thân. Thế nào là sáu? Là nhãn xúc, nhĩ
xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Ðó là xúc.
Thế nào gọi là thọ? Là ba thọ. Thế nào là ba? Là thọ khổ, thọ vui, thọ
không khổ không vui. Ðó gọi là thọ.
Thế nào gọi là ái? Là ba ái: dục ái, hữu ái, vô hữu ái.
Thế nào gọi là thủ? Là bốn thủ. Thế nào là bốn? Là dục thủ, kiến thủ,
giới thủ, ngã thủ. Ðó gọi là thủ.
Thế nào gọi là hữu? Là ba hữu. Thế nào là ba? Là dục hữu, sắc hữu, vô
sắc hữu. Ðó gọi là hữu.
Thế nào gọi là sanh? Là khi đầy đủ ngày
tháng, ra khỏi bụng mẹ, nhận sự hiện hữu,
được thân năm ấm, thọ lãnh các nhập. Ðó gọi là sanh.
Thế nào gọi là lão? Là chúng sanh kia, nơi thân phần này răng
rụng, tóc bạc, khí lực yếu mòn, các căn
rã rời, thọ mạng ngày càng suy, không còn tình thức như xưa. Ðó gọi
là lão.
Thế nào gọi là tử? Là khi chúng sanh kia, lần lượt thân thể không còn
ấm, vô thường biến đổi, các căn phân tán, bỏ
thân năm ấm, mạng sống chấm dứt. Ðó gọi là tử.
Tỳ-kheo nên biết! Như thế gọi là lão, bệnh, tử. Ðây gọi là nhân duyên.
Ta đã phân biệt rộng nghĩa ấy. Ðiều
cần làm của các đức Phật Như Lai, khởi lòng
thương xót lớn, nay Ta đã làm xong.
Các Thầy nên ghi nhớ, khi ngồi dưới gốc cây, nơi
đất trống, hoặc ở gò mả, nên suy nghĩ
tọa thiền, chớ sợ hãi. Ngày nay không siêng năng,
sau ân hận vô ích.
Bấy giờ, A-nan bạch Phật:
- Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói pháp nhân duyên sâu xa. Nhưng con thấy
không có nghĩa sâu xa gì cả.
Ðức Phật bảo:
- Thôi, thôi, A-nan! chớ khởi ý nghĩ ấy. Vì sao? Pháp Mười hai nhân
duyên rất sâu xa, không phải là chỗ hiểu của người thường.
Xưa, khi Ta chưa giác ngộ pháp nhân duyên này, bị trôi lăn
trong sanh tử không có ngày ra khỏi. Lại, này A-nan! Không phải
ngày nay, Thầy mới nói pháp nhân duyên không sâu xa, từ trước
đến nay đã nói không sâu xa. Vì sao?
Thời quá khứ, có vị vua A-tu-la tên Tu-diệm, khởi ý nghĩ nầy: "Muốn nắm
chặt mặt trời, mặt trăng ra khỏi biển lớn". Bèn
hóa thân to lớn, nước biển chỉ tới ngang lưng. Bấy giờ, vua A-tu-la ấy có
con trai tên Câu-na-la, tự nói với cha rằng:
- "Nay con muốn tắm trong biển".
Tu-diệm bảo:
- "Con đừng thích tắm trong biển. Vì
sao? Nước biển rất sâu và rộng, con không thể tắm trong
đó".
Câu-na-la tự nói:
- "Con thấy nước biển chỉ đến ngang lưng
cha, vì sao lại nói là sâu rộng?"
Khi đó, vua A-tu-la nắm lấy con dìm
vào trong biển lớn, con trai A-tu-la chân không chấm
đáy bể rất là sợ hãi.
Vua Tu-diệm bảo con rằng:
- "Ta đã nói trước với con rằng
biển rất sâu, con nói không khổ chỉ có ta mới có thể tắm trong biển lớn,
không phải con có thể tắm được".
A-tu-la Tu-diệm lúc ấy há phải người nào lạ? Chớ nghĩ như thế, Vì sao?
Tu-diệm tức là thân Ta, con trai của A-tu-la lúc ấy chính là thân Thầy.
Khi ấy nước biển rất sâu, Thầy nói không khổ. Nay Ta nói pháp Mười hai
nhân duyên rất sâu xa, Thầy lại nói không sâu xa.
Chúng sanh không hiểu pháp Mười hai nhân duyên, lưu chuyển trong sanh
tử không có ngày ra khỏi, thảy đều mê
lầm không biết khổ hạnh. Từ đời này
đến đời sau, từ đời sau đến đời này,
vĩnh viễn ở trong năm thứ phiền não,
muốn ra rất khó. Ta ban đầu mới thành
đạo, suy nghĩ về Mười hai nhân duyên,
hàng phục ma quân, quyến thuộc của ma. Do trừ vô minh mà
được tuệ minh, vĩnh viễn trừ diệt các tối
tăm, không còn trần cấu. A-nan! Khi Ta ba phen chuyển, mười hai lần
nói pháp nhân duyên này, liền được thành
đạo. Do phương tiện này nên biết ,
pháp Mười hai nhân duyên rất sâu xa, không phải người thường có thể tuyên
nói.
Như thế, này A-nan, nên ghi nhớ phụng trì pháp Mười hai nhân duyên sâu
xa này, nên học điều này!
Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà,
cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu
hội.
Bấy giờ, trong thành La-duyệt có một Phạm chí tên Thí-la, biết
đủ các kỹ thuật, tất cả các kinh điển
của ngoại đạo dị học, thiên văn
địa lý, thảy đều quán triệt. Phạm chí là thầy dạy học cho năm
trăm đồng tử Phạm chí.
Trong thành ấy lại có một Phạm chí dị học tên Sí-ninh, hiểu biết rộng,
là người được vua Tần-bà-sa-la kính
mến, thường tùy thời cung cấp cho đồ cần dùng.
Khi ấy, danh tiếng Như Lai lan rộng khắp nơi. Như Lai Chí Chơn Ðẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn,
độ người vô lượng, xuất hiện ở đời. Khi đó, Phạm chí Sí-ninh khởi ý nghĩ
rằng: "Danh hiệu Như Lai rất khó được nghe đến, nay Ta muốn đến gần gũi,
lễ bái, thăm hỏi Ngài". Phạm chí Sí-ninh liền
đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi
một bên.
Phạm chí bạch Phật:
- Sa-môn Cù-đàm thuộc chủng tộc
nào?
Phật đáp:
- Ta thuộc chủng tộc Sát-lợi.
Phạm chí hỏi:
- Các Bà-la-môn có luận thuyết này: Chủng tộc của ta rất tôn quý, không
ai hơn,hoạc nói là dòng họ trắng, hoặc nói dòng họ
đen. Bà-la-môn tự xưng rằng: ta từ
Phạm thiên sanh ra. Nay Sa-môn Cù-đàm
có những thuyết gì?
Phật bảo:
- Phạm chí nên biết, nếu có cưới xin, giá thú mới tìm dòng hào quý. Còn
trong Chánh pháp của Ta, không có vấn đề danh
tánh cao thấp, phải quấy.
Phạm chí lại hỏi:
- Cù-đàm! Thế nào là nơi sanh thanh
tịnh, sau mới được pháp thanh tịnh?
Phật bảo Phạm chí:
- Ông dùng vấn đề nơi thanh tịnh, pháp
thanh tịnh để làm gì?
Phạm chí lại nói:
- Các Bà-la-môn đều bàn luận thế
này: Dòng họ ta rất tôn quý không ai hơn, hoặc nói là dòng trắng, hoặc nói
dòng đen. Bà-la-môn tự xưng là do Phạm
thiên sanh ra.
Phật bảo Phạm chí:
- Nếu có cô gái dòng Sát-lợi về làm vợ gia
đình Bà-la-môn, giả sử sanh con trai sẽ theo họ gì?
Phạm chí đáp:
- Nó sẽ thuộc dòng Bà-la-môn. Vì sao? Do người cha mới có
đứa bé ấy.
Phật bảo:
- Nếu cô gái dòng Bà-la-môn kết hôn với dòng Sát-lợi, sanh con trai sẽ
theo họ ai?
Phạm chí đáp:
- Ðứa bé sẽ thuộc về dòng Sát-lợi. Vì sao? Do người cha mới có
đứa con ấy.
Phật bảo Phạm chí:
- Ông nên suy nghĩ kỹ, sau hãy đáp lời Ta.
Hôm nay lời của Ông trước sau không hợp nhau. Thế nào, này Phạm
chí, giả sử có lừa cái theo ngựa, sau sanh con, sẽ gọi là ngựa, là lừa?
Phạm chí đáp:
- Loại đó nên gọi là lừa ngựa. Vì
sao? Do di thể của lừa nên có con vật ấy.
Phật bảo Phạm chí:
- Ông nên suy nghĩ kỹ, sau hãy trả lời Ta. Nay lời của Ông, trước sau
không tương ưng. Trước Ông nói con gái dòng Sát-lợi kết hôn dòng
Bà-la-môn, nếu sanh con bèn mang dòng Bà-la-môn. Nay lừa cái theo ngựa
sanh con, mà gọi là lừa ngựa, không phải trái với lời nói trước sao? Lại,
nầy Phạm chí! Nếu ngựa theo lừa, sanh con sẽ gọi là gì?
Phạm chí đáp:
- Nên gọi là ngựa lừa.
Phật bảo:
- Thế nào, Phạm chí, ngựa lừa và lừa ngựa có khác gì? Nếu có người nói
"châu báu một hộc", và người nói "một hộc châu báu", hai nghĩa ấy có khác
nhau chăng?
Phạm chí đáp:
- Ðó là một nghĩa. Vì sao? Một hộc châu báu và châu báu một hộc, ý
nghĩa không khác.
Phật bảo Phạm chí:
- Tại sao ngựa lừa và lừa ngựa lại không phải một nghĩa?
Phạm chí đáp:
- Nay Sa-môn Cù-đàm tuy nói như
thế, song Bà-la-môn tự khen rằng: "Dòng họ ta rất tôn quý không ai hơn".
Phật bảo Phạm chí:
- Trước Ông khen ngợi người mẹ, sau lại khen ngợi người cha. Nếu cha
cũng dòng Bà-la-môn, mẹ cũng dòng Bà-la-môn, sau sanh hai người con, Một
người giỏi nhiều kỹ thuật, không việc gì không biết, người thứ hai lại
không biết gì cả. Khi đó cha mẹ thương mến
người nào? Thương mến người con có trí tuệ, hay thương mến người
con không biết gì?
Phạm chí đáp:
- Cha mẹ ấy nên thương mến người thông minh cao
đức, không nên thương mến người không
có trí. Vì sao vậy? Nay người con việc gì cũng biết, việc gì cũng giỏi,
nên thương người đó, không nên thương
người con vô trí.
Phật bảo Phạm chí:
- Nếu hai người con ấy, người thông minh lại khởi tâm làm mười việc sát
sanh, trộm cắp, tà dâm v.v.. người con không thông minh kia lại giữ gìn
thân, miệng, ý, trong mười việc thiện đều giữ
đủ, thì cha mẹ người ấy nên thương mến ai?
Phạm chí đáp:
- Cha mẹ người ấy nên thương đứa con làm
theo mười việc thiện. Người làm việc bất thiện, thương mến làm gì?
Phật bảo Phạm chí:
- Trước đây Ông khen ngợi người đa văn,
sau lại khen ngợi về giới đức. Thế nào, Phạm chí, nếu lại có hai
người con, một người có cha chuyên chánh, mẹ không chuyên chánh, một người
thì cha không chuyên chánh, mẹ chuyên chánh; người con có mẹ chuyên chánh,
cha không chuyên chánh ấy, hiểu biết nhiều, hiểu rộng các kinh thuật;
người thứ hai cha chuyên chánh, mẹ không chuyên chánh, không học rộng chỉ
giữ mười điều lành; vậy nên kính trọng
người có cha mẹ nào? Kính trọng người có mẹ thanh tịnh, cha không thanh
tịnh? Hay kính trọng người có cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh.
Phạm chí đáp:
- Nên kính trọng người con có mẹ thanh tịnh. Vì sao? Vì người ấy biết
các kinh sách, giỏi rộng về kỹ thuật. Còn người thứ hai, cha thanh tịnh,
mẹ không thanh tịnh, tuy giữ giới mà không trí tuệ, không
đi đến đâu. Vì có
đa văn ắt có giữ giới.
Phật bảo Phạm chí:
- Trước Ông khen ngợi cha thanh tịnh, không khen ngợi mẹ thanh tịnh.
Nay lại khen ngợi mẹ thanh tịnh, không khen ngợi cha thanh tịnh. Trước Ông
khen ngợi đức đa văn, sau khen giữ giới. Ông
lại khen về giới, sau mới nói đến đa văn.
Thế nào Phạm chí, nếu hai người con dòng Phạm chí ấy, người thứ nhất
đa văn bác học lại thêm giữ thập
thiện; người thứ hai không trí tuệ và làm mười
điều ác; vậy nên kính trọng người có
cha mẹ thế nào?
Phạm chí đáp:
- Nên kính trọng người có cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh. Vì sao?
Vì người ấy đọc nhiều kinh sách, hiểu biết
các kỹ thuật, do cha thanh tịnh mà sanh con như thế, thêm giữ mười
điều lành không trái phạm,
đầy đủ tất cả giới đức vậy.
Phật bảo:
- Ông vốn nói về dòng họ, sau lại nói về sự
đa văn, không nói đến dòng họ. Ông nói
về giự giới không nói về đa văn, rồi lại nói
về đa văn không nói về giới. Nay ông khen ngợi về cha mẹ, về văn và
giới, há không trái với lời nói trước ư?
Phạm chí bạch Phật:
- Sa-môn Cù-đàm tuy nói lời như
thế, nhưng dòng Bà-la-môn tự xưng rằng: "Dòng học của ta rất tôn quý không
ai hơn".
Phật bảo:
- Những nơi cần kết hôn, ắt bàn luận về dòng họ. Song trong pháp Ta
không có nghĩa này, Ông có nghe nói về những người ở biên giới, các nơi xa
và biên địa khác không?
Phạm chí đáp:
- Vâng, tôi có nghe những người như thế.
Phật bảo:
- Nhân dân ở các nơi ấy có hai hạng. Thế nào là hai? Một là người, hai
là tôi tớ. Hai hạng này cũng không nhất định.
Lại hỏi:
- Như thế nào là không nhất định?
Phật bảo:
- Hoặc khi làm người, sau lại làm tôi tớ. Hoặc làm tôi tớ, sau lại làm
người. Song loài chúng sanh, thảy đồng một
loại, không có nhiều hạng.
Lại thế nầy, Phạm chí! Khi trời đất bị hủy
hoại, thế gian đều trống rỗng, lúc ấy núi sông, đất đá, cỏ cây đều bị thiêu
hủy hết thảy, người cũng chết.
Khi trời đất sắp thành lập, chưa có
phân chia ngày giờ năm tháng. Bấy giờ, chư
Thiên ở cõi trời Quang Âm đến chỗ này.
Lúc đó, chư Thiên trời Quang Âm phước
đức tiêu hết, không còn ánh sáng, dần
dần nhìn nhau, khởi lên dục tưởng. Dục ý nhiều bèn thành người nữ, dục ý
ít thành người nam, họ dần dần giao hợp bèn có bào thai. Do nhân duyên ấy
nên có người ban đầu, chuyển sanh bốn dòng
họ khắp trong thiên hạ. Do việc ấy nên biết, mọi người
đều phát xuất từ dòng Sát-lợi.
Bấy giờ, Phạm chí bạch Phật:
- Hãy thôi, thưa Cù-đàm! Như người
gù được thẳng lưng, người mù
được sáng mắt, người đui tối được thấy ánh
sáng; Sa-môn Cù-đàm cũng lại
như vậy, dùng vô số phương tiện vì tôi thuyết pháp. Nay tôi tự quy y với
Sa-môn Cù-đàm, xin vì tôi nói pháp,
cho phép được làm Ưu-bà-tắc.
Phạm chí lại bạch Phật:
- Cúi xin Như Lai, nhận lời thỉnh của con, cùng chúng Tỳ-kheo
đến nhà con.
Thế Tôn im lặng nhận lời, Phám chí thấy Phật im lặng nhận lời thỉnh,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân
Phật rồi lui ra. Phạm chí về nhà, sắm sửa các thức
ăn uống đầy đủ, trải các sàng tọa,
rưới nước thơm trên đất và tự nói
rằng: "Ðức Như Lai sẽ ngồi chỗ này".
Bấy giờ Phạm chí Thí-la dẫn năm trăm đồng
tử đến nhà Phạm chí Sí-ninh, xa thấy nhà ấy trải nệm ghế tốt, thấy
rồi bèn hỏi Phạm chí Sí-ninh:
- Hôm nay Ông định làm lễ cưới gả
cho con hay mời vua Tần-bà-la-sa đến nhà?
Phạm chí Sí-ninh đáp:
- Tôi không mời vua Tần-bà-sa-la cũng không có việc cưới gả. Hôm nay
tôi muốn làm phước nghiệp lớn.
Phạm chí Thí-la hỏi:
- Xin được nghe ý ấy. Ðịnh làm
phước nghiệp gì?
Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh trịch bày vai phải, quỳ gối chấp tay bạch Thế
Tôn, tự xưng tên họ.
Phạm chí Sí-ninh bảo Phạm chí Thí-la rằng:
- Thí-la nên biết, có người dòng họ Thích xuất gia học
đạo, thành bậc Ðẳng Chánh Giác Chí
Chơn Vô Thượng. Nay tôi thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng,
cho nên sửa soạn đầy đủ chỗ ngồi như
vầy.
Phạm chí Thí-la nói:
- Ông nói về Phật đấy ư?
- Nay tôi nói về Phật.
