CHƯƠNG BẢY
BẢY PHÁP
I. Phẩm Tài Sản
(I) (1) Ðược Ái Mộ (1)
1.
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvathì, Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, không được khả ý,
không được kính trọng, không được bắt chước tu tập theo. Thế nào là bảy?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ưa muốn lợi dưỡng, ưa muốn tôn kính, ưa muốn được tán thán,
không xấu hổ, không sợ hãi, ác dục và tà kiến.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng
Phạm hạnh ái mộ, không được khả ý, không được kính trọng, không được bắt
chước tu tập theo.
4. Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, được khả ý, được kính
trọng, được bắt chước tu tập theo. Thế nào là bảy?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không ưa muốn lợi dưỡng, không ưa muốn tôn kính, không ưa muốn được tán
thán, có xấu hổ, có sợ hãi, ít dục và chánh kiến.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm
hạnh ái mộ, được khả ý, được kính trọng, được bắt chước tu tập theo.
(II) (2) Ðược Ái Mộ(2)
... (như kinh 1, thay hai pháp cuối với "tật đố và xan tham" và với
"không tật đố, không xan tham").
(III) (3) Các Sức Mạnh Tóm Tắt
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy sức
mạnh này. Thế nào là bảy?
2. Tín lực, tấn lực, tàm lực, quý
lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Này các Tỷ-kheo, có bảy sức mạnh này.
Tín lực và tấn lực,
Tàm lực và quý lực,
Niệm lực và định lực,
Tuệ là lực thứ bảy,
Và tuệ lực thứ bảy;
Tỷ-kheo với lực này,
Sống hiền trí an lạc,
Như lý suy tư pháp,
Quán rõ đích trí tuệ,
Như ngọn lửa tàn diệt,
Với tâm được giải thoát.
(IV) (4) Các Sức Mạnh rộng Thuyết
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy sức
mạnh này. Thế nào là bảy?
2. Tín lực, tấn lực, tàm lực, quý
lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín lực?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn". Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là tín lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tấn lực?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử sống tinh cần tinh tấn để đoạn tận các pháp bất thiện, làm sanh khởi
các pháp thiện, nỗ lực, kiên trì, không có bỏ rơi gánh nặng đối với các
pháp thiện. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tấn lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tàm lực?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có lòng xấu hổ, xấu hổ với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, xấu
hổ vì đã thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
tàm lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là quý lực?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có lòng sợ hãi, sợ hãi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ sợ
hãi vì thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là quý
lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm lực?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử đầy đủ niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng, ức nhớ, tùy niệm những
điều làm đã lâu, nói đã lâu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định lực?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử ly dục, ly các pháp ác bất thiện... chứng đạt và an trú vào sơ Thiền,
... Thiền thứ hai ... Thiền thứ ba ... Thiền thứ tư. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là định lực.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ lực?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có trí tuệ, có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết
trạch) đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
tuệ lực.
Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là bảy pháp.
Tín lực và tấn lực,
Tàm lực và quý lực,
Niệm lực và định lực,
Và tuệ lực thứ bảy;
Tỷ-kheo với lực này,
Sống hiền trí an lạc,
Như lý suy tư pháp,
Quán rõ đích trí tuệ,
Như ngọn lửa tàn diệt,
Với tâm được giải thoát.
(V) (5) Các Tài Sản Tóm Tắt
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy tài sản
này. Thế nào là bảy?
2. Tín tài, giới tài, tàm tài, quý
tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.
Này các Tỷ-kheo, đây là bảy tài sản.
Tín tài và giới tài,
Tàm tài và quý tài,
Văn tài và quý tài,
Và tuệ là tài thứ bảy;
Ai có những tài này,
Nữ nhân hay nam nhân,
Ðược gọi không nghèo khổ,
Mạng sống không trống rỗng,
Do vậy tín và giới,
Tịnh tín và thấy pháp,
Bậc trí chuyên chú tâm,
ức niệm lời Phật dạy.
(VI) (6) Các Tài Sản Rộng Thuyết
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy tài sản
này. Thế nào là bảy?
2. Tín tài, giới tài, tàm tài, quý
tài, văn tài, thí tài, tuệ tài. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín tài?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tín tài.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là giới tài?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử từ bỏ sát sanh... từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là giới tài.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tàm tài?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có xấu hổ, xấu hổ đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, xấu
hổ vì đã thành tựu các pháp các, bất thiện. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
tàm tài.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là quý tài?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có lòng sợ hãi, sợ hãi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ sợ
hãi vì thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là quý
tài.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là văn tài?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử nghe nhiều, gìn giữ những gì đã nghe, chất chứa những gì đã nghe,
những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, đề
cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; những pháp ấy, vị ấy
nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ tụng đọc nhiều lần, chuyên ý quán
sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là văn tài.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thí tài?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử với tâm từ bỏ cấu uế của xan tham, sống tại gia phóng xả, với bàn tay
rộng mở, ưa thích xả bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thích san sẻ vật
bố thí. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thí tài.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ tài?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử có trí tuệ, có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết
trạch) đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
tuệ tài.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là bảy tài sản.
Tín tài và giới tài,
Tàm tài và quý tài,
Văn tài và thí tài,
Và tuệ, tài thứ bảy;
Ai có những tài này,
Nữ nhân hay nam nhân,
Ðược gọi không nghèo khổ,
Mạng sống không trống rỗng,
Do vậy tín và giới,
Tịnh tín và thấy pháp,
Bậc trí chuyên chú tâm,
ức niệm lời Phật dạy.
(VII)
(7) Ugga
1. Bấy giờ Ugga, vị Ðại thần của vua
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Ugga, vị đại thần của vua, bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Giàu có đến như vậy, đại phú đến như vậy, tài sản nhiều đến như vậy,
bạch Thế Tôn, là Migàra Rohaneyyo!
- Này Ugga, Migàra Rohaneyyo giàu có đến mức nào, đại phú đến mức
nào, tài sản nhiều đến mức nào?
- Bạch Thế Tôn, về vàng có đến trăm ngàn, còn nói gì về bạc!
- Này Ugga, đây có thể là tài sản chăng? Không phải Ta nói rằng đây
không phải là tài sản. Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua
chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch. Bảy tài sản này, này Ugga không
bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Thế
nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ
tài. Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, vua chúa, ăn
trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối.
Tín tài và giới tài,
Tàm tài và quý tài,
Văn tài và thí tài,
Và tuệ tài thứ bảy;
Ai có tài sản này,
Nữ nhân hay nam nhân,
Người ấy là đại phú
Thiên nhân giới khó thắng
Do vậy tín và giới,
Tịnh tín và thấy pháp,
Bậc trí chuyên chú tâm,
ức niệm lời Phật dạy.
(VIII) (8) Các Kiết Sử
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy kiết sử
này. Thế nào là bảy?
2. Tùy tham kiết sử, sân kiết sử,
kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử, vô minh kiết
sử. Này các Tỷ-kheo có bảy kiết sử này.
(IX) (9) Ðoạn Tận
1. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận, do
cắt đứt bảy kiết sử, Phạm hạnh được sống. Thế nào là bảy?
2. Do đoạn tận, cắt đứt tùy tham
kiết sử, Phạm hạnh được sống... sân kiết sử... kiến thiết sử... nghi
kiết sử... mạn kiết sử... hữu tham kiết sử... do đoạn tận, do cắt đứt vô
minh kiết sử, Phạm hạnh được sống.
Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận, cắt đứt bảy kiết sử này, Phạm hạnh được
sống. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đã đoạn tận tùy tham kiết sử,
cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây sà la, làm cho không thể tái
sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, này các Tỷ-kheo, đây
gọi là Tỷ-kheo đã chặt đứt khát ái, đã giải tỏa kiết sử, và chơn chánh
hiện quán kiêu mạn, đã đoạn tận khổ đau.
(X)
(10) Xan Tham
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy kiết sử
này. Thế nào là bảy?
2. Tùy tham kiết sử, sân kiết sử,
kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, tật đố kiết sử, xan tham kiết
sử. Này các Tỷ-kheo, có bảy kiết sử này.
II. Phẩm Tùy Miên
(I)
(11) Tùy Miên(1)
1.
- Này các Tỷ-kheo, có bảy tùy niệm. Thế
nào là bảy?
2. Dục tham tùy miên, sân tùy miên,
kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh
tùy miên. Này các Tỷ-kheo, có bảy tùy miên này.
(II)
(12) Tùy Miên (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận,
do cắt đứt bảy tùy miên, Phạm hạnh được sống. Thế nào là bảy?
2. Do đoạn tận, do cắt đứt dục tham
tùy miên, Phạm hạnh được sống... sân tùy miên... kiến tùy miên.. nghi
tùy miên... mạn tùy miên... hữu tham tùy miên... do đoạn tận, do cắt đứt
vô minh tùy miên, Phạm hạnh được sống.
3. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận, cắt
đứt bảy tùy miên này, Phạm hạnh được sống. Này các Tỷ-kheo, khi nào
Tỷ-kheo nào đoạn tận dục tham tùy miên... vô minh tùy miên, cắt đứt tận
gốc rễ, làm cho như thân cây sàla, làm cho không thể tái sanh, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo
đã chặt đứt khát ái, đã giải tỏa tùy miên, với chơn chánh hiện quán
kiêu mạn, đã đoạn tận khổ đau.
(III)
(13) Gia Ðình
1. - Này các Tỷ-kheo, gia đình nào
thành tựu bảy chi phần; nếu chưa đến thăm, thời không xứng đáng để đi
đến, nếu đã đến thăm, thời không xứng đáng để ngồi xuống. Thế nào là
bảy?
2. Không vui vẻ đứng dậy, không vui
vẻ chào đón, không vui vẻ mời ngồi; có chỗ ngồi đem giấu đi; từ nhiều họ
chí ít, từ đồ thù thắng, họ cho đồ thô xấu; họ cho không có kính trọng,
không có kính lễ.
Này các Tỷ-kheo, gia đình nào thành tựu bảy chi phần này; nếu chưa
đến, thời không xứng đáng để đến; nếu đã đến, thời không xứng đáng để
ngồi xuống.
(IV) (14) Các Hạng Người
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy hạng
người đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường,
đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bảy?
2. Câu phần giải thoát, tuệ giải
thoát, thân chứng kiến, kiến chí, tín giải thoát, tùy pháp hành, tùy tín
hành.
Bảy hạng người này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng được
tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô
thượng ở đời.
(V) (15) Ví Dụ Nước
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy hạng
người được ví dụ với nước, có mặt hiện hữu ở đời. Thế pháp là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người lặn một lần rồi chìm luôn; ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
sau khi nổi lên, lại chìm xuống; ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
sau khi nổi lên, được đứng lại; ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
sau khi nổi lên, lại nhìn và thấy; ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
sau khi nổi lên lại bơi tới; ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người sau
khi nổi lên, đạt được chỗ có chân đứng; ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người sau khi nổi lên, sau khi bơi qua đến được bờ bên kia, lên đứng
trên đất liền, là một vị Bà-la-môn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người, lặn một lần rồi chìm luôn?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người hoàn toàn thành tựu với các pháp đen, bất thiện. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là hạng người lặn một lần rồi chìm luôn. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là hạng người sau khi nổi lên lại chìm xuống?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người nổi lên và suy nghĩ: "Lành thay, lòng tin trong các thiện pháp!
Lành thay, lòng xấu hổ... Lành thay, lòng sợ hãi... Lành thay, sự tinh
tấn... Lành thay, trí tuệ trong các thiện pháp!" Lòng tin ấy của vị đo
không an trú, không tăng trưởng, bị giảm thiểu. Lòng xấu hổ đó của vị
ấy... lòng sợ hãi đó của vị ấy... sự tinh tấn đó của vị ấy... Trí tuệ đó
của vị ấy không an trú, không tăng trưởng, bị giảm thiểu. Như vậy, này
các Tỷ-kheo là hạng người sau khi nổi lên, lại chìm xuống.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sau khi nổi lên, được đứng
lại?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người nổi lên và suy nghĩ như sau: "Lành thay, lòng tin trong các thiện
pháp! Lành thay, lòng hổ thẹn... Lành thay, lòng sợ hãi... Lành thay, sự
tinh tấn... Lành thay, trí tuệ trong các thiện pháp!" Lòng tin đó của
vị ấy không giảm thiểu, không tăng trưởng, được đứng lại, lòng hổ thẹn
đó của vị ấy... lòng sợ hãi đó của vị ấy... sự tinh tấn đó của vị ấy...
trí tuệ đó của vị ấy không giảm thiểu, không tăng trưởng, được đứng lại.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người sau khi nổi lên, được đứng lại.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sau khi nổi lên, lại và
nhìn thấy?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người nổi lên và suy nghĩ: "Lành thay, lòng tin trong các thiện pháp!
Lành thay, lòng hổ thẹn... Lành thay, lòng sợ hãi... Lành thay, sự tinh
tấn... Lành thay, trí tuệ trong các thiện pháp!" Vị ấy, sau khi đoạn
diệt ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc chứng
ngộ Bồ đề. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người sau khi nổi lên, nhìn
và thấy.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sau khi nổi lên, lại bơi
tới?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người nổi lên và suy nghĩ: "Lành thay, lòng tin trong các thiện pháp!
Lành thay, lòng hổ thẹn... Lành thay, lòng sợ hãi... Lành thay, sự tinh
tấn... Lành thay, trí tuệ trong các thiện pháp!" Vị ấy, sau khi đoạn
diệt ba kiết sử, sau khi làm muội lược tham sân si, là bậc Nhất Như Lai,
còn trở lui đời này một lần nữa rồi đoạn tận khổ đau. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là hạng người sau khi nổi lên, lại bơi tới.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sau khi nổi lên, lại đạt
được chân đứng?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người sau khi nổi lên và suy nghĩ: "Lành thay, lòng tin trong các thiện
pháp! Lành thay, lòng hổ thẹn... Lành thay, lòng sợ hãi... Lành thay, sự
tinh tấn... Lành thay, trí tuệ trong các thiện pháp!" Vị ấy, sau khi
đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn,
không trở lui trạng thái ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người sau
khi nổi lên, đã đạt chân đứng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sau khi nổi lên đã bơi qua,
đạt đến bờ bên kia, đứng trên đất liền bậc Bà-la-môn?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người nổi lên và suy nghĩ: "Lành thay, lòng tin trong các thiện pháp!
Lành thay, lòng xấu hổ ... Lành thay, lòng sợ hãi... Lành thay, sự tinh
tấn... Lành thay, trí tuệ trong các thiện pháp!" Vị ấy, sau khi đoạn
diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là hạng người sau khi nổi lên đã bơi qua, đã đến bờ bên
kia, đã đứng trên đất liền, là bậc Bà-la-môn.
Này các Tỷ-kheo, đây là bảy hạng người được ví dụ với nước, có mặt,
hiện hữu ở đời.
(VI) (16) Không Thường Xuyên
1. - Có bảy hạng người này, này các
Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chắp tay,
là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, có hạng người sống tùy
quán vô thường trong tất cả hành, tưởng vô thường, cảm thọ vô thường,
trong tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng giải với
tuệ thể nhập. Vị ấy, với sự đoạn diệt các lậu hoặc... sau khi chứng ngộ,
chứng đạt và an trú. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ nhất đáng
được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được
chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người sống tùy quán vô thường... với tuệ thể nhập. Với vị ấy, sự
chấm dứt các lậu hoặc và sự chấm dứt sinh mạng xảy đến một lần, không
trước không sau. Ðây là hạng người thứ hai, này các Tỷ-kheo... vô thượng
ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người sống tùy quán vô thường... với tuệ thể nhập. Vị ấy, sau
khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chứng được Trung gian Niết-bàn...
chứng được Tổn hại Niết-bàn... chứng được Vô hành Niết-bàn... chứng được
Hữu hành Niết-bàn... chứng được Thượng lưu, đạt được Sắc cứu cánh. Ðây
là hạng người thứ bảy, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng được
tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô
thượng ở đời.
Bảy hạng người này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính... vô thượng
ở đời.
(VII) (17) Khổ, Vô Ngã, Tịch Tịnh
1. - Có bảy hạng người này, này các
Tỷ-kheo, đáng được cung kính... ở đời. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người sống tùy quán khổ trong tất cả các hành... sống tùy quán vô ngã
trong tất cả các pháp... sống tùy quán lạc trong Niết-bàn, tưởng lạc,
cảm thọ lạc trong tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm
thắng giải, với tuệ thể nhập. Vị ấy với sự đoạn diệt các lậu hoặc... sau
khi chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Ðây là hạng người thứ nhất đáng
được cung kính... là ruộng phước vô thượng ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người sống tùy quán lạc trong Niết-bàn, tưởng lạc cảm thọ lạc,
trong tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng giải, với
tuệ thể nhập. Với vị ấy, sự chấm dứt các lậu hoặc và sự chấm dứt sinh
mạng xảy đến một lần, không trước không sau. Ðây là hạng người thứ hai
đáng được cung kính... là ruộng phước vô thượng ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây
có hạng người sống quán lạc trong Niết-bàn, tưởng lạc, cảm thọ lạc trong
tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng giải, với tuệ
thể nhập. Vị ấy sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chứng được Trung gian
Niết-bàn..., chứng được Tổn hại Niết-bàn... chứng được Vô hành
Niết-bàn... chứng được Hữu hành Niết-bàn... chứng được Thượng lưu, đạt
được Sắc cứu cánh. Ðây là hạng người thứ bảy, này các Tỷ-kheo, đáng được
cung kính... là ruộng phước vô thượng ở đời.
Này các Tỷ-kheo, đây là bảy hạng người ở đời đáng được cung kính...
là ruộng phước vô thượng ở đời.
(VIII) (18) Sự Thù Diệu
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy sự thù
diệu này. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo tha thiết hành trì học pháp; tha thiết quán Pháp và trong tương
lai khát vọng nhiếp phục lòng dục, và trong tương lai khát vọng nhiếp
phục lòng dục; tha thiết Thiền tịnh, khát vọng Thiền tịnh trong tương
lai; tha thiết tinh cần tinh tấn và trong tương lai khát vọng tinh cần
tinh tấn; tha thiết niệm tuệ và trong tương lai khát vọng niệm tuệ; tha
thiết thể nhập tri kiến và trong tương lai khát vọng thể nhập tri kiến.
Này các Tỷ-kheo, đây là bảy căn bản để được tán thán.
III. Phẩm Vajjì ( Bạt
Kỳ)
(I) (19) Tại Sàrandada
1.
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng
Vajjì, tại điện thờ Sàrandada. Bấy giờ có nhiều người Licchavì đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với các người Licchavì đang ngồi một bên:
- Này các Licchavì, Ta sẽ giảng cho các Ông bảy pháp không làm cho
suy giảm, Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các người Licchavì ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Và này các Licchavì, thế nào là
bảy pháp không làm cho suy giảm? Này các Licchavì, khi nào dân Vajjì
thường hay tụ họp, và tụ họp đông đảo với nhau, thời này các Licchavì,
dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm. Này các Licchavì, khi nào
dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và
làm việc trong niệm đoàn kết, này các Licchavì, dân Vajjì được lớn mạnh,
không bị suy giảm. Này các Licchavì, khi nào dân chúng Vajji không ban
hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã
được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành
thuở xưa, thời này các Licchavì, dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị
suy giảm. Này các Licchavì, khi nào dân chúng Vajjì tôn sùng, kính
trọng, đảnh lễ, cùng dường các
bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo lời dạy của những vị này, thời dân
Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm. Này các Licchavì, khi nào dân
Vajjì không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ, và thiếu nữ Vajjì phải
sống với mình, thời này các Licchavì, dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không
bị suy giảm. Này các Licchavì, khi nào dân chúng Vajjì tôn sùng, kính
trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài
tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước đúng với quy pháp,
thời này các Licchavì, dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Licchavì, khi nào dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp
các vị A-la-hán ở tại Vajjì, khi các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong
xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc, thời này các Licchavì,
dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Và này các Licchavì, cho đến khi nào bảy pháp không làm suy giảm này
được tồn tại giữa dân Vajjì, khi nào dân chúng Vajjì sẽ được thấy giữa
bảy pháp không làm suy giảm này, thời này các Licchavì, dân Vajjì sẽ
được lớn mạnh, không bị suy giảm.
(II)
(20) Vassakàra
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakùta
(Linh Thứu). Lúc bấy giờ, Ajàtasattu, con bà Videhi vua nước Magadha
muốn chinh phạt dân chúng Vajjì. Vua nói như sau:
- Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu họ có uy quyền, có hùng
mạnh. Ta quyết làm cỏ dân Vajjì. Ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì. Ta sẽ làm
cho dân Vajjì bị hoại vong.
Rồi Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha nói với Bà-la-môn
Vassakàra, đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, hãy đi đến Thế Tôn, và nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ
chân Ngài, vấn an Ngài có ít bệnh, ít não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú:
"Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu con bà Videhi, vua nước Magadha cúi đầu đảnh
lễ chân Thế Tôn, vấn an Ngài ít bệnh, ít não, khinh an, lạc trú". Và
khanh bạch tiếp: "Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước
Magadha muốn chinh phạt dân Vajjì. Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân
Vajjì này, dầu họ có uy quyền, có hùng mạnh. Ta quyết làm cỏ dân Vajjì.,
Ta sẽ tieu diệt dân Vajjì. Ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vong". Thế
Tôn trả lời khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại ta biết. Các bậc
Như Lai không bao giờ nói không như thật.
- Tâu Ðại vương, xin vâng.
Bà-la-môn Vassakàra, đại thần nước Magadha vâng theo lời dạy của
Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha, cho thắng những cỗ xe thù
thắng, tự mình cỡi lên một chiếc, cùng với các cỗ xe ấy đi ra khỏi Vương
Xá, đến tại núi Linh Thứu, đi xe đến chỗ còn dùng xe được, rồi xuống xe
đi bộ đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, liền nói với Thế Tôn những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vassakàra, đại
thần nước Magadha bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha
cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Gotama, vấn an Ngài có ít bệnh, ít não,
khinh an, lạc trú. Thưa Tôn giả Gotama, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua
nước Magadha muốn chinh phạt dân xứ Vajjì, vua tự nói: "Ta quyết chinh
phạt dân Vajjì này, dù họ có uy quyền, có hùng mạnh. Ta quyết làm cỏ dân
Vajjì. Ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì. Ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại
vong".