Thí-la lại nói:
- Thật lạ kỳ! Thật đặc biệt! Hôm nay tôi
mới nghe đến âm thanh Phật. Như Lai hiện giờ ở đâu? Tôi muốn được gặp.
Sí-ninh đáp:
- Hiện ở ngoài thành La-duyệt, trong vườn trúc, cùng với năm
trăm đệ tử. Nếu Ông muốn gặp, nên biết
đúng thời.
Lúc ấy, Phạm chí Thí-la bền dẫn năm trăm
đồng tử đi đến chỗ Phật, đến rồi nói lời chàoi hỏi lui ngồi một
bên. Phạm chí Thí-la bèn khởi nghĩ: "Sa-môn Cù-đàm
rất đoan chánh, thân tướng sắc vàng.
Trong kinh điển của chúng ta cũng có ghi
rằng: Như Lai ra đời thật rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm-bát
đúng thời mới xuất hiện. Nếu thành tựu
ba mươi hai tướng, và tám mươi vẻ đẹp, sẽ có
hai trường hợp. Nếu ở nhà sẽ là bậc Chuyển luân thánh vương,
đầy đủ bảy thứ báu. Nếu xuất gia sẽ thành
đạo Vô thượng, là bậc cứu giúp ba
cõi". Nay ta muốn nhìn thấy ba mươi hai tướng của Phật.
Bấy giờ, Phạm chí chỉ thấy được ba mươi
tướng, còn hai tướng nữa không thấy, liền sanh nghi ngờ, do dự, vì
không thấy được tướng lưỡi rộng dài và
tướng mã âm tàng của Phật.
Phạm chí bèn dùng kệ hỏi:
Tôi nghe có ba hai,
Tướng tốt bậc Ðại nhân,
Nay không thấy hai tướng,
Rốt cuộc ở chỗ nào?
Mã âm tàng trong sạch,
Tướng ấy khó thí dụ,
Có tướng lưỡi rộng dài,
Trùm khắp tai, mặt chăng?
Xin hiện tướng lưỡi dài,
Khiến tôi không nghi ngờ.
Lại khiến tôi được thấy,
Trọn không kết lưới nghi.
XXXXIX.2. Phẩm Chăn
trâu (2)
Bấy giờ, Thế Tôn bèn đưa lưỡi liếm lỗ tai
bên mặt và bên trái rồi thâu vào. Và Ngài liền nhập chánh
định, khiến Phạm chí ấy thấy được tướng mã
âm tàng. Khi Phạm chí thấy Phật đủ ba mươi
hai tướng, tám mươi vẻ đẹp thì
vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Phạm chí Thí-la bạch Phật:
- Nay tôi là Bà-la-môn, Sa-môn dòng Sát-lợi, song Sa-môn hay Bà-la-môn
đều một đạo, cầu một giải thoát. Sa-môn chấp
nhận chúng ta đồng một đạo chăng?
Phật bảo Phạm chí:
- Ông có kiến chấp này.
Phạm chí thưa:
- Tôi có kiến chấp ấy.
Phật bảo Phạm chí:
- Ông nên khởi ý hướng về một giải thoát. Ðó là chánh kiến.
Phạm chí bạch Phật:
- Chánh kiến tức là một giải thoát, lại có giải thoát chăng?
Thế Tôn bảo:
- Phạm chí! Có giải thoát được Niết-bàn.
Việc ấy có tám. Ðó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh
định. Này Phạm chí,
đó là Tám
đạo phẩm đưa đến Niết-bàn.
Phạm chí bạch Phật:
- Có chúng sanh nào biết được Tám đạo phẩm
nầy chăng?
Phật bảo:
- Chẳng phải một, trăm, nghìn. Phạm
chí nên biết! Có vô số trăm nghìn
chúng sanh được biết Tám đạo phẩm này.
Phạm chí bạch Phật:
- Lại có chúng sanh nào không hiểu được
Tám đạo phẩm này chăng?
Phật bảo:
- Chúng sanh không hiểu điều này
chẳng phải một người.
Phạm chí bạch Phật:
- Có chúng sanh nào không được pháp này
chăng?
Phật bảo:
- Có chúng sanh không được đạo này
gồm mười một hạng người như thế này. Thế nào là mười một? Ðó là những
người gian ngụy, ác ngữ, khó can gián, không biết ơn, tánh ưa ganh ghét,
giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, đoạn dứt căn
lành, việc lành trở lại làm ác, chấp ngã, khởi ý ác
đối với Như Lai. Phạm chí! Ðó là mười
một hạng người không thể đạt được Tám đạo
phẩm này.
Khi đức Phật đang nói Tám đạo phẩm, Phạm
chí ấy dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh.
Bấy giờ Phạm chí Thí-la bảo năm trăm đệ
tử:
- Các Ông đều học được điều tốt, mỗi người
tự tụng tập. Ta muốn ở chỗ Phật tu Phạm hạnh.
Các đệ tử thưa:
- Chúng con cũng muốn xuất gia học đạo.
Bấy giờ, Phạm chí và năm trăm đệ tử mỗi
mỗi quỳ xuống bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn cho chúng con xuất gia học
đạo.
Phật bảo các Phạm chí:
- Thiện lai Tỳ-kheo! Ở nơi Như Lai khéo tu Phạm hạnh thì dần dần sẽ
chấm dứt gốc khổ.
Khi Phật nói lời ấy, năm trăm Phạm chí
liền thành Sa-môn. Thế Tôn dần dần vì năm
trăm người giảng dạy về luận vi diệu. Ðó là luận bố thí, trì giới,
sanh thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là an vui. Như các pháp mà chư
Phật Thế Tôn thường dạy Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tôn cũng vì các Thầy ấy
giảng nói rộng. Khi ấy, năm trăm Sa-môn vĩnh
viễn dứt sạch các lậu hoặc, được pháp hơn người.
Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh lại bạch:
- Ðến thời, xin Thế Tôn quang lâm.
Phật bảo Thí-la và năm trăm Tỳ-kheo.
- Các Ông hãy đắp y mang dĩa.
Một nghìn vị Tỳ-kheo vây quanh, đi vào
thành đến nhà Phạm chí, lên tòa ngồi.
Phạm chí Sí-ninh thấy năm trăm Bà-la-môn
đều làm Sa-môn liền bảo rằng:
- Lành thay các Vị! Ðiều cần yếu hướng về
đạo không gì hơn việc này.
Tỳ-kheo Thí-la vì Sí-ninh nói kệ:
Ngoài đây không có pháp
Hay hơn điều cần ấy,
So sánh như thế ấy,
Ðiều lành không gì hơn.
Phạm chí Sí-ninh bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn đợi giây lát, chính lúc
này lại dọn thêm thức ăn.
Phật bảo:
- Các thức ăn đã xong,
đúng giờ cứ đem đến, đừng sợ không đủ.
Phạm chí Sí-ninh vui mừng vô lượng, đích
thân tự san sớt thức ăn cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng.
Khi Thế Tôn thọ trai xong, Ông dọn rửa bát, đem bao nhiêu thứ hoa
rải lên Phật và Tỳ-kheo Tăng, và
đến trước bạch Phật:
- Xin thưa Thế Tôn! Hết thảy người lớn nhỏ, nam nữ trong nhà con
đều xin làm Ưu-bà-tắc.
Bấy giờ, phu nhân của Phạm chí đang có
thai, bèn bạch Phật:
- Con đang mang thai, không biết là
nam hay nữ, cũng xin tự quy y, xin Như Lai nhận cho làm Ưu-bà-di.
Phật vì đại chúng nói pháp vi diệu, liền
ngồi trên tòa, nói kệ này:
Lành thay phước báo này,
Sở nguyện ắt được quả,
Dần lên chỗ an lạc,
Trọn không lo nguy tai,
Chết được sanh lên trời,
Cũng không thể khiến cho
Người làm phước bị tội.
Họ cũng tìm phương tiện,
Ðược trí tuệ Hiền Thánh,
Sẽ dứt sạch gốc khổ,
Xa bỏ hẳn tám nạn.
Thế Tôn nói kệ ấy rồi, rời tòa mà đi.
Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
7. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ta thường ngồi ăn một bữa, thân thể nhẹ
nhàng, khí lực mạnh mẽ. Tỳ-kheo các Thầy cũng nên
ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng khí lực
mạnh mẽ, dễ tu Phạm hạnh.
Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la bạch Phật:
- Con không thể ăn một bữa. Vì sao?
Vì khí lực yếu kém.
Phật bảo:
- Cho phép Thầy đến nhà
đàn-việt,
ăn một phần, đem về một phần.
Bạt-đề-bà-la bạch Phật:
- Con cũng không thể làm pháp này.
Phật bảo:
- Cho phép Thầy bỏ ngọ trai, ăn trong ngày.
Bạt-đề-bà-la thưa:
- Con cũng không thể làm theo pháp này.
Thế Tôn im lặng không nói nữa.
Bấy giờ, Ca-lưu-đà-di vào buổi
chiều mặt trời lặn, đắp y mang bát vào
thành khất thực. Khi đó, trời rất tối,
Ca-lưu-đà-di dần dần đi đến nhà
một trưởng giả. Phu nhân của trưởng giả ấy
đang mang thai, nghe Sa-môn khất thực ngoài cửa, liền tự
đem cơm ra cho. Song Thầy Ca-lưu-đà-di
sắc mặt rất đen, lại khi ấy trời sắp mưa, sấm
chớp giăng đầy; phu nhân của trưởng giả ra cửa, thấy sa-môn mặt đen thui,
bèn kinh hoàng kêu là quỷ, và tự hô hoán lên:
- Chao ôi! Ta gặp quỷ.
Liền khi đó đọa thai mà chết. Khi
ấy, Ca-lưu-đà-di trở về tinh xá, lo
buồn không vui, ngồi tư duy hối hận không kịp.
Khi ấy, trong thành Xá-vệ có tiếng ác này: "Sa-môn Thích tử trù rủa làm
đọa thai con của người". Nam nữ trong thành
đều bảo nhau rằng: "Hiện nay Sa-môn hành
động không tiết độ, ăn chẳng đúng thời, như hàng
cư sĩ tại gia chẳng khác". Bấy giờ, phần đông
các Tỳ-kheo đều nghe dân chúng bàn luận
điều này: "Sa-môn dòng Thích không
biết tiết độ, đi đứng không kiêng dè".
Trong đó, các Tỳ-kheo giữ giới, những người
đầy đủ giới luật cũng tự oán trách: "Thật chẳng phải là oai nghi
của chúng ta, ăn không chừng mực, đi không
đúng thời, thật là điều quấy của chúng
ta". Các vị ấy dẫn nhau đến chỗ đức Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đem hết
mọi chuyện bạch Phật.
Phật bảo một Tỳ-kheo:
- Thầy đi kêu Ca-lưu-đà-di
đến đây.
Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền đi kêu
Ca-lưu-đà-di. Ca-lưu-đà-di
nghe Phật gọi, liền đến chỗ Phật, cúi đầu lễ
Phật, lui ngồi một bên.
Thế Tôn hỏi:
- Phải ngày hôm qua, vào buổi chiều Thầy vào thành khất thực,
đến nhà trưởng giả khiến vợ trưởng giả
đọa thai chăng?
Ca-lưu-đà-di bạch Phật:
- Thưa vâng, Thế Tôn.
Phật bảo:
- Vì sao Thầy không phân biệt thời tiết, lại vào lúc trời sắp mưa vào
thành khất thực? Ðó không phải là oai nghi của Thầy. Thầy
đã là hàng quý tộc, xuất gia học
đạo mà còn tham trước
ăn uống.
Ca-lưu-đà-di bèn
đứng dậy, bạch Phật:
- Từ nay về sau không dám phạm lại. Cúi xin Thế Tôn nhận cho con sám
hối.
Phật bảo Tôn giả A-nan mau đánh kiền chùy,
nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Hội,
A-nan vâng lời Phật dạy, liền nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường, rồi đến
trước Phật, bạch rằng:
- Các Tỳ-kheo đã nhóm, xin Thế Tôn
biết đúng thời.
Thế Tôn liền đến giảng đường ngồi vào
tòa chính giữa, bảo các Tỳ-kheo:
- Các đức Phật ở đời quá khứ lâu xa đều ăn
một bữa. Các hàng Thanh văn cũng ăn
một bữa. Các đức Phật tương lai và chúng
đệ tử cũng sẽ chỉ ăn một bữa. Vì sao
thế? Ðó là pháp yếu để hành
đạo, nên
ăn một bữa. Nếu có thể ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, tâm
được khai mở. Tâm đã mở bèn
được các căn lành. Ðã
được căn lành liền
được chánh định. Ðã
được chánh định thì biết
đúng như thật. Thế nào gọi là biết
đúng như thật? Nghĩa là Khổ
đế, biết như thật là Khổ
đế; Khổ tập đế, biết như thật là Khổ
tập đế; Khổ tận đế biết như thật là
Khổ tận đế; Khổ xuất yếu đế (đạo đế) biết như
thật là Khổ xuất yếu đế.
Các Thầy là dòng hào quý, đã xuất
gia học đạo, bỏ tám nghiệp ở thế gian mà
không biết thời tiết thì khác gì người tham dục kia? Phạm chí có pháp
riêng của Phạm chí, ngoại đạo có pháp riêng
của ngoại đạo.
Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:
- Chư Phật ở quá khứ và tương lại đều ăn
một bữa. Cúi xin Thế Tôn nên vì các Tỳ-kheo hạn chế thời gian
ăn uống.
Thế Tôn bảo:
- Như Lai cũng biết như thế, nhưng chưa có người phạm trước mắt. Có
phạm tội mới chế giới cấm.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ta chỉ ăn một bữa, các Thầy cũng nên
ăn một bữa. Nay các Thầy ăn vào giờ
ngọ, không được quá thời.
Các Thầy cũng phải học pháp khất thực. Thế nào là Tỳ-kheo học pháp khất
thực? Khi Tỳ-kheo chỉ vì mạng sống thì xin
được thức ăn cũng không vui, không được cũng không lo. Nếu khi được thức
ăn, tư duy quán tưởng mà ăn, không có
tâm tham đắm, chỉ muốn thân này được
sống, trừ được bệnh cũ lại không tạo mới, khiến cho khí lực đầy đủ. Như
thế, này các Tỳ-kheo, gọi là khất thực.
Tỳ-kheo các Thầy nên ngồi ăn một bữa. Thế
nào là Tỳ-kheo ngồi ăn một bữa? Nếu
đứng lên thì phạm, ăn rồi không nên
ăn nữa. Như thế gọi là Tỳ-kheo ngồi
ăn một bữa.
Tỳ-kheo các Thầy cũng nên được thức ăn mà
ăn. Thế nào là Tỳ-kheo
được thức ăn mà
ăn? Khi Tỳ-kheo đã
được thức ăn, lại có trai chủ cúng
thêm lần nữa, do thức ăn nầy là
được lại, không nên
ăn. Như thế, Tỳ-kheo được thức ăn chỉ một
lần.
Tỳ-kheo các Thầy cũng nên mặc ba y, ngồi dưới cội cây, ngồi chỗ vắng,
nên khổ hạnh ngồi nơi đất trống, nên
mặc y cũ vá, nên ở chỗ gò mả, nên mặc áo cũ xấu. Vì sao thế? Vì khen ngợi
người thiểu dục.
Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Ca-diếp. Vì sao thế? Tỳ-kheo
Ca-diếp tự hành mười một pháp đầu đà,
cũng dạy người làm theo pháp yếu này.
Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Diện Vương. Vì sao? Tỳ-kheo Diện
Vương mặc y cũ xấu không mặc y đẹp.
Tỳ-kheo! Ðây là lời dạy của Ta, nên ghi nhớ tu tập. Như thế, này các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, Tỳ-kheo Bạt-đề-bà-la suốt
ba tháng không đến chỗ thế Tôn. A-nan vừa hết
ba tháng an cư, đến chỗ Tỳ-kheo Bạt-đề-bà-la nói rằng:
- Nay chúng Tăng đều may vá y áo, như thế
Thế Tôn sẽ đi du hóa nhân gian. Bây giờ Thầy không đến, sau hối hận vô
ích.
Khi ấy, A-nan dẫn Bạt-đề-bà-la
đến chỗ đức Thế Tôn, Bạt-đề-bà-la lễ
Phật và bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn cho con sám hối, từ nay về sau không dám phạm lại.
Như Lai chế cấm giới mà con không thọ trì. Cúi xin rũ lòng tha thứ.
Thưa như thế ba lần. Phật bảo:
- Cho phép Thầy hối lỗi, sau chớ phạm lại. Vì sao? Ta tự suy nghĩ trong
vô số kiếp sanh tử, hoặc có khi làm thân lừa, la, lạc
đà, voi, ngựa, heo, dê,
ăn cỏ để nuôi thân; hoặc ở trong địa ngục
nuốt hoàn sắt nóng; hoặc làm ngạ quỷ thường
ăn máu mủ; hoặc làm thân người
ăn ngũ cốc; hoặc làm thân trời
ăn những vị cam lồ tự nhiên; trong vô
số kiếp thân mạng cùng tranh không biết chán.
Bạt-đề-bà-la! Như lửa cháy củi
không đủ, như biển lớn nuốt các dòng
không đủ, nay người phạm cũng như vậy, tham
ăn không biết chán đủ.
Thế Tôn bèn nói kệ này:
Sanh tử không đoạn dứt,
Ðều do từ tham dục,
Oán ghét nuôi ác ấy,
Người ngu tập theo đó.
Thế nên, này Bạt-đề-bà-la nên ghi
nhớ ít muốn, biết đủ, chớ khởi tưởng tham,
dấy các niệm tán loạn. Như thế, Bạt-đề-bà-la,
nên học điều này.
Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la nghe Phật
giáo giới, đã ở chỗ vắng tự khắc trách
mình. "Vốn dòng hào tộc, xuất gia học đạo, tu
Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã hết, Phạm hạnh
đã lập, việc phải làm
đã làm xong, không thọ thân sau, như
thật mà biết". Bạt-đề-bà-la liền thành
A-la-hán.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Trong hàng đệ tử Ta, người ăn uống nhiều
đệ nhất trong số Thanh văn là
Tỳ-kheo Cát-Hộ.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở thôn Ương Nghệ, cùng với chúng
đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Dân chúng đều gọi các Thầy là
Sa-môn, giả sử có ai hỏi các Thầy có phải Sa-môn chăng
thì các thầy cũng đáp là
Sa-môn. Nay Ta bảo càc Thầy về hạnh Sa-môn, sau ắt thành quả như thật
không khác. Vì sao thế? Có hai hạng Sa-môn: tập hạnh Sa-môn, thệ nguyện
Sa-môn.
Thế nào gọi là tập hạnh Sa-môn? Là Tỳ-kheo tới lui,
đi đứng, nhìn ngó, dung mạo,
đắp y mang bát, thảy đều đúng như pháp, không
đắm trước vào tham dục, sân nhuế, ngu si, chỉ trì giới tinh tấn
không phạm phi pháp, học tập các giới. Ðó là tập hạnh Sa-môn.
Thế nào gọi là thệ nguyện Sa-môn? Ở đây,
hoặc có Tỳ-kheo oai nghi giới luật, đi đứng ra vào, dung mạo, nhìn
ngó, cử động thảy đều như pháp, chấm dứt hữu
lậu thành tựu vô lậu, ở trong hiện pháp tự thân chứng
đắc và đi
du hóa, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã
lập, việc phải làm đã làm xong, không
thọ thân sau, mà biết như thật. Ðó là thệ nguyện Sa-môn.
Tỳ-kheo, đó là hai hạng Sa-môn.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
- Thế nào gọi là pháp hạnh Sa-môn, pháp hạnh Bà-la-môn?
Phật bảo A-nan:
- Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ,
ngày đêm
đi kinh hành, tu tập các đạo phẩm
không để mất thời tiết. Thế nào gọi là Tỳ-kheo các căn
vắng lặng? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy sắc không khởi tưởng đắm trước, không
dấy các loạn niệm, trong ấy mà nhãn căn
được thanh tịnh, trừ các niệm ác, không nghĩ nhớ pháp bất thiện, hoặc khi
tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết cảm giác, ý
biết pháp không khởi tưởng đắm trước, không
dấy các loạn niệm, nơi ý căn được thanh tịnh. Như thế gọi là
Tỳ-kheo sáu căn được thanh tịnh.
Thế nào là Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ? Ở
đây, Tỳ-kheo ăn uống vừa đủ lượng, không cầu mập, trắng, chỉ muốn thân này
sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, chỉ muốn thân này sống mà
thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, được
tu Phạm hạnh. Cũng như người nam nữ, thân sanh ghẻ, tùy thời dùng
thuốc thoa xức điều trị, vì muốn vết
thương lành. Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, lượng vào sức mà
ăn. Sở dĩ dùng dầu bôi vào xe vì muốn
đi xa, Tỳ-kheo ăn vừa đủ lượng là muốn
duy trì mạng sống. Như thế gọi là Tỳ-kheo ăn
uống biết vừa đủ.
Thế nào là Tỳ-kheo thường biết tỉnh thức? Ở
đây, Tỳ-kheo vào
đầu đêm, giữa
đêm, cuối
đêm biết tỉnh thức, tư duy Ba mươi bảy
đạo phẩm; ngày thời kinh hành trừ bỏ niệm ác, các tưởng kiết sử,
lại vào đầu đêm, cuối
đêm kinh hành trừ bỏ kiết sử, các
tưởng bất thiện, vào giữa đêm nằm
nghiêng hông bên mặt, hai chân duỗi xếp lên nhau, chỉ tưởng về ánh sáng,
rồi vào cuối đêm kinh hành tới lui,
trừ bỏ niệm bất thiện. Như thế là Tỳ-kheo biết thời tỉnh thức.
Như thế, này A-nan! Ðây là hạnh cần yếu của Sa-môn.
Thế nào gọi là hạnh cần yếu của Bà-la-môn? Ở
đây, Tỳ-kheo Khổ đế biết như thật là
Khổ đế; Khổ tập, Khổ tận, Khổ xuất yếu, như
thật biết như thế. Sau do mở được tâm dục lậu, tâm hữu lậu, tâm vô minh
lậu nầy mà được giải thoát. Ðã
được giải thoát liền được giải thoát tri
kiến, sanh tử đã tận, Phạm hạnh
đã lập, việc phải làm
đã xong, không thọ thân lại, mà biết
như thật. Ðây là hạnh cần yếu của Bà-la-môn. A-nan nên biết! Ðây là ý
nghĩa của hạnh cần yếu.
Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:
Sa-môn tên tâm dứt,
Các ác vĩnh viễn tận,
Phạm chí tên thanh tịnh,
Trừ bỏ các loạn tưởng.
Thế nên A-nan! Nên ghi nhớ tu hành pháp hạnh của Sa-môn, pháp hạnh của
Bà-la-môn. Chúng sanh nào làm các pháp này, sau mới xưng là Sa-môn.
Lại vì có gì gọi là Sa-môn? Vì các kết vĩnh viễn chấm dứt nên gọi là
Sa-môn. Lại vì có gì gọi là Bà-la-môn? Trừ sạch các ngu hoặc nên gọi là
Phạm chí, cũng gọi là Sát-lợi. Lại vì cớ gì gọi là Sát-lợi? Do
đoạn trừ dâm, nộ, si nên gọi là
Sát-lợi; cũng gọi là tắm gội. Thế nào gọi là tắm gội? Do tẩy sạch hai mươi
mốt kết nên gọi là tắm gội; cũng gọi là giác. Vì cớ gì gọi là giác? Do
biết rõ pháp ngu, pháp tuệ nên gọi là giác; cũng gọi là bỉ ngạn. Vì cớ gì
gọi là bỉ ngạn? Do từ bờ này đến bờ kia nên
gọi là bỉ ngạn.
Này A-nan! Hãy hành trì pháp này, sau mới gọi là Sa-môn, Bà-la-môn. Ðây
là nghĩa như thế, nên ghi nhớ vâng làm.
Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại thành Thích-si Ca-tỳ-la việt vườn Ni-câu-lưu, cùng
với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.
Bấy giờ, vương tử Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ
Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, Ðề-bà-đạt-đa
bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn cho con được làm
Sa-môn.
Phật bảo Ðề-bà-đạt-đa:
- Ông nên ở tại gia làm việc bố thí, làm Sa-môn thật chẳng dễ.
Khi ấy, Ðề-bạt-đạt-đa lại ba phen bạch
Phật:
- Cúi xin Thế Tôn cho phép con theo Ngài.
Phật lại bảo:
- Ông nên ở nhà, không nên xuất gia tu hạnh Sa-môn.
Ðề-bà-đạt-đa khởi nghĩ rằng: "Sa-môn này
có lòng tật đố, nay ta có thể tự cạo tóc, tu
Phạm hạnh, đâu cần Sa-môn ấy làm gì?" Ðề-bà-đạt-đa
liền lui về, tự cạo bỏ râu tóc, mặc cà sa, tự xưng: "Ta là hàng
Thích tử".
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo tên Tu-la-đà,
hành hạnh đầu đà, khất thực, mặc y vá,
thông suốt ngũ thông. Ðề-bà-đạt-đa liền đến
chỗ Tỳ-kheo ấy, cúi đầu lễ dưới chân, bạch rằng:
- Cúi xin Tôn giả nói giáo pháp cho tôi khiến cho
được an ổn lâu dài.
Tỳ-kheo Tu-la-đà liền nói pháp cho,
các oai nghi lễ độ, suy nghĩ về pháp này,
bỏ điều này
được điều này. Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa
như lời Tỳ-kheo ấy dạy không để sai sót. Ðề-bà-đạt-đa
lại bạch với Tỳ-kheo ấy rằng:
- Cúi xin Tôn giả dạy cho tôi về pháp thần túc, tôi có thể tu hành theo
pháp ấy.
Bấy giờ, Tỳ-kheo lại dạy pháp thần túc cho ông:
- Nay Ông nên học về tâm ý khinh trọng, đã
biết tam ý khinh trọng, lại nên phân biệt về tứ
đại địa, thủy, hỏa, phong khinh trọng.
Ðã biết được tứ đại khinh trọng, lại nên
tu hành về chánh định tự tại. Ðã thực
hành chánh định tự tại, lại nên tu
chánh định dũng mãnh. Ðã thực hành
chánh định dũng mãnh, lại nên tu về
chánh định tâm ý. Ðã thực hành chánh
định tâm ý, lại nên hành chánh
định tự giới, đã tu hành chánh
định tự giới, như thế không bao lâu sẽ
thành tựu thần túc.
Ðề-bà-đạt-đa vâng lời Tỳ-kheo ấy dạy, tự
biết về tâm ý khinh trọng, lại biết về tứ đại khinh trọng, tu hết các
chánh định không sai sót; không bao lâu liền thành tựu
được thần túc. Như thế, Ðề-bà-đạt-đa
có vô số phương tiện tiến hóa vô lượng. Bấy giờ danh tiếng Ðề-bà-đạt-đa
lưu truyền lan xa bốn phương.
Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa dùng sức thần
túc bay lên cõi trời Ba mươi ba, hái các thứ hoa như hoa sen ưu-bát-la,
hoa câu-mâu-đầu, đem về dâng thái tử A-xà-thế,
và bảo:
- Hoa này từ cõi trời Ba mươi ba, Thích-đề-hoàn-nhân
đem đến tặng Thái tử.
Thái tử thấy Ðề-bà-đạt-đa có thần túc như
thế, liền tùy thời cúng dường, cung cấp vật cần dùng. Thái tử lại
khởi nghĩ: "Ðề-bà-đạt-đa lại tự ẩn
thân, biến thành đứa bé ngồi trên
đùi gối thái tử. Các thể nữ
đều khởi nghĩ: "Ðây là người gì? Là
Quỷ ư? Là Trời ư?". Bàn tán chưa xong, Ðề-bà lại hóa thân trở lại như cũ.
Khi đó, thái tử và các cung nhân
đều khen rằng: "Ðây là Ðề-bà-đạt-đa",
liền cung cấp vật cần dùng, lại truyền tụng lời này: "Ðề-bà-đạt-đa
danh đức không thể nói hết được".
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe điều này,
đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ Phật, bạch:
- Ðề-bà-đạt-đa có thần túc rất lớn, thường
nhận được y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy chớ khởi ý niệm này, tham đắm
lợi dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa; lại cũng
đừng khen ngợi sức thần túc của ông ấy. Ông ấy do thần túc này rơi
trong ba đường ác. Lợi dưỡng của
Ðề-bà-đạt-đa, và thần túc của ông ấy
sẽ chấm dứt. Vì sao thế? Ðề-bà sẽ tự tạo nghiệp thân, khẩu, ý.
Khi đó, Ðề-bà-đạt-đa
lại khởi nghĩ rằng: "Sa-môn Cù-đàm
có thần túc, ta cũng có thần túc; Sa-môn Cù-đàm
có tri thức, ta cũng có tri thức; Sa-môn Cù-đàm
dòng họ cao quý, ta cũng dòng họ cao quý. Nếu Sa-môn Cù-đàm
hiện một thần túc, ta sẽ hiện hai; Sa-môn Cù-đàm
hiện hai, ta sẽ hiện bốn, kia hiện tám, ta hiện mười sáu; kia hiện mười
sáu, ta hiện ba mươi hai; tùy theo sức hóa hiện của Sa-môn ấy, ta sẽ tăng
gấp đôi".
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe Ðề-bà-đạt-đa
nói như vậy, hơn năm trăm Tỳ-kheo đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa
và năm trăm Tỳ-kheo nhận sự cúng dường
của thái tử A-xá-thế.
Khi ấy, hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nói với nhau rằng:
"Chúng ta cùng đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa,
nghe ông ấy nói pháp, xem là luận thuyết gì", liền cùng
đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa.
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa xa thấy
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi đến, liền
bảo các Tỳ-kheo.
- Hai người này là đệ tử của Tất-đạt, rất
được khen ngợi.
Hai Tôn giả đến rồi, cùng hỏi thăm,
ngồi một bên. Bấy giờ các Tỳ-kheo đều
khởi nghĩ rằng: "Ðệ tử của Phật Thích-ca, nay hướng hết về Ðề-bà-đạt-đa".
Ðề-bà-đạt-đa bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
- Nay Thầy có thể thuyết pháp cho các Tỳ-kheo chăng?
Tôi đau lưng muốn nghỉ một chút.
Ðề-bà-đạt-đa bèn nằm nghiêng hông
mặt, hai chân xếp lên nhau, do lòng vui mừng nên ngủ luôn. Bấy giờ,
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên thấy Ðề-bà-đạt-đa
ngủ, liền dùng thần túc đem các vị
Tỳ-kheo bay lên hư không mà đi.
Khi Ðề-bà-đạt-đa thức dậy, không thấy các
Tỳ-kheo, rất giận dữ nói:
- Nếu ta không trả được thù này thì
không gọi là Ðề-bà-đạt-đa.
Ðây là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa
phạm tôi ngũ nghịch. Ðề-bà-đạt-đa vừa
khởi ý ấy, liền bị mất thần túc.
Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo bạch Phật:
- Tỳ-kheo Ðề-bà-đạt-đa có thần túc lớn mới
có thể phá hoại Thánh chúng.
Phật bảo:
- Không phải chỉ hôm nay Ðề-bà-đạt-đa mới
phá hoại Thánh chúng. Ðời quá khứ ông ta cũng thường phá hoại Thánh
chúng. Vì sao thế? Về đời quá khứ ông ta cũng
phá hoại Thánh chúng.
Ðề-bà-đạt-đa lại khởi ý ác: "Ta sẽ giết
Sa-môn Cù-đàm
để làm Phật
độc tôn trong ba cõi". Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa
nói với thái tử A-xà-thế:
- Người xưa thọ mạng rất dài, ngày nay đã
ngắn ngủi. Nếu như Thái tử chết, chắc lại sanh trong dân gian. Sao không
giết phụ vương, rồi lên ngôi vua? Tôi sẽ giết Như Lai và sẽ làm Phật. Vua
mới, Phật mới, cũng chẳng thích ư?
Bấy giờ, A-xà-thế bèn sai quân thị vệ bắt phụ vương giam vào ngục, tự
lên làm vua cai trị nhân dân. Khi đó, quần
thần đều nói với nhau: "Người này khi sanh ắt là oan gia". Nhân
đó đặt tên là A-xà-thế.
Ðề-bà-đạt-đa thấy A-xà-thế
đã hại phụ vương xong, lại khởi nghĩ:
"Ta sẽ hại Sa-môn Cù-đàm".
Bấy giờ, Thế Tôn đang ở tại một ngọn núi
nhỏ cạnh núi Kỳ-xà-quật, Ðề-bà-đạt-đa
leo lên núi Kỳ-xà-quật, tay vác một tảng
đá lớn dài ba mươi khuỷu tay, rộng năm
mươi khuỷu tay, ném vào Thế Tôn. Khi
đó, sơn thần, quỷ Kim-tỳ-la thường ở tại núi ấy, thấy Ðề-bà-đạt-đa
vác đá ném Phật, liền đưa tay đỡ lấy
đến chỗ khác. Tảng đá bể văng ra một
mảnh nhỏ trúng chân Như Lai chảy máu. Thế Tôn thấy vậy nói với
Ðề-bà-đạt-đa:
- Nay Ông khởi ý muốn hại Như Lai, đây là
tội ngũ nghịch thứ hai.
Ðề-bà-đạt-đa tự nghĩ: "Nay ta không hại
được Sa-môn Cù-đàm". Liền bỏ
đi, đến chỗ A-xà-thế, tâu nhà vua
rằng:
- Nên cho con voi uống rượu say, khiến hại Sa-môn. Vì sao? Con voi ấy
hung dữ chắc có thể hại được Sa-môn Cù-đàm.
Nếu Sa-môn có Nhất thiết trí, ngày mai sẽ không vào thành khất thực; nếu
không có Nhất thiết trí, ngày mai vào thành khất thực, ắt sẽ bị voi dữ này
làm hại.
Khi ấy, vua A-xà-thế liền đem rượu mạnh
cho voi uống say, ra lệnh cho dân chúng: "Ai muốn an ổn, thương mạng mình,
ngày mai đừng đi lại trong thành".
Bấy giờ, Thế Tôn đúng thời đắp y mang bát
vào thành La-duyệt khất thực. Hàng tứ chúng nam nữ già trẻ trong
nước nghe tin vua A-xà-thế cho voi uống rượu say muốn hại Thế Tôn,
đều cùng nhau
đi đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân, và
bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn, chớ vào thành La-duyệt khất thực. Vì vua A-xà-thế
phục rượu voi say muốn hại Thế Tôn.
Phật bảo các Ưu-bà-tắc:
- Phàm là bậc Ðẳng Chánh Giác trọn không bị người khác làm hại.
Thế Tôn tuy nghe như thế vẫn đi vào
thành. Voi dữ xa thấy Thế Tôn đến, sân
giận bừng bừng chạy về phía Phật, muốn làm hại. Song, Phật thấy voi chạy
đến liền nói kệ:
Voi chớ hại đến rồng,
Voi, rồng khó xuất,
Do không hại đến rồng,
Ðược sanh vào cõi lành,
Voi kia nghe Như Lai nói kệ xong, liền đến
trước quỳ mọp, liếm chân Như Lai. Voi kia vì tâm hối quá không an,
liền chết, sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Vua A-xà-thế và Ðề-bà-đạt-đa
thấy voi đã chết, buồn rầu không vui. Ðề-bà-đạt-đa
nói với vua:
- Sa-môn Cù-đàm
đã giết voi chết.
Vua đáp:
- Sa-môn Cù-đàm này có sức thần
lớn, có nhiều kỹ thuật, mới có thể trù rủa voi chết.
Vua A-xà-thế lại nói:
- Sa-môn này chắc đầy đủ oai đức mới không
bị voi dữ làm hại.
Ðề-bà-đạt-đa đáp:
- Sa-môn Cù-đàm có chú thuật huyễn
hoặc, có thể khiến ngoại đạo dị học thảy đều
hàng phục, huống chi loài súc sanh.
Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa bèn suy nghĩ:
"Ta thấy vua A-xà-thế ý muốn thay đổi".
Ðề-bà-đạt-đa lo buồn không vui, ra
khỏi thành La-duyệt. Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Pháp Thí xa thấy Ðề-bà-đạt-đa
đến, nói với Ðề-bà-đạt-đa:
- Nay điều Ông làm rất sai quấy,
hiện tại hối lỗi còn dễ, sợ sau khó.
Ðề-bà-đạt-đa nghe nói, lại thêm sân
giận hỏi:
- Con ngốc! Ta có lỗi gì mà nay dễ, sau khó?
Tỳ-kheo-ni Pháp Thí đáp:
- Nay Ông đi chung với ác và tạo
các điều chẳng lành.
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa sân giận bừng bừng,
lấy tay đánh Tỳ-kheo-ni chết.
Ðề-bà-đạt-đa đã hại bậc Chân nhân,
về đến phòng mình bảo các
đệ tử:
- Các Ông nên biết! Nay ta khởi ý đối với
Sa-môn Cù-đàm, song việc ấy
không nên. Vì A-la-hán lại khởi ý ác đối với
A-la-hán. Nay ta có thể hướng về Cù-đàm
sám hối.
Do đây Ðề-bà-đạt-đa
lo buồn, bị bệnh nặng. Ðề-bà-đạt-đa
bảo các đệ tử:
- Ta không đủ sức đến gặp Sa-môn Cù-đàm.
Các Ông nên giúp ta đến chỗ Sa-môn.
Ðề-bà-đạt-đa bôi thuốc độc vào mười
đầu ngón tay, bảo các đệ tử:
- Các Ông khiêng ta đến chỗ Sa-môn ấy.
Bấy giờ, các đệ tử liền khiêng
Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế Tôn. Tôn giả A-nan
xa thấy Ðề-bà-đạt-đa đến liền bạch
Phật.
- Nay Ðề-bà-đạt-đa đến, chắc có tâm hối
hận muốn hướng về Thế Tôn cầu xin cải hối.
Phật bảo A-nan:
- Ðề-bà-đạt-đa trọn không thể đến chỗ Thế
Tôn.
A-nan ba phen bạch Phật:
- Nay Ðề-bà-đạt-đa đã muốn
đến xin hối lỗi.
Phật baỏ A-nan:
- Người ác ấy trọn không thể đến chỗ Như
Lai. Ngày nay mạng ông ấy đã
hết.
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế Tôn, bảo
các đệ tử:
- Nay ta không nên nằm ra mắt Như Lai, nên xuống võng mới
đến gặp.
Ðề-bà-đạt-đa vừa bước chân xuống đất, bấy
giờ tại nơi ấy nổi lên gió lửa mạnh,
đốt chân Ðề-bà-đạt-đa. Ðề-bà-đạt-đa
bị lửa đốt, liền khởi tâm hối hận, ở chỗ Phật chính muốn xưng "Nam-mô
Phật", song rốt cuộc không xưng được "Nam-mô Phật", bèn vào
địa ngục.
A-nan thấy Ðề-bà-đạt-đa rơi vào
địa ngục, bạch Phật:
- Nay Ðề-bà-đạt-đa đã chết, rơi
trong địa ngục chăng?
Phật bảo:
- Ðề-bà-đạt-đa không được diệt tận đến chỗ
cứu cánh. Nay ông ấy khởi tâm ác đối với thân Như Lai, khi chết đọa địa
ngục A-tỳ.
A-nan buồn khóc rơi lệ không ngừng, Phật bảo A-nan:
- Vì sao Thầy buồn khóc như thế?
A-nan bạch Phật:
- Tâm dục ái của con chưa dứt, chưa thể
đoạn kết sử nên buồn khóc vậy.
Thế Tôn liền nói kệ:
Như người tự gây tạo,
Tự xem lại gốc ngọn,
Người lành thọ báo lành,
Kẻ ác chịu ương lụy.
Người đời làm hạnh ác,
Chết bị khổ địa ngục,
Nếu lại làm hạnh lành,
Chuyển thân thọ phước trời.
Kia tự gây hạnh ác,
Tự rơi vào địa ngục,
Không phải lỗi của Phật.
Nay vì sao Thầy buồn?
A-nan bạch Phật:
- Ðề-bà-đạt-đa chết, thân sanh chỗ nào?
Phật bảo A-nan:
- Nay Ðề-bà-đạt-đa chết, thân rơi vào
địa ngục A-tỳ. Vì sao? Do kia tạo tội
ngũ nghịch nên cảm báo này.
A-nan lại bạch Phật:
- Ðúng thế, thưa Thế Tôn! Như lời dạy của Thế Tôn, tự thân làm ác hiện
thân vào địa ngục. Vì thế con buồn
khóc vậy. Do Ðề-bà-đạt-đa không quý tiếc danh
xưng, dòng họ, cũng không nể cha mẹ tôn trưởng, làm nhục dòng họ
Thích, hủy hoại gia thế chúng ta.
Ðề-ba-đạt-đa hiện thân vào
địa ngục thực không đúng. Vì sao? Dòng
họ chúng ta phát xuất từ địa vị Chuyển luân
Thánh vương, Ðề-bà-đạt-đa cũng xuất
phát từ dòng vua, không nên hiện thân vào
địa ngục như thế. Ðề-bà-đạt-đa
nên hiện thân chấm dứt hữu lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, nơi hiện thân này được chứng
quả Sanh tử đã tận, Phạm hạnh
đã lập, việc phải làm
đã làm xong, không thọ thân sau, như
thật mà biết. Tập theo dấu của chân nhân, đắc
A-la-hán, nơi Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn; vì sao mang thân này
vào địa ngục? Ðề-bà-đạt-đa
khi còn sống có oai thần lớn, rất có thần
đức, có thể lên cõi trời Ba mươi ba
biến hóa tự do. Người như thế lại rơi vào địa
ngục ư? Bạch Thế Tôn! Chẳng biết Ðề-bà-đạt-đa
ở địa ngục trải qua bao nhiêu năm?
Phật bảo A-nan:
- Ông ấy ở địa ngục một kiếp.
A-nan lại bạch Phật:
- Kiếp có hai loại, đại kiếp và
tiểu kiếp. Ông ấy ở kiếp nào?
Phật bảo:
- Kiếp của ông ấy sẽ trải qua một đại
kiếp. Nói đại kiếp tức hết số kiếp của Hiền kiếp này. Hết nghiệp,
mạng chung trở lại thân người.
A-nan bạch Phật:
- Ðề-bà-đạt-đa mất thân Người mới trở lại.
Vì sao? Kiếp số dài lâu, đại kiếp
không quá Hiền kiếp.
A-nan càng thêm buồn khóc than thở không vui, lại bạch Phật:
- Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục ra, sẽ sanh về
chỗ nào?
Phật bảo A-nan:
- Ðề-bà-đạt-da mạng chung nơi ấy,
sẽ sanh lên cõi Tứ thiên vương.
A-nan lại hỏi:
- Ở đó mạng chung sẽ sanh về đâu?
Phật bảo:
- Ở đó mạng chung, lần lượt sẽ sanh lên
trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha
hóa tự tại.
A-nan lại hỏi:
- Ở nơi ấy mạng chung, sẽ sanh về đâu?
Phật bảo:
- Khi Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục mạng chung,
sanh lên các cõi Trời lành trải qua trong sáu mươi kiếp không rơi
vào ba đường ác, qua lại trong cõi
Trời, Người. Thân rốt sau, ông ta sẽ cạo râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng
tin kiên cố xuất gia học đạo, thành vị
Bích-chi Phật hiệu là Nam-mô.
Bấy giờ, A-nan đến trước bạch Phật:
- Như thế, bạch Thế Tôn! Ðề-bà-đạt-đa do
ác báo nên chịu tội ở địa ngục, lại
tạo đức gì mà trong sáu mươi kiếp trải qua sanh tử, không bị khổ
não, sau lại thành vị Bích-chi Phật, hiệu là Nam-mô.
Phật bảo A-nan:
- Phước sanh ý lành trong khoảng giây lát, phước ấy khó thí dụ. Hà
huống Ðề-bà-đạt-đa thông suốt cổ kim, tụng
tập nhiều, giữ gìn các pháp, điều đã
nghe không quên. Xưa Ðề-bà-đạt-đa do oán thù
mà khởi tâm sát hại đối với Như Lai. Lại do
duyên báo xưa nên ông ta có tâm vui vẻ với Như Lai, do nhân duyên
này trong sáu mươi kiếp không rơi trong ba
đường ác. Lại do Ðề-bà-đạt-đa, vào
lúc cuối khi mạng chung, khởi tâm hòa vui xưng Nam-mô, nên sau làm vị Phật
Bích-chi hiệu Nam-mô.
Bấy giờ, A-nan liền đến trước lễ Phật,
thưa rằng:
- Thưa vâng, bạch thế tôn! Như lời dạy của Phật.
Khi ấy, Tôn giả Ðại-mục-kiền-liên đến
trước Phật bạch:
- Bây giờ con muốn xuống địa ngục A-tỳ,
nói về yếu hạnh nhẫn nhục, hoan hỷ cho Ðề-bà-đạt-đa.
Phật bảo Mục-liên:
- Thầy nên biết, chớ vội vàng hung bạo, chuyên tâm chánh ý chớ khởi
loạn tưởng. Vì sao? Hạng chúng sanh cực ác khó
điều phục, khó thành tựu, vậy sau mới
đọa vào
địa ngục A-tỳ. Lại, tội nhơn kia không hiểu âm thanh
đối đáp qua lại của cõi Người.
Mục-liên bạch Phật:
- Nay con hiểu được sáu mươi bốn âm thanh,
thông suốt ngôn ngữ, con sẽ dùng âm thanh ấy nói với ông ấy.
Phật bảo Mục-liên:
- Thầy nên biết đúng thời.
Khi ấy, A-nan nghe như vầy, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm.
Đại-mục-kiền-liên lễ chân Phật, nhiễu
quanh ba vòng, liền ở trước chỗ Phật, sang
địa ngục A-tỳ nhanh như trong khoảng lực sĩ duỗi tay. Bấy giờ, Ðại
Mục-liên đang ở địa ngục A-tỳ đứng trên
không khảy móng tay kêu:
- Ðề-bà-đạt-đa!
Ðề-bà-đạt-đa im lặng không đáp. Các ngục
tốt hỏi Mục-liên:
- Nay Tôn giả gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?
Ngục tốt lại bảo:
- Trong đây cũng có Ðề-bà-đạt-đa
thời Phật Câu-lưu-tôn, Ðề-bà-đạt-đa
thời Phật Câu-na-hàm-mâu-ni, Ðề-bà-đạt-đa
thời Phật Ca-diếp, cũng có Ðề-bà-đạt-đa
cư sĩ, Ðề-bà-đạt-đa xuất gia. Nay Tôn
giả muốn gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?
Mục-liên đáp:
- Nay ta muốn mời Ðề-bà-đạt-đa em con nhà
chú của Phật Thích-ca Văn, nên cần
được gặp.
Khi đó, ngục tốt tay cầm xích sắt, đốt lửa
đổ chích vào thân Ðề-bà-đạt-đa để tỉnh
giấc. Thân thế Ðề-bà-đạt-đa bị
lửa đốt cháy cao ba mươi khuỷu tay. Các ngục
tốt bảo:
- Ông là kẻ ngu, ngủ gì như thế!
Ðề-bà-đạt-đa bị các khổ bức bách, thưa
rằng:
- Nay các Ông dạy bảo tôi điều gì?
Ngục tốt lại bảo:
- Ông hãy nhìn lên không trung!
Ðề-bà-đạt-đa theo lời ngước nhìn hư
không, thấy Ðạ Mục-kiền-liên ngồi kiết-già trên hoa sen báu, rực rỡ như
mặt trời vén mây, Ðề-bà-đạt-đa thấy rồi bèn
nói kệ:
Ai hiện hào quang trời,
Như mặt trời vén mây,
Cũng như núi vàng chói.
Không có bụi nhơ nhớp?
Tôn giả Mục-liên dùng kệ đáp:
Ta, đệ tử Thích-ca,
Thuộc dòng dõi Cù-đàm,
Là Thanh văn trong ấy,
Tên là Ðại Mục-liên.
Ðề-bà-đạt-đa thưa với Mục-liên:
- Tôn giả Mục-liên! Cớ gì hạ cố đến nơi này?
Nơi đây chúng sanh tạo ác, sau khi mệnh chung
sanh vào nơi này.
Mục-liên đáp:
- Tôi do Phật sai nên đến đây, muốn thương
xót nhổ sạch gốc khổ cho Ông.
Bấy giờ, Ðề-ba-đạt-đa nghe âm hưởng Phật,
vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, nói rằng:
- Cúi xin Tôn giả, đúng thời diễn nói.
Ðức Thế Tôn có lời dạy gì? Lại nói đến
đường ác chăng?
Mục-liên đáp:
- Ðề-bà-đạt-đa chớ lo sợ, địa ngục khổ
nhất không hơn chốn này. Ðức Phật Thích-ca Chí Chơn Ðẳng Chánh
Giác, thương xót tất cả các loài cho đến côn
trùng nhỏ nhít, như mẹ thương con, tâm không sai biệt, tùy thời
điểm nói trọn không
để mất, cũng không trái với điều đã
nói.
Nay chính từ miệng Phật dự ký. Ông vốn khởi niệm ác muốn hại Thế Tôn,
lại đem việc ấy dạy người khiến hướng về
đường ác; do nhân duyên tội báo ấy đọa
vào địa ngục A-tỳ, sẽ trải qua một
kiếp trọn không ra khỏi. Kiếp số ấy hết nghiệp tận mạng chung, sẽ sanh lên
cõi trời Tứ thiên vương, lần lượt sanh lên cõi trời Ba mươi ba, trời
Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại trong sáu
mươi kiếp không ở trong con đường ác, lưu
chuyển chốn Trời, Người. Thân cuối cùng
được làm người, cạo bỏ râu tóc mặc ba
pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo,
sẽ thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô. Vì sao thế? Do khi Ông sắp
chết, xưng "Nam-mô" nên được danh hiệu ấy.
Nay đức Như Lai quán sát lời nói lành "Nam-mô" nên Ông
được danh hiệu đó, trong sáu mươi kiếp
làm Bích-chi Phật.
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa nghe xong vui mừng
hớn hở, tâm lành phát sanh, lại bạch với Mục-liên:
- Lời nói của Như Lai quả nhiên không nghi, thương xót chúng sanh mà
cứu tế vô lượng, đại từ đại bi hóa độ kẻ ngu.
Dù cho ngày nay tôi nghiêng hông bên mặt trong
địa ngục A-tỳ trải qua một kiếp, tâm ý vẫn
chuyên nhất, trọn không mệt nhọc.
Tôn giả Mục-liên lại bảo Ðề-bà-đạt-đa:
- Thế nào, sự đau đớn của Ông nay có tăng
giảm gì không?
Ðề-bà-đạt-đa nói:
- Thân tôi chịu khổ chỉ tăng chớ không
giảm, nay được nghe Như Lai thọ ký danh hiệu, nỗi khổ giảm bớt không thể
nói hết.
Mục-liên hỏi:
- Nay hoạn nạn của Ông, nguyên lai đau khổ
giống như thế nào?
Ðề-bà-đạt-đa đáp:
- Bánh xe sắt nóng nghiền nát thân hình, lại có chày sắt
đập nát thân thể, có voi đen dữ dày
đạp thân tôi, lại có núi lửa đến dằn trên
mặt tôi, Cà-sa ngày trước hóa làm lá đồng
nóng quấn thân, nguyên lai đau khổ tình
trạng như thế.
Mục-liên bảo:
- Ông có tự biết cội gốc tội báo, khiến chịu
đau khổ chăng? Nay tôi phân biệt từng tội
một, Ông muốn nghe chăng?
Ðề-bà-đạt-đa thưa:
- Xin vâng, đúng thời xin nói.
Tôn giả Mục-liên bèn nói kệ:
Xưa Ông ở chỗ Phật,
Phá hoại Tỳ-kheo Tăng,
Nay có chày sắt nóng,
Ðập quết trên thân Ông.
Vì hàng đại chúng kia,
Là Thanh văn bậc nhất,
Gây rối chúng Tỳ-kheo,
Nay có xe nóng nghiền.
Xưa Ông bảo vua thả,
Voi đen uống rượu say,
Nay có bầy voi đen,
Chà đạp trên thân mình.
Xưa ông vác đá lớn,
Xa ném đến Như Lai,
Nay quả báo núi lửa,
Ðốt Ông không chừa sót,
Xưa Ông dùng nắm tay,
Giết chết Tỳ-kheo-ni,
Nay bị lá đồng nóng,
Cuốn cháy không duỗi được.
Hành báo trọn không mất,
Cũng chẳng phải rỗng không,
Cho nên phải siêng năng,
Lìa các nguồn ác này.
Ðề-bà-đạt-đa! Ông vốn tạo cội gốc chính là
các điều này, nên nhất tâm hướng về
Phật, được phước lâu dài.