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda đứng
quạt phía sau lưng Thế Tôn. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, Thầy có nghe dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông
đảo với nhau không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp
đông đảo với nhau.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo
với nhau, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy
giảm. Này Ananda, Thầy có biết dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết,
giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajjì tụ họp trong niệm đoàn
kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán
trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết, thời này Ananda,
dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Thầy có nghe
dân Vajjì không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ
những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân
Vajjì như đã ban hành thời xưa không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì không ban hành những luật lệ
không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống
đúng với truyền thống của dân Vajjì thuở xưa.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì không ban hành những luật lệ không
được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng
với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thuở xưa, thời này
Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bĩ suy giảm. Này Ananda,
Thầy có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc
trưởng lão Vajjì, và nghe theo lời dạy của những vị này không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ,
cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì, và nghe theo lời dạy của những vị
này.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng
dường các bậc trưởng lão Vajjì, và nghe theo lời dạy của những vị này,
thời dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Thầy
có nghe dân Vajjì không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ
Vajjì phải sống với mình không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì không có bắt cóc và cưỡng ép
những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình.
- Này Ananda, khi nào có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ
Vajjì phải sống với mình, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được lớn mạnh,
không bị suy giảm. Này Ananda Thầy có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính
trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài
tỉnh thành, không bỏ phế các cùng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước
đúng với quy pháp không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ,
cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không
bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng
dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ
phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp,
thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm. Này
Ananda Thầy có nghe dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị
A-la-hán ở tại Vajjì, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và
những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng
pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến
trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các
vị A-la-hán ở tại Vajjì, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong
xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc, thời này Ananda, dân
Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
3. Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn
Vassakàra đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, một thời, Ta sống ở Vesàli, tại tự miến Sàrandada,
Ta dạy cho dân Vajjì bảy pháp không bị suy giảm này. Này Bà-la-môn, khi
nào bảy pháp không bị suy giảm, được duy trì giữa dân Vajjì, khi nào dân
Vajjì được giảng dạy bảy pháp không bị suy giảm này, thời này
Bà-la-môn, dân Vajjì sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
4. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Vassakàra, vị đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, nếu dân Vajjì chỉ hội đủ một pháp không bị suy
giảm này, thời dân Vajjì nhất định được lớn mạnh, không bị suy giảm,
huống nữa là đủ các bảy pháp không bị suy giảm. Thưa Tôn giả Gotama,
Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha không thể đánh bại dân Vajjì
ở chiến trận, trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián. Thưa Tôn giả
Gotama, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều việc và có nhiều bổn
phận.
- Này Bà-la-môn, hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Bà-la-môn Vassakàra, vị đại thần nước Magadha hoan hỷ tán thán
lời dạy của Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
(III) (21) Vị Tỷ Kheo
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Vương Xá, tại núi Linh Thứu (Gijjhakùta). Tại
đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Có bảy pháp không bị suy giảm, này các Tỷ-kheo. Hãy lắng nghe và
khéo tác ý, Ta sẽ giảng:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
bảy pháp không bị suy giảm? Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nàc chúng Tỷ-kheo tụ họp trong niệm đoàn kết,
giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ban hành những luật lệ
không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống
đúng với những học giới được ban hành, thời này các Tỷ-kheo, chúng
Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ,
cúng dường các bậc Tỷ-kheo Thượng tọa, những vị này là những vị giàu
kinh nghiệm, niên cao lạp trưởng, bậc cha của chúng Tăng, bậc Thầy của
chúng Tăng và nghe theo những lời dạy của những vị này, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không bị chi phối bởi tham ái,
tham ái này tác thành một đời sống khác, thời này các Tỷ-kheo, chúng
Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo thích sống những chỗ nhàn
tịnh, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy
giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tự thân an trú chánh niệm,
khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến muốn đến ở. Và các bạn đồng tu
thiện chí đã đến ở được sống an lạc, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp không làm suy giảm này được duy trì
giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các Tỷ-kheo được dạy bảy pháp không làm
suy giảm này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh,
không bị suy giảm.
(IV) (22) Công Việc
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp
không làm suy giảm này... Ta sẽ giảng...
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
bảy pháp không làm suy giảm?
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích làm thế sự,
không hoan hỷ làm thế sự, không đam mê làm thế sự, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích phiếm luận,
không hoan hỷ phiếm luận, không đam mê phiếm luận, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích ngủ nghỉ, không
hoan hỷ ngủ nghỉ, không đam mê ngủ nghỉ, thời này các Tỷ-kheo, chúng
Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích quần tụ, không
hoan hỷ quần tụ, không đam mê quần tụ, thời này các Tỷ-kheo, chúng
Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không có ác dục vọng, không bị
chi phối bở ác dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không bè bạn ác dục vọng,
không thân tín ác dục vọng, không cộng hành với các dục vọng, thời này
các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không dừng ở nửa chừng giữa sự
đạt đến những quả vị thấp kém và những quả vị thù thắng, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp không làm suy giảm này được duy trì
giữa các Tỷ-kheo, khi nào các Tỷ-kheo được dạy bảy pháp không làm suy
giảm này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị
suy giảm.
(V) (23) Tin Tưởng
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp
không bị suy giảm, hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
bảy pháp không bị suy giảm?
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo có tín tâm, có tàm, có quý, có
nghe nhiều, có tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp không làm suy giảm này được duy trì
giữa các Tỷ-kheo, khi nào các Tỷ-kheo được dạy bảy pháp không làm suy
giảm này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị
suy giảm.
(VI)
(24) Giác Chi
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp
không làm suy giảm này... Ta sẽ giảng... (như trên).
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
bảy pháp không làm suy giảm?
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, tu tập
trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ giác chi, tu
tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi, thời
này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp không làm suy giảm này được duy trì
giữa các Tỷ-kheo, khi nào các Tỷ-kheo được dạy bảy pháp không làm suy
giảm này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị
suy giảm.
(VII) (25) Tưởng
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp
không làm suy giảm này... Ta sẽ giảng... (như trên).
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
bảy pháp không làm suy giảm?
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tu tập vô thường tưởng, tu tập
vô ngã tưởng, tu tập bất tịnh tưởng, tu tập nguy hại tưởng, tu tập đoạn
diệt tưởng, tu tập vô tham tưởng, tu tập diệt tưởng, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp không làm suy giảm này được duy trì
giữa các Tỷ-kheo, khi nào các Tỷ-kheo được dạy bảy pháp không làm suy
giảm này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị
suy giảm.
(VIII) (26) Hữu Học
1. - Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến sự thối đọa cho vị Tỷ-kheo hữu học. Thế nào là bảy?
2. Ưa thích công việc; ưa thích nói
chuyện; ưa thích ngủ nghỉ; ưa thích hội chúng; các căn không phòng hộ;
ăn uống không tiết độ; khi chúng Tăng có sự việc, tại đấy, Tỷ-kheo hữu
học không có suy tư: "Giữa Tăng chúng có các trưởng lão có nhiều kinh
nghiệm, xuất gia đã lâu năm, gánh vác chức vụ. Họ sẽ được biết đến vì
những chức vụ này", và không có tự mình chuyên tâm.
Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa vị Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa.
3. Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa Tỷ-kheo hữu học đến không thối đọa. Thế nào là bảy?
4. Không ưa thích công việc; không
ưa thích nói chuyện; không ưa thích ngủ nghỉ; không ưa thích hội chúng;
các căn được phòng hộ; ăn uống có tiết độ; khi chúng Tăng có sự việc,
tại đấy, Tỷ-kheo hữu học có suy tư: "Giữa Tăng chúng, có các trưởng lão
có nhiều kinh nghiệm, xuất gia đã lâu năm, gánh vác chức vụ. Họ sẽ được
biết đến vì những chức vụ này" và có tự mình chuyên tâm.
(IX) (27) Thối Ðọa
1. - Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa một nam cư sĩ đến thối đọa. Thế nào là bảy?
2. Quên, không đến thăm Tỷ-kheo;
phóng túng nghe diệu pháp; không tu tập tăng trưởng giới; ít tin tưởng
các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân nhập; nghe pháp với tâm cật nạn,
tìm tòi các khuyết điểm; tìm người xứng đáng cúng dường ngoài Tăng
chúng; tại đấy phục vụ trước.
Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa một nam cư sĩ đến thối đọa.
3. Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa một nam cư sĩ đến không thối đọa. Thế nào là bảy?
4. Không quên đến thăm vị Tỷ-kheo;
không phóng túng nghe diệu pháp; tu tập tăng thượng giới; nhiều tin
tưởng đối với các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân nhập; nghe pháp
với tâm không cật nạn, không tìm tòi các khuyết điểm; không tìm người
xứng đáng cùng dường ngoài Tăng chúng; ở đấy phục vụ trước.
Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa nam cư sĩ đến không đọa lạc.
Cư sĩ không đến thăm,
Các vị tu tự ngã,
Không đến nghe Thánh pháp,
Không học tập thắng giới,
Ít tin các Tỷ-kheo,
Tin ấy được tăng trưởng,
Với tâm thích cật nạn,
Muốn nghe chân diệu pháp.
Tìm ở ngoài Tăng chúng,
Người xứng đáng cúng dường,
Ở đây vị cư sĩ,
Lại lo phục vụ trước.
Bảy pháp làm suy giảm,
Ðược khéo léo diễn giảng,
Cư sĩ phục vụ chúng,
Diệu pháp bị suy giảm.
Cư sĩ có đến thăm,
Các vị tu tự ngã,
Có đến nghe thuyết pháp,
Có học tập thắng giới,
Có tin các Tỷ-kheo,
Tin ấy được tăng trưởng,
Với tâm không cật nạn,
Muốn nghe chân diệu pháp.
Không tìm ngoài Tăng chúng,
Người xứng đáng cúng dường,
Ở đây vị cư sĩ,
Lo lắng phục vụ trước.
Bảy pháp không suy giảm,
Ðược khéo léo diễn giảng,
Cư sĩ phục vụ chúng,
Diệu pháp không suy giảm.
(X-XII) (28-30) Bất Hạnh Thối Ðọa
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy bất
hạnh này của người cư sĩ... Này các Tỷ-kheo, có bảy điều may mắn của
người cư sĩ... Này các Tỷ-kheo, có bảy thối đọa này của người cư sĩ...
Này các Tỷ-kheo, có bảy thắng tiến này của người cư sĩ... Thế nào là
bảy?
2. Không quên đến thăm vị Tỷ-kheo;
không phóng túng nghe diệu pháp; tu tập tăng thượng giới, nhiều tin
tưởng đối với các vị Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân nhập; nghe pháp
với tâm không cật nạn, không tìm tòi các khuyết điểm; không tìm người
xứng đáng cùng dường ngoài Tăng chúng; tại đấy phục vụ trước.
Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, là thắng tiến của người cư sĩ.
Cư sĩ không đến thăm,
Các vị tu tự ngã,
Không đến nghe Thánh pháp,
Không học tập thắng giới,
Ít tin các Tỷ-kheo,
Tin ấy được tăng trưởng,
Với tâm thích cật nạn,
Muốn nghe chân diệu pháp.
Tìm ở ngoài Tăng chúng,
Người xứng đáng cúng dường,
Ở đây vị cư sĩ,
Lại lo phục vụ trước.
Bảy pháp làm suy giảm,
Ðược khéo léo diễn giảng,
Cư sĩ phục vụ họ,
Diệu pháp bị suy giảm.
Cư sĩ có đến thăm,
Các vị tu tự ngã,
Có đến nghe thuyết pháp
Có học tập thắng giới,
Có tin các Tỷ-kheo,
Tin ấy được tăng trưởng,
Với tâm không cật nạn,
Muốn nghe chân diệu pháp.
Không tìm ngoài Tăng chúng,
Người xứng đáng cúng dường,
Ở đây vị cư sĩ,
Lo lắng phục vụ trước.
Bảy pháp không suy giảm,
Ðược khéo léo diễn giảng,
Cư sĩ phục vụ chúng,
Diệu pháp không suy giảm.
IV. Phẩm Chư Thiên
(I) (31) Không Phóng Dật
1.
Bấy giờ có một Thiên nhân, sau khi đêm
đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên,
Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:
- Có bảy pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc. Thế
nào là bảy? Tôn kính bậc Ðạo Sư, tôn kính Pháp; tôn kính chúng Tăng; tôn
kính học tập; tôn kính định; tôn kính không phóng dật; tôn kính nghinh
đón. Bảy pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc.
Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận. Rồi Thiên nhân ấy
với ý nghĩ: "Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận ta", thân phía hữu hướng về Ngài
rồi biến mất tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã
qua, liền bảo các vị Tỷ-kheo:
- Ðêm nay, này các Tỷ-kheo, một Thiên nhân sau khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta; sau khi
đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, Thiên
nhân ấy thưa với Ta: "Có bảy pháp, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến
đọa lạc. Thế nào là bảy? Tôn kính bậc Ðạo Sư, tôn kính Pháp; tôn kính
Tăng, tôn kính học pháp; tôn kính định; tôn kính không phóng dật, tôn
kính nghinh đón. Bảy pháp này bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa
lạc". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy, sau khi nói xong, đảnh
lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta, rồi biến mất tại chỗ.
Kính trọng bậc Ðạo Sư,
Kính trọng Pháp và Tăng,
Kính trọng định, nhiệt tâm,
Chí thành kính học tập,
Kính trọng không phóng dật,
Chí thành kính nghinh đón,
Không thể bị đọa lạc,
Tỷ-kheo gần Niết-bàn.
(II) (32) Xấu Hổ
1. - Ðêm này, này các Tỷ-kheo, một
Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Jetavana đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên,
Thiên nhân ấy thưa với Ta: "Có bảy pháp này, bạch Thế Tôn không đưa
Tỷ-kheo đến đọa lạc. Thế nào là bảy? Tôn kính bậc Ðạo Sư, tôn kính Pháp;
tôn kính Tăng, tôn kính học pháp; tôn kính định; tôn kính xấu hổ, tôn
kính sợ hãi. Bảy pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối
đọa". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy, nói như vậy xong, đảnh
lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Kính trọng bậc Ðạo Sư,
Kính trọng Pháp và Tăng,
Kính trọng định, nhiệt tâm,
Chí thành kính học pháp,
Ðầy đủ tàm và quý,
Tùy thuận và tôn kính,
Không thể bị đọa lạc,
Vị ấy gần Niết-bàn.
(III) (33) Dễ Nói (1)
... (Giống như kinh 32, chỉ khác là thay thế hai pháp cuối cùng tàm
và quý bằng thiện ngôn (dễ nói) và thiện bằng hữu)...
(IV) (34) Dể Nói (2)
1. - Ðêm nay, này các Tỷ-kheo, một
Thiên nhân sau khi đêm ấy đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Jetavana đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, vị ấy thưa với Ta: "Bảy pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa
Tỷ-kheo đến đọa lạc. Thế nào là bảy? Tôn kính bậc Ðạo Sư, tôn kính Pháp;
tôn kính Tăng, tôn kính học pháp; tôn kính định; tôn kính thiện ngôn,
tôn kính thiện bằng hữu. Bảy pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo
đến đọa lạc". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy, sau khi nói
xong, đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
2. Ðược nghe nói vậy, Tôn giả
Sàriputta bạch Thế Tôn:
3. - Lời nói vắn tắt này của Thế
Tôn, bạch Thế Tôn, con hiểu một cách rộng rãi như sau: Ở đây, bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo tự mình tôn kính bậc Ðạo Sư, tán thán sự tôn kính bậc Ðạo
Sư. Ðối với những Tỷ-kheo khác không tôn kính bậc Ðạo Sư, vị ấy khích lệ
họ tôn kính bậc Ðạo Sư. Ðối với những Tỷ-kheo khác tôn kính bậc Ðạo Sư,
vị ấy tán thán một cách chơn thật, chơn chánh, đúng thời. Tự mình tôn
kính Pháp... tự mình tôn kính chúng Tăng... tự mình tôn kính học pháp...
tự mình tôn kính thiện ngôn... tự mình tôn kính thiện bằng hữu, tán
thán sự tôn kính thiện bằng hữu. Ðối với những Tỷ-kheo khác không tôn
kính thiện bằng hữu, vị ấy khích lệ họ tôn kính thiện bằng hữu. Ðối với
những Tỷ-kheo khác Tôn kính thiện bằng hữu, vị ấy tán thán một cách chơn
thật, chơn chánh, đúng thời.
Lời nói vắn tắt này các Thế Tôn, bạch Thế Tôn, con hiểu một cách rộng
rãi như vậy.
4. - Lành thay, lành thay, này
Sàriputta! Này Sàriputta, lời nói vắn tắt này của Ta, đã được Thầy hiểu ý
nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Ở đây, này Sàriputta, Tỷ-kheo tự mình
tôn kính bậc Ðạo Sư... (như trên, với những thay đổi cần thiết)... một
cách chơn thực, chơn chánh, đúng thời. Lời nói vắn tắt này của Ta, này
Sàriputta, cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
(V) (35) Bạn Hữu(1)
1. - Thành tựu bảy chi phần, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải thân cận như một người bạn. Thế nào là
bảy?
2. Cho những gì khó cho, làm những
gì khó làm, nhẫn những gì khó nhẫn, nói lên những gì bí mật của mình,
che giấu bí mật của người khác, không từ bỏ khi gặp bất hạnh, không có
khinh rẽ khi tài sản khánh tận.
Thành tựu bảy chi phần này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải
thân cận như một người bạn.
Bạn cho điều khó cho,
Làm những điều khó làm,
Kham nhẫn những lời nói,
Thật khó lòng kham nhẫn,
Nói lên bí mật mình,
Che giấu bí mật người,
Bất hạnh, không từ bỏ,
Khánh tận, không chê khinh,
Trong những trường hợp trên,
Tìm được người như vậy,
Với ai cần bạn hữu,
Hãy gần bạn như vậy.
(VI) (36) Bạn Hữu (2)
1. - Thành tựu bảy chi phần, này các
Tỷ-kheo, là người bạn cần phải thân cận, cần phải giao thiệp, cần phải
hầu cận, dầu có bị xua đuổi. Thế nào là bảy?
2. Khả ái, khả ý; tôn trọng; đáng
được bắt chước; nhà thuyết giả; kham nhẫn lời nói; nói lời sâu kín;
không có hối thúc những điều không hợp lý.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người bạn, cần
phải thân cận, cần phải giao thiệp, cần phải hầu hạ, dầu có bị xua đuổi.
Khả ái và đáng kính,
Ðáng bắt chước, thuyết giả,
Kham nhẫn các lời nói,
Nói những lời thâm sâu,
Không hối thúc ép buộc,
Những điều không hợp lý,
Ai có những pháp này,
Ở đời, người như vậy,
Người ấy là bạn hữu,
Với ai cần bạn hữu,
Người mong muốn lợi ích,
Với lòng từ ai mẫn.
Dầu có bị đuổi xua,
Hãy thân cận bạn ấy.
(VII) (37) Vô Ngại Giải
1. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu, với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng
đạt và an trú bốn vô ngại giải. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi nào tâm thụ động, như thật rõ biết: "Ðây là tâm ta thụ động"; khi
nào tâm muội lược, như thật rõ biết: "Nội tâm ta muội lược"; khi nào tâm
tán loạn, hướng ngoại". Như thật rõ biết tâm ta tán loạn hướng ngoại.
Vị ấy nhận thức được các thọ khởi lên, nhận thức được các thọ an trú,
nhận thức được các thọ đi đến tiêu diệt; nhận thức được các tưởng khởi
lên, nhận thức được các tưởng an trú, nhận thức được các tưởng tiêu
diệt; nhận thức được các tầm khởi lên, nhận thức được các tầm an trú,
nhận thức được các tầm tiêu diệt. Ðối với các pháp thích hợp hay không
thích hợp, đối với các pháp hạ liệt hay thù thắng, đối với các pháp dự
phần đen hay dự phần trắng, vị ấy khéo nắm giữ tướng, khéo tác ý, khéo
thọ trì, khéo thể nhập với trí tuệ.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo không bao lâu,
với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú bốn vô ngại giải.
3. Thành tựu bảy pháp này, này các
Tỷ-kheo Sàriputta với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú
bốn vô ngại giải. Thế nào là bảy?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sàriputta
khi nào tâm thụ động, như thật rõ biết: "Ðây là tâm ta thụ động"; khi
nào tâm muội lược, như thật rõ biết: "Nội tâm ta muội lược";... (như
trên, số 2,... chứng đạt và an trú bốn vô ngại giải).
(VIII) (38) Ðiều Phục
1. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo điều phục tâm và không để mình bị tâm điều phục. Thế
nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thiện xảo về định, thiện xảo nhập định, thiện xảo an trú định, thiện xảo
xuất khỏi định, thiện xảo trong sự thoải mái của định, thiện xảo trong
cảnh giới của định, thiện xảo trong dẫn phát đến định.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo điều phục tâm và
không để mình bị tâm điều phục.
3. Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ
kheo, Sariputta điều phục tâm và Sariputta không để mình bị tâm điều
phục. Thế nào là bảy
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sàriputta
thiện xảo về định, thiện xảo nhập định, thiện xảo an trú định, thiện
xảo xuất khỏi định, thiện xảo trong sự thoải mái về Thiền định, thiện
xảo trong cảnh giới định, thiện xảo trong dẫn phát đến định.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Sàriputta điều phục tâm và
Sàriputta không để mình bị tâm điều phục.
(IX) (39) Sự Thù Diệu (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì,
tại Jetavana, trong khu vườn ông Anathapindika. Bấy giờ Tôn giả
Sàriputta vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthì để khất thực.
Tôn giả Sàriputta suy nghĩ như sau: "Thật là quá sớm để đi khất thực ở
Sàvatthì, vậy ta hãy đi đến khu vườn của các du sĩ ngoại đạo". Rồi Tôn
giả Sàriputta đi đến khu vườn của các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến khu
vườn của các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại
đạo những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
2. Lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại đạo
ấy đang ngồi tụ họp và câu chuyện sau đây được khởi lên: "Này chư Hiền,
ai sống mười hai năm hành trì Phạm hạnh viên mãn thanh tịnh, thật là vừa
đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán". Rồi Tôn giả Sàriputta không
tùy hủy, không chỉ trích lời nói của các du sĩ ngoại đạo ấy; không tùy
hỷ, không chỉ trích, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi với ý nghĩ: "Ta sẽ rõ
biết ý nghĩa này từ Thế Tôn".