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa lại bạch với Mục-liên:
- Nay xin nhờ Tôn giả Mục-liên cúi đầu lễ
chân Thế Tôn, kính thăm Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ tôi
cũng lại lễ bái Tôn giả A-nan.
Tôn già Ðại-mục-kiền-liên phóng đại thần
túc, khiến các khổ não trong địa ngục
A-tỳ dừng lại, lại nói kệ này:
Ðều xưng Nam-mô Phật,
Bậc họ Thích tối thắng,
Vị ấy ban an ổn,
Dẹp trừ các khổ não.
Bấy giờ, chúng sanh trong địa ngục A-tỳ
nghe Tôn giả Mục-liên nói kệ này rồi, hơn sáu vạn người
được dứt quả báo khổ, liền mạng chung nơi ấy,
sanh lên trời Tứ Thiên vương.
Tôn giả Mục-liên liền thâu thần túc, trở về tinh xá
đến chỗ Thế Tôn, lễ chân Phật, đứng một bên
Tôn giả bạch Phật rằng:
- Ðề-bà-đạt-đa cung kính vô lượng,
thăm hỏi Thế Tôn ngồi
đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ. Cũng lại hỏi
thăm A-nan, và nói thế này: "Như Lai thọ ký cho trong sáu mươi
kiếp, thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô, dù cho tôi nằm nghiêng hông mặt
trong địa ngục A-tỳ, vẫn trọn không mệt
nhọc."
Bấy giờ Phật nói:
- Lành thay,lành thay! Mục-liên, Thầy làm nhiều lợi ích, nhiều sự thấm
nhuần, thương tưởng loài ngu tối, Trời Người
được an lạc, khiến cho hàng Thanh văn
của Như Lai dần đến Niết-bàn.
Thế nên! Mục-liên! Nên siêng năng thành
tựu ba pháp. Vì sao thế? Nếu Ðề-bà-đạt-đa tu
pháp lành về thân ba, miệng bốn, ý ba, ông ấy trọn
đời không tham lợi dưỡng, cũng không tạo tội
ngũ nghịch mà bị vào địa ngục A-tỳ. Vì
sao? Phàm người tham lợi dưỡng, cũng không có tâm cung kính
đối với Tam bảo, cũng không vâng giữ giới
cấm, không đầy đủ về thân, khẩu, ý hành.
Nên chuyên chú nhớ nghĩ về thân, khẩu, ý hành. Như thế, Mục-liên, nên học
điều này!
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
10. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu có chúng sanh tu hành tâm từ giải thoát, lưu truyền rộng nghĩa
ấy, vì người diễn nói, sẽ được mười một quả
báo. Thế nào là mười một? Ngủ an ổn, thức an ổn, không chiêm bao
dữ, Trời ủng hộ, Người thương mến, không có
độc hại, không bị binh đao, nước, lửa, đạo tặc không xâm tổn, khi chết
sanh lên trời Phạm thiên. Ðó gọi là Tỳ-kheo hay thực hành tâm từ
được mười một phước này.
Thế Tôn liền nói kệ này:
Nếu người hành lòng từ,
Không có hạnh phóng dật,
Các kết dần dần mỏng,
Dần thấy dấu vết đạo.
Do hay hành lòng từ,
Sẽ sanh lên Phạm thiên,
Ðược diệt độ mau chóng,
Hằng đến chỗ vô vi.
Không sát, không tâm hại,
Cũng không ý hơn thua,
Lòng từ trùm tất cả,
Trọn không tâm oán hận.
Thế nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thực hành lòng từ, lưu truyền rộng
nghĩa ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học
điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
L. Phẩm Lễ Tam bảo
1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như Lai, nên
thực hành mười một pháp lễ chùa Phật. Thế nào là mười một? Hưng khởi tâm
dõng mãnh vì có thể kham; ý không tán loạn vì thường nhất tâm; ... vì ghi
nhớ chuyên tâm các pháp Chỉ quán; các niệm hằng dứt vì nhập chánh
định; ý biết vô lượng vì có trí tuệ; ý
khó quán sát do hình tướng Như Lai; ý vắng lặng trạm nhiên vì oai nghi Như
Lai; ý không chạy nhảy vì danh xưng Như Lai; ý không tưởng tượng do sắc
tướng Như Lai; Phạm âm khó bì kịp do âm hưởng nhu nhuyến.
Các Tỳ-kheo! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như
Lai, đầy
đủ mười một pháp này. Lễ chùa tháp của Như Lai thì
được phước lâu dài vô lượng. Như thế,
này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
2. Tôi nghe như vầy:
Một thời Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn
Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn làm lễ pháp thì nên ghi nhớ mười
một việc sau hãy lễ pháp. Thế nào là mười một pháp? Có kiêu mạn nên trừ
kiêu mạn; Chánh pháp ở cõi dục mà trừ tưởng khát ái; Chánh pháp ở cõi dục
mà trừ dục; Chánh pháp hay đoạn dứt dòng
sanh tử thâm sâu; hành Chánh pháp được pháp bình
đẳng; Chánh pháp đoạn dứt các đường ác; theo
Chánh pháp này được đến chỗ lành;
Chánh pháp hay đoạn dứt lưới ái; người hành
Chánh pháp từ hữu vi đến vô vi; người hành
Chánh pháp chiếu sáng khắp nơi; người hành Chánh pháp
đến Niết-bàn.
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn làm lễ pháp, nên tư duy về mười
một pháp này, sau được phước vô lượng, phước
không hạn lượng mãi mãi. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học
điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu hành lễ chúng Tăng,
nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng.
Thế nào là mười một? Chúng của Như Lai thành tựu Chánh pháp; Thánh
chúng của Như Lai trên dưới hòa hợp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu các
pháp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu giới; thành tựu chánh
định; thành tựu trí tuệ; thành tựu tuệ
giải thoát; thành tựu giải thoát tri kiến; Thánh chúng của Như Lai hay hộ
trì Tam Bảo; Thánh chúng của Như Lai hay hàng phục ngoại
đạo dị học; Thánh chúng của Như Lai là
bạn tốt, ruộng phước cho tất cả chúng sanh.
Thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ chúng Tăng,
nên tư duy về mười một pháp này, được
phước lâu dài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học
điều này!
Bấy giờ các hàng Tỳ-kheo, Trời, Rồng, Quỷ Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la,
Ca-lầu-la, Khẩu-na-la, Ma-hầu-la-già, Trời Ma-hưu-lặc và Người nghe Phật
dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Ma-kiệt, thành Mật-đề-la
cư ngụ phía Ðông vườn Ðại thiên, cùng với chúng
đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm
năm mươi người câu hội.
Khi ấy, Thế Tôn sau khi thọ thực cùng với Tôn-giả A-nan
đi kinh hành trong vườn. Phật mỉm
cười, A-nan nghĩ thầm: "Như Lai Vô Sở Trước Ðẳng Chánh Giác không cười
suông. Nay cớ gì cười? Ắt phải có ý, Ta sẽ hỏi
điều này". A-nan chỉnh
đốn y phục, quỳ gối mặt chấm đất, chắp tay
hỏi Phật:
- Như Lai Vô sở Trước Ðẳng Chánh Giác không cười suông. Nay cớ gì cười?
Ắt phải có ý, xin được nghe ý đó.
Phật bảo A-nan:
- Ta sẽ vì Thầy nói. Về Hiền kiếp đã
qua, ban đầu ở đây có một vị Chuyển luân
Thánh vương làm chủ bốn châu thiên hạ tên là Ðại thiên, sống lâu
không bệnh, đoan chánh dõng mãnh, dùng
Chánh pháp cai trị, không ép uổng nhân dân, có bảy báu tự nhiên xuất hiện.
Những gì là bảy? Một là xe báu, hai là voi báu, ba là ngựa báu, bốn là
châu báu, năm là ngọc nữ báu, sáu là
chủ tạng báu, bảy là điển binh báu.
Phật bảo A-nan:
- Khi vua Ðại Thiên còn thơ ấu, thời gian ấy tám vạn bốn ngàn năm,
làm Thái tử tám vạn bốn ngàn năm, lên
ngôi Thánh vương tám vạn bốn ngàn năm, lên
ngôi Thánh vương tám vạn bốn ngàn năm.
A-nan bạch Phật:
- Thế nào là xe báu?
Phật bảo A-nan:
- Vào ngày rằm trăng tròn, vua tắm
gội sạch sẽ, cùng thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn hướng Ðông. Có xe nghìn căm
vàng, xe cao bảy đa-la, bảy nhẫn là
một đa-la. Ða-la là cây
độc diên, dùng cây này làm hạn lượng,
toàn bằng vàng tử ma. Vua thấy xe rồi, nghĩ rằng: "Xe này là xe quý, xin
nguyện bắt được". Nghĩ xong, xe liền
đến bên tay trái vua, rồi chuyển qua
tay mặt. Vua bảo xe ấy:
- "Những nước chưa từng hành phục, hãy vì ta hành phục, chẳng phải
đất của ta, hãy vì ta thâu nhận, hãy
đúng pháp không nên phi pháp".
Nói xong, xe trở lên hư không, trục xe xoay về hướng Ðông.
Nhà vua sai tả hữu chuẩn bị đủ bốn binh
chúng, binh đã
đủ liền đưa binh chúng theo xe trên
không. Xe dẫn sang phương Ðông, qua hết các cõi nước phía Ðông. Ban
đêm, vua và binh chúng ngủ dưới xe
báu. Các tiểu vương nước phía Ðông đều đến
triều kiến, dùng bát vàng đựng thóc
bạc tiến dâng vua, thưa rằng:
- "Kính chào Ðại vương! Bờ cõi Ðông này, tất cả
đất đai, trân bảo, nhân dân đều là của
Ðại vương. Xin dừng xa giá tại đây, chúng tôi
sẽ vâng theo Ðại vương dạy".
Vua Ðại Thiên bảo các tiểu vương:
- "Các Ông muốn theo lời dạy của ta thì mỗi người nên trở về nước mình
dùng Thập thiện dạy dân, chớ làm ngang bướng."
Vua khuyên dạy xong, xe báu liền ở trên biển, quay lại nương hư không
mà đi. Trong biển tự nhiên mở
đường rộng một do-diên, vua và bốn bộ
binh chủng theo xe báu như trước, đi qua cõi
phương Nam. Các tiểu vương phương Nam cũng
đến triều kiến, đều dùng bát vàng đựng
thóc bạc, bát bạc đựng thóc vàng, dâng lên nhà vua, thưa rằng:
- "Kính chào Ðại vương! Cõi nước phương Nam này cùng trân bảo, nhân dân
đều là của Ðại vương. Xin dừng xa giá
ở đây, chúng tôi sẽ vâng theo lệnh Ðại
vương".
Vua Ðại Thiên bảo các tiểu vương:
- "Các Ông muốn theo lệnh ta thì mỗi người nên trở về nước mình,
đem Thập thiện dạy dân, chớ làm việc
phi pháp".
Vua khuyên dạy xong, xe báu quay sang hướng Tây, dẫn
đi về cõi phía Tây. Các vua nước phía
Tây cống hiến, thỉnh mời như ở phương Nam. Xong, xe báu quay sang hướng
Bắc, dẫn đi qua bờ cõi phía Bắc. Các
vua phía Bắc cũng đến triều kiến, nạp
cống và cầu thỉnh như các pháp trước.
Ði bốn ngày hết bốn biển Diêm-phù-đề, trở
về thành Mật-để-la, xe dừng trước cửa
cung, ở trên hư không cao bảy cây
đa-la, vành xe hướng về phía Ðông, vua liền vào cung.
Phật bảo A-nan:
- Vua Ðại thiên được xe báu như thế.
A-nan lại hỏi đức Phật:
- Vua Ðại Thiên được voi báu như thế nào?
Phật đáp:
- Sau đó, vua Ðại Thiên lại
đến ngày rằm trăng
tròn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về
hướng Ðông, thấy trong hư không có một voi chúa màu trắng tên Mãn Hô, từ
hư không đến, thân hình
đều đặn, miệng có sáu ngà, mũ vàng
đội đầu, dây vàng, anh lạc, chơn châu
kết vòng quanh thân, hai bên hông đeo chuông
vàng. Voi có sức thần, biến hình tự tại. Vua Ðại thiên thấy rồi, tự
nghĩ rằng: "Ta có thể được voi bàu này
chăng? Ta sẽ khiến voi làm việc". Nghĩ
xong, voi liền đứng trên hư không
trước vua. Vua bèn sai làm năm việc, lại
nghĩ: "Nên thử xem voi này có thể làm
được chăng?" Ngày mai, mặt trời lên, vua cỡi voi dạo khắp bốn biển,
trong khoảnh khắc về lại chỗ cũ, đứng trước
cửa cung, hướng về phía Ðông.
A-nan! Vua Ðại thiên được voi báu như thế.
A-nan hỏi Phật:
- Vua Ðại thiên được ngựa báu như thế nào?
Phật bảo:
- Sau đó, đến ngày rằm trăng
tròn, vua Ðại Thiên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu Tây,
nhìn về phía Tây, thấy có một ngựa chúa màu xanh tên là Bà-la-xá từ hư
không bay đến, đi không động thân, đầu đội mão
vàng, các báu anh lạc, chơn châu kết quanh thân, hai bên hông
đeo chuông vàng. Ngựa chúa có sức
thần, biến hình tự tại. Vua Ðại Thiên thấy rồi, tự nghĩ: "Ta có thể
được ngựa này cỡi rất tốt". Vua nghĩ
xong, ngựa đến trước nhà vua, vua liền
cỡi ngựa muốn thử tài đó. Ngày mai,
mặt trời lên, vua cỡi ngựa đi về phía
Ðông, trong khoảnh khắc dạo khắp bốn bể, rồi trở về nước. Ngựa
đứng ở cửa cung phía Tây, hướng về Tây.
A-nan! Vua Ðại Thiên được ngựa báu
như thế.
A-nan hỏi Phật:
- Vua Ðại thiên được châu báu như thế nào?
Phật đáp:
- Sau đó, đến ngày rằm trăng
tròn, vua Ðại Thiên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía
Ðông, nhìn về phương Ðông, thấy có hạt thần châu. Thần châu to tròn một
thước sáu tấc, có tám mặt, màu xanh lưu ly, từ hư không bay
đến, cao bảy cây đa-la. Vua thấy rồi, tự
nghĩ: "Ðược thần châu này để ngắm".
Vua như ý nghĩ mà được thần châu. Vua
muốn thử, vào nửa đêm tập hợp
bốn binh chủng, đem thần châu treo ở đầu cột
phướn, ra khỏi thành dạo đi. Hạt thần
châu chiếu sáng các nơi mười hai do-diên, binh chủng thấy nhau như
ban ngày, ánh sáng của thần châu chiếu đến
đâu, nhân dân kinh ngạc thức dậy, đều nói trời sáng. Nhà vua về
cung, dựng cây phướn trong cung, trong ngoài
đều sáng như ban ngày.
A-nan! Vua Ðại thiên được châu báu như
thế.
A-nan bạch Phật:
- Vua Ðại thiên được ngọc nữ báu như thế nào?
Phật bảo A-nan:
- Nhà vua đến ngày rằm trăng
tròn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu Ðông, nhìn về hướng
Ðông, thấy bảo nữ không ai bì, nghiêm trang thù diệu, không cao không
thấp, không mập không ốm, không trắng không
đen, mùa đông thân ấm, mùa hạ
thân mát, từ lỗ chân lông tiết ra mùi hương chiên-đàn,
miệng có mùi thơm hoa sen xanh, cũng không có các trạng thái xấu ác của
người nữ, tánh tình ôn hòa, ý tùy thuận trước, từ hư không
đến chỗ vua.
A-nan! Vua Ðại Thiên được ngọc nữ báu như
thế.
A-nan bạch Phật:
- Vua Ðại Thiên được chủ tạng báu
như thế nào?
Phật đáp:
- Vua Ðại thiên đến ngày rằm trăng
tròn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Bắc, nhìn về
hướng Bắc, thấy đại thần chủ tạng tên
A-la-tra-chi, tướng đoan chánh thù
diệu, không cao không thấp, không mập không gầy, thân sắc vàng, tóc màu
xanh, mắt đen trắng phân minh. Chủ tạng lại
có thể thấy được các kho bảy báu nằm dưới đất, có chủ thì giữ gìn,
không chủ trì đem dâng vua sử dụng, thông
minh trí tuệ, giỏi các mưu lược. Đại
thần từ hư không bay đến trước vua, tâu rằng:
- "Từ này về sau, nhà vua có thể tự vui thích chớ lo buồn. Tôi sẽ cung
cấp tài bảo cho Ðại vương không để thiếu".
Vua muốn thử đại thần chủ tạng, bèn
cùng dong thuyền ra biển. Vua bảo:
- "Ta muốn được vàng bạc châu báu".
Tạng thần tâu:
- "Xin trở lại bờ, hạ thần sẽ dâng tài bảo".
Vua nói:
- "Ta muốn được chân báu dưới nước, không
cần trên bờ".
Thần chủ tạng bèn đứng dậy sửa y phục, quỳ
gối hữu, chắp tay làm lễ nước, trong nước liền tự nhiên xuất hiện
vàng khối to như bánh xe, chốc lát đầy
thuyền. Vua bảo:
- "Hãy dừng! Chớ chất thêm vàng, thuyền sắp
đắm".
A-nan! Vua Ðại Thiên được đại thần chủ
tạng như thế.
A-nan bạch Phật:
- Vua Ðại thiên được điển binh báu như thế
nào?
Phật bảo:
- Nhà vua đến ngày rằm trăng
tròn, lại tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Nam, thấy
có đại tướng quân tên Tỷ-tỳ-na,
đoan chánh tướng hảo, tóc màu trân
châu, thân thể màu lục, không cao không thấp, không mập không gầy, mắt có
thể nhìn thấu tâm niệm người khác, biết việc quân binh, quyền biến, mưu
chước, tiến lui đúng thời. Ðại tướng
nương hư không bay đến trước vua, tâu rằng:
- Cúi xin Ðại vương tự ý vui thích, chớ lo thiên hạ, việc chinh phạt
bốn phương thần tự điều khiển.
Nhà vua muốn thử tài, vào giữa đêm
suy nghĩ muốn tập họp bốn bộ binh chủng, nghĩ vừa dứt bốn binh
đã tập họp. Nhà vua lại nghĩ tiến binh
về phía Ðông, quân liền tiến về Ðông. Nhà vua ở giữa,
đại tướng đi đầu, bốn binh vây quanh. Vua
nghĩ muốn tiến thì quân tiến, muốn lùi thì quân lùi.
A-nan! Vua Ðại Thiên được điển binh
báu như thế.
Phật bảo A-nan:
- Vua Ðại Thiên được bảy báu như thế.
Phật lại bảo A-nan:
- Vua Ðại Thiên cai trị rất lâu, bèn bảo thợ hớt tóc tên Kiếp-tỷ rằng:
"Nếu ta có tóc bạc, nên nhổ và báo cho ta biết". Kiếp-tỷ chăm
sóc tóc cho vua; lâu sau, thấy có một sợi tóc bạc, bèn tâu:
- "Trước Ðại vương có lệnh, nay thấy tóc bạc!"
Vua bảo:
- "Nhổ đưa ta xem".
Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc, để vào
tay vua. Vua cầm tóc bạc, bèn nói kệ:
Trên đầu của ta,
Sinh tóc bạc này,
Sứ thần đến gọi,
Ðến thời vào đạo.
Vua suy nghĩ: "Ta đã hưởng ngũ dục
tột độ trong loài Người, nay nên xuất
gia, cạo bộ râu tóc, mặc pháp phục". Bèn gọi thái tử Trường Sanh
đến, bảo:
- "Này Con! Ðầu ta đã sanh tóc bạc.
Ta đã chán ngủ dục thế gian, muốn tìm
vui cõi Trời. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục xuất gia học
đạo. Con nên lãnh việc nước, lập con
lớn làm thái tử; nên cấp dưỡng cho Kiếp-tỷ coi việc tóc bạc, khi tóc bạc
xuất hiện, trao nước cho Thái tử rồi như ta cạo râu tóc xuất gia, mặc pháp
phục".
Nhà vua bảo thái tử:
- "Nay ta đem ngôi vua ân cần trao cho
con, nên làm cho Thánh vị tiếp nối đời
đời chớ để dứt mất; nếu dứt đoạn sẽ bị làm người ở biên
địa; nếu đoạn mất hạnh lành, liền sanh
chỗ không có pháp".
Vua Ðại thiên dạy xong, liền trao nước cho thái tử Trường Sanh, ban cho
Kiếp-tỷ ruộng đất.
Phật bảo A-nan:
- Vua Ðại Thiên ở thành này, nước này, đất
này, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục vào
đạo, ở cõi này thực hành bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, trải qua tám
vạn bốn ngàn năm, ở đây mạng chung sanh về
Phạm thiên.
Vua Ðại thiên xuất gia, bảy ngày sau ngọc nữ báu mệnh chung. Trường
Sanh lên ngôi, đến ngày rằm trăng
tròn, tắm gội sạch sẽ, đem các
thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về phương Ðông, thấy ngọc nữ
đoan chánh như trước, từ hư không
đến. Vua Trường Sanh lại được bảy thứ báu.
Vua trị vì nước, cai quản thiên hạ, sau lại bảo Kiếp-tỷ:
- "Từ nay về sau chăm sóc trên
đầu, thấy tóc bạc thì
đem báo cho ta".
Nhà vua lên ngôi trải qua tám vạn bốn ngàn năm.
Tóc vua bạc, thợ hớt tóc Kiếp-tỷ tâu vua:
- "Ðã có tóc bạc".
Vua bảo:
- "Nhổ đem đến để trên tay ta".
Thợ hớt tóc Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc
để lên tay vua. Vua cầm tóc bạc nói
kệ:
Trên đầu của ta,
Sinh tóc bạc này,
Sứ thần đến gọi,
Ðến thời vào đạo.
Vua tự nghĩ: "Ta đã hưởng ngũ dục
tột đỉnh. Nay nên xuất gia, cạo râu
tóc, mặc pháp phục." Vua liền gọi thái tử Quán Cát bảo:
- Này Con, đầu ta đã có tóc bạc. Ta
sã chán ngũ dục thế gian, muốn cầu thú vui cõi Trời. Nay ta muốn xuất gia
hành đạo, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục. Con nên
lãnh việc nước, lập con trưởng làm thái tử, chu cấp cho Kiếp-tỷ khiến coi
việc tóc bạc. Khi tóc xuất hiện, Con nên giao việc nước cho thái tử, xuất
gia như ta, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục.
Vua bảo thái tử:
- "Nay ta đem ngôi vị ân cần trao cho con.
Nên làm cho ngôi Thánh vương đời đời
tiếp nối, chớ để đoạn dứt; nếu đoạn dứt sẽ bị làm người ở biên
địa; nếu dứt hạnh lành phải sanh nơi
không có pháp".
Vua Trường Sanh cũng ở thành này, nước này,
đất này, cạo bỏ râu tóc mặc pháp y
nhập đạo. Ở đây trải qua tám vạn bốn ngàn
năm, vua thực hành bốn Phạm hạnh Từ,
Bi, Hỷ, Xả. Ở đây mệnh chung, vua sanh
lên Phạm thiên.
Phật bảo A-nan:
- Vua Trường Sanh xuất gia, bảy ngày sau, bảy báu tự nhiên biến mất.
Vua Quán Cát lo buồn không vui, các đại thần
thấy vua chẳng vui, bèn hỏi thăm:
- "Ðại vương vì sao không vui?"
Vua đáp:
- "Vì bảy báu biến mất".
Các đại thần tâu:
- "Xin Ðại vương chớ lo".
Vua hỏi:
- "Vì sao không lo?"
Vua hỏi:
- "Vì sao không lo?"
Các đại thần tâu:
- "Tiên vương đang tu Phạm hạnh trong
vườn gần đây, có thể đến đó thỉnh vấn,
chắc ngài sẽ dạy Ðại vương pháp được
bảy báu".
Nhà vua ra lệnh trang hoàng xa giá, các
đại thần chuẩn bị bị xong, liền tâu vua. Vua cùng quần thần cỡi xe
thất bảo, mang năm vật: cờ lọng, mũ vua,
kiếm, quạt, giày cùng các đại thần tả
hửu tùy tùng đến vườn. Ðến nơi,
vua xuống xe, bỏ năm vật nghiêm sức,
đi bộ vào cửa vườn,
đến trước phụ vương, cúi lạy lui ngồi một bên,
chấp tay thưa:
- "Phụ vương có bảy báu, nay đều đã
biến mất".
Vua cha trước đã ngồi yên, nghe
thưa, ngẩng đầu đáp:
- "Này con! Phàm pháp của Thánh vương không ỷ lại vào vật của cha. Con
tự thực hành cách để cầu được các món ấy".
Vua lại hỏi:
- "Chuyển luân Thánh vương dùng pháp hóa gì?"
Vua cha đáp:
- "Pháp kỉnh, pháp trọng, pháp nghĩ nhớ, pháp nuôi dưỡng, pháp làm tăng
trưởng, pháp làm giàu mạnh, pháp làm lớn rộng. Làm theo bảy pháp
này chính là cách trị dân của Thánh vương, có thể
được bảy báu".
Vua lại hỏi:
- "Thế nào là pháp kỉnh? ... cho đến pháp
lớn?"
Phụ vương đáp:
- "Nên chu cấp cho người bần cùng, dạy dân chúng hiếu dưỡng song thân,
bốn mùa tám tiết tùy thời tế lễ, dạy dân nhẫn nhục, trừ bỏ hạnh dâm dục,
ngu si v.v... Bảy pháp này chính là pháp của Thánh vương".
Vua liền nghe lời dạy, lễ bái xin lui, nhiễu quanh bảy vòng rồi dẫn
chúng trở về. Khi ấy vua vâng lệnh phụ vương làm theo bảy pháp, khiến cho
xa gần đều tôn trọng lời vua dạy. Vua mở kho
cấp dưỡng người nghèo, nuôi kẻ cô độc,
già nua. Dân chúng bốn phương đều vâng
làm theo. Khi ấy, vào ngày rằm trăng
tròn, vua tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn
về hướng Ðông, thấy có xe báu ngàn căm vàng,
xe cao bảy đa-la, cách đất cũng bảy đa-la, từ
hư không bay đến dừng trên hư không. Vua tự nghĩ: "Nguyện
được xe báu này chăng?"
Xe báu liền hạ xuống bên tay trái vua, lại chuyển sang tay mặt. Vua
bảo xe báu ấy:
- "Các nơi không hàng phục, hãy vì ta hàng phục; nơi chẳng phải
đất ta, hãy vì ta giữ lấy. Nên
đúng pháp, không nên phi pháp".
Vua liền dùng tay ném xe lên hư không trước cửa cung phía Ðông. Xe trụ
trên hư không hướng về phía Ðông. Sau xe báu, kế
đến là voi trắng, tiếp theo có ngựa
xanh, thần châu, ngọc nữ, chủ tạng báu, điển
binh báu, bảy vật báu xuất hiện như thời vua Ðại thiên, thử thách cũng
thế. Trải qua tám vạn bốn ngàn năm, vua cũng
lập thái tử, tặng thưởng cho Kiếp-tỷ, giao nước cho thái tử, xuất gia học
đạo đều như pháp của vua trước.
Phật bảo A-nan:
- Vua Quán Sát ấy ở tại thành này, vườn này, cạo tóc, pháp phục, trải
qua tám vạn bốn ngàn năm tu bốn Phạm hạnh Từ,
Bi, Hỷ, Xả. Ở đây mạng chung, vua cũng sanh lên Phạm thiên.
Phật bảo A-nan:
- Vua Ðại thiên và con cháu nối tiếp nhau cho
đến tám vạn bốn ngàn triều
đại làm chuyển luân Thánh vương, dòng
dõi lành không dứt đoạn. Vị Thánh vương sau cùng
tên Nhâm, dùng Chánh pháp cai trị, là người thông minh, nhớ kỹ không quên,
có ba mươi hai tướng tốt, sắc như hoa sen hồng, ưa thích bố thí, cúng
dường Sa-môn, Bà-la-môn, săn sóc nuôi dưỡng
người già, cô độc, chu cấp người nghèo.
Ở bốn cửa thành và trung tâm thành, vua đều
dựng kho lẫm, chứa vàng bạc, châu báu, voi ngựa, xe cộ, y phục,
giường chiếu, hương hoa, thức ăn uống, thuốc
men, người cô độc thì cấp cho thê thiếp, bố thí các thứ tùy ý người
muốn.
Trong những ngày lục trai, vua ra lệnh nội cung, ngoại cung
đều giữ giới Bát quan trai. Vào ngày
ấy, chư Tiên cõi trời Tịnh Cư đều cùng
xuống thọ giới. Trời đế Thích, Ba mươi ba
cũng khen ngợi nhân dân nước ấy: "Vui thay! Lợi lành mới gặp bậc
Pháp vương như thế, bố thí các thứ theo nhu cầu nhân dân, lại hay trai
giới thanh khiết không thiếu sót".
Trời Đế Thích bảo chư Thiên tử:
- "Muốn được gặp vua Nhâm chăng?"
Chư Thiên đều nói: "Muốn gặp, có thể mời lên
đây". Thích-đề-hoàn-nhân liền sai
thiên nữ Cùng-tỷ-ni:
- "Ngươi đến thành Mật-để-la
báo Nhâm vương rằng: "Ðại vương được
lợi ích lớn! Chư Thiên ở đây đều khen
ngợi công đức cao tột của Ðại vương, bảo tôi
đến thăm hỏi khuyên mời. Chư Thiên
đều muốn được gặp, xin vui lòng
đến đó".
Thiên nữ Cùng-tỷ-ni vâng lời bay xuống, trong khoảng co duỗi tay, hốt
nhiên hiện trên hư không trước cung vua. Lúc ấy nhà vua
đang ngồi tư duy trong điện, có một thể nữ
hầu. Vua suy nghĩ: "Thế gian đều muốn gọi an ổn, không có khổ hoạn". Cùng-tỷ-ni
ở trên hư không búng ngón tay để kêu,
vua ngẩng đầu lên, thấy trên cung
điện có ánh sáng, nghe tiếng bảo rằng:
- "Ta là thị giả của Thích-đề-hoàn-nhân.
Thiên đế sai ta đến chỗ Ðại vương".
Vua đáp:
- "Không biết Thiên đế có điều gì
dạy bảo?"
Thiên nữ nói:
- "Ý của Thiên đế ân cần, chư thiên
khen ngợi công đức của nhà vua, muốn
được gặp. Ðại vương có vui lòng?"
Vua im lặng hứa nhận. Thiên nữ liền trở về thưa Thiên
đế:
- "Ðã truyền lệnh xong, vua hứa sẽ đến".
Thiên đế liền ra lệnh cho người đánh xe,
trang nghiêm xe thất bảo, cỡi xe ngựa bay xuống thành Mật-để-la
đón vua Nhâm. Người đánh xe vâng lệnh, liền cho xe ngựa hốt nhiên
bay xuống thành. Vua đang ngồi họp cùng
quần thần, xe dừng trước điện vua, trụ trên
hư không. Người đánh xe kêu:
- "Nay Thiên đế đưa xe xuống đón, các Thiên
tử cũng đang đợi, Ðại vương nên lên
xe, chớ lưu luyến".
Các quan lớn nhỏ nghe vua sắp đi, tỏ vẻ
không vui, đều đứng dậy chấp tay thưa:
- "Sau khi Ðại vương đi, chúng hạ thần
vâng lệnh ai?"
Vua đáp:
- "Các khanh chớ lo, sau khi ta đi nên
bố thí, trai giới, cấp dưỡng dân chúng, trị quốc như lúc ta
đang thời. Ta sẽ về không lâu".
Vua ra lệnh xong, xe liền hạ xuống đất.
Vua lên xe, người đánh xe hỏi:
- "Vua sẽ đi theo đường nào?"
Vua hỏi:
- "Lời này là thế nào?"
Người đánh xe đáp:
- "Có hai đường đi, một là
đường ác, hai là
đường lành. Người làm ác từ
đường ác đến chỗ khổ, người làm lành
dạo chơi đường lành
đến chỗ vui".
Vua nói:
- "Nay tôi muốn đi cả hai đường ác và
lành".
Người đánh xe nghe hồi lâu mới hiểu nói:
- "Rất lành! Ðại vương".
Người đánh xe bèn
đưa vua đi cà hai
đường, thấy đủ thiện ác, đến trời Ba mươi ba.
Thiên đế và chư Thiên xa thấy
vua đến, Thích-đề-hoàn-nhân nói:
- "Kính chào Ðại vương! Mời cùng ngồi".
Phật bảo A-nan:
- Vua bèn ngồi trên tòa Thiên đế. Vua cùng
Thiên đế dung mạo tương tợ, y phục tiếng nói
như nhau. Các Thiên tử nghĩ thầm: "Ai là Thiên
đế? Ai là vua?" Lại nghĩ: "Người và
pháp phải tuân theo mà đều chẳng tuân theo".
Chư Thiên đều ngạc nhiên không
phân biệt được. Thiên
đế thấy chư Thiên có tâm nghi, bèn
nghĩ: "Ta sẽ mời nhà vua ở lại, sau mới làm sáng tỏ". Thiên
đế bảo chư Thiên:
- "Các Ông có muốn ta lưu nhà vua ở lại
đây chăng?"
Chư Thiên thưa:
- "Thật muốn mời ở lại".
Thiên đế bảo vua Nhâm:
- "Ðại vương! Có thể ở đây chăng? Tôi sẽ
cung cấp ngũ dục".
Nhân đó chư Thiên mới biết. Vua
thưa Thiên đế:
- Thưa, tôi không thể!
Thiên đế bèn cấp tặng, xong vua
thưa:
- "Nguyện cho chư Thiên thọ mạng vô tận".
Chủ khách thỉnh nhượng như thế ba lần.
Thiên đế hỏi vua:
- "Sao không ở lại?"
Vua thưa:
- "Tôi phải xuất gia tu đạo, nay ở cõi
Trời không có duyên học đạo".
Thiên đế hỏi:
- "Tại sao lại học đạo?"
Vua đáp:
- "Phụ vương tôi dặn dò, nếu có tóc bạc nên xuất gia".
Ðế thích nghe nói lời di mệnh nhập đạo, im
lặng không đáp. Vua ở cõi Trời, trong khoảng khắc ngũ dục tự vui,
mà ở thế gian đã trải qua mười hai năm.
Vua muốn cáo biệt, bèn cùng các Thiên tử nói pháp chân thật. Thiên
đế dạy người đánh xe:
- "Ông đưa vua Nhâm trở về nước".
Người đánh xe vâng lời liền trang hoàng
xe, chuẩn bị xong, thưa nhà vua:
- "Ðại vương có thể lên xe".
Nhà vua bèn từ biệt Thiên đế và chư
Thiên rồi lên xe, theo đường cũ mà về.
Ðến thành Mật-để-la, người đánh xe liền trở
về Trời. Vua trở về vài hôm, vua bảo Kiếp-tỷ:
- Nếu thấy có tóc bạc, nên báo cho ta.
Trong vài ngày, trên đầu vua có tóc bạc,
Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc, để
trên tay vua, vua thấy rồi bèn nói kệ:
Trên đầu của ta,
Sinh tóc bạc này,
Sứ thần đến gọi,
Ðến thời vào đạo.