3. Rồi Tôn giả Sàriputta, sau khi
khất thực ở Sàvatthì xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở
về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát, đi vào
Sàvatthì để khất thực. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật là
quá sớm để đi khất thực ở Sàvatthì, vậy ta hãy đi đến khu vườn của các
du sĩ ngoại đạo". Rồi bạch Thế Tôn, con đi đến khu vườn của các du sĩ
ngoại đạo; sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy những lời
chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
rồi, con ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ, bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại
đạo ấy đang ngồi tụ họp và câu chuyện sau đây được khởi lên: "Này chư
Hiền, ai sống mười hai năm hành trì Phạm hạnh viên mãn thanh tịnh, thật
là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán". Rồi bạch Thế Tôn, con
không tùy hỷ, không chỉ trích lời nói của các du sĩ ngoại đạo ấy;
không tùy hỷ, không chỉ trích, con từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi với ý
nghĩ: "Ta sẽ rõ biết ý nghĩa này từ Thế Tôn". Bạch Thế Tôn, trong Pháp
và Luật này, có thể nêu rõ một Tỷ-kheo đáng được tán thán, hoàn toàn do
đếm số năm chăng?
- Này Sàriputta, trong Pháp, và Luật này, không có thể nêu rõ một
Tỷ-kheo đáng được tán thán, hoàn toàn do đếm số năm. Bảy sự thù diệu
này, này Sàriputta, sau khi với thắng trí, Ta tự chứng ngộ, chứng đạt,
an trú, và tuyên thuyết. Thế nào là bảy?
4. Ở đây, này Sàriputta, Tỷ-kheo tha
thiết hành trì học pháp và trong tương lai khát vọng hành trì học pháp;
tha thiết quán pháp và trong tương lai khát vọng quán pháp; tha thiết
nhiếp phục lòng dục; và trong tương lai khát vọng nhiếp phục lòng dục,
tha thiết Thiền tịnh, trong tương lai khát vọng Thiền tịnh; tha thiết
tinh cần tinh tấn và trong tương lai khát vọng tinh cần tinh tấn; tha
thiết niệm tuệ và trong tương lai khát vọng niệm tuệ; tha thiết thể nhập
tri kiến và trong tương lai khát vọng thể nhập tri kiến.
Này Sàriputta, bảy thù diệu sự này được Ta tự mình với thắng trí
chứng ngộ, chứng đạt, an trú và tuyên thuyết.
5. Thành tựu bảy thù diệu sự này,
này Sàriputta, Tỷ-kheo, nếu trong mười hai năm hành trì Phạm hạnh viên
mãn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!".
Nếu trong hai mười bốn năm hành trì Phạm hạnh viên mãn thanh tịnh, thật
là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!" Nếu trong ba mươi
sáu năm hành trì Phạm hạnh viên mãn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói:
"Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!". Nếu trong bốn mươi tám năm hành trì
Phạm hạnh viên mãn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng
được tán thán!"
(X) (40) Sự Thù Diệu (2)
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kosambì, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả
Ananda vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Kosambì để khất thực. Tôn
giả Ananda suy nghĩ: "Thật là quá sớm để đi khất thực ở Kosambì, vậy ta
hãy đi đến khu vườn của các du sĩ ngoại đạo". Rồi Tôn giả Ananda đi đến
khi vườn của các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến, nói lên với các du sĩ
ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
2-3.
... (Giống như 2-3 của kinh trên, chỉ khác Tôn giả Ananda thế cho
Tôn giả Sàriputta)... Thế nào là bảy?
4. Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo có
lòng tin, có lòng xấu hổ, có lòng sợ hãi, có nghe nhiều, có tinh cần
tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ.
Bảy thù diệu sự này, này Ananda, được Ta tự mình với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt, an trú và tuyên thuyết.
5. Thành tựu bảy thù diệu sự này,
này Ananda, Tỷ-kheo nếu trong mười hai năm hành trì Phạm hạnh viên mãn
thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói" Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!". Nếu
trong hai mười bốn năm hành trì Phạm hạnh viên mãn thanh tịnh, thật là
vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!" Nếu trong ba mươi sáu
năm hành trì Phạm hạnh viên mãn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị
Tỷ-kheo đáng được tán thán!". Nếu trong bốn mươi tám năm hành trì Phạm
hạnh viên mãn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được
tán thán!".
V. Phẩm Ðại Tế Ðàn
(I) (41) Thức Trú
1.
- Này các Tỷ-kheo, có bảy thức trú này.
Thế nào là bảy?
2. Có các loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, thân khác, tưởng khác như loài Người, một số Thiên nhân, một số
các loài ở trong đọa xứ. Ðây là thức trú thứ nhất.
3. Có các loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, thân khác, tưởng là một Phạm chúng thiên được sanh nhờ chứng sơ
Thiền. Ðây là thức trú thứ hai.
4. Có các loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, thân là một, tưởng khác như chư Thiên Quang âm. Ðây là thức trú
thứ ba.
5. Có các loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, thân là một, tưởng là một như chư Thiên Biến Tịnh. Ðây là thức
trú thứ tư.
6. Có các loài hữu tính, này các
Tỷ-kheo, vượt hoàn toàn các sắc tưởng, chấm dứt các chướng ngại tưởng,
không tác ý sai biệt tưởng, đạt đến Không vô biên xứ, biết rằng: "Hư
không là vô biên". Ðây là thức trú thứ năm.
7. Có các loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, vượt hoàn toàn Không vô biên xứ, đạt đến Thức vô biên xứ, biết
rằng: "Thức là vô biên". Ðây là thức trú thứ sáu.
8. Có các loài hữu tình, này các
Tỷ-kheo, vượt hoàn toàn Thức vô biên xứ, đạt đến Vô sở hữu xứ, biết
rằng: "Không có vật gì". Ðây là thức trú thứ bảy.
Này các Tỷ-kheo, có bảy thức trú này.
(II) (42) Tư Lương Cho Ðịnh
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy tư
lương này của định. Thế nào là bảy?
2. Chánh tri kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Nhất
tâm, này các Tỷ-kheo, được bảy chi phần này làn tư lương; đây được gọi
là Thánh chánh định, này các Tỷ-kheo, với các sở ý, với các tư lương.
(III) (43) Lửa (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy loại
lửa này. Thế nào là bảy?
2. Lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa
những vị đáng cung kính, lửa gia chủ, lửa các vị đáng cúng dường, lửa
củi.
Này các Tỷ-kheo, có bảy loại lửa này.
(IV) (44) Lửa (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì,
tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một tế đàn
lớn đang được thiết lập cho Bà-la-môn Uggatasarìra, năm trăm con bò đực
được dắt đến trụ tế đàn, năm trăm con nghé đực được dắt đến trụ tế đàn,
năm trăm con nghé cái được dắt đến trụ tế đàn, năm trăm con dê được dắt
đến trụ tế đàn, và năm trăm con cừu được dắt đến trụ tế đàn. Rồi
Bà-la-môn Uggatasarìra đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn
những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm
thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn
Uggatasarìra thưa với Thế Tôn:
- Tôi được nghe như sau, thưa Tôn giả Gotama: "Nhen nhúm ngọn lửa và
dựng lên trụ tế đàn có quả lớn, có lợi ích lớn".
- Này Bà-la-môn, Ta cũng có nghe: "Nhen nhúm ngọn lửa và dựng lên trụ
tế đàn có quả lớn, có lợi ích lớn".
Lần thứ hai... Lần thứ ba, Bà-la-môn Uggatasarìra thưa với Thế Tôn:
- Tôi được nghe như sau, thưa Tôn giả Gotama: "Nhen nhúm ngọn lửa và
dựng lên trụ tế đàn có quả lớn, có lợi ích lớn".
- Này Bà-la-môn, Ta cũng có nghe: "Nhen nhúm ngọn lửa và dựng lên trụ
tế đàn có quả lớn, có lợi ích lớn".
- Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chúng ta đồng một mục đích, Tôn giả
Gotama và chúng tôi; thật vậy, chúng ta hoàn toàn đồng nhau.
2. Ðược nghe nói vậy, Tôn giả Ananda
nói với Bà-la-môn Uggatasarìra:
- Này Bà-la-môn, không nên hỏi Như Lai rằng: "Tôi được nghe như sau,
thưa Tôn giả Gotama: "Nhen nhúm ngọn lửa và dựng lên trụ tế đàn có quả
lớn, có lợi ích lớn". Này Bà-la-môn, cần hỏi Như Lai như sau: "Bạch Thế
Tôn, con muốn nhen nhúm ngọn lửa, con muốn dựng lên trụ tế đàn. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy giáo giới cho con! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hay thuyết
dạy cho con, để con được hạnh phúc an lạc lâu dài!"
3. Rồi Bà-la-môn Uggatasarìra bạch
Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, con muốn nhen nhúm ngọn lửa, con muốn dựng trụ
tế đàn. Thưa Tôn giả Gotama, Tôn giả Gotama hãy giáo giới cho con; Tôn
giả Gotama hãy thuyết dạy cho con, để con được hạnh phúc, an lạc lâu
dài.
- Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước
khi tế lễ đàn, dựng lên ba cây kiếm bất thiện đưa đến khổ sanh khổ dị
thục. Thế nào là ba?
4. Thân kiếm, ngữ kiếm, ý kiếm. Này
Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ
tế đàn, khởi lên ý nghĩ: "Chừng ấy con bò đực cần phải giết cho lễ tế
đàn, chừng ấy con nghé đực cần phải giết cho lễ tế đàn, chừng ấy con
nghé cái cần phải giết cho lễ tế đàn, chừng ấy con dê cần phải giết cho
lễ tế đàn, chừng ấy con cừu cần phải giết cho lễ tế đàn". Vị ấy nghĩ
rằng: "Tôi làm công đức", lại làm bất thiện; nghĩ rằng: "Tôi tìm con
đường đưa đến cõi lành", lại tìm con đường đưa đến cõi dữ. Này
Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ
tế đàn, dựng lên ý kiếm thứ nhất, bất thiện đưa đến khổ sanh, khổ dị
thục.
5. Lại nữa, này Bà-la-môn, người
nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, nói như
sau: "Hãy giết chừng ấy con bò đực cho lễ tế đàn. Hãy giết chừng ấy con
nghé đực cho lễ tế đàn. Hãy giết chừng ấy con nghé cái cho lễ tế đàn.
Hãy giết chừng ấy con dê cho lễ tế đàn. Hãy giết chừng ấy con cừu cho lễ
tế đàn.". Vị ấy nghĩ rằng: "Tôi làm công đức", lại làm phi công đức;
nghĩ rằng: "Tôi làm thiện", lại làm bất thiện; nghĩ rằng: "Tôi tìm con
đường đưa đến cõi lành", lại tìm con đường đưa đến cõi dữ. Này
Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ
tế đàn, dựng lên ngữ kiếm thứ hai, bất thiện đưa đến khổ sanh, khổ dị
thục.
6. Lại nữa, này Bà-la-môn, người
nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ tế đàn, tự mình
bắt đầu khởi sự công việc: "Hãy giết các con bò đực cho lễ tế đàn"; tự
mình bắt đầu khởi sự công việc: "Hãy giết các con nghé đực cho lễ tế
đàn"; tự mình bắt đầu khởi sự công việc: "Hãy giết các con nghé cái cho
lễ tế đàn"; tự mình bắt đầu khởi sự công việc: "Hãy giết các con dê cho
lễ tế đàn"; tự mình bắt đầu khởi sự công việc: "Hãy giết các con cừu cho
lễ tế đàn". Vị ấy nghĩ rằng: "Tôi làm công đức", lại làm phi công đức;
nghĩ rằng: "Tôi làm thiện", lại làm bất thiện; nghĩ rằng: "Tôi tìm con
đường đưa đến cõi lành", lại tìm con đường đưa đến cõi dữ. Này
Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước khi lễ
tế đàn, dựng lên thân kiếm thứ ba, bất
thiện đưa đến khổ sanh, khổ dị thục.
Này Bà-la-môn, người nhen nhúm ngọn lửa, dựng lên trụ tế đàn, trước
khi lễ tế đàn, dựng lên ba cây kiếm này, đưa đến khổ sanh, khổ dị thục.
7. Này Bà-la-môn, ba ngọn lửa này
cần phải đoạn tận, cần phải tránh xa. Thế nào là ba?
8. Lửa tham, lửa sân, lửa si. Vì
sao, này Bà-la-môn, lửa tham cần phải đoạn diệt, cần phải tránh xa,
không nên thân cận?
9. Người bị tham làm cho ái nhiễm,
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, này Bà-la-môn, làm ác hạnh với thân, làm
ác hạnh với lời nói, làm ác hạnh với ý. Người ấy sau khi làm ác hạnh với
thân, làm ác hạnh với lời nói, làm ác hạnh với ý, khi thân hoại mạng
chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do vậy, lửa tham này
cần phải đoạn tận, cần phải tránh xa, không nên thân cận. Và này
Bà-la-môn, vì sao lửa sân cần phải đoạn tận, cần phải tránh xa, không
nên thân cận?
10. Người bị sân làm cho tức giận,
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, này Bà-la-môn, làm ác hạnh với thân, làm
ác hạnh với lời nói, làm ác hạnh với ý. Người ấy sau khi làm ác hạnh với
thân, làm ác hạnh với lời nói, làm ác hạnh với ý, khi thân hoại mạng
chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do vậy lửa sân này cần
phải đoạn tận, cần phải tránh xa, không nên thân cận. Và này Bà-la-môn,
vì sao lửa si cần phải đoạn tận, cần phải tránh xa, không nên thân cận?
11. Người bị si làm cho mê mờ, chinh
phục, tâm bị xâm chiếm, này Bà-la-môn, làm ác hạnh với thân, làm ác
hạnh với lời nói, làm ác hạnh với ý. Người ấy sau khi làm ác hạnh với
thân, làm ác hạnh với lời nói, làm ác hạnh với ý, khi thân hoại mạng
chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do vậy lửa si này cần
phải đoạn tận, cần phải tránh xa, không nên thân cận.
Ba lửa này, này Bà-la-môn, cần phải đoạn tận, cần phải tránh xa,
không nên thân cận.
12. Ba lửa này, này Bà-la-môn, được
cung kính, được tôn trọng, được cúng dường, phải đem lại chánh lạc. Thế
nào là ba?
13. Lửa đáng cung kính, lửa gia chủ,
lửa đáng cùng dường. Và này Bà-la-môn, thế nào là lửa đáng cung kính?
14. Ở đây, này Bà-la-môn, những
người mẹ, những người cha của người ấy, này Bà-la-môn, đây gọi là lửa
đáng cung kính. Vì sao? Vì từ đó lửa đáng cung kính này khiến cho mang
lại, khiến cho sanh ra. Do vậy, này Bà-la-môn, lửa đáng cung kính này
được cung kính, được tôn trọng, được cúng dường, phải đem lại chánh lạc.
Và này Bà-la-môn, thế nào là lửa gia chủ?
15. Ở đây, này Bà-la-môn, những
người con, những người vợ, những người phục dịch, những người đưa tin,
hoặc những người làm công cho người ấy, này Bà-la-môn, đây gọi là lửa
gia chủ. Do vậy lửa gia chủ này được cung kính, được tôn trọng, được
cúng dường, phải đem lại chánh lạc. Và này Bà-la-môn, thế nào là lửa
đáng được cúng dường?
16. Ở đây, này Bà-la-môn, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào từ bỏ kiêu mạn, phóng dật, sóng kham nhẫn nhu hòa;
mỗi người điều phục tự ngã; mỗi người an chỉ tự ngã; mỗi người lắng dịu
tự ngã. Này Bà-la-môn, đây gọi là ngọn lửa đáng được cúng dường. Do vậy
lửa đáng được cúng dường này được cung kính, được tôn trọng, đáng được
cúng dường, phải đem lại chánh lạc.
Này Bà-la-môn, ba ngọn lửa này được cung kính, được tôn trọng, đáng
được cúng dường, phải đem lại chánh lạc.
Còn lửa củi này, này Bà-la-môn, cần phải thường thường nhen đốt nó
lên, cần phải thường thường chăm sóc duy trì, cần phải thường thường dập
tắt, cần phải thường thường để một bên.
17. Ðược nói như vậy, Bà-la-môn
Uggatasarìra bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn
giả Gotama! Tôn giả Gotama hãy nhận còn làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến
mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. Và thưa Tôn giả Gotama, con sẽ thả
năm trăm con bò đực và cho chúng sống; con sẽ thả năm trăm con nghé đực
và cho chúng sống; con sẽ thả năm trăm con nghé cái và cho chúng sống;
con sẽ thả năm trăm con dê và cho chúng sống; con sẽ thả năm trăm con
cừu và cho chúng sống. Hãy để chúng ăn cỏ xanh; hãy để chúng uống nước
mát; hãy để gió thổi chúng mát.
(V) (45) Tưởng (1)
1. - Có bảy tưởng này, này các
Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn,
thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là bảy?
2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng
nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế
giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngã trong
khổ.
Bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn,
có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu
cánh.
(VI) (46) Tướng (2)
1. - Có bảy tưởng này, này các
Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn,
thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là bảy?
2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng
nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế
giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngã trong
khổ.
3. Tưởng bất tịnh, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập
vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên gì
được nói đến như vậy?
4. Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo
sống nhiều với các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay
lưng để không đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng,
thanh thản, khởi lên nhàm chán. Ví như, này các Tỷ-kheo, lông gà hay là
dây gân quăng vào lửa thời thối lui, trở lưng, quay lưng, và không căng
thẳng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các
tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm
vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên
nhàm chán.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng bất tịnh, nhưng
tâm lại chảy theo, đắm vào dâm dục, không khởi lên nhàm chán, thời
Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng bất tịnh không được ta tu tập; ở
nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập".
Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều
với các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để
không đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản,
khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng bất tịnh
không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta
không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy. Tưởng bất
tịnh, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn,
có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói
đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy.
5. Tưởng chết, này các Tỷ-kheo, được
tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, được nói đến
như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy?
6. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
nhiều với tưởng chết, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng không
thích thú sự sống, do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi
lên nhàm chán, thời... (như số 4 ở trên, chỉ khác trước là tưởng bất
tịnh, đây là tưởng chết, với sự thay đổi cần thiết)... Do duyên gì được
nói đến như vậy.
7. Tưởng nhàm chán đối với món ăn,
này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi
ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy?
8. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống
nhiều với các tưởng đối với các món ăn, thời tâm thối lui... không tham
ái các vị; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm
chán, thời... (như số 4 ở trên, chỉ khác đây là tưởng nhàm chán đối với
các món ăn)... Do duyên gì được nói đến như vậy.
9. Tưởng không hoan hỷ đối với các
thế giới, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả
lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến như
vậy?
10. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
sống nhiều với tâm không hoan hỷ đối với các thế giới, thời tâm thối
lui, tâm trở lưng, quay lưng với các lòe loẹt của thế giới; do đó tâm vị
ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời... (như số 4 ở
trên, chỉ khác đây là tâm không hoan hỷ đối với các thế giới và những
thay đổi cần thiết)... Do duyên gì được nói đến như vậy.
11. Tưởng vô thường, này các
Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn,
như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy?
12. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
sống nhiều với tưởng vô thường, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay
lưng với các lợi dưỡng, cung kính danh vọng; do đó tâm vị ấy không căng
thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời... (như số 4 ở trên, chỉ
khác đây là tưởng vô thường với những thay đổi cần thiết)...
13. Tưởng khổ trên vô thường, này
các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích
lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy.
Do duyên gì được nói đến như vậy?
14. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, thời các tưởng sợ hãi sắc
bén được an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không
chú tâm, không quán sát; ví như một kẻ giết người giơ đao lên. Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, nhưng
các tưởng sợ hãi sắc bén không được an lập trên thụ động, biếng nhác,
thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; thời giống như một
kẻ giết người giơ đao lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu
rằng: "Tưởng khổ trên vô thường không được ta tu tập; ở nơi ta không có
sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập." Ở đây,
vị ấy tỉnh giác như vậy. Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều
với các tưởng khổ trên vô thường,
thời các tưởng sợ hãi sắc bén an lập trên thụ động, biếng nhác, thả
lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát, ví như một kẻ giết người
giơ đao lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải hiểu rằng: "Tưởng khổ
trên vô thường không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước
và sau. Ta đạt được quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.
Tưởng khổ trên vô thường, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử
làm mục đích, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy.
15. Tưởng vô ngã trên khổ, này các
Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn,
thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục đích, được nói đến như vậy. Do
duyên gì được nói đến như vậy?
16. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
sống nhiều với các tưởng vô ngã trên khổ, này các Tỷ-kheo, ý của vị ấy
thoát khỏi các tư tưởng ngã, ngã sở, ngã mạn, đối với cái thân có thức
nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo giải thoát, được an tịnh, vượt
qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với tâm
chất chứa tưởng vô ngã trên khổ, này các Tỷ-kheo, ý của vị ấy không
thoát khỏi các tư tưởng ngã, ngã sở, ngã mạn, đối với cái thân có thức
nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài, không khéo giải thoát, không được
an tịnh, không vượt qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần
phải hiểu rằng: "Tưởng vô ngã trên khổ không được ta tu tập; ở nơi ta
không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập."
Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.
Nhưng này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng vô ngã trên khổ,
này các Tỷ-kheo, ý của vị ấy thoát khỏi các tư tưởng ngã, ngã sở, ngã
mạn đối với cái thân có thức và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo giải
thoát, được an tịnh, vượt qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng vô ngã trên khổ được ta tu tập; ở nơi ta
có sự sai khác trước và sau. Ta đạt được quả của sự tu tập." Ở đây, vị
ấy tỉnh giác như vậy. Tưởng vô ngã trên khổ, này các Tỷ-kheo, được tu
tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất
tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói
đến như vậy.
Bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho viên mãn,
có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu
cánh.
(VII) (47) Dâm Dục
1. Bấy giờ có Bà-la-môn Jànussoni đi
đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi
thăm... Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, Tôn giả có tự xem mình là sống Phạm hạnh
không?
- Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn chánh phải nói như sau: "Vị ấy
sống Phạm hạnh, không có bể vụn, không có khuyết phạm, không có nhiễm ô,
không bị điểm chấm, viên mãn, thanh tịnh". Này Bà-la-môn, nếu nói về Ta
một cách chơn chánh, thời phải nói như vậy: "Ta sống Phạm hạnh, không
có bể vụn, không có khuyết phạm, không có nhiễm ô, không bị điểm chấm,
viên mãn, thanh tịnh".
- Thưa Tôn giả Gotama, Phạm hạnh như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là
bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị ô nhiễm, bị điểm chấm?
2. - Ở đây, này Bà-la-môn, có Sa-môn
hay Bà-la-môn, tự xem mình sống Phạm hạnh một cách chơn chánh, tuy
không có hành dâm với nữ nhân, nhưng hưởng thụ được nữ nhân thoa, bóp,
tắm, xức dầu. Vị ấy thích thú, ước muốn, bị kích thích bởi nữ nhân. Này
Bà-la-môn, đây gọi là Phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô,
bị điểm chấm. Này Bà-la-môn, đây gọi là hành Phạm hạnh không thanh tịnh,
bị liên hệ, bị hệ lụy với dâm dục, không giải thoát khỏi sanh, già,
chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng không thoát khỏi khổ.
3. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có
Sa-môn hay Bà-la-môn, tự xem mình sống Phạm hạnh một cách chơn chánh,
tuy không có hành dâm với nữ nhân, không có hưởng thụ được nữ nhân thoa,
bóp, tắm, xức dầu, nhưng cười giỡn, chơi đùa, vui chơi với nữ nhân...
tuy không cười giỡn, chơi đùa, vui chơi với nữ nhân, nhưng lấy mắt nhìn
mắt, trừng mắt nhìn theo nữ nhân... tuy không lấy mắt nhìn mắt, trừng
mắt nhìn theo nữ nhân, nhưng nghe tiếng của nữ nhân, tiếng cười, tiếng
nói, tiếng hát, tiếng khóc ngang qua vách, ngang qua hàng rào... tuy
không nghe tiếng của nữ nhân, tiếng cười, tiếng nói, tiếng hát, tiếng
khóc ngang qua vách, ngang qua hàng rào, nhưng nhớ đến tiếng cười, tiếng
nói, tiếng đùa giỡn trước kia đã có với nữ nhân... tuy không nhớ đến
tiếng cười, tiếng nói, tiếng đùa
giỡn trước kia đã có với nữ nhân, nhưng xem gia chủ hay con gia chủ thọ
hưởng, thưởng thức thích thú trong năm dục công đức... tuy không xem gia
chủ hay con gia chủ thọ hưởng, thưởng thức thích thú trong năm dục công
đức, nhưng sống Phạm hạnh với tâm nguyện hướng đến một thân chư Thiên,
nguyện rằng: "Với giới này hay với giới cấm này, hay với khổ hạnh này,
hay với Phạm hạnh này, ta sẽ thành một Thiên nhân này hay một Thiên nhân
khác". Vị ấy thích thú, ước muốn, bị kích thích bởi nữ nhân. Này
Bà-la-môn, đấy gọi là Phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô,
bị điểm chấm. Này Bà-la-môn, đấy gọi là hành Phạm hạnh không thanh tịnh,
bị liên hệ, bị hệ lụy với dâm dục, không giải thoát khỏi sanh, già,
chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng không giải thoát khỏi khổ.
Cho đến khi nào, này Bà-la-môn, Ta còn tiếp tục thấy một hay một
trong bảy hệ lụy đến dâm dục này chưa được đoạn tận ở nơi Ta, cho đến
khi ấy, này Bà-la-môn, Ta không có xác chứng rằng, Ta đã chứng ngộ Vô
thượng Chánh Ðẳng Giác trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm thiên
giới, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và
cho đến khi nào, này Bà-la-môn, Ta tiếp tục không còn thấy một hay một
trong bảy hệ lụy đến dâm dục này đã được đoạn tận ở nơi Ta, cho đến khi
ấy, này Bà-la-môn, Ta không có xác chứng rằng, Ta đã chứng ngộ Vô thượng
Chánh Ðẳng Giác trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm thiên giới,
trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Tri và kiến
được khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðây là đời
sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa".
Ðược nói như vậy, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!... Mong Tôn giả Gotama nhận con
làm đệ tử cư sĩ, từ này cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(VIII) (48) Hệ Lụy
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
cho các Thầy pháp môn về hệ lụy, và ly hệ lụy, hãy lắng nghe... Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là pháp môn về hệ lụy và ly hệ lụy?
2. Một nữ nhân, này các Tỷ-kheo, tác
ý nội nữ căn, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang
sức, thời nữ nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm
trong ấy, thích thú tại đấy nên tác ý đến nam căn ở ngoài, nam hành, nam
y phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy tham
đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy
nên nữ nhân ấy ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên với hệ lụy ấy,
khởi lên lạc, hỷ nên nữ nhân ấy ước muốn lạc hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do
thích thú trong nữ tánh của mình, các loài hữu tình đi đến hệ lụy với
những người đàn ông. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nữ nhân không có thoát
được nữ tánh của mình.
3. Một nam nhân, này các Tỷ-kheo,
tác ý nội nam căn, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam thanh,
nam trang sức mà nữ nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do
tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy nên tác ý đến nữ căn ở ngoài, nữ
hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức mà nam nhân ấy
tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích thú
tại đấy nên nam nhân ấy ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên với hệ
lụy ấy, khởi lên lạc hỷ nên nam nhân ấy ước muốn lạc hỷ ấy. Này các
Tỷ-kheo, do thích thú trong nam tánh của mình, các loài hữu tình đi đến
hệ lụy với những người đàn bà. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nam nhân không
thoát khỏi nam tánh của mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hệ lụy. Và
này các Tỷ-kheo, như thế nào là không
hệ lụy?
4. Một nữ nhân, này các Tỷ-kheo,
không tác ý nội nữ căn, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh,
nữ trang sức thời nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không thích thú
tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy nên không
tác ý đến nam căn ở ngoài, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam
thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không thích
thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy nữ nhân
ấy không muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên hệ lụy ấy, khởi lên lạc,
hỷ, nữ nhân ấy không ước muốn lạc, hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do không
thích thú trong nữ tánh của mình, các loài hữu tình không đi đến hệ lụy
với những người đàn ông. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nữ nhân thoát được nữ
tánh của mình.
5. Một nam nhân, này các Tỷ-kheo,
không tác ý đến nội nam căn, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục,
nam thanh, nam trang sức thời nam nhân ấy không tham đắm trong ấy, không
thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy
nên không tác ý đến nữ căn ở ngoài, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục,
nữ thanh, nữ trang sức mà nam nhân ấy không tham đắm trong ấy, không
thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy
nên nam nhân ấy không ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên với hệ lụy
ấy, khởi lên lạc, hỷ nên nam nhân ấy ước muốn lạc, hỷ ấy. Này các
Tỷ-kheo, do không thích thú trong nam tánh của mình, các loài hữu tình
không đi đến hệ lụy với những nữ nhân. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nam
nhân thoát được nam tánh của mình.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không hệ lụy.
Này các Tỷ-kheo, đây là pháp môn hệ lụy và ly hệ lụy.
(IX) (49) Bố Thí
1. Một thời, Thế Tôn ở Campà, trên
bờ hồ Gaggara. Bấy giờ có nhiều cư sĩ ở Campà đi đến Tôn giả Sàriputta,
sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Sàriputta rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, các nam cư sĩ ấy thưa với Tôn giả Sàriputta:
- Thưa Tôn giả, đã lâu lắm, chúng con không được nghe pháp thoại từ
miệng Thế Tôn. Lành thay, thưa Tôn giả, nếu nay chúng con được nghe pháp
thoại từ miệng Thế Tôn!
- Vậy này chư Hiền, hãy đến trong ngày lễ Trai giới (uposatha), các
Thầy sẽ được nghe pháp thoại từ miệng Thế Tôn.
- Thưa vâng, thưa Tôn giả!
Các nam cư sĩ ở Campà ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ Tôn giả Sàriputta, thân bên hữu hướng về Tôn giả rồi ra
đi. Rồi các nam cư sĩ ở Campà, đến ngày lễ Trai giới, đi đến Tôn giả
Sàriputta, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Sàriputta rồi đứng một bên. Rồi
Tôn giả Sàriputta cùng với các nam cư sĩ ở Campà đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn
giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
2. - Có thể, bạch Thế Tôn, ở đây có
hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn.
Nhưng bạch Thế Tôn, có thể ở đây có hạng người bố thí như vậy, được quả
lớn, được lợi ích lớn.
- Này Sàriputta, có thể ở đây có hạng người bố thí như vậy, không
được quả lớn, không được lợi ích lớn. Có thể, này Sàriputta, ở đây có
hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn.
3. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không
được lợi ích lớn? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây có hạng
người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn?
- Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với
tâm trói buộc (về kết quả), bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố
thí với ý nghĩ: "Tôi sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí
như vậy cho các Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe
cộ, vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, những trú xứ, đèn
đuốc. Thầy nghĩ thế nào, này Sàriputta, ở đây có thể có hạng người bố
thí như vậy không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Ở đây, này Sàriputta, có hạng người bố thí với tâm mong cầu, bố thí
với tâm trói buộc, bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý
nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí như vậy,
khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiện ở Bốn thiên
vương. Và vị ấy, khi nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy,
uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui
trạng thái này.
4. Ở đây, này Sàriputta, có người bố
thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với tâm
mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ cái này
trong đời sau", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí"... bố
thí không với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí", nhưng bố thí với không ý
nghĩ: "Cái này đã được cho trong quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá
khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên"... Hay là
người bố thí không với ý nghĩ: "Cái này đã được cho trong quá khứ, đã
được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình
này bị bỏ quên", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này
không nấu ăn. Ta không nên là người nấu ăn, lại không bố thí cho người
không nấu ăn...", bố thí không với ý
nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không nên là người nấu
ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn", nhưng bố thí với ý nghĩ:
"Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka,
Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha,
Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí"... Vị ấy
bố thí không với ý nghĩ: "Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn
như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa,
Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ
các vật bố thí này", nhưng bố thí với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí
này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên"... Vị ấy bố thí, không với ý
nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi
lên". nhưng
vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Và đối với
Sa-môn hay Bà-la-môn, vị ấy bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng
hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Thầy nghĩ
thế nào, này Sàriputta, ở đây, có hạng người có thể bố thí như vậy
không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Này Sàriputta, ở đây, ai bố thí không với tâm cầu mong, bố thí
không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa, bố
thí không với ý nghĩ: "Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau", bố thí
không với ý nghĩ: "Lành thay, sự bố thí", bố thí không với ý nghĩ: "Cái
này đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta
không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên", bố thí không với ý
nghĩ: "Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không là người nấu ăn,
lại không bố thí cho người không nấu ăn", ... bố thí không với ý nghĩ:
"Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka,
Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha,
Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí...", bố
thí không
với ý nghĩ: "Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt
khởi lên". Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang
bị tâm.. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp
được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị
ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.
Này Sàriputta, đây là nhân, đây là duyên, khiến cho ở đây, một hạng
người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn. Này
Sàriputta, nhưng đây cũng là nhân, là duyên khiến cho ở đây, có hạng
người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn.
(X) (50) Mẹ Của Nanda
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahàmoggallàna đang du hành ở
Dakkhinàgiri, cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ, nữ cư sĩ
Velukantakì, mẹ của Nanda thức dậy trước khi mặt trời mọc, và đọc lớn
tiếng bài "Pàràyana" (Con đường đưa đến bờ bên kia). Lúc bấy giờ, Ðại
vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) đang đi từ phương Bắc đến phương Nam vì một
vài công việc. Ðại vương Vessavana nghe nữ cư sĩ Velukantakì, mẹ của
Nanda, sau khi lớn tiếng đọc xong bài Pàràyana, liền đứng lại, chờ đợi
cho bài được đọc xong. Và nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, sau khi lớn tiếng đọc
xong bài Pàràyana, liền im lặng. Rồi Ðại vương Vessavana biết được nữ cư
sĩ, mẹ của Nanda đã đọc xong bài kệ, liền hết sức hoan hỷ và nói:
- Lành thay, này Chị! Lành thay, này Chị!
- Ngài là ai, hỏi vị có bộ mặt hiền?
- Này Chị, ta là anh của Chị, Ðại vương Vessavana!
- Lành thay, hỏi vị có bộ mặt hiền! Hãy lấy pháp môn được tôi nói đến
hôm qua, làm quà tặng đón khách cho Ngài.
- Lành thay, này Chị! Phải, pháp môn này hãy là quà tặng đón khách
của tôi! Ngày mai, chúng Tỷ-kheo, với Sàriputta và Moggallàna là các vị
cầm đầu, sẽ đến Velukantaka, nhưng chưa ăn sáng. Sau khi Chị mời chúng
Tỷ-kheo dùng xong, hãy tuyên bố chính ta đã cúng dường.
2. Rồi cư sĩ, mẹ của Nanda, sau khi
đêm ấy đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà của mình các món ăn thượng vị
loại cứng và loại mềm. Rồi chúng Tăng, với Sàriputta và Moggallàna là vị
cầm đầu đi đến Velukantaka nhưng chưa ăn sáng. Rồi nữ cư sĩ, mẹ của
Nanda bảo một người đi, nói rằng:
- Này Bạn, hãy đi đến khu vườn và báo thời giờ cho chúng Tỷ-kheo: "Ðã
đến giờ, thưa các Tôn giả! Tại nhà của mẹ Nanda, các món ăn đã được sửa
soạn".
- Thưa vâng, thưa nữ cư sĩ.
Người ấy vâng đáp nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, đi đến khu vườn và báo thời
giờ cho chúng Tỷ-kheo:
- Ðã đến giờ, thưa các Tôn giả! Tại nhà của mẹ Nanda, các món ăn đã
được sửa soạn.
Rồi chúng Tỷ-kheo, với Sàriputta mà Mahàmoggallàna là vị cầm đầu, vào
buổi sáng đắp y, cầm bát, đi đến trú xứ của nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, sau
khi đến, ngồi xuống trên các chỗ đã soạn sẵn. Rồi nữ cư sĩ, mẹ của
Nanda, mời chúng Tỷ-kheo với Sàriputta và Moggallàna là vị cầm đầu, với
các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, và làm chúng Tỷ-kheo được
thỏa mãn. Rồi nữ cư sĩ, mẹ của Nanda thấy Tôn giả Sàriputta ăn đã xong,
tay đã rút lui khỏi bình bát, liền ngồi xuống một bên. Tôn giả Sàriputta
nói với cư sĩ, mẹ của Nanda đang ngồi một bên:
- Này Mẹ của Nanda, ai bảo cho Bà biết chúng Tỷ-kheo sẽ đi tới nhà?
- Ở đây, thưa Tôn giả, con thức dậy trước khi trời sáng, đọc lớn
tiếng bài kệ Pàràyana rồi im lặng. Rồi thưa Tôn giả, Ðại vương Vessavana
sau khi biết được con đã đọc xong, liền hết sức hoan hỷ và nói:
- "Lành thay, này Chị! Lành thay, này Chị!"
- "Ngài là ai, hởi vị có bộ mặt hiền?"
- "Này Chị, ta là anh của Chị, Ðại vương Vessavana!"
- "Lành thay, hởi vị có bộ mặt hiền! Hãy lấy pháp môn được tôi nói
đến hôm qua, làm quà tặng đón khách cho Ngài."
- "Lành thay, này Chị! Phải, pháp môn này hãy là quà tặng đón khách
của tôi! Ngày mai, chúng Tỷ-kheo, với Sàriputta và Moggallàna là các vị
cầm đầu, sẽ đến Velukantaka, nhưng chưa ăn sáng. Sau khi Chị mời chúng
Tỷ-kheo dùng xong, hãy tuyên bố chính ta đã cúng dường."
Thưa Tôn giả, mong rằng mọi công đức của buổi cúng dường này sẽ đem
lại an lạc cho đại vương Vessavana!
3. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Bà có thể nói chuyện, mặt tận mặt
với một Thiên tử có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như
vậy đối với con. Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây,
thưa Tôn giả, Nanda, đứa con độc nhất của con, khả ái, khả ý, vì một lý
do gì đó, bị các vua dùng sức mạnh bắt giữ và đoạn mạng sống. Thưa Tôn
giả, trong khi đứa trẻ bị bắt giữ hay đang bị bắt giữ, khi bị trói hay
đang bị trói, khi bị giết hay đang bị giết, con rõ biết tâm của con
không có đổi khác.
4. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Bà đã có thể làm cho tâm khởi
thanh tịnh như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như
vậy đối với con. Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây,
thưa Tôn giả, người chồng của con, khi mạng chung, sanh vào sanh loại
Dạ-xoa, và vị ấy hiện lên trước mặt con, với một tự ngã như lúc trước.
Nhưng thưa Tôn giả, con rõ biết, không vì nhân duyên ấy, tâm của con có
đổi khác.
5. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Người dã có thể làm cho tâm khởi
thanh tịnh như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như
vậy đối với con. Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác. Thưa Tôn
giả, khi còn là thiếu nữ, được đưa đến cho chồng con, con rõ biết con
không có một tâm vi phạm đối với chồng con, huống nữa là về thân!
6. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Bà đã có thể làm cho tâm khởi
thanh tịnh như vậy.
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như
vậy đối với con. Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Thưa Tôn
giả, khi con tự chấp nhận là một nữ cư sĩ, con rõ biết con chưa từng vi
phạm một học pháp nào.
7. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda! Thưa Tôn giả, không phải chỉ có
sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con. Con còn có một sự
kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây, thưa Tôn giả, nếu con muốn, con có thể
ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, không tầm không tứ; làm cho tịnh chỉ tầm và tứ,
con chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm; ly hỷ, con trú xả, chánh
niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, con chứng đạt và an trú Thiền thứ ba; đoạn lạc và đoạn khổ, chấm
dứt các hỷ ưu đã cảm thọ trước, con chứng đạt và an trú Thiền thứ tư,
không khổ không lạc, xả niệm thanh
tĩnh.
8. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
- Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như
vậy đối với con. Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác! Ở đây,
thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết sử được Thế Tôn thuyết giảng, con thấy rõ
không còn pháp nào ở nơi con chưa được đoạn tận.
9. - Thật vi diệu thay, Mẹ của
Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
Rồi Tôn giả Sàriputta, sau khi với một pháp thoại, nói lên cho nữ cư
sĩ mẹ của Nanda, khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ
ngồi đứng dậy rồi ra đi.
VI. Phẩm Không Tuyên Bố
(I) (51) Không Tuyên Bố
1.
Bấy giờ một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, đối với Thánh đệ tử có nghe
nhiều, nghi ngờ không khởi lên đối với những vấn đề không được tuyên bố?
2. - Này Tỷ-kheo, do kiến diệt, với
vị Thánh đệ từ có nghe nhiều, nghi ngờ không khởi lên đối với những vấn
đề không được tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại", này Tỷ-kheo,
là một tà kiến. "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại", này Tỷ-kheo, là
một tà kiến. "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại", này
Tỷ-kheo, là một tà kiến. "Sau khi chết, Như Lai không có tồn tại và
không không tồn tại", này Tỷ-kheo, là một tà kiến. Này Tỷ-kheo, kẻ phàm
phu không có nghe nhiều, không tuệ tri kiến, không tuệ tri kiến tập
khởi, không tuệ tri kiến đoạn diệt, không tuệ tri con đường đưa đến kiến
đoạn diệt; kiến ấy của người ấy tăng trưởng. Người ấy không thoát khỏi
khổ". Này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri kiến, tuệ tri
kiến tập khởi, tuệ tri kiến đoạn
diệt, tuệ tri con đường đưa đến kiến đoạn diệt; kiến của người ấy tiêu
diệt. Người ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Ta nói rằng: "Người ấy thoát khỏi khổ". Này Tỷ-kheo, do biết vậy, do
thấy vậy, vị Thánh đệ tử có nghe nhiều không có tuyên bố: "Sau khi chết,
Như Lai có tồn tại", không có tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không có
tồn tại", không có tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không
tồn tại", không có tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại". Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử có nghe nhiều có một thái độ không tuyên bố đối với những vấn đề
không được tuyên bố. Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử không có sợ hãi, không có rung động, không có chấn động, không rơi
vào hoảng sợ đối với các vấn đề không được tuyên bố: "Sau khi chết, Như
Lai có tồn tại", này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về
tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối. "Sau
khi chết, Như Lai không tồn tại", này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc
về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về
truy hối. "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không tồn tại", này
Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý
luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về truy hối. "Sau khi chết, Như Lai không
tồn tại và không không tồn tại", này Tỷ-kheo, thuộc về khát ái, thuộc
về tưởng, thuộc về tư duy, thuộc về lý luận, thuộc về chấp thủ, thuộc về
truy hối. Này Tỷ-kheo, kẻ phàm phu nghe ít, không tuệ tri truy hối,
không tuệ tri truy hối tập khởi, không tuệ tri truy hối đoạn diệt, không
tuệ tri con đường đưa đến truy hối đoạn diệt. Truy hối của người ấy
tăng trưởng. Người ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy không thoát khỏi khổ". Này Tỷ-kheo,
Thánh đệ tử có nghe nhiều, tuệ tri truy hối, tuệ tri truy hối tập khởi,
tuệ tri truy hối đoạn diệt, tuệ tri con đường đi đến truy hối đoạn
diệt. Truy hối của vị ấy tiêu diệt. Vị ấy giải thoát khỏi sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy thoát khỏi khổ". Do
biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, Thánh đệ tử nghe nhiều, không tuyên
bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn tại", không tuyên bố: "Sau khi chết,
Như Lai không tồn tại", không tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai có tồn
tại
và không tồn tại", không tuyên bố: "Sau khi chết, Như Lai không tồn tại
và không không tồn tại". Do biết vậy, do thấy vậy, này Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử không có sợ hãi, không có rung động, không có chấn động, không rơi
vào hoảng sợ đối với các vấn đề không được tuyên bố. Này các Tỷ-kheo,
đây là chơn, đây là duyên, đối với Thánh đệ có nghe nhiều, nghi ngờ
nhiều khởi lên đối với những vấn đề không được tuyên bố.
(II) (52) Sanh Thú Của Loài Người
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về
bảy sanh thú của loài Người, và không chấp thủ Niết-bàn. Hãy lắng nghe
và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo. Thế nào là bảy sanh thú của loài Người?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành như vậy suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái
này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không
phải của ta. Cái gì đó, cái gì được thành, ta đều từ bỏ". Vị ấy có được
xả. Vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích tụ của hữu; với
chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh. Vị ấy chưa
chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn
hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham
tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do
diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn. Ví
như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được
đập đánh, một miếng vụn
có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ". Vị ấy có
được xả, vị ấy không tham đắm hữu, không tham đắm hậu hữu; với chánh
trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh. Và vị ấy chưa
chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn
hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham
tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do
diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể
không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của
ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ". Vị ấy có được xả, vị ấy
không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích tụ của hữu; với chánh trí
tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh và vị ấy chưa chứng ngộ
trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn
mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên.
Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận
năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này
các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập
đánh, một miếng vụn có thể văng
ra, có thể bay lên và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy đoạn diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy
chứng được Trung gian Niết-bàn.
4. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái
này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không
phải của ta...". Vị ấy đoạn diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng
được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt
được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có thể văng ra, có
thể bay lên, sau khi chưa chạm vào đất, có thể trở thành nguội lạnh.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như
sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu cái
này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta...". Vị ấy, sau khi diệt
tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn.
5. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử, chứng
được Tổn hại Bát-niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt
được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có thể văng ra ,
có thể bay lên, sau khi chưa chạm vào đất, có thể trở thành nguội lạnh.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như
sau: "Nếu cái này không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu cái
này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận
năm hạ phần kiết sử, chứng được Tổn hại Bát-niết-bàn.
6. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo trong khi thực hành suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái
này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không
phải của ta...". Vị ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chứng được Vô
hành Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt được đốt
cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có thể văng ra, có thể bay
lên, có thể rơi xuống trên một đống cỏ nhỏ, hay trên một đống củi nhỏ;
miếng vụn ấy ở đấy sanh ra ngọn lửa, sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn
lửa, sau khi sanh ra khói, nó đốt chát tiêu hết đồng cỏ nhỏ ấy, hay đống
củi nhỏ ấy, rồi trở thành nguội lạnh vì không có nhiên liệu. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: "Nếu cái
này không có, cái này có
thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải
của ta...". Vị ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chứng được Vô hành
Niết-bàn.
7. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo khi thực hành như vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử, chứng
được Hữu hành Bát-niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng
sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có thể văng
ra, có thể bay lên, có thể rơi xuống trên một đống cỏ , hay trên một
đống củi rộng lớn; miếng vụn ấy ở đấy sanh ra ngọn lửa, sanh ra khói.
Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi sanh ra khói, nó đốt chát tiêu hết
đồng cỏ , hay đống củi rộng lớn ấy, rồi trở thành nguội lạnh vì không có
nhiên liệu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành như
vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này
không có, cái này sẽ không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này
sẽ không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần kiết sử, chứng
được Hữu hành Bát-niết-bàn.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi thực hành như vậy suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có, cái
này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không
phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ.". Vị ấy có
được xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích tụ của hữu;
với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh và vị ấy
chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa đoạn tận trọn
vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu
tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên.
Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng được Thượng lưu, đi đến Sắc
cứu cánh. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt được đốt cháy
cả ngày và được đập đánh,
một miếng vụn có thể văng ra, có thể bay lên, có thể rơi xuống trên một
đống cỏ, hay trên một đống củi to lớn; miếng vụn ấy ở đấy sanh ra ngọn
lửa, sanh ra khói. Sau khi sanh ra ngọn lửa, sau khi sanh ra khói, nó
đốt chát tiêu hết đồng cỏ, hay đống củi to lớn ấy, thiêu cháy lùm cây,
thiêu cháy rừng rậm. Sau khi thiêu cháy thảo nguyên, sau khi thiêu cháy
rừng rậm, nó cháy lan đến đám ruộng xanh hay đến đám đất cao, hay đến
hòn đá, hay đến dòng nước, hay đến đám đất khả ái, hay đến một phần đất
nào rồi trở thành nguội lạnh vì không có nhiên liệu. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành như vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái
này không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không
có, cái này sẽ không phải của ta...". Vị ấy, do diệt tận năm hạ phần
kiết sử, chứng được Thượng lưu Bát-niết-bàn, đi đến Sắc cứu cánh.
Này các Tỷ-kheo, đây là bảy sanh thú của loài Người. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là Không chấp thủ Bát-Niết-bàn?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo khi thực hành như vậy, suy nghĩ như sau: "Nếu cái này không có,
cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ
không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ.". Vị ấy
có được xả, vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích tụ của
hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh và
vị ấy chứng đắc trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa đoạn tận
trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn
hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy
miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy tự mình với thắng trí, ngay
trong hiện tại, chứng nhập, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là Không chấp thủ Bát-niết-bàn. Và này các Tỷ-kheo, đây là bảy sanh
thú của loài Người và Không chấp thủ Bát-niết-bàn.
(III)
(53) Tissa
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha (Vương Xá), tại núi Gijjihakuta
(Linh Thứu). Bấy giờ có hai Thiên nhân sau khi đêm đã gần mãn, với dung
sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Gijjihakuta, đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên
nhân bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này được giải thoát.
Thiên nhân khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này khéo giải thoát, không có dư y.
Các Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận. Rồi các Thiên
nhân ấy, sau khi được biết: "Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận", đảnh lễ Thế Tôn,
thân bên hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ. Rồi Thế Tôn, sau khi
đêm ấy đã mãn, bảo các Tỷ-kheo:
- Ðêm này, này các Tỷ-kheo, có hai Thiên nhân sau khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Gijjihakuta, đi đến Ta, sau
khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một Thiên
nhân bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này được giải thoát".
Thiên nhân khác bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo-ni này khéo
giải thoát, không có dư y". Này các Tỷ-kheo, các Thiên nhân ấy nói như
vậy. Sau khi nói như vậy, các Thiên nhân ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu
hướng về Ta, rồi biến mất tại chỗ.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Mahàmoggallàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi Tôn giả
Mahàmoggallàna suy nghĩ như sau: "Những Thiên nhân nào có trí như sau:
"Có dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư y"". Lúc bấy giờ,
Tỷ-kheo tên là Tissa mạng chung không bao lâu và được sanh lên một Phạm
thiên giới. Tại đấy, họ được biết vị ấy là Phạm thiên Tissa, có đại
thần lực, có đạt uy lực. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna, như người lực sĩ
duỗi cánh đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, biến
mất ở Gijjihakuta và hiện ra ở Phạm thiên giới ấy. Phạm thiên Tissa thấy
Tôn giả Mahàmoggallàna từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Tôn giả
Mahàmoggallàna:
- Hiền giả Moggallàna, hãy đến đây! Thiện lai Hiền giả Moggallàna! Ðã
lâu, Hiền giả Moggallàna mới tạo cơ hội này, tức là đến đây. Hãy ngồi,
Hiền giả Moggallàna, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn!
Tôn giả Mahàmoggallàna ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Phạm thiên
Tissa đảnh lễ Tôn giả Mahàmoggallàna rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả
Mahàmoggallàna nói với Phạm thiên Tissa đang ngồi xuống một bên:
- Những Thiên nhân nào có trí như sau: "Có dư y là có dư y" hay
"không có dư y là không có dư y". Thưa Hiền giả Moggallàna, Phạm chúng
thiên có trí như sau: "Có dư y là có dư y" hay "không có dư y là không
có dư y".
- Này Tissa, có phải tất cả chư Thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí
như vậy: "Có dư y là có dư y" hay "không có dư y là không có dư y"?
3. - Thưa Hiền giả, không phải tất
cả chư thiên ở Phạm chúng thiên đều có trí như vậy: "Có dư y là có dư y"
hay "không có dư y là không có dư y". Thưa Hiền giả Moggallàna, những
Thiên nhân nào ở Phạm chúng thiên bằng lòng với tuổi thọ Phạm thiên,
bằng lòng với dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm thiên, với danh tiếng
Phạm thiên, với uy quyền Phạm thiên, không như thật rõ biết sự xuất ly
cao hơn trạng thái ấy. Những vị ấy không có trí như sau: "Có dư y là có
dư y" hay "không có dư y là không có dư y". Và thưa Hiền giả Moggallàna,
những Thiên nhân nào ở Phạm chúng thiên, không bằng lòng với tuổi thọ
Phạm thiên, không bằng lòng với dung sắc Phạm thiên, với an lạc Phạm
thiên, với danh tiếng Phạm thiên, với uy quyền Phạm thiên, như thật rõ
biết sự xuất ly cao hơn trạng
thái ấy; những vị ấy có trí như sau: "Có dư y là có dư y" hay "không có
dư y là không có dư y".
4. Ở đây, thưa Hiền giả Moggallàna,
Tỷ-kheo được giải thoát cả hai phần. Chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau:
"Tôn giả này được giải thoát cả hai phần". Khi thân còn tồn tại, các
Thiên nhân và loài Người thấy được vị ấy. Khi thân hoại, các Thiên nhân
và loài người không thấy được vị ấy. Như vậy, thưa Hiền giả Moggallàna,
các Thiên nhân ấy, có trí như sau: "Không có dư y là không có dư y".
5. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo được tuệ giải thoát, chư Thiên ấy biết về vị ấy như
sau: "Tôn giả này được tuệ giải thoát". Khi thân còn tồn tại, các Thiên
nhân và loài Người thấy được vị ấy. Khi thân hoại, các Thiên nhân và
loài Người không thấy được vị ấy. Như vậy, thưa Hiền giả Moggallàna, các
Thiên nhân ấy có trí như sau: "Không có dư y là không có dư y".
6. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo thân chứng, chư Thiên ấy biết về vị ấy như sau: "Tôn
giả này là vị thân chứng. Rất có thể Tôn giả này, do sử dụng các sàng
tọa thích đáng, do thân cận các thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị
ấy có thể ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng
đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, mà các thiện nam tử vì mục
đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Như
vậy, thưa Hiền giả Moggallàna, các Thiên nhân ấy có trí như sau: "Có dư y
là có dư y".
7. Nhưng ở đây, thưa Hiền giả
Moggallàna, Tỷ-kheo kiến chí... tín giải thoát... tùy pháp hành. Chư
Thiên ấy biết về vị ấy như sau: "Tôn giả này là vị tùy pháp hành. Rất có
thể Tôn giả này, do sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận các
thiện bằng hữu, do chế ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại tự
mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh
Phạm hạnh, mà các thiện nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình". Như vậy, thưa Hiền giả Moggallàna, các
Thiên nhân ấy có trí như sau: "Hay trong các vị có dư y, vị ấy là vị có
dư y".
8. Rồi Tôn giả Moggallàna hoan hỷ
tín thọ lời nói của Phạm thiên Tissa. Như một người lực sĩ duỗi cánh tay
đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Tôn giả biến
mất ở Phạm thiên giới, hiện ra ở núi Gijjihakùta. Rồi Tôn giả,
Mahàmoggallàna đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna, đem câu
chuyện nói với Phạm thiên Tissa như thế nào, tường thuật hết tất cả cho
Thế Tôn nghe.
- Nhưng này Moggallàna, Phạm thiên Tissa không nói cho Thầy về hạng
người vô tướng trú thứ bảy.
- Bạch Thế Tôn, nay là thời, bạch Thiện Thệ, nay là thời để Thế Tôn
nói về người trú vô tướng thứ bảy. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ
thọ trì.
- Này Moggallàna, hãy lắng nghe.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Mahàmoggallàna vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
9. - Ở đây, này Moggallàna, Tỷ-kheo
không tác ý tất cả tướng, chứng đạt vô tướng tâm định và an trú. Các
Thiên nhân ấy biết về vị ấy như sau: "Tôn giả này, do không tác ý tất cả
tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định. Rất có thể Tôn giả này do
sử dụng các sàng tọa thích đáng, do thân cận các thiện bằng hữu, do chế
ngự các căn, vị ấy có thể ngay trong hiện tại tự mình chứng ngộ với
thắng trí, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà các thiện
nam tử vì mục đích ấy chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình". Như vậy, này Moggallàna, các Thiên nhân ấy có trí ấy như sau:
"Có dư y là có dư y".
(IV)
(54) Sìha
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Vesali, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn.
Rồi tướng quân Sìha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tướng quân Sìha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể nêu rõ kết quả hiện tại của sự bố thí?
2. - Này Sìha, ở đây Ta sẽ hỏi Ông.
Ông kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời như vậy. Ông nghĩ thế nào, này
Sìha, ở đây có hai người: một người không có lòng tin, xan tham, keo
kiệt, ác khẩu; một người có lòng tin là người thí chủ, ưa thích không
chấp thủ, nghĩ thế nào, này Sìha, các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, sẽ có
lòng từ mẫn với ai trước, với người không có lòng tin, xan tham, keo
kiệt, ác khẩu hay với người có lòng tin, là người chí thủ, không có chấp
thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiệt, ác
khẩu, làm sao các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, sẽ có lòng từ mẫn với hạng
người này trước được? Và bạch Thế Tôn, người nào có lòng tin, là người
thí chủ, không có chấp thủ, các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, sẽ có lòng
từ mẫn với hạng người này trước.
3. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha, các
vị A-la-hán đi đến thăm, có thể đến thăm ai trước, hạng người không có
lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu, hay hạng người có lòng tin, là
người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác
khẩu, làm sao các vị A-la-hán đi đến thăm, có thể đến thăm trước được?
Và bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin, là người thí chủ, không có chấp
thủ, các vị A-la-hán đi đến thăm sẽ đi đến hạng người này trước.
4. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha, các
vị A-la-hán thọ lãnh đồ ăn khất thực, có thể thọ lãnh của ai trước,
hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người
có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác
khẩu làm sao các vị A-la-hán thọ lãnh, có thể thọ lãnh của hạng người ấy
trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin, là người thí chủ,
ưa thích không chấp thủ, các vị A-la-hán có thể thọ lãnh của hạng người
này trước.
5. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha, các
vị A-la-hán thuyết pháp cho ai trước, hạng người không có lòng tin, xan
tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ,
ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác
khẩu làm sao các vị A-la-hán thuyết pháp sẽ thuyết pháp cho hạng người
ấy trước được? Và bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin, là người thí
chủ, ưa thích không chấp thủ, các vị A-la-hán thuyết pháp có thể thuyết
pháp cho hạng người này trước.
6. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha,
danh tiếng tốt đẹp của ai được truyền rộng ra, hạng người không có lòng
tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người
thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác
khẩu làm sao danh tiếng tốt đẹp của hạng người ấy được truyền rộng ra?
Bạch Thế Tôn, hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không
chấp thủ, danh tiếng tốt đẹp của hạng người này có thể được truyền rộng
ra.
7. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha, ai
đi đến bất cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng
Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không
sợ hãi, không rụt rè, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết,
ác khẩu hay hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không
chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác
khẩu làm sao hạng người ấy đi đến bất cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng
Sát-đế-ly, hoặc hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội
chúng Sa-môn, đi đến không sợ hãi, không rụt rè được? Bạch Thế Tôn, hạng
người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, hạng
người ấy đi đến bất cứ hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội
chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến
không sợ hãi, không rụt rè.
8. - Ông nghĩ thế nào, này Sìha, sau
khi thân hoại mạng chung, ai có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi
đời này, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác khẩu hay
hạng người có lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ?
- Bạch Thế Tôn, hạng người không có lòng tin, xan tham, keo kiết, ác
khẩu làm sao hạng người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ có thể sanh
lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này? Bạch Thế Tôn, hạng người có
lòng tin, là người thí chủ, ưa thích không chấp thủ, hạng người này, sau
khi thân hoại mạng chung, ai có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi
đời này
9. Bạch Thế Tôn, sáu kết quả hiện
tại của bố thí này được Thế Tôn tuyên bố không phải vì họ, con đi đến
lòng tin đối với Thế Tôn. Con biết họ. Bạch Thế Tôn, con là người bố
thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có lòng từ mẫn, có lòng từ mẫn
với con trước. Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ. Các
vị A-la-hán có đi đến thăm, đi đến thăm con trước. Bạch Thế Tôn, con là
người bố thí, là người thí chủ. Các vị A-la-hán có nhận lãnh đồ ăn khất
thực, nhận lãnh của con trước. Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là
người thí chủ. Các vị A-la-hán có thuyết pháp, thuyết pháp cho con
trước. . Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ, tiếng đồn
tốt đẹp về con được truyền rộng ra: "Tướng quân Sìha là người bố thí, là
người hành động, là người ủng hộ
chúng Tăng". Bạch Thế Tôn, con là người bố thí, là người thí chủ; con đi
đến hội chứng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly, hoặc hội chúng Bà-la-môn,
hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng Sa-môn, đi đến không sợ hãi,
không rụt rè. Bạch Thế Tôn, sáu kết quả hiện tại của bố thí này được Thế
Tôn tuyên bố, không phải vì họ, con đi đến lòng tin đối với Thế Tôn.
Con biết họ. Nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói về con như sau: "Sìha là
người bố thí, là thí chủ, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Con không biết vấn đề này, ở đây,
con đi đến lòng tin nơi Thế Tôn.
- Như vậy là phải, này Sìha! Như vậy là phải, này Sìha! Sìha là người
bố thí, là người thí chủ, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
(V) (55) Không Có Che Ðậy
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn điều
Như Lai không phải che đậy, và đối với ba điều, Ngài không có phạm lỗi.
Thế nào là bốn điều Như Lai không phải che đậy?
2. Này các Tỷ-kheo, thân hành của
Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có thân ác hành, khiến Như Lai phải
che đậy: "Ðừng để cho người khác biết việc này của Ta!". Này các
Tỷ-kheo, khẩu hành của Như Lai là thanh tịnh. Như Lai không có khẩu ác
hành, khiến Như Lai phải che đậy: "Ðừng để cho người khác biết việc này
của Ta!". Này các Tỷ-kheo, ý hành của Như Lai là thanh tịnh. Như Lai
không có ý ác hành, khiến Như Lai phải che đậy: "Ðừng để cho người khác
biết việc này của Ta!". Này các Tỷ-kheo mạng sống của Như Lai là thanh
tịnh. Như Lai không có tà mạng, khiến Như Lai phải che đậy: "Ðừng để cho
người khác biết việc này của Ta!".
Bốn điều này, Như Lai không phải che đậy. Thế nào là ba điều Như Lai
không có phạm lỗi?
3. Này các Tỷ-kheo, pháp được Như
Lai khéo thuyết. Ở đây, chắc chắn không có một ai, hoặc Sa-môn, hay
Bà-la-môn, hay Thiên nhân, hay Ác ma, hay Phạm thiên, hay một ai ở đời
sẽ có thể buộc tội một cách đúng pháp: "Ở đây, pháp không được Ngài khéo
thuyết". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này. Này các Tỷ-kheo,
do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an ổn, đạt được không sợ
hãi, đạt được không hoảng sợ. Này các Tỷ-kheo, con đường đưa đến
Niết-bàn cho các đệ tử được Ta làm cho khéo rõ biết. Nhờ thực hành con
đường như vậy, các đệ tử của Ta do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong
hiện tại, tự mình chứng ngộ thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Ở đây chắc chắn không có một ai, hoặc
Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay Thiên nhân, hay Ác
ma, hay Phạm thiên, hay một ai ở đời sẽ có thể buộc tội một cách đúng
pháp: "Ở đây, con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử không được Ngài
làm cho khéo rõ biết. Nhờ thực hành con đường như vậy, các đệ tử của
Ngài do diệt tận các lậu hoặc..., ... và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát". Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy có tướng này. Này các
Tỷ-kheo, do không thấy có tướng này, Ta an trú, đạt được an ổn, đạt được
không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ. Này các Tỷ-kheo, có đến hàng
trăm hội chúng đệ tử của Ta do diệt tận các lậu hoặc, ... chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ở đây chắc
chắn không có một ai, hoặc Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay Thiên nhân, hay Ác
ma, hay Phạm thiên, hay một ai ở đời sẽ có thể buộc tội một cách đúng
pháp:
"Như vậy, Ngài không có hàng trăm hội chúng đệ tử, do diệt tận các lậu
hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.". Này các Tỷ-kheo, Ta
không thấy có tướng này. Này các Tỷ-kheo, do không thấy có tướng này, Ta
an trú, đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được không hoảng sợ.
Ðối với ba điều này, Ta không có phạm lỗi.
Này các Tỷ-kheo, có bốn điều này, Như Lai không phải che đậy, và đối
với ba điều này, Ngài không có phạm lỗi.
(VI)
(56) Kimbila
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kimbila, tại rừng Trúc. Rồi Tôn giả Kimbila đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, khi Như Lai nhập diệt, diệu
pháp không được tồn tại lâu dài?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không cung kính, không tùy thuận bậc Ðạo Sư;
sống không cung kính, không tùy thuận Pháp; sống không cung kính, không
tùy thuận chúng Tăng; sống không cung kính, không tùy thuận học pháp,
sống không cung kính, không tùy thuận Thiền định; sống không cung kính,
không tùy thuận không phóng dật; sống không cung kính, không tùy thuận
nghinh đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên, khi Như Lai nhập
diệt, diệu pháp không được tồn tại lâu dài.
2. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính, tùy thuận bậc Ðạo Sư, sống cung
kính tùy thuận Pháp; sống cung kính tùy thuận học pháp; sống cung kính
tùy thuận Thiền định; sống cung kính tùy thuận không phóng dật; sống
cung kính tùy thuận nghinh đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên,
khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(VII) (57) Bảy Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, thành tựu bảy
pháp, Tỷ-kheo không bao lâu diệt tận các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng
đạt và an trú. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có lòng tin, có giữ giới, có nghe nhiều, sống Thiền tịnh, tinh cần tinh
tấn, có chánh niệm, có trí tuệ.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu, do
diệt tận các lậu hoặc chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
(VIII) (58) Ngủ Gục
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, tại
vườn Nai. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahàmoggallàna đang ngồi ngủ gục, trong
làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng Magadha. Thế Tôn với thiên nhãn
thanh tịnh siêu nhân, thấy Tôn giả Mahàmoggallàna đang ngồi ngủ gục,
trong làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng Magadha. Thấy vậy, như nhà lực
sĩ duỗi bàn tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra; cũng vậy,
Thế Tôn biến mất giữa dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng
Bhesakalà, ở vườn Nai, rồi hiện ra trước mặt Tôn giả Mahàmoggallàna, tại
làng Kallavàlamutta, giữa dân chúng Magadha. Thế Tôn ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Mahàmoggallàna.
- Này Moggallàna, có phải Thầy ngủ gục? Này Moggallàna, có phải Thầy
ngủ gục?
- Thưa phải, bạch Thế Tôn.
2. - Do vậy, này Moggallàna, khi nào
Thầy trú có tưởng và thụy miên xâm nhập Thầy, chớ có tác ý đến nó, chớ
có tưởng nhiều đến nó. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy
miên ấy được đoạn diệt.
3. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna, với tâm của Thầy, hãy
tùy tâm, tùy tứ, với ý hãy tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được
học thuộc lòng. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy
được đoạn diệt.
4. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy đọc tụng pháp
một cách rộng rãi, như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Sự
kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
5. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy kéo hai lỗ
tai của Thầy, và lấy tay xoa bóp tay chân. Sự kiện này có xảy ra, do
Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được đoạn diệt.
6. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy từ chỗ ngồi,
đứng dậy lấy nước chùi mắt, nhìn về phía chân trời và nhìn lên các sao
lấp lánh. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được
đoạn diệt.
7. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy tác ý đến
quang tưởng và an trú vào tưởng ban ngày. Như ban ngày, ban đêm cũng
vậy. Như ban đêm, ban ngày cũng vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có
hạn chế. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy miên ấy được
đoạn diệt.
8. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy trú tâm trên
chỗ kinh thành, với tưởng trước mặt và sau lưng, với căn hướng nội, với ý
không hướng ngoại. Sự kiện này có xảy ra, do Thầy trú như vậy, thụy
miên ấy được đoạn diệt.
9. Nếu Thầy trú như vậy, và thụy
miên ấy không được đoạn diệt, thời này Moggallàna Thầy hãy nằm như dáng
nằm con sư tử, về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau, chánh niệm
tỉnh giác, tác ý với tưởng thức dậy. Và khi thức dậy, này Moggallàna,
Thầy hãy thức dậy thật mau, nghĩ rằng: "Ta sẽ trú, không có chú tâm đến
lạc nằm ngủ, lạc nằm xuống một bên, lạc thụy miên". Như vậy, này
Moggallàna, Thầy cần phải học tập.
10. Do vậy, này Moggallàna, hãy học
tập như sau: "Không say sưa trong cao mạn, ta sẽ đi đến thăm các gia
đình". Này Moggallàna, như vậy các Thầy sẽ học tập. Này Moggallàna, nếu
Tỷ-kheo say sưa trong cao mạn đi đến thăm các gia đình. Trong các gia
đình, này Moggallàna, người ta có nhiều công việc phải làm. Do vậy,
người ta không có tác ý đến Tỷ-kheo đã đi đến. Ở đây, Tỷ-kheo ấy có thể
suy nghĩ: "Nay, ai đã chia rẽ ta với gia đình này. Các người này không
ưa thích gì ta". Như vậy, do không được gì, vị ấy nản chí, vị ấy giao
động; do giao động, vị ấy không phòng hộ, do không phòng hộ, tâm rời xa
Thiền định. Do vậy, này Moggallàna, hãy học tập như sau: "Ta sẽ không
nói lời khiêu khích". Như vậy, này Moggallàna, Thầy cần phải học tập.
Khi nào có lời khiêu khích, này
Moggallàna, thời chờ đợi là nhiều lời qua tiếng lại, khi nào có nhiều
lời qua tiếng lại, thời có dao động. Với người có dao động, thời không
có phòng hộ. Với người không có phòng hộ, tâm rời xa Thiền định. Này
Moggallàna, Ta không tán thán tất cả sự liên hệ, nhưng không phải Ta
không tán thán tất cả sự liên hệ. Thật vậy, này Moggallàna, Ta không tán
thán các vị xuất gia có sự liên hệ, với các gia chủ. Nhưng với các trú
xứ ít tiếng ồn, ít tiếng động, thoát khỏi hơi thở của nhiều người, những
chỗ ở cô độc xa vắng loài Người, thích hợp cho đời sống Thiền tịnh, Ta
tán thán sự liên hệ với những trú xứ như vậy.
11. Ðược nghe nói như vậy, Tôn giả
Mahàmoggallàna bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào, tóm tắt lại, một Tỷ-kheo được
giải thoát nhờ sự đoạn diệt khát ái, đạt đến cứu cánh mục đích, đạt đến
cứu cánh an ổn khỏi ách nạn, đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu
cánh của cứu cánh, trở thành tối thượng giữa chư Thiên và loài Người?
- Này Moggallàna, ở đây, Tỷ-kheo được nghe như sau: "Không nên thiên
chấp tất cả pháp". Này Moggallàna, và Tỷ-kheo được nghe như sau: "Không
nên thiên chấp tất cả pháp". Vị ấy thắng tri tất cả pháp; do thắng tri
tất cả pháp, vị ấy liễu tri tất cả pháp. Do liễu tri tất cả pháp, phàm
có cảm thọ gì được cảm giác, lạc, khổ hay không khổ, không lạc, vị ấy
trú tùy quán vô thường đối với các cảm thọ ấy. Vị ấy trú tùy quán ly
tham. Vị ấy trú tùy quán đoạn diệt. Vị ấy trú tùy quán từ bỏ. Do vị ấy
trú tùy quán vô thường trong các cảm thọ, do vị ấy trú tùy quán ly tham,
do vị ấy tùy quán đoạn diệt. Vị ấy trú tùy quán từ bỏ, nên không chấp
thủ một cái gì ở đời; do không chấp thủ nên không lo âu; do không tham
đắm nên tự mình nhập Niết-bàn. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trong trạng thái này
nữa". Này Moggallàna, cho đến như vậy, tóm tắt lại, một Tỷ-kheo được
giải thoát nhờ sự đoạn diệt khát ái, đạt đến mục đích cứu cánh, đạt đến
cứu cánh an ổn khỏi các ách nạn, đạt đến cứu cánh Phạm hạnh, đạt đến cứu
cánh của cứu cánh, trở thành tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
Này các Tỷ-kheo, chớ có sợ hãi các công đức. Này các Tỷ-kheo, đồng
nghĩa với an lạc chính là các công đức . Ta thắng tri rằng, này các
Tỷ-kheo, các công đức được làm lâu ngày có quả dị thúc, có sự hình thành
khả ái, khả hỷ, khả ý lâu ngày. Trong bảy năm Ta tu tập từ tâm, sau khi
tu tập từ tâm bảy năm, trong bảy thành kiếp hoại kiếp, Ta không trở lui
lại thế giới này. Khi thế giới ở trong thành kiếp, này các Tỷ-kheo, Ta
đi đến thế giới Quang âm thiên. Khi thế giới ở trong kiếp đấy, này các
Tỷ-kheo, Ta là Phạm thiên, là Ðại phạm thiên, vị Chiến thắng, vị Vô năng
thắng, vị Biến tri, vị Tự tại. Ba mươi sáu lần, này các Tỷ-kheo, Ta là
Thiên chủ Sakka. Nhiều lần bảy lần, Ta là vị Chuyển luân vương theo
Chánh pháp, là vị Pháp vương, bậc Chiến thắng bốn phương, đạt được sự
thanh bình cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Này các Tỷ-kheo, Ta có bảy
loại châu báu này, như là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu,
gia chủ báu và cư sĩ báu là thứ bảy. Ta có hơn một ngàn người con trai,
này các Tỷ-kheo, là những bậc anh hùng, dõng mãnh, đánh tan địch quân.
Và khi ta chiến thắng quả đất này, xa cho đến bờ biển, Ta trị vì quả đất
này không dùng trượng, không dùng đao, đúng với Chánh pháp.
Hãy xem quả dị thục,
Của các việc công đức,
Của các việc hiền thiện,
Với kẻ tìm an lạc.
Này Tỷ-kheo, Ta tu,
Từ tâm trong bảy năm,
Trong bảy thành hoại kiếp,
Không trở lại thành kiếp,
Ta đạt Quang âm thiên,
Khi thế giới hoại kiếp
Sanh Phạm cung trống rỗng.
Bảy lần, Ta đóng vai,
Ðại Phạm thiên, Tự tại,
Trong ba mươi sáu lần,
Làm Thiên chủ Thiên giới.
Ta làm vua Chuyển luân,
Chủ tể cõi Diêm-phù.
Bậc Sát-ly quán đảnh,
Bậc chủ tể loài Người,
Ta chiến thắng đất này,
Không với trượng, với kiếm,
Không bạo lực, đúng pháp,
Ðối mọi người bình đẳng,
Ta trị vì đúng pháp,
Trên cõi đất tròn này.
Ta khiến các gia đình,
Giàu lớn, tài sản lớn,
Họ hưởng mọi dục lạc,
Ta đầy đủ bảy báu,
Chư Phật thương tưởng đời,
Khéo dạy điều như vậy.
Ðấy là nhân đại sự,
Ðược gọi là Ðịa vương.
Ta là vua, huy hoàng,
Bảo vệ nhiều tài sản,
Có thần lực, danh xưng,
Vương chủ rừng Diêm-phù,
Ai nghe, không tịnh tín?
Trừ các loại ác sanh,
Do vậy muốn lợi ích,
Cầu vọng sự lớn mạnh,
Hãy kính trọng diệu pháp,
Hãy nhớ lời Phật dạy.
(IX) (59) Các Người Vợ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn đắp y,
vào buổi sáng, cầm y bát, đi đến trú xử của Anàthapindika; sau khi đến,
ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Lúc bấy giờ, trong trú xứ của gia chủ
Anàthapindika có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng. Rồi
Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi một
bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:
- Này Gia chủ, vì sao trong nhà của Ông lại có nhiều người nói cao
tiếng, nói lớn tiếng như những người đánh cá đang giành giựt cá?
- Bạch Thế Tôn, có nàng dâu Sujàtà giàu có đến đây từ một gia đình
giàu có. Nàng không vâng lời mẹ chồng, không vâng lời cha chồng, không
vâng lời chồng, cũng không cung kính, không tôn trọng, không lễ bái,
không cúng dường Thế Tôn.
2. Rồi Thế Tôn cho gọi nàng dâu
Sujàtà:
- Hãy đến đây Sujàtà!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Nàng dâu Sujàtà vâng đáp Thế Tôn, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với nàng dâu Sujàtà đang
ngồi một bên:
- Này Sujàtà có bảy loại vợ này cho người đàn ông. Thế nào là bảy? Vợ
như người sát nhân, vợ như người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như
người mẹ, vợ như người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ. Này
Sujàtà, có bảy loại vợ cho người đàn ông. Và con thuộc loại vợ nào?
- Bạch Thế Tôn, lời dạy tóm tắt này của Thế Tôn, con không hiểu rõ ý
nghĩa một cách rộng rãi. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn, nếu Thế
Tôn thuyết pháp cho con để con có thể hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi lời
dạy tóm tắt này của Thế Tôn.
- Vậy này Sujàtà, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng Sujàtà vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Ai tâm bị uế nhiễm,
Không từ mẫn thương người,
Thích thú những người khác,
Khinh rẻ người chồng mình,
Bị mua chuộc bằng tiền,
Hăng say giết hại người,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ sát nhân.
Còn hạng nữ nhân nào,
Tiêu xài tài sản chồng,
Do công nghiệp đem lại,
Hay thương nghiệp, nông nghiệp,
Do vậy, nếu muốn trộm,
Dầu có ít đi nữa,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ ăn trộm.
Không ưa thích làm việc,
Biếng nhác, nhưng ăn nhiều,
Ác khẩu và bạo ác,
Phát ngôn lời khó chịu,
Mọi cố gắng của chồng,
Ðàn áp và chỉ huy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi là vợ chủ nhân.
Ai luôn luôn từ mẫn,
Có lòng thương xót người,
Săn sóc giúp đỡ chồng,
Như mẹ chăm sóc con,
Tài sản chồng cất chứa,
Biết hộ trì gìn giữ,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như mẹ,
Ai như người em gái,
Ðối xử với chị lớn,
Biết cung kính tôn trọng,
Ðối với người chồng mình,
Với tâm biết tàm quí,
Tùy thuận phục vụ chồng,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như chị.
Ai ở đời thấy chồng,
Tâm hoan hỷ vui vẻ,
Như người bạn tốt lành,
Ðã lâu từ xa về,
Sanh gia đình hiền đức,
Giữ giới, dạ trung thành,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như bạn.
Không tức giận, an tịnh,
Không sợ hình phạt, trượng,
Tâm tư không hiềm hận,
Nhẫn nhục đối với chồng,
Không phẫn nộ tức giận,
Tùy thuận lời chồng dạy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ nữ tỳ.
Ở đời các hạng vợ,
Ðược gọi vợ sát nhân,
Kể cả vợ ăn trộm,
Và cả vợ chủ nhân,
Vợ ấy không giữ giới,
Ác khẩu và vô lễ
Khi thân hoại mạng chung,
Bị sanh vào địa ngục.
Ở đời các hạng vợ,
Như mẹ, chị và bạn,
Và người vợ được gọi,
Là vợ như nữ tỳ,
An trú trên giới đức,
Khéo phòng hộ lâu ngày,
Khi thân hoại mạng chung,
Ðược sanh lên thiện thú.
Này Sujàtà, có bảy loại vợ này đối với người đàn ông. Con thuộc hạng
người nào?
- Bạch Thế Tôn, bắt đầu từ hôm nay, Thế Tôn hãy xem con là người vợ
đối với chồng như người vợ nữ tỳ.
(X) (60) Sân Hận
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp
này được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người
phẫn nộ, đàn bà hay đàn ông. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thù
địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này trở
thành xấu xí!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ
kẻ thù địch của mình có dung sắc. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn
nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu cho người ấy khéo
tắm rửa, khéo chải chuốt, tóc râu khéo sửa soạn, mặc toàn đồ trắng rồi
người ấy cũng trở thành xấu xí, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các
Tỷ-kheo, đây là pháp thứ nhất, được người thù địch ưa thích, tác thành
kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này ngủ
một cách khổ sở!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan
hỷ kẻ thù địch của mình ngủ một cách an lành. Này các Tỷ-kheo, hạng
người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu có
nằm trên ghế dài, nệm trải bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu, nệm
bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với lọng che phía trên,
ghế dài có đầu gối chân màu đỏ. Tuy vậy, họ vẫn ngủ một cách khổ sở, vì
bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ hai, được người
thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà
hoặc đàn ông.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này không
có lợi ích!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ
kẻ thù địch của mình có được lợi ích. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào
phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, thâu hoạch bất lợi,
lại nghĩ rằng: "Ta được lợi ích", thâu hoạch điều bất lợi ích, lại nghĩ
rằng: "Ta không được lợi ích". Những pháp này được nắm giữ khiến người
khác trở thành thù địch, đưa đến không hạnh phúc, đau khổ lâu dài, vì bị
phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ ba, được người thù
ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn
ông.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này không
có tài sản!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ
kẻ thù địch của mình có được tài sản. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào
phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, những tài sản naò
của họ thâu hoạch do sự phấn chấn tinh cần, cất chứa do sức mạnh của
cánh tay, chồng chất do những giọt mồ hôi, đúng pháp, thâu hoạch hợp
pháp. Các tài sản ấy được nhà vua cho chở về ngân khố nhà vua, vì bị
phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ tư, được người thù
ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn
ông.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này không
có danh tiếng!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan
hỷ kẻ thù địch của mình có được danh tiếng. Này các Tỷ-kheo, hạng người
nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu có được
danh tiếng gì nhờ không phóng dật thâu hoạch được, danh tiếng ấy lánh xa
họ, vì bị phẫn nộ chinh phục. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ năm,
được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn
bà hoặc đàn ông.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này không
có bạn bè!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ
thù địch của mình có được bạn bè. Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn
nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu người đó có những
bạn bè thân hữu, bà con huyết thống gì, họ sẽ xa lánh, từ bỏ người đó,
vì người đó bị phẫn nộ chinh phục. Ðây là pháp thứ sáu, được người thù
ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn
ông.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau: "Mong rằng kẻ này sau
khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục!" Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù
địch của mình sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú,
Thiên giới, cõi đời này! Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị
phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, người đó làm ác hạnh với thân,
người đó nói lời ác hạnh với lời, người đó nghĩ đến điều ác hạnh với ý,
khi thân hoại mạng chung, người đó sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Ðây là pháp thứ bảy, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù
địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, được người thù địch ưa thích, tác
thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Kẻ phẫn nộ xấu xí,
Ðau khổ khi nằm ngủ,
Ðược các điều lợi ích
Lại cảm thấy bất lợi.
Phẫn nộ, nó đả thương,
Với thân với lời nói,
Người phẫn nộ chinh phục,
Tài sản bị tiêu vong.
Bị phẫn nộ điên loạn,
Danh dự bị hủy diệt,
Bà con cùng bạn bè,
Lánh xa người phẫn nộ.
Phẫn nộ sanh bất lợi,
Phẫn nộ dao động tâm,
Sợ hãi sanh từ trong,
Người ấy không rõ biết.
Phẫn nộ không biết lợi,
Phẫn nộ không thấy pháp,
Phẫn nộ chinh phục ai,
Người ấy bị mê ám.
Người phẫn nộ thích thú
Làm ác như làm thiện,
Về sau phẫn nộ dứt,
Bị khổ như lửa đốt,
Như ngọn lửa dầu khói,
Ðược thấy thất thểu cháy,
Khi phẫn nộ lan tràn,
Khi tuổi trẻ nổi nóng,
Không xấu hổ, sợ hãi,
Lời nói không cung kính.
Bị phẫn nộ chinh phục,
Không hòn đảo tựa nương.
Việc làm đem hối hận,
Rất xa với Chánh pháp.
Ta sẽ tuyên bố họ,
Hãy nghe như tuyên bố,
Phẫn nộ giết cả cha,
Phẫn nộ giết cả mẹ,
Phẫn nộ giết Phạm chí,
Phẫn nộ giết phàm phu.
Chính nhờ mẹ dưỡng dục,
Người thấy được đời này,
Nhưng phàm phu phẫn nộ,
Giết người cho sự sống.
Chúng sanh tự ví dụ,
Thương tự ngã tối thượng,
Phàm phu giết tự ngã,
Ðiên loạn nhiều hình thức,
Lấy gươm giết tự ngã,
Ðiên loại uống thuốc độc,
Dây tự trói họ chết,
Trong hang động núi rừng,
Những hành động sát sanh,
Khiến tự ngã phải chết.
Họ làm nhưng không biết,
Kẻ phẫn nộ hại người,
Với hình thức phẫn nộ,
Ma bẫy ẩn trong tâm.
Hãy nhiếp phục cắt đứt,
Với tuệ, tấn, chánh kiến,
Bậc trí tuệ cắt đoạn,
Mỗi mỗi bất thiện pháp
Như vậy học tập pháp,
Không để tâm nản chí,
Ly sân, không áo não,
Ly tham, tật đố không,
Nhiếp phục, đoạn phẫn nộ,
Vô lậu, nhập Niết-bàn.
VII. Ðại Phẩm
(I) (61) Xấu Hổ
1.
- Khi tàm quý không có, này các Tỷ-kheo,
với người thiếu tàm quý, chế ngự các căn đi đến hủy diệt. Khi chế ngự
các căn không có, với người thiếu chế ngự các căn, giới đi đến hủy diệt.
Khi giới không có, với người thiếu giới, chánh định đi đến hủy diệt.
Khi chánh định không có, với người không có chánh định, tri kiến như
thật đi đến hủy diệt. Khi tri kiến như thật không có, với người thiếu
tri kiến như thật, nhàm chán ly tham đi đến hủy diệt. Khi nhàm chán ly
tham không có, với người thiếu nhàm chán ly tham, giải thoát tri kiến đi
đến hủy diệt. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây không có cành và lá, các
mầm non của cây cấy không đi đến thành mãn; vỏ trong, giác cây, lõi cây
không đi đến thành mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi tàm quý không
có, với người không có tàm quý, chế ngự các căn đi đến hủy diệt... giải
thoát tri kiến đi đến hủy diệt.
2. Khi tàm quý không có, này các
Tỷ-kheo, với người đầy đủ tàm quý, chế ngự các căn đi đến đầy đủ. Khi
chế ngự các căn có mặt, với người đầy đủ chế ngự các căn, giới đi đến
đầy đủ. Khi giới có mặt, với người đầy đủ giới, chánh định đi đến đầy
đủ. Khi chánh định có mặt, với người đầy đủ chánh định, tri kiến như
thật đi đến đầy đủ. Khi tri kiến như thật có mặt, với người đầy đủ tri
kiến như thật, nhàm chán ly tham đi đến đầy đủ. Khi nhàm chán ly tham có
mặt, với người đầy đủ nhàm chán ly tham, giải thoát tri kiến đi đến đầy
đủ. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây có cành và lá, các mầm non của cây
ấy đi đến thành mãn; vỏ trong, giác cây, lõi cây đi đến thành mãn. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, khi tàm quý có mặt, với người đầy đủ tàm quý ...
giải thoát tri kiến đi đến đầy đủ.