Vua nghĩ: "Ta đã hưởng ngũ dục tột
đỉnh, nay nên xuất gia, cạo tóc, mặc
pháp phục". Vua bèn gọi thái tử Thiện Tận bảo:
- Ta đã có tóc bạc, ta
đã chán ngũ dục thế gian, nên tìm vui
cõi Trời, nên cạo bỏ tâu tóc, mặc pháp phục, xuất gia học
đạo. Nay ta đem việc nước giao cho con, chu
cấp cho Kiếp-tỷ. Nếu khi có tóc bạc, Con nên
đem việc nước giao cho thái tử rồi xuất gia
học đạo. Này Con! Nay ta đem ngôi vị
Thánh vương trao cho con, chớ để đoạn dứt; nếu đoạn dứt thì sẽ bị
làm người ở biên địa".
Phật bảo A-nan:
- Vua Nhâm bèn đem việc nước trao cho thái
tử, chu cấp ruộng đất cho Kiếp-tỷ, rồi ở nơi thành này xuống tóc,
mặc pháp phục, xuất gia tu đạo. Sau khi vua
tu đạo, trong bảy ngày xe báu, châu báu biến mất, voi, ngựa, ngọc
nữ, điển binh, chủ tạng thảy đều không còn.
Nhà vua ở trong vườn tám vạn bốn ngàn năm, hành
bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, sau khi mệnh chung, sanh lên Phạm thiên.
Sau đó vua Thiện Tận không theo nghiệp
cha, bỏ phế Chánh pháp. Do đó bảy món báu không ứng hiện lại, không tiếp
tục hạnh lành nên có năm điều tổn
giảm: tuổi thọ dân chúng ngắn, sắc suy, lực kém, nhiều bệnh, không
trí tuệ. Năm điều tổn giảm này
đã có lại rồi chuyển thêm sang bần
khốn. Do cùng khổ nên trộm cướp lẫn nhau, người ta
đến vua thưa kiện:
- "Người này trộm cắp!"
Vua liền ra lệnh hành hình người trong nước. Nghe tội trộm cắp, vua
liền đem giết, vì chứa
điều ác nên có
đao bén. Ðao gươm từ
đó bắt đầu chế tạo, do đây sát sanh khởi lên,
đó là hai
điều ác (trộm, sát) xuất hiện.
Kế lại dâm phạm vợ người, tranh cải với chồng người ấy, tự nói: "Tôi
không có!" bèn thành ra bốn điều ác (đạo,
sát, dâm, vọng). Nói đôi chiều gây nên
đấu tranh là năm điều ác. Do gây gổ nên
có chửi bới là sáu điều ác. Lời nói không
thật là bảy điều ác. Ganh ghét sự hòa
hợp của người là tám điều ác. Giận hờn đổi
sắc là chín điều ác. Lòng nghi
loạn là mười điều ác. Mười điều ác đã
đủ thì sự tổn giảm càng tăng.
Phật bảo A-nan:
- Muốn biết vua Ðại thiên lúc đó ở vào
Hiền kiếp ban đầu là ai chăng?
Chính là Ta vậy! A-nan Vua sau cùng của tám vạn bốn ngàn triều vua
tên là Nhâm, trị nước đoan chánh, chính là
Thầy vậy. Vua sau chót tên Thiện Tận bạo nghịch vô
đạo, làm
đoạn dứt dòng Thánh vương ấy, chính là Ðiều Ðạt.
A-nan! Thầy ở thời quá khứ, kế thừa sự nghiệp lành của Chuyển luân
Thánh vương Ðại Thiên, khiến ngôi vị lưu truyền không dứt, là công
đức của Thầy, đúng pháp chẳng phi pháp.
A-nan! Nay Ta là Pháp vương vô thượng,
đem pháp lành vô thượng ân cần trao phó cho Thầy. Thầy là con dòng
Thích, chớ làm người biên địa, chớ làm
hạnh đoạn chủng.
A-nan bạch Phật:
- Vì cớ gì làm hạnh đoạn chủng?
Phật bảo A-nan:
- Vua Ðại Thiên tuy làm pháp lành nhưng chưa
được lậu tận xuất thế gian, chưa được độ,
chưa được đoạn dục, chưa phá hai mươi mốt kiết sử, sáu mươi kiến chưa trừ,
ba cấu chưa sạch, chưa được thần thông, chưa được chơn đạo giải thoát,
chưa được Niết-bàn. Vua Ðại Thiên làm pháp lành, bất quá chỉ sanh
lên Phạm thiên.
A-nan! Nay Ta nói pháp vô vi là pháp Ta
được đến bờ chân thật trên cõi Trời, Người. Pháp Ta vô lậu, vô dục,
diệt độ, thần thông, giải thoát, Sa-môn chơn
thật đến Niết-bàn. A-nan! Nay Ta đem
đạo pháp Vô thượng ân cần trao phó cho Thầy, chớ làm giảm pháp của
Ta, chớ làm người biên địa. A-nan! Nếu có
hiện hạnh Thanh văn; nếu có người đoạn dứt pháp này thì
đó là người biên
địa. Nếu người hay làm hưng thạnh pháp
này là trưởng tử Phật, tức là thành tựu quyến thuộc, chớ làm hạnh diệt
dòng tộc. A-nan! Pháp của Ta đã nói ra
trước sau đều giao phó cho Thầy. Thầy nên
học điều này!
A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có bốn tội nhân lớn ở trong địa ngục.
Thế nào là bốn? Mạt-khư-lê là đại tội
nhân. Tỳ-kheo Ðế-xá là đại tội nhân,
Ðề-bà-đạt-đa là
đại tội nhân, Tỳ-kheo Cù-ba-ly là
đại tội nhân.
Tội nhân Mạt-khư-lê thân phát ra lửa dài sáu mươi khuỷu tay. Tội nhân
Ðế-xá thân phát lửa dài bốn mươi khuỷu tay. Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa
thân phát lửa dài ba mươi khuỷu tay. Tội nhân Cù-ba-ly thân phát
lửa dài hai mươi khuỷu tay.
Này Tỳ-kheo! Nên biết Mạt-khư-lê dạy vô số chúng sanh khiến làm việc tà
kiến điên
đảo, chấp có chấp không. Kẻ ngu Đế-xá làm
đoạn dứt hạt giống Thánh không còn
sót. Kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa gây rối loạn chúng
Tăng, giết Tỳ-kheo-ni đắc A-la-hán. Tội nhân Cù-ba-ly phỉ báng
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên.
Lại nữa, tội nhân Mạt-khư-lê dạy vô số chúng sanh làm tà kiến, thân
hoại mạng chung đọa vào
địa ngục Diệm Quang. Tội nhân Ðế-xá
làm đoạn dứt hạt giống Thánh không còn
sót, thân hoại mạng chung rơi vào địa ngục
Ðẳng Hại. Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa khởi
tâm mưu hại đối với Như Lai, thân hoại mạng chung rơi vào
địa ngục A-tỳ. Tội nhân Cù-ba-ly do
phỉ báng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, thân hoại mạng chung rơi vào
địa ngục Bát-đầu-ma.
Khi ấy tội nhân Mạt-khư-lê bị ngục tốt rút lưỡi, vặn cổ ra sau. Vì sao
thế? Do ngày trước dạy vô số chúng sanh khiến làm tà kiến. Ðại tội nhân
Ðế-xá bị ngục tốt mổ xẻ thân hình, đổ nước
sông nóng bắt nuốt. Vì sao cháy tiêu bụng,
đem hoàn sắt nóng bắt nuốt.Vì sao thế?
Do ông ấy đoạn dứt hạt giống Thánh
chúng. Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa bị bánh xe sắt
nóng nghiền nát thân thể, lại có chày sắt
đập trên thân, bầy voi dữ chà
đạp trên thân, lại có núi sắt nóng lớn
đè trên mặt, toàn thân bị lá
đồng nóng quấn chặt. Vì sao thế? Do
ngày trước ông ấy gây rối trong chúng, phá hòa hợp Tăng,
nên phải bị bánh xe sắt nghiến đứt
đầu. Lại, kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa xúi thái
tử làm hại phụ vương do quả báo ấy nên bị chày sắt
đập nát thân thể. Lại, kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa
cho voi uống rượu say đến hại Như Lai, do quả báo ấy bị bầy voi dữ chà
đạp thân thể. Lại, kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa
leo lên núi Kỳ-xà-quật vác đá ném
Phật, do quả báo ấy nên khiến núi sắt nóng
đè trên mặt. Kẻ ngu Ðề-bà-đạt-đa
giết Tỳ-kheo-ni đắc A-la-hán, do quả báo ấy nên lá
đồng nóng quấn thân. Tỳ-kheo nên biết,
tội nhân Cù-ba-ly ở trong địa ngục Liên
Hoa, có một ngàn trâu kéo cày trên lưỡi. Vì sao thế? Vì
đã phỉ báng Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên, do quả báo này có một ngàn trâu kéo cày nát lưỡi.
Lại tội nhân Mạt-khư-lê, thân phát ra lửa dài sáu mươi khuỷu tay. Nếu
có chúng sanh khởi lên ý niệm này: "Ta có thể cứu tế làm lợi ích người
này" mà lấy nước bốn biển cao bốn mươi khuỷu tay rưới trên thân người ấy
thì sau đó nước biển liền cạn hết mà
lửa không giảm. Cũng như một chiếc lá sắc bị thiêu
đốt đã bốn ngày, có người dùng bốn
giọt nước rưới lên, nước lập tức rút mất. Ðây cũng như thế, nếu có người
đem nước bốn biển lớn rưới lên thân
tội nhân, muốn cho được an lạc thì rốt
cuộc không kết quả. Vì sao thế? Vì tội kẻ ấy quá sâu nặng.
Tội nhân Ðế-xá thân phát ra lửa dài bốn mươi khuỷu tay. Giả sử có chúng
sanh thương xót người này, đem nước trong ba
biển lớn rưới trên thân thì nước biển liền khô cạn, lửa không tắt,
cũng như người rưới ba giọt nước lên sắt nóng, nước liền cạn khô không
đọng lại. Ðây cũng lại như vậy, nếu
đem nước của ba biển lớn rưới trên
thân Ðế-xá, nước liền cạn mất mà lửa vẫn y nhiên.
Tội nhân Ðề-bà-đạt-đa thân phát ra lửa dài
ba mươi khủy tay. Nếu có chúng sanh khởi lòng thương xót, muốn làm cho
Ðề-bà-đạt-đa được an ổn lâu dài,
đem nước của hai biển lớn rưới trên
thân ông ta thì nước liền cạn mất, lửa không tắt. Cũng như rưới hai giọt
nước trên lá sắt nóng, trọn không kết quả. Với tội nhân Ðề-bà-đạt-đa
cũng lại như thế, đem nước của hai biển lớn rưới trên thân, nước
liền rút mất còn lửa không giảm. Thân thể của Ðề-bà-đạt-đa
khổ đau như thế.
Tội nhân Cù-ba-ly thân phát ra lửa dài hai mươi khuỷu tay. Nếu có chúng
sanh thương xót người này, đem nước một biển
lớn rưới lên thân thì nước biển kia liền rút mà lửa vẫn cháy. Cũng
như rưới một giọt nước lên lá sắt nóng, nược cạn khô không
đọng lại. Với tội nhân Cù-ba-ly cũng
lại như vậy, do tội báo lôi kéo nên chịu tội như vậy.
Các Tỳ-kheo! Bốn hạng người này thọ tội rất nặng, các Thầy nên hết lòng
xa lìa sự khổ hoạn này, tuân theo các bậc Hiền Thánh tu Phạm hạnh. Như
thế, này các Tỳ-kheo nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta biết rõ về địa ngục, cũng biết
con đường dẫn đến địa ngục, cũng biết cội gốc của chúng sanh trong địa
ngục ấy. Nếu có chúng sanh làm các hạnh ác không lành thì thân hoại
mệnh chung rơi vào địa ngục. Ta cũng biết
điều này.
Lại này các Tỳ-kheo! Ta cũng biết rõ về súc sanh, cũng biết con
đường dẫn đến súc sanh, cũng biết cội gốc của
súc sanh kẻ làm các hạnh ác sanh trong ấy, Ta cũng
đều biết rõ.
Ta cũng biết con đường ngạ quỷ, có người làm
các điều ác sanh trong ngạ quỷ, Ta cũng biết
điều đó.
Nay Ta cũng biết con đường cõi
Người, dẫn đến loài Người. Có chúng
sanh được thân Người, Ta cũng biết.
Ta cũng biết con đường dẫn đến cõi
Trời, có chúng sanh làm các cội đức lành
sanh lên cõi Trời, Ta cũng biết điều đó.
Ta cũng biết đường dẫn đến Niết-bàn.
Có chúng sanh chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ
giải thoát, ở trong pháp hiện tại được chứng
quả, Ta cũng biết điều đó.
Tỳ-kheo nên biết! Ta biết đường dẫn đến
địa ngục. Do nhân duyên gì mà Ta nói lời này?
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta quán sát tâm ý chúng sanh, biết rằng người này thân hoại mạng
chung phải đọa địa ngục. Sau đó, Ta thấy
người này đã vào
địa ngục, chịu khổ não
đau đớn khảo tra vô số, lo buồn khổ não
không thể tính kể. Cũng như có một hầm lửa lớn không có bụi khói, giả sử
có người đi trên chỗ ấy lại có người
có mắt quán sát lối đi của người kia, biết
chắc sẽ rơi vào lửa không sai, và sau
đó thấy người này rớt vào hầm lửa. Ta nói rằng người này
đã rơi vào hầm lửa. Nay Ta quán sát
tâm ý nghĩ nhớ của chúng sanh, biết chắc chắn chúng sanh ấy sẽ rơi vào
địa ngục không nghi. Sau đó, Ta quán sát
người này, nhất định vào
địa ngục chịu khổ cay đắng không thể tính kể.
Vì sao người ấy rơi vào địa ngục?
Ðó là xem xét chúng sanh thú hướng địa
ngục, làm các hạnh ác, nghiệp chẳng lành, thân hoại mạng chung rơi
vào địa ngục, Ta đều biết rõ. Ðiều Ta
nói chính là điều này.
Ta biết con đường súc sanh, cũng biết
đường dẫn đến súc sanh. Do cội gốc nhân duyên nào mà nói như thế? Ở
đây, này các Tỳ-kheo, Ta quán sát ý
niệm trong tâm chúng sanh, biết người này thân hoại mạng chung sanh vào
trong lúc sanh. Sau đó, Ta thấy người ấy đã
sanh vào đường súc sanh, lo buồn khổ não
không thể tính kể. Vì sao người này rơi vào súc sanh? Cũng như làng xóm có
một hầm xí đầy phần tiểu, giả sử có người đi
qua chỗ đó, người có mắt nhìn thấy người
đi qua nơi ấy, biết người này không
bao lâu sẽ rơi vào hầm ấy, biết người này không bao lâu sẽ rơi vào hầm xí.
Sau đó thấy người ấy đã rơi vào hầm
xí. Nay Ta quán sát chúng sanh cũng lại như thế, biết người này mạng chung
phải đọa vào súc sanh, sau
đó lại thấy đã sanh trong súc sanh
chịu khổ vô lượng. Nay Ta quán sát chúng sanh trong súc sanh thảy
đều rõ ràng. Ðiều Ta nói chính là
điều này.
Ta cũng biết chúng sanh trong đường ngạ
quỷ, con đường hướng ngạ quỷ.
Ai thân hoại mạng chung sanh vào ngạ quỷ, Ta cũng biết. Có chúng sanh thân
hoại mạng chung hướng về đường ngạ quỷ, Ta
đều biết rõ. Thời gian sau, Ta cũng thấy chúng sanh ấy
đã vào
đường ngạ quỷ chịu khổ thọ lạc thọ. Vì sao người này lại rơi vào
đường ngạ quỷ? Ví như bên cạnh làng
xóm lớn có một đại thọ, ở chỗ nguy hiểm cành
nhánh rớt gãy, giả sử có người đi qua nơi đó,
người có mắt xa thấy người ấy, biết đi
qua nơi đó, người có mắt xa thấy người ấy, biết đi qua chỗ đại thọ không
nghi, sau lại thấy người này hoặc ngồi hoặc nằm chỗ gốc ấy, chịu
báo khổ vui. Tại sao người này lại đến nằm
ngồi dưới cây? Nay Ta quán sát các loài chúng sanh cũng lại như
vậy, thân hoại mạng chung ắt đến ngạ quỷ
không nghi, thọ báo khổ lạc không thể tính kể. Ta biết ngạ quỷ và
con đường dẫn đến ngạ quỷ, Ta đều biết rõ
ràng. Ðiều Ta nói chính là điều này.
Ta biết cõi Người, cũng biết con đường
dẫn đến cõi Người. Có người hành
động thân hoại mạng chung sanh trong cõi
Người, Ta cũng biết đó. Ở đây, này
Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh. Nguời này chắc chắn khi
thân hoại mạng chung sẽ sanh vào loài Người. Sau
đó, Ta lại thấy người ấy đã sanh trong
loài Người. Vì sao người này sanh trong loài Người? Cũng như bên xóm làng
có một cây lớn, ở chỗ bằng phẳng nhiều bóng mát. Có người
đi thẳng
đến đó. Người có mắt thấy rồi liền biết rằng, hướng đi của người này
ắt đến cây lớn không nghi. Sau đó, Ta thấy
người này đã
đến cây lớn hưởng vui vô lượng. Vì sao
người này đến được chỗ ấy? Ðây cũng
như thế. Ta quán sát tâm chúng sanh trong loài Người không nghi. Thời gian
sau Ta lại thấy người này đã sanh
trong loài người được vui vô lượng. Ta biết cõi
Người, cũng biết con đường làm người,
nay sanh cõi Người Ta cũng biết. Ðiều Ta nói chính là
điều này.