(II) (62) Mặt Trời
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Vesàlì, tại rừng Ambapàli. Tại đấy, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, các hành là vô
thường. Này các Tỷ-kheo, các hành là không có kiên cố. Này các Tỷ-kheo,
các hành là không an ổn. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để
nhàm chán, là vừa đủ để ly tham, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả
hành. Núi chúa Sineru, này các Tỷ-kheo, dài 84 ngàn do tuần, rộng 84
ngàn do tuần, chìm xuống biển lớn 84 ngàn do tuần, nổi lên trên biển lớn
84 ngàn do tuần. Này các Tỷ-kheo, rồi có thời, nhiều năm, nhiều trăm
năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, trời không mưa. Khi không có
mưa, các loài chủng tử, các loài thực vật, các rừng rậm dược thảo đều
khô héo cằn cỗi không có tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành là
vô thường. Này các Tỷ-kheo, các hành là không có kiên cố. Này các
Tỷ-kheo, các hành là không an ổn.
Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để
ly tham, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các cành. Này các
Tỷ-kheo, rồi có thời, sau một thời gian rất dài, mặt trời thứ hai hiện
ra.
3. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ
hai có mặt, thời tất cả sông nhỏ, ao nhỏ khô cạn, khô kiệt, không có
tồn tại, như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành là vô thường... là vừa đủ để
giải thoát đối với tất cả các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời,
sau một thời gian rất dài, mặt trời thứ ba hiện ra.
4. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ
ba có mặt, thời các sông lớn như sông Hằng, sống Yamunà, Aciravatì,
Sarabhù, Mahì, các con sông ấy bị khô cạn, bị khô kiệt, không có tồn
tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành là vô thường... là vừa đủ để
giải thoát đối với tất cả các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời,
sau một thời gian rất dài, mặt trời thứ tư hiện ra.
5. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ
tư hiện ra, thời các biển hồ lớn, từ đấy các sông lớn chảy ra, ví như
Anotattà, Sìhapapàtà, Rathakàrà, Kannamunda, Kunàlà, Chaddantà,
Mandàkinì, các biển hồ ấy bị khô cạn, bị khô kiệt, không có tồn tại. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các hành là vô thường... là vừa đủ để giải thoát
đối với tất cả các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời, sau một thời
gian rất dài, mặt trời thứ năm hiện ra.
6. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ
năm hiện ra, thời nước các biển lớn rút lui một trăm do tuần, nước các
biển lớn rút lui hai trăm do tuần, các nước biển lớn rút lui ba trăm do
tuần... Nước các biển lớn rút lui bảy trăm do tuần; nước các biển lớn
dừng lại sâu đến bảy cây sàla, sáu cây sàla, năm cây sàla, bốn cây sàla,
ba cây sàla, hai cây sàla, chỉ một cây sàla. Nước các biển lớn dừng
lại, sâu đến bảy đầu người, sâu đến sáu đầu người, năm đầu người, bốn
đầu người, ba đầu người, hai đầu người, một đầu người, nửa đầu người.
Nước các biển lớn dừng lại, sâu chỉ đến eo lưng của người, chỉ đến đầu
gối của người, chỉ đến mắt cá của người. Ví như này các Tỷ-kheo, vào mùa
thu khi trời mưa hạt lớn, chỗ này chỗ khác, trong các dấu chân của các
con bò cái, có những vũng nước
nhỏ đọng lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, chỉ còn những vũng nước nhỏ
trong dấu chân các con bò cái là nước của biển lớn còn lại, chỗ này chỗ
kia. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ năm hiện ra, nước biển lớn chỉ
bằng độ ngón tay. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành là vô thường... là
vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi có
một thời, sau một thời gian rất dài, mặt trời thứ sáu hiện ra.
7. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ
sáu hiện ra, thời đất lớn này và núi chứa Sineru, sanh khói lên, thổi
khói lên, phun khói lên. Ví như, này các Tỷ-kheo, các lò của người thợ
gốm mới đốt lửa lên, sanh khói lên, phun khói lên. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ sáu hiện ra, thời đất lớn này và núi chứa
Sineru sanh khói lên, thổi khói lên, phun khói lên. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các hành là vô thường... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả
các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời, sau một thời gian rất dài,
mặt trời thứ bảy hiện ra.
8. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ
bảy hiện ra, trái đất lớn này và núi chứa Sineru bốc cháy, rực cháy,
trở thành một màn lửa. Và khi quả đất lớn này và núi chúa Sineru cháy đỏ
lên, cháy rực lên ngọn lửa do gió thổi bốc cao đến Phạm thiên giới. Các
chóp ngọn của núi Sineru, cao đến một, hai, ba, bốn, năm trăm do tuần,
khi bị cháy đỏ lên, cháy rực lên, bị cả khối lửa to lớn phá hoại và
chinh phục, liền sụp đổ xuống. Sau khi quả đất lớn và núi Sineru bị cháy
đỏ lên, cháy rực lên, không tìm thấy tro và lọ đen. Ví như, này các
Tỷ-kheo, khi bơ và dầu được cháy đỏ, được cháy rực lên, không tìm thấy
tro và lọ đen. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi quả đất lớn này và núi
chứa Sineru bị cháy đỏ lên, cháy rực lên, không tìm thấy tro và lọ đen.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành
là vô thường. Này các Tỷ-kheo, các hành là không kiên cố. Này các
Tỷ-kheo, các hành là không an ổn. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là
vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để ly tham, là vừa đủ để giải thoát đối
với tất cả hành. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ai là người có thể nghĩ rằng,
ai là người có thể tin rằng: "Quả đất này và núi chứa Sineru sẽ bị đốt
cháy, sẽ bị hủy hoại, sẽ không còn tồn tại nữa", trừ những người đã được
chứng kiến.
9. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có Ðạo
Sư Sunetta thuộc ngoại đạo, được ly tham trong các dục. Này các
Tỷ-kheo, Ðạo Sư Sunetta có hàng trăm người đệ tử. Ðao Sư Sunetta thuyết
pháp cho các đệ tử về cọng trú với chư Thiên ở Phạm thiên giới. Và tất
cả những ai nắm hiểu một cách hoàn toàn trọn vẹn lời thuyết dạy của
Sunetta, về cọng trú với chư Thiên ở Phạm thiên giới, khi thân hoại mạng
chung, họ được sanh lên thiện thú Phạm thiên giới. Những ai không nắm
hiểu một cách hoàn toàn trọn vẹn lời dạy của Sunetta, sau khi thân hoại
mạng chung, một số được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tha hóa Tự tại,
một số được sanh cọng trú với chư Thiên ở Hóa Lạc thiên, một số được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Ðâu-suất thiên, một số được sanh cọng trú
với chư Thiên ở Dạ-ma thiên, một số
được sanh cọng trú với chư Thiên ở Thiên giới Ba mươi ba, một số được
sanh cọng trú với chư Thiên ở Bốn Thiên vương, một số được sanh cọng trú
với các đại gia đình Sát-đế-lỵ, một số được sanh cọng trú với các đại
gia đình Bà-la-môn, một số được sanh cọng trú với các đại gia đình gia
chủ.
10. Rồi này các Tỷ-kheo, Ðạo Sư
Sunetta suy nghĩ như sau: "Thật không xứng đáng cho ta trong đời sau lại
có một sanh thú giống như sanh thú của các đệ tử. Vậy ta hãy tu tập tối
thượng từ bi". Rồi này các Tỷ-kheo, bậc Ðạo sư Sunetta trong bảy năm tu
tập từ tâm. Sau khi tu tập từ tâm bảy năm, trong bảy năm thành kiếp
hoại kiếp, vị ấy không trở lui lại thế giới này. Trong kiếp thành của
thế giới, này các Tỷ-kheo, vị ấy đi đến thế giới của Abhassara (Quang Âm
thiên). Trong kiếp hoại của thế giới, vị ấy được sanh trong Phạm cung
trống không. Tại đấy này các Tỷ-kheo, vị ấy là Phạm thiên, Ðại Phạm
thiên, bậc chiến thắng, bậc vô năng, bấc biến tri, bậc tự tại. Ba mươi
sáu lần, này các Tỷ-kheo, vị ấy là Thiên chủ Sakka. Nhiều lần bảy lần,
vị ấy là vị Chuyển luân Thánh vương
theo Chánh pháp, là vị pháp vương, bậc chiến thắng bốn phương, đạt được
sự thanh bình cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Vị ấy có hơn một ngàn
người con trai, là những bậc anh hùng, dũng mãnh, đánh tan địch quân. Và
vị ấy chiến thắng quả đất này xa cho đến hải biên, trị vì quả đất này
không dùng trượng, không dùng dao, đúng với Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo,
Ðạo sư Sunetta ấy, dầu cho thọ mạng lâu dài như vậy, sống lâu dài như
vậy, nhưng không được thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu não.
Ta nói rằng vị ấy chưa giải thoát khỏi khổ. Vì cớ sao? Vì rằng vị ấy
chưa giác ngộ, chưa thể nhập bốn pháp. Thế nào là bốn?
11. Này các Tỷ-kheo, vì không giác
ngộ, không thể nhập Thánh giới; vì không giác ngộ, không thể nhập Thánh
định; vì không giác ngộ, không thể chấp Thánh trí tuệ, vì không giác
ngộ, không thể nhập Thánh giải thoát. Này các Tỷ-kheo, sự kiện là như
sau: Khi Thánh giới được giác ngộ, được thể nhập; khi Thánh trí tuệ được
giác ngộ, được thể nhập; khi Thánh giải thoát được giác ngộ, được thể
nhập, cắt đứt là hữu ái; sợi dây đưa đến sanh hữu được đoạn tận, nay
không có tái sanh.
Thế Tôn nói như vậy. Bậc Thiện Thệ nói xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Vô thượng giới và định,
Trí tuệ và giải thoát,
Gotama danh tiếng,
Giác ngộ những pháp này.
Ðức Phật với thắng trí,
Thuyết pháp cho Tỷ-kheo,
Bậc Ðạo sư đoạn khổ,
Bậc Pháp nhãn tịch tịnh.
(III)
(63) Thành Trì
1. - Này các Tỷ-kheo, khi nào một
thành trì biên địa của vua được khéo trang bị với bảy trang bị của một
thành trì, và bốn loại đồ ăn có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc; có được không phí sức, thời này các Tỷ-kheo, thành trì biên địa ấy
được gọi là không bị chinh phục bởi quân địch ở bên ngoài và kẻ đồng
minh phản nghịch ở bên trong. Thế nào là được khéo trang bị với bảy
trang bị của một thành trì?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có một cột trụ đâm sâu vào đất, khéo đào sâu,
không bị dao động, không bị lay chuyển. Với trang bị thành trì thứ nhất
này là thành trì biên địa của vua được khéo trang bị, để bảo vệ những
người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có một đường thông hào sâu và rộng. Với trang
bị thành trì thứ hai này là thành trì biên địa của vua được khéo trang
bị, để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những người bên
ngoài.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có một đường chạy vòng xung quanh vừa cao và
vừa rộng. Với trang bị thành trì thứ ba này của một thành trì, là thành
trì biên địa của vua được khéo trang bị, để bảo vệ những người ở trong
thành và để chống cự những người bên ngoài.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có nhiều vũ khí được cất chứa như Salàkam
(cung tên) và Jevanìyam (cây lao) với trang bị thành trì thứ tư này là
thành trì biên địa của vua được khéo trang bị, để bảo vệ những người ở
trong thành và để chống cự những người bên ngoài.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có nhiều quân đội đồn trú, như những người
cưỡi voi, những người cưỡi ngựa, những người cưỡi xe, những người cầm
cung, những người cầm cờ, các quan lo chỗ ở, các lính lo vấn đề lương
thực, những người con vua dõng mãnh, những bộ đội xung kích, đội voi
lớn, các dũng sĩ, các binh sĩ mặc áo giáp, những người con của các nô
tỳ. Với trang bị thành trì thứ năm này là thành trì biên địa của vua
được khéo trang bị, để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự
những người bên ngoài.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua, có người giữ cửa thành là người hiền trí,
thông minh, có trí, ngăn chặn những người lạ mặt, cho vào những người
quen biết. Với sự trang bị thành trì thứ sáu này là thành trì biên địa
của vua được khéo trang bị, để bảo vệ những người ở trong thành và để
chống cự những người bên ngoài.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có bức thành vừa cao vừa rộng, ngoài mặt có
trét vôi hồ. Với sự trang bị thành trì thứ bảy này là thành trì biên địa
của vua được khéo trang bị, để bảo vệ những người ở trong thành và để
chống cự những người bên ngoài.
Với bảy loại trang bị thành trì này, thành trì được xem là được khéo
trang bị. Thế nào là bốn loại đồ ăn có được không khó khăn, có được
không mệt nhọc, có được không phí sức?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có nhiều cỏ, củi, nước được tích trữ để những
người ở trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để
chống cự những người bên ngoài.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có cất chứa nhiều lúa và lùa mì để những
người ở trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để
chống cự những người bên ngoài.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có cất chứa nhiều mè, đậu, các loại giả đậu
và ngũ cốc để những người ở trong thành... để chống cự những người bên
ngoài.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có cất chứa nhiều dược phẩm, như thục tô,
sanh tô, dầu, mật, đường bánh, muối để những người ở trong thành... để
chống cự những người bên ngoài.
Bốn loại đồ ăn này, có được không khó khăn, có được không mệt nhọc,
có được không phí sức.
Khi nào, này các Tỷ-kheo, một thành trì biên địa của vua, được khéo
trang bị với bảy món trang bị này của một thành trì và bốn loại đồ ăn có
được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức,
thời này các Tỷ-kheo, thành trì biên địa ấy được gọi là không bị chinh
phục với quân địch ở bên ngoài và kẻ đồng minh phản nghịch ở bên trong.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào Thánh đệ tử thành tựu với bảy diệu
pháp và bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không
khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức, thời này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử này được gọi là không bị Ma chinh phục, không bị ác
chinh phục. Vị ấy thành tựu bảy pháp gì?
13. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có một cột trụ đâm sâu vào đất, khéo đóng,
không bị dao động, không bị lay chuyển để bảo vệ những người ở trong
thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn". Với lòng tin làm cột trụ, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất
thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không có tội, gìn giữ tự thân
thanh tịnh. Với diệu pháp thứ nhất này, vị ấy được thành tựu.
14. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có một con đường thông hào, vừa sâu và rộng
để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những người bên
ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có lòng xấu hổ. Vị ấy xấu
hổ vì thân làm ác, vì miệng nói ác, vì ý nghĩ ác. Vị ấy xấu hổ vì bị rơi
vào các ác, bất thiện pháp. Lấy xấu hổ làm con đường thông hào, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu
tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu pháp thứ hai này, vị
ấy được thành tựu.
15. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có một con đường đi vòng chung quanh, vừa cao
vừa rộng để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những người
bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có lòng sợ hãi, sợ
hãi vì thân làm ác, vì miệng nói ác, vì ý nghĩ ác. Vị ấy sợ hãi vì bị
rơi vào các ác, bất thiện pháp. Lấy sợ hãi làm con đường đi vòng xung
quanh, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ
có tội, tu tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu pháp thứ
ba này, vị ấy được thành tựu.
16. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có nhiều vũ khí được cất chứa, như cung tên
và cây lao để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những
người bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử là người nghe
nhiều, thọ trì điều đã được nghe, cất chứa điều đã được nghe. Những pháp
nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên Phạm
hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Các pháp như vậy được nghe nhiều,
được thọ trì, được đọc cho thành thục, được ý khéo tùy quán, được khéo
thể nhập với tri kiến. Lấy nghe nhiều làm vũ khí, này các Tỷ-kheo, Thánh
đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội,
gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu pháp thứ tư này, vị ấy được thành
tựu.
17. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có nhiều quân đội đồn trú, như những người
cưỡi voi, những người cưỡi ngựa, những người cưỡi xe, những người cầm
cung, những người cầm cờ, những quan lo chỗ ở, các lính lo vấn đề lương
thực, những người con vua dõng mãnh, những bộ đội xung kích, đội voi
lớn, các dũng sĩ, các binh sĩ mặc áo giáp, những con của nô tỳ, để bảo
vệ những người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn để đoạn tận
các pháp bất thiện, để đầy đủ các pháp thiện, nỗ lực, kiên trì, không từ
bỏ gánh nặng trong các thiện pháp. Lấy tinh tấn làm quân đội, này các
Tỷ-kheo, vị thiện nam tử từ bỏ bất thiên, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu
tập không tội, gìn giữ tự thân
thanh tịnh. Với diệu pháp thứ năm này, vị ấy được thành tựu.
18.Ví như, này các Tỷ kheo, trong
thànbh trì biên địa của vua có người giữ cửa thành là người hiền trí,
thông minh, có trí, ngăn chặn những nười lạ mặt, cho vaò những người
quen biết để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những người
bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống có chánh niệm
thành tựu tối thắng niệm tuệ, nhớ đến và tùy niệm việc làm dã lâu ngày,
lời nói đã lâu ngày. Với niệm làm người giữ cưả thành, này các Tỷ kheo,
Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện pháp từ bỏ có tội, tu tập
không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu pháp thứ sáu này, vị ấy
được thành tựu.
19. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có bức thành vừa cao vừa rộng, ngoài mặt trét
vôi hồ để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những người
bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử là người có trí tuệ,
thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự Thánh thể nhập vào con đường đưa
đến đoạn tận khổ đau. Với trí tuệ làm lớp vôi hồ trét bên ngoài, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu
tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu pháp thứ bảy này, vị
ấy được thành tựu.
Với bảy diệu pháp này, vị ấy thành tựu. Thế nào là bốn Thiền thuộc
tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không
mệt nhọc, có được không phí sức?
20. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có nhiều cỏ, củi, nước được tích trữ để những
người ở trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để
chống những người bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử ly
dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ để tự mình được an vui, khỏi sự lo
ngại, được lạc trú và để bước vào Niết-bàn.
21. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có cất chứa nhiều lúa và lúa mì để những
người ở trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc trú để chống
cự những người bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử, do
tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm để tự mình được
an vui, không phải lo ngại, được lạc trú và để bước vào Niết-bàn.
22. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có cất chứa nhiều mè, đậu, các loại giả đậu
và ngũ cốc để những người trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được
lạc trú và để chống cự những người bên ngoài. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử, do ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm
sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú
Thiền thứ ba để tự mình được an vui, không phải lo ngại, được lạc trú và
để bước vào Niết-bàn.
23. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
thành trì biên địa của vua có nhiều dược phẩm được cất chứa ví như thục
tô, dầu, mật, đường bánh, muối để những người trong thành được an vui,
khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để chống cự những người bên ngoài. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử, do đoạn lạc, do đoạn khổ, chấm dứt
hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh, để tự mình được an vui, khỏi sự lo ngại,
được lạc trú và để bước vào Niết-bàn.
Bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không
khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức.
Này các Tỷ-kheo, khi nào Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp này và
bốn Thiền này, thuộc tăng thương tâm, hiện tại lạc trú, có được không
khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức, này các
Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh đệ tử không bị ma chinh phục, không bị ác
chinh phục.
(VI)
(64) Pháp Trí
1. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng... là phước
điền vô thượng ở đời. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là vị biết pháp, biết nghĩa, biết tự ngã, biết ước lượng, biết thời,
biết hội chúng, biết người thắng kẻ liệt. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo biết pháp?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết pháp: Khế Kinh, ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự
thuyết, Như thị thuyết, Bổn sanh, Pháp chưa từng có, Phương quảng. Này
các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết pháp: Khế kinh, ứng tụng... Phương
quảng, vị ấy ở đây không được gọi là vị biết pháp. Và này các Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo biết pháp: Khế kinh, ứng tụng... Pháp chưa từng có, Phương
quảng; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết pháp. Như vậy là biết pháp. Thế
nào là biết nghĩa?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của
lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này". Này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo không biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây
là ý nghĩa của lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này", thời ở đây,
vị ấy không được gọi là vị biết nghĩa. Và này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của
lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này".; do vậy, vị ấy được gọi
là vị biết nghĩa. Ðây là biết pháp, biết nghĩa. Thế nào là tự biết?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tự biết; "Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố
thí, trí tuệ, biện tài". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết tự ngã
như vầy: "Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố
thí, trí tuệ, biện tài", ở thời đây, vị ấy không được gọi là vị biết tự
ngã. Nếu Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, biết tự ngã: "Cho đến như vậy, tôi có
lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ, biện tài"; do vậy, vị
ấy được gọi là vị biết tự ngã. Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết. Và
thế nào là biết ước lượng?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết ước lượng (vừa đủ) trong khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không
biết ước lượng vừa đủ khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh, thời vị ấy ở đây không được gọi là vị biết ước
lượng vừa đủ. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết ước lưỡng vừa đủ khi
nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh;
do vậy vị ấy được gọi là vị biết ước lượng vừa đủ. Ðây là biết pháp,
biết nghĩa, tự biết, biết ước lượng. Và thế nào là biết thời?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết thời: "Ðây là thời để tuyên thuyết, đây là thời chất vấn, đây là
thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không
biết thời: "Ðây là thời tuyên thuyết, đây là thời chất vấn, đây là hời
tu tập, đây là thời Thiền tịnh", thời ở đây, vị ấy được gọi là không
biết thời. Và này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết thời: Ðây là thời tuyên
thuyết, đây là thời chất vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền
tịnh"; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết thời. Ðây là biết pháp, biết
nghĩa, tự biết, biết vừa đủ, biết thời. Và thế nào là biết hội chứng?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn,
đây là hội chúng Gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi đến
như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy, nên im
lặng như vậy". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết hội chúng: "Ðây
là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng Gia
chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như
vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy, nên im lặng như vậy", thời ở
đây, vị ấy không được gọi là "Vị biết hội chúng". Và này các Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội
chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng Gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở
đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như
vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy, nên im lặng như vậy"; do vậy,
được gọi là "Vị biết hội chúng". Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết,
biết vừa đủ, biết thời, biết hội chúng. Và thế nào là biết người thắng
liệt?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, với vị
Tỷ-kheo, loài Người được biết theo hai hạng: một hạng ưa thấy các bậc
Thánh, một hạng không ưa thấy các bậc Thánh. Người này không ưa thấy các
bậc Thánh, do có việc ấy, đáng bị quở trách. Còn người này ưa thấy các
bậc Thánh, do việc ấy, đáng được tán thán. Có hai hạng người nghe diệu
pháp: một hạng người ưa nghe diệu pháp, một hạng người không ưa nghe
diệu pháp. Hạng người này không ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng
bị quở trách. Hạng người này ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng được
tán thán. Có hai hạng người nghe diệu pháp: một hạng người lắng tai
nghe diệu pháp, một hạng người không lắng tai nghe diệu pháp. Hạng người
này không lắng tai nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách.