Ta cũng biết cõi Trời, biết con đường dẫn
đến cõi Trời. Có chúng sanh tạo công
đức sanh cõi Trời, Ta cũng biết. Do nhân duyên gì mà nói như thế?
Nay Ta quán sát ý niệm trong tâm của các loài chúng sanh. Người này khi
thân hoại mạng chung chắc chắn sẽ sanh cõi lành, cõi Trời. Sau
đó Ta thấy người ấy thân hoại mạng chung sanh
cõi lành trên trời, ở đó hưởng phước
tự nhiên vui sướng không thể sánh. Ðó gọi là người ấy
đã sanh cõi Trời, ở
đó hưởng phước tự nhiên vui sướng
không thể bì. Cũng như bên xóm làng có một giảng
đường cao rộng đẹp đẽ, chạm trổ hình
ảnh, treo các phan lọng, nước thơm rưới đất,
trải các tòa ngồi tốt đẹp, đệm gấm,
thảm thêu mịn màng. Nếu có người thẳng một
đường đi đến, người có mắt thấy hướng
đi, biết người này chắc chắn sẽ
đến giảng đường cao rộng ấy, không nghi. Sau
đó, lại thấy người này đã
đến giảng đường, hoặc ngồi hoặc nằm, ở trong
đó hưởng phước vui sướng không thể sánh.
Đây cũng như thế, nay Ta quán sát các
loại chúng sanh thân hoại mạng chung sẽ sanh cõi Trời, ở nơi
đó hưởng khoái lạc không thể tính kể. Vì
sao người ấy sanh lên cõi Trời, ở nơi đó
hưởng khoái lạc không thể tính kể. Vì sao người ấy sanh lên cõi
lành trên Trời? Ta biết cõi Trời và con đường
dẫn đến cõi Trời. Điều Ta nói
chính là điều này.
Nay Ta biết Niết-bàn, cũng biết con đường
Niết-bàn, cũng biết chúng sanh sẽ nhập Niết-bàn. Hoặc có chúng sanh
chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát,
hiện thân thủ chứng mà tự du hóa, Ta đều biết
rõ. Do nhân duyên gì mà nói như thế? Ở
đây, này Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh duyên gì
mà nói như thế? Ở đây, này Tỳ-kheo! Ta
quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh. Người này chấm dứt hữu lậu, thành
tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát. Ðó gọi là người này
đã chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu.
Cũng như cách làng xóm không xa, có một ao lớn nước trong mát, nếu có
người thẳng một đường đến đó. Người có mắt xa
thấy người ấy đến, biết người này chắc chắn sẽ
đến ao nước không nghi. Lại sau đó, thấy
người ấy đã đến ao nước tắm gội,
trừ bỏ các thứ dơ bẩn, bụi bặm, ngồi một bên, cũng không tranh cãi
với người. Nay Ta quán sát chúng sanh cũng lại như thế, chấm dứt hữu lậu,
thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, sanh tử
đã dứt, Phạm hạnh
đã lập, việc phải làm
đã làm xong, biết như thật về danh
sắc. Ðó gọi là người ấy đã
đến nơi. Ta biết con đường Niết-bàn,
cũng biết chúng sanh nhập Niết-bàn, thảy đều
biết rõ.
Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác có trí này, sức vô úy
đầy đủ, thảy đều thành tựu
đầy đủ. Trí của Như Lai không hạn lượng, Như
Lai có thể quán sát sự việc ở quá khứ không hạn lượng, không thể tính,
thảy đều biết rõ, việc tương lai, hiện tại không hạn lượng, thảy
đều phân biệt.
Cho nên, này Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện
để thành tựu đầy đủ mười sức vô úy.
Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều
này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm:
*
7. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nương nơi núi Tuyết có đại thọ rất to
lớn, năm thứ rộng lớn. Thế nào là năm?
Gốc rất vững chắc, vỏ rất dày, cành nhánh dài xa, bóng mát che
trùm, lá rậm rạp. Các Tỳ-kheo! Ðó là trên núi Tuyết có cây to lớn này rất
xanh tốt.
Nay thiện nam tử, thiện nữ nhơn cũng lại như thế, nương nhà hào tộc
được năm việc tăng trưởng lợi ích. Thế
nào là năm? Là tăng
trưởng lợi ích về tín, tăng trưởng lợi ích về giới, tăng trưởng lợi ích về
văn, tăng trưởng lợi ích về thí, tăng trưởng lợi ích về tuệ.
Tỳ-kheo! Ðó gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhơn nương nơi nhà hào tộc,
thành tựu được năm việc này. Cho nên,
Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thành tựu về tín, giới, văn,
thí, tuệ.
Thế Tôn liền nói kệ:
Cũng như cây núi tuyết,
Thành tựu năm công đức,
Gốc, vỏ, nhánh dày rộng,
Bóng mát, lá râm rạp,
Thiện nam tử tín tâm,
Thành tựu năm công đức,
Tín, giới,văn, bố thí,
Trí tuệ cùng tăng trưởng.
Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Mậu-la-phá-quần cùng các Tỳ-kheo-ni
đi dạo chơi, các Tỳ-kheo-ni cũng thích cùng
dạo chơi với Thầy. Có dân chúng cơ hiềm về Tỳ-kheo Mậu-la-phá-quần, khi ấy
các Tỳ-kheo-ni rất giận tức buồn lo không vui. Nếu lại có người hủy nhục
các Tỳ-kheo-ni, lúc ấy, Tỳ-kheo Phá-quần cũng lo buồn không vui. Bấy giờ
có nhiều Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo Phá-quần:
- Nay vì sao Thầy lại thân cận với các Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni cũng
giao tiếp với Thầy?
Phá-quần đáp:
- Nay tôi hiểu rõ lời dạy của Như Lai, ai phạm giới dâm tội rất ít.
Các Tỳ-kheo lại bảo:
- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Chớ nói lời ấy, chớ phỉ báng lời dạy của Như
Lai. Người phỉ báng lời dạy của Như Lai, tội không ít. Lại nữa, Thế Tôn
dùng vô số phương tiện nói về sự ô uế của dâm dục. Người nào tập theo dâm
dục mà không tội, trọn không có lý. Nay Thầy nên bỏ ác kiến này, sẽ bị khổ
lâu dài, vô lượng.
Nhưng tỳ-kheo Phá-quần, cứ giao thiệp với các Tỳ-kheo-ni, không sửa
đổi. Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo đi đến chỗ Thế
Tôn, cúi lạy và bạch:
- Trong thành Xá-vệ có một Tỳ-kheo tên Phá-quần, giao tiếp với các
Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni cũng giao tiếp qua lại với Tỳ-kheo Phá-quần.
Chúng con đến đó khuyên dụ sửa
đổi hành
động, song hai người ấy còn tăng thêm,
không bỏ kiến pháp điên
đảo, cũng không thuận theo Chánh pháp.
Bấy giờ, Phật bảo một Tỳ-kheo:
- Thầy hãy đến chỗ Tỳ-kheo Phá-quần nói
rằng Như Lai gọi:
Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền đến chỗ
Tỳ-kheo Phá-quần nói:
- Thầy nên biết Như Lai gọi.
Tỳ-kheo Phá-quần nghe lời Thầy Tỳ-kheo nọ, liền
đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một bên.
Thế Tôn hỏi:
- Có thật Thầy thân cận với các Tỳ-kheo-ni không?
Tỳ-kheo Phá-quần thưa:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Phật bảo:
- Thầy là Tỳ-kheo, vì sao lại giao thiệp với Tỳ-kheo-ni? Thầy này là
dòng dõi hào tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc ba y, có phải do lòng tin vững chắc
xuất gia học đạo chăng?
Phá-quần bạch Phật:
- Thưa vâng, Thế Tôn! Con nhà hào tộc, do lòng tin vững chắc xuất gia
học đạo.
Phật bảo:
- Chẳng phải là pháp của Thầy, tại sao lại giao thiệp với Tỳ-kheo-ni?
Phá-quần bạch Phật:
- Con nghe Như Lai dạy rằng người nào làm theo hạnh dâm, tội ấy không
đáng kể.
Phật bảo:
- Thầy là người ngu. Vì sao nói Như Lai dạy rằng theo dâm dục không
tội? Ta dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục. Nay tại sao Thầy
nói lời này: "Như Lai nói dâm dục không tội". Thầy nên khéo giữ miệng,
đừng để mang tội báo lâu dài.
Phật bảo:
- Nay Thầy hãy chờ, Ta sẽ hỏi lại các Tỳ-kheo: Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy có nghe Ta dạy các Tỳ-kheo rằng dâm dục không tội chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Thưa Thế Tôn! Không nghe Như Lai nói dâm dục không tội. Vì sao thế?
Như Lai dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục. Nếu nói không
tội, việc ấy không đúng.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Lành thay, lành thay, các Tỳ-kheo! Như các Thầy nói, Ta dùng vô số
phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục.
Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
- Các Thầy nên biết! Nếu có người ngu tụng tập theo pháp hành như là
Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Thí dụ, Bốn sanh, Phương
đẳng, Vị Tằng hữu, Tự thuyết, Luận nghị. Tuy
tụng tập pháp ấy mà không hiểu nghĩa lý. Do không quán sát nghĩa lý
cũng không thuận theo pháp ấy nên pháp đáng
tuân theo lại không theo. Sở dĩ tụng pháp ấy chỉ buông lung muốn
cạnh tranh cùng người, ý toan tính hơn thua, cũng không tự mình
được lợi ích. Người ấy tụng pháp rồi ắt phạm
cấm chế. Cũng như có người ra khỏi làng, muốn tìm bắt rắn
độc. Khi thấy rắn to lớn đến nơi người ấy dùng
tay trái nắm đuôi rắn, rắn bèn quay
đầu mổ vào tay, do nhân duyên này mà
người ấy mạng chung. Ðây cũng như thế, có người ngu tụng tập kinh pháp,
mười hai bộ kinh đều biết, lại không quán sát
nghĩa lý các kinh. Vì sao thế? Vì không biết rốt ráo nghĩa của
Chánh pháp.
Có thiện nam tử, giữ gìn tụng tập kinh pháp như Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ
ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Thí dụ, Bốn sanh, Phương
đẳng, Vị tằng hữu, Tự thuyết, Luận nghị.
Người ấy tụng đọc rồi, lại hiểu sâu ý nghĩa; do hiểu sâu ý nghĩa kinh
pháp, thuận theo lời dạy không sai trái. Sở dĩ tụng đọc thì không
đem tâm hơn thua, cạnh tranh với người khác mà
tụng đọc kinh pháp là muốn tự mình tu
có lợi ích. Sở dĩ tụng đọc kinh pháp muốn đạt
kết quả bổn nguyện. Do nhân duyên này, dần dần
đến Niết-bàn. Cũng như có người ra
khỏi làng xóm kia, muốn bắt rắn độc. Người ấy
thấy rằn rồi, tay cầm kềm sắt trước tiên kẹp
đầu rắn, sau mới nắm chắc cổ rắn,
không cho nhúc nhích. Nếu như rắn độc quay
đuôi muốn hại người ấy thì trọn không thể
được. Vì sao thế? Tỳ-kheo! Vì do người
ấy nắm cổ rắn. Thiện nam tử này cũng lại như vậy, tụng
đọc khắp các kinh pháp, quán sát ý nghĩa,
thuận theo kinh pháp, trọn không sai trái, do nhân duyên này, dần
dần được Niết-bàn. Vì sao thế? Do
người kia giữ gìn Chánh pháp vậy.
Cho nên, này các Tỳ-kheo! Người nào hiểu ý nghĩa của Ta nói, nên ghi
nhớ vâng làm, ai không hiểu nên trở lại hỏi Ta. Như Lai còn
đang hiện tiền, để sau hối hận vô ích.
Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu có Tỳ-kheo ở trong đại chúng nói lời
thế này: "Giới cấm Như Lai đã
nói ra, tôi thảy đều biết rõ, ai tập
theo dâm dục tội không đáng kể". Các Tỳ-kheo
nên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: "Thôi, thôi! Chớ nói lời ấy. Chớ phỉ
báng Như Lai mà nói năng như thế này.
Như Lai trọn không nói lời ấy". Nếu Tỳ-kheo ấy sửa
đổi thì tốt, nếu không sửa
đổi sẽ bị đọa. Nếu có Tỳ-kheo che giấu việc này
không phát lộ ra, mọi người đều đọa.
Này các Tỳ-kheo! Ðó là cấm giới của Ta.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
9. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,
vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn,
cùng hỏi thăm và lui ngồi một
bên. Phạm chí Sanh Lậu bạch Phật:
- Có bao nhiêu kiếp quá khứ?
Phật bảo Phạm chí:
- Các kiếp ở quá khứ không thể tính kể.
Phạm chí bạch Phật:
- Có thể tính kể số ấy chăng? Sa-môn Cù-đàm
thường nói về ba đời. Thế nào là ba?
Là quá khứ, hiện tại, tương lai. Sa-môn Cù-đàm
cũng biết về các đời quá khứ, tương
lai, hiện tại. Cúi xin Sa-môn diễn nói về ý nghĩa kiếp số.
Phật bảo Phạm chí:
- Nếu Ta nói về kiếp này, lại tiếp theo kiếp này thì Ta diệt
độ. Ông cũng mạng chung mà vẫn không
biết ý nghĩa của kiếp số. Vì sao thế? Ngày nay thọ mạng của người ngắn
ngủi, sống lâu tột cùng không hơn trăm tuổi.
Tính số kiếp trong trăm năm ấy, thì Ta diệt
độ, Ông đã mạng chung, trọn không biết
được nghĩa của kiếp số.
Phạm chí nên biết! Như Lai cũng có trí này, biết hết, phân biệt
đầy đủ về kiếp số, thọ mạng chúng sanh dài
ngắn, hưởng sự khổ vui, thảy đều rành
rẽ. Nay Ta sẽ nêu thí dụ cho Ông, người có trí do thí dụ mà hiểu. Cũng như
số cát sông Hằng, cũng không giới hạn, không lường, không thể tính toán;
số của kiếp quá khứ như thế, không thể tính kể, không hạn lượng.
Phạm chí bạch Phật:
- Có bao nhiêu kiếp số về tương lai?
Phật bảo Phạm chí:
- Cũng như số cát sông Hằng không có bờ mé, không thể tính kể, chẳng
toán số nào theo kịp
Phạm chí lại hỏi Phật:
- Có kiếp hiện tại, kiếp thành, kiếp hoại chăng?
Phật bảo Phạm chí:
- Có kiếp thành, kiếp hoại, chẳng phải là một kiếp, trăm
kiếp. Cũng như cái chén để ở chỗ gập ghềnh không an toàn, nếu có
đứng yên cũng bị chao
động. Các thế giới phương vức cũng bị chao
động, hoặc có kiếp thành, hoặc có kiếp hoại, Số ấy cũng không thể
tính kể là bao nhiêu kiếp thành, là bao nhiêu kiếp hoại. Vì sao như thế?
Vì sanh tử dài xa không có giới hạn, chúng sanh do vô minh
đan kết ngăn che, trôi nổi từ
đời này sang
đời sau, từ đời trước đến đời này,
chịu khổ não lâu dài. Nên chán ngán hoạn này, xa lìa khổ não này. Cho nên,
Phạm chí, nên học như thế.
Phạm chí Sanh Lậu bạch Phật:
- Sa-môn Cù-đàm thật kỳ
đặc, biết ý nghĩa của số kiếp quá khứ, hiện
tại, tương lai. Nay con tự quy y Sa-môn Cù-đàm,
cúi xin Sa-môn Cù-đàm nhận con làm
Ưu-bà-tắc, suốt đời không sát sanh ... không
uống rượu.
Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
10. Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ờ Thành La-duyệt, núi Kỳ-xà-quật, cùng chúng
đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.
Khi ấy, có một Tỳ-kheo bạch Phật:
- Kiếp số có bờ mé chăng?
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Có phương tiện dẫn dụ, nhưng kiếp số không cùng tận. Về quá khứ lâu
xa trong Hiền kiếp này, có đức Phật ra đời
hiệu Câu-lưu-tôn, Chí Chơn Ðẳng Chánh giác. Bấy giờ núi Kỳ-xà-quật
này có tánh hiệu, lúc đó nhân dân trong thành
La-duyệt, leo lên núi Kỳ-xà-quật này, bốn ngày bốn
đêm mới tới
đỉnh.
Lại nữa, này Tỳ-kheo! Vào thời đức Phật
Câu-na-hàm-nâu-ni, núi Kỳ-xà-quật này cũng có tánh hiệu. Khi ấy,
nhân dân trong thành La-duyệt leo ba ngày ba
đêm tới đỉnh núi.
Ðức Như Lai Ca-diếp xuất hiện ở đời, núi
Kỳ-xà-quật này cũng có tánh hiệu. Khi ấy nhân dân trong thành
La-duyệt leo hai ngày hai đêm tới
đỉnh.
Như Ta ngày nay, Phật Thích-ca Văn xuất
hiện ở đời, núi này tên Kỳ-xà-quật, trong khoảnh khắc lên tới
đỉnh núi.
Nếu Phật Di-lặc ra đời, núi này
cũng tên là Kỳ-xà-quật. Vì sao thế? Vì thần lực của chư Phật khiến núi này
tồn tại.
Tỳ-kheo, nên do phương tiện này biết, kiếp số suy tận không thể tính
kể. Kiếp có hai thứ, đại kiếp và tiểu
kiếp. Nếu trong kiếp ấy không có Phật ra đời,
bấy giờ có Bích-chi Phật ra đời, đó là tiểu kiếp. Nếu Như Lai xuất
hiện ở kiếp nào, kiếp đó không có Bích-chi
Phật xuất hiện, đây gọi là đại kiếp.
Tỳ-kheo! Do phương tiện này biết là kiếp số lâu dài không thể tính kể.
Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên nhớ ý nghĩa của kiếp số này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-ooOoo-