Hạng người này lắng tai nghe diệu
pháp, do sự việc ấy, đáng được tán thán. Có hai hạng người lắng tai nghe
pháp: một hạng người nghe xong, thọ trì pháp; một hạng người nghe xong,
không thọ trì pháp. Người này nghe xong không thọ trì pháp, do sự việc
ấy, đáng bị quở trách. Người này nghe xong thọ trì pháp, do sự việc ấy,
đáng được tán thán. Có hai hạng người nghe xong thọ trì pháp: một hạng
người quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, một hạng người không quán
sát ý nghĩa các pháp được thọ trì. Hạng người này không quán sát ý nghĩa
các pháp được thọ trì, do sự việc ấy, đáng được quở trách. Hạng người
này quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, do sự việc ấy, đáng được tán
thán. Có hai hạng người quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì: một
hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, đã thực hành
pháp; tùy pháp; một hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp,
không thực hành pháp, tùy pháp. Hạng người này sau khi hiểu nghĩa, sau
khi hiểu pháp, không thực hành pháp, tùy pháp, do sự việc ấy, đáng bị
quở trách. Hạng người này sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực
hành pháp, tùy pháp, do sự việc ấy, đáng được tán thán. Có hai hạng
người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp đã thực hành pháp; tùy pháp:
một hạng người thực hành với mục đích tự lợi, không có lợi tha; một
hạng người thực hành với mục đích tự lợi và lợi tha. Hai hạng người này
thực hành với mục đích tự lợi, không có lợi tha, do sự việc ấy, đáng bị
quở trách. Hạng người này thực hành với mục đích tư lợi và lợi tha, do
sự việc ấy, đáng được tán thán. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đối với
Tỷ-kheo,
loài Người được biết theo hai dạng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
biết hạng người thắng liệt.
Do thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là phước điền vô thượng ở đời.
(V)
(65) Cây Kovilàra Pàricchattaka
1. - Này các Tỷ-kheo, khi nào cây
Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa bắt đầu khô héo lá, thời
khi ấy, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ rằng:
"Nay lá của cây Kovilàra Pàricchattaka đã khô héo, không bao lâu lá sẽ
rụng". Này các Tỷ-kheo, trong khi Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên
Tàvatimsa rụng lá, thời khuấy, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi
Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka đã rụng lá,
không bao lâu, mầm non cánh hoa sẽ mọc ra". Này các Tỷ-kheo, trong khi
cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa mọc ra mầm non cánh
hoa, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, chư Thiên Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ
rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka mọc ra mầm non cánh hoa, không bao
lâu, đọt non cánh hoa sẽ mọc ra". Này
các Tỷ-kheo, trong khi cây Kovilàra Pàricchattaka mọc ra đọt non cánh
hoa, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Thiên Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ
rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka mọc ra đọt non cánh hoa, không bao
lâu các nụ hoa... sẽ được sanh ra". Này các Tỷ-kheo, trong khi cây
Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa sanh ra nụ hoa, này các
Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Thiên Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ rằng: "Nay cây
Kovilàra Pàricchattaka sanh ra nụ hoa, không bao lâu, các bông hoa sẽ
được sanh ra". Này các Tỷ-kheo, trong khi cây Kovilàra sanh ra các bông
hoa, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Thiên Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ
rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka sanh ra các bông hoa, không bao
lâu, các bông hoa sẽ được nở toàn diện". Này các Tỷ-kheo, trong khi cây
Kovilàra có bông hoa được nở toàn diện, này các Tỷ-kheo, chư Thiên
Tàvatimsa hoan hỷ, chơi đùa trong bốn tháng chư Thiên, dưới gốc cây
Kovilàra Pàricchattaka, vui chơi thọ hưởng, tận hưởng năm dục công đức.
Này các Tỷ-kheo, khi cây Kovilàra Pàricchattaka nở toàn diện các bông
hoa, mùi hương bay tràn xung quanh đến năm mươi do tuần; thuận gió, mùi
hương bay đến một trăm do tuần. Ðây là uy lực của cây Kovilàra
Pàricchattaka.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi
Thánh đệ tử nghĩ đến xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử như lá héo cây Kovilàra
Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo, trong khi ấy
Thánh đệ tử cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh đệ tử như cây
Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa bị lá rụng. Này các
Tỷ-kheo, trong khi vị Thánh đệ tử ly dục... chứng đạt và an trú sơ
Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này các
Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh đệ tử như mầm non cánh hoa được sanh của
cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo,
trong khi Thánh đệ tử làm cho tịnh chỉ tầm và tứ... chứng
đạt và an trú Thiền thứ hai, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử
như đọt non cánh hoa được sanh của cây Kovilàra Pàricchattaka của chư
Thiền Tàvatimsa. của chư Thiên Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo,, trong khi
Thánh đệ tử ly hỷ, trú xả... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba, này các
Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh đệ tử như nụ hoa được sanh của cây Kovilàra
Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo, trong khi vị
Thánh đệ tử đoạn lạc... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, này các
Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh đệ tử như các bông hoa được sanh của cây
Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo,, trong
khi vị Thánh đệ tử do đoạn diệt các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng đạt và
an trú, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh đệ tử như các bông hoa được
nở
toàn diện của cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa. Này
các Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Ðịa thần tuyên bố lớn tiếng: "Vị Tôn giả
với tên họ thế này, đồng trú cùng một lòng tin với Tôn giả với họ tên
thế này đã xuất gia từ làng như vậy, từ thị trấn như vậy, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, sau khi đoạn diệt các lậu hoặc... chứng ngộ,
chứng đạt và an trú...". Sau khi nghe tiếng của chưa Ðịa thần, chư Thiên
Bốn Thiên vương thiên... chư Thiên Tàvatimsa... chư Thiên Yàma... chư
Thiên Tusità... chư Thiên Hóa lạc thiên... chư Thiên Tha hóa Tự tại...
chư Thiên Phạm chúng tuyên bố lớn tiếng: "Vị Tôn giả với tên họ thế này,
đồng trú cùng một lòng tin với Tôn giả với họ tên như thế này đã xuất
gia từ làng như vậy, từ thị trấn như vậy, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình, sau khi đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình
thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát".
Như vậy trong sát-ma ấy, trong giây phút ấy, tiếng ấy truyền đến Phạm
thiên giới. Ðây là uy lực của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc.
(VI) (66) Vị Tỷ Kheo Phải Kính Trọng Ai?
1. Rồi Tôn giả Sàriputta, trong khi
sống một mình, Thiền tịnh, tâm tư suy nghĩ như sau khởi lên: "Vị Tỷ-kheo
cung kính tôn trọng, sống nương tựa ai để có thể từ bỏ bất thiện, tu
tập thiện?" Rồi Tôn giả Sàriputta suy nghĩ như sau: "Tỷ-kheo cung kính
tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện. Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Pháp... chúng Tăng...
Học pháp... Ðịnh... không phóng dật... Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa tiếp đón thân tình để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện". Rồi Tôn giả Sàriputta lại suy nghĩ như sau: "Những pháp này
trong ta đã được thanh tịnh trong sáng. Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn và báo
cho Thế Tôn rõ những pháp này, như vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh
trong ta và được xem là trong sạch hơn
nữa. Ví như một người tìm được một đồng tiền vàng lớn, thanh tịnh trong
sáng. Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến người thợ vàng và đưa
xem đồng tiền vàng này. Ðồng tiền vàng này được ta đưa cho người thợ
vàng như vậy sẽ được thanh tịnh và trong sáng hơn nữa". Cũng vậy, các
pháp này ở nơi ta được thanh tịnh, trong sáng. Ta hãy đi đến Thế Tôn và
báo cho Thế Tôn rõ những pháp này. Như vậy các pháp này sẽ được thanh
tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa". Rồi Tôn giả Sàriputta,
vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta
bạch Thế Tôn:
2. - Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi
con sống một mình Thiền tịnh, tâm tư suy nghĩ như sau khởi lên nơi con:
"Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa ai để có thể từ bỏ bất
thiện, tu tập thiện?" Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Tỷ-kheo
cung kính tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư để có thể từ bỏ bất thiện, tu
tập thiện. Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Pháp... chúng
Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật... tiếp đón thân tình để có
thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện".. Rồi bạch Thế Tôn, con lại suy nghĩ
như sau: "Những pháp này trong ta đã được thanh tịnh trong sáng. Vậy ta
hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này, như vậy các
pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa.
Ví như một người tìm được một
đồng tiền vàng lớn, thanh tịnh trong sáng. Người ấy suy nghĩ như sau:
"Ta hãy đi đến người thợ vàng và đưa xem đồng tiền vàng này. Ðồng tiền
vàng này được ta đưa cho người thợ vàng như vậy sẽ được thanh tịnh và
trong sáng hơn nữa". Cũng vậy, các pháp này ở nơi ta được thanh tịnh,
trong sáng. Ta hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này.
Như vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong
sạch hơn nữa".
- Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung
kính tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư, có thể từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện. Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương tựa
Pháp... chúng Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật...Này
Sariputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương tựa tiếp đón thân
tình để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.
Khi được nói vậy, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
3. - Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt
này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau: Bạch Thế
Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, sẽ cung kính Pháp sự
kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư,
vị ấy cũng không cung kính Pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào
không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp sẽ cung kính chúng Tăng, sự
kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo
Sư, không cung kính Pháp, vị ấy cũng không cung kính chúng Tăng. Bạch
Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính
Pháp, không cung kính chúng Tăng, sẽ cung kính Học pháp, sự kiện này
không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không
cung kính Pháp, không cung kính
chúng Tăng, vị ấy cũng không cung kính học pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn
Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung
kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, sẽ cung kính Thiền định. Sự
kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư,
không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học
pháp, vị ấy cũng không cung kính Thiền định. Bạch Thế Tôn, chắc chắn
Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung
kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định,
sẽ cung kính không phóng dật, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn,
Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung
kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định,
vị ấy
cũng không cung kính không phóng dật. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo
nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng
Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định, không cung
kính không phóng dật, sẽ cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không
xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung
kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không
cung kính Thiền định, không cung kính không phóng dật, vị ấy cũng không
cung kính tiếp đón thân tình.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, sẽ không cung kính Pháp,
sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, vị
ấy cũng cung kính Pháp. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư,
cung kính Pháp sẽ không cung kính chúng Tăng, sự kiện này không xảy ra.
Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, vị ấy
cũng cung kính chúng Tăng. Bạch Thế Tôn, chắc chắn vị Tỷ-kheo nào cung
kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, sẽ không cung kính
Học pháp, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính
Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, vị ấy cũng cung kính học
pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính
Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, sẽ không cung kính Thiền
định, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo
Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, vị ấy cũng
cung kính Thiền định. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo
Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính
Thiền định, sẽ không cung kính không phóng dật, sự kiện này không xảy
ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung
kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, vị ấy cũng
cung kính không phóng dật. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính
Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung
kính Thiền định, cung kính không phóng dật, sẽ không cung kính tiếp đón
thân tình, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào
cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học
pháp, cung kính Thiền định, cung kính không phóng dật, vị ấy cũng cung
kính tiếp đón thân tình. Bạch Thế Tôn, với lời vắn tắt này của Thế Tôn,
con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
4. - Lành thay, lành thay, này
Sàriputta! Lành thay, này Sàriputta, với lời nói vắn tắt này của Ta,
Thầy đã hiểu một cách rộng rãi như vậy. Này Sàriputta, thật vậy, Tỷ-kheo
nào không cung kính Ðạo Sư, sẽ cung kính Pháp, sự kiện này không xảy
ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào không cung kính bậc Ðạo Sư, vị ấy cũng
không cung kính Pháp... Này Sàriputta, vị Tỷ-kheo nào không cung kính
Ðạo Sư... không cung kính Pháp... không cung kính chúng Tăng... không
cung kính Học pháp... không cung kính Thiền định... . không cung kính
không phóng dật, sẽ cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy
ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính
Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung
kính Thiền định, không cung kính, không
cung kính không phóng dật, vị ấy cũng không cung kính tiếp đón thân
tình.
Này Sàriputta, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo sư, sẽ không cung
kính Pháp, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào không
cung kính bậc Ðạo Sư, vị ấy cũng cung kính Pháp... Này Sàriputta, vị
Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư... cung kính Pháp... cung kính chúng
Tăng... cung kính Học pháp... cung kính Thiền định... cung kính không
phóng dật, sẽ không cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy
ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung
kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, cung kính
không phóng dật, vị ấy cũng cung kính tiếp đón thân tình. Này Sàriputta,
lời nói vắn tắt này của Ta, ý nghĩa cần phải được thấy một cách rộng
rãi như vậy.
(VII) (67) Sự Tu Tập
1. - Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không
chí tâm trong sự tu tập khởi lên ước muốn như sau: "Mong rằng tâm ta
được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ!" Tuy vậy, tâm vị
ấy cũng không giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập
cái gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ, không có tu tập Bốn chánh cần,
không có tu tập Bốn như ý túc, không có tu tập Năm căn, không có tu tập
Năm lực, không có tu tập Bảy Bồ-đề phần, không có tu tập Thánh đạo tám
ngành.
Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà, không
được con gà mái ấp nằm đúng cách, không được ấp nóng đúng cách, không
được ấp dưỡng đúng cách.
Dầu cho con gà mái ấy khởi lên ý muốn: "Mong rằng những con gà con
của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể
vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn, tuy vậy, các con gà con ấy
không có thể, với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi làm
bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!
Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà mái ấy
không được con gà mái nằm ấp một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng
đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không chú tâm trong sự tu tập, dầu
cho có khởi lên ý muốn: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu
hoặc không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải thoát khỏi
các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập
cái gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ... không có tu tập Thánh đạo tám
ngành.
2. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú
tâm trong sự tu tập, dầu cho không khởi lên ước muốn: "Mong rằng tâm ta
được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị
ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Có tu tập cái gì? Có tu
tập Bốn niệm xứ, có tu tập Bốn chánh cần, có tu tập Bốn như ý túc, có tu
tập Năm căn, có tu tập Năm lực, có tu tập Bảy giác chi, có tu tập Thánh
đạo tám ngành.
Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà. Các
trứng ấy được con gà mái ấp nằm đúng cách, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp
dưỡng một cách đúng đắn. Dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý muốn:
"Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với
miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!",
tuy vậy, các con gà con ấy có thể với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng
và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn.
Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà được con
gà mái ấy ấp nằm một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng
một cách đúng đắn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm tu tập, dầu cho vị ấy
không khởi lên ý muốn: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu
hoặc không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị ấy vẫn được giải thoát khỏi các
lậu hoặc, không có chấp thủ.
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Tu tập cái gì? Có tu tập
Bốn niệm xứ... có tu tập Thánh đạo tám ngành.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thợ nề hay đệ tử người thợ nề, khi
nhìn vào cán búa, thấy dấu các ngón tay và dấu ngón tay cái. Người ấy
không có thể biết được như sau: "Hôm nay từng ấy cán búa của ta bị hao
mòn, hôm qua từng ấy, các ngày khác từng ấy". Nhưng người ấy biết được
cán búa bị hao mòn trên sự hao mòn của cán búa.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chú tâm trong sự tu tập không có
biết như sau: "Hôm nay từng ấy lậu hoặc của ta được đoạn tận, hôm qua
từng ấy, các ngày khác từng ấy". Nhưng vị ấy biết được các lậu hoặc được
đoạn tận trên sự đoạn tận các lậu hoặc.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một chiếc thuyền đi biển, có đầy đủ cột buồm
và dây buồm bị mắc cạn sáu tháng do thiếu nước trong mùa đông, các cột
buồm và dây buồm bị gió và mặt trời làm hư hỏng. Rồi bị nước mưa đổ
xuống trong mùa mưa, chúng bị hư dần và mục nát một cách dễ dàng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, các
kiết sử rất dễ bị yếu dần và mục nát.
(VIII) (68) Lửa
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại
chúng Tỷ-kheo. Trong khi đang đi trên con đường, Thế Tôn thấy tại một
địa điểm, một nhóm lửa lớn đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn.
Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, dưới một
gốc cây. Ngồi xuống, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ,
cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc nào là tốt hơn: ôm ấp,
ngồi gần hay nằm gần nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
lửa ngọn, hay ôm ấp, ngồi gần, nằm gần tay chân mềm mại non trẻ của
người con gái Sát-đế-lỵ, hay người con gái Bà-la-môn, hay người con gái
gia chủ?
- Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Ôm ấp, ngồi gần, hay nằm gần tay
chân mềm mại non trẻ của người con gái Sát-đế-lỵ, hay người con gái
Bà-la-môn, hay người con gái gia chủ. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là ôm ấp,
ngồi gần hay nằm gần nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
lửa ngọn!
- Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh,
đáng nghi ngờ những hành vi che đậy, không phải Sa-môn, nhưng tự nhận là
Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng tự nhận sống Phạm hạnh, nội tâm hôi
hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Thật là tốt hơn cho người ấy
ôm ấp, ngồi gần hay nằm gần nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy đỏ lửa ngọn. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo,
người ấy có thể đi đến chết, hay đi đến gần như chết, nhưng không vì
nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người ác giới theo
ác pháp... tánh tình bất tịnh, ôm ấp, ngồi gần, hay nằm gần tay chân
mềm mại non trẻ của người con gái Sát-đế-lỵ, hay người con gái
Bà-la-môn, hay người con gái gia chủ; như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến
cho vị ấy bất hạnh đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
2. Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, việc gì là tốt hơn: Một người lực sĩ, với sợi dây đuôi ngựa
chắc chắn, cuốn vào hai ống chân rồi siết mạnh, sợi dây ấy cắt đứt da
ngoài, sau khi cắt đứt da ngoài, lại cắt đứt da trong, sau khi cắt đứt
da trong, lại cắt đứt thịt, sau khi cắt đứt thịt, lại cắt đứt dây gân,
sau khi cắt đứt dây gân, lại cắt đứt xương, sau khi cắt đứt xương và
chạm tủy và dừng lại; hay là nhận sự đảnh lễ của các Sát-đế-lỵ đại phú
hay các Bà-la-môn đại phú, hay các giả chủ đại phú?
- Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Nhận sự vái chào của các
Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú.
Khổ đau, bạch Thế Tôn, là người lực sĩ, với sợi dây đuôi ngựa chắc
chắn... va chạm tủy và dừng lại.
- Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp,... ứ đầy tham dục,
tánh tình bất tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ, với sợi dây
đuôi ngựa chắc chắn... va chạm tủy và dừng lại. VÌ cớ sao? Vì do nguyên
nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết, hay đi đến khổ gần như
chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi
một người ác giới, theo ác pháp, tánh tình bất tịnh, nhận sự đảnh lễ của
các Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay các đại gia chủ
đại phú; như vậy khiến cho vị ấy bất hạnh đau khổ lâu dài, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
3. Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, việc nào là tốt hơn: Bị một người lực sĩ, với cây kiếm sắc bén,
được dầu rửa sạch, đập vào giữa ngực; hay là thọ nhận chấp tay vái chào
của các Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay gia chủ đại
phú?
- Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn, (tức là) thọ nhận chấp tay vái
chào của các Sát-đế-lỵ, đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia
chủ đại phú. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị người lực sĩ, với cây kiếm sắc
bén, được dầu mỡ rửa sạch, đập vào giữa ngực.
- Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với cây gươm sắc bén, được dầu
rửa sạch, đập vào giữa ngực. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các
Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết. Nhưng không
vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người ác giới,
theo ác pháp... tánh tình bất tịnh, thọ nhận chắp tay vái chào của các
Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú;
như vậy khiến cho vị ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại
mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
4. Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, việc nào là tốt hơn: Bị một người lực sĩ với các tấm sắt nóng
đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn áp cuốn vào thân; hay là
hưởng thọ y áo do các Sát-đế-lỵ đại phú, hay Bà-la-môn đại phú, hay các
gia chủ đại phú vì lòng tin cúng dường?
- Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn (tức là) hưởng thọ y áo do các
Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú vì
lòng tin cùng dường. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị người lực sĩ với các
tấm sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn áp cuốn vào
thân.
- Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nêu rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp, tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với các tấm sắt nóng đang cháy
đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn áp cuốn vào thân. Vì cớ sao? Vì do
nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần
như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung,
có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo,
khi một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh... tánh tình bất
tịnh, hưởng thọ các y áo, do các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại
phú, hay các gia chủ đại phú, vì lòng tin cúng dường; như vậy, này các
Tỷ-kheo, khiến cho vị ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại
mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
5. Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, việc nào tốt hơn: Bị một người lực sĩ với cái kềm sắt nóng,
cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và nhét miệng một hòn
sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, hòn sắt ấy đốt
cháy môi của người ấy, đốt cháy miệng, đốt cháy lưỡi, đốt cháy cổ họng,
đốt cháy bụng đem theo ruột non, ruột già và thoát ra ngoài từ phần ở
dưới; hay là thọ hưởng đồ ăn khất thực do các Sát-đế-lỵ đại phú, các
Bà-la-môn đại phú, các gia chủ đại phú, vì lòng tin cúng dường?
- Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Hưởng thọ các đồ ăn khất thực do
các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú hay các gia chủ đại phú vì
lòng tin cúng dường. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là người bị lực sĩ với cái
kềm sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và
nhét vào miệng một hòn sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa
ngọn. Hòn sắt ấy đốt cháy môi của người ấy, đốt cháy miệng, đốt cháy
lưỡi, đốt cháy cổ họng, đốt cháy bụng đem theo ruột non, ruột già và
thoát ra ngoài từ phần ở dưới.
- Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với các kềm sắt nóng đang cháy
đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và nhét vào miệng một hòn
sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Hòn sắt ấy đốt
cháy môi của người ấy, đốt cháy miệng, đốt cháy lưỡi, đốt cháy cổ họng,
đốt cháy bụng đem theo ruột non, ruột già và thoát ra ngoài từ phần ở
dưới. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến
chết hay đi đến khổ gần như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp, sở hành
bất tịnh... tánh tình bất tịnh, hưởng thọ các đồ ăn khất thực do các
Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, do các gia chủ đại phú, vì
lòng tin cúng dường; như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến cho vị ấy bất hạnh,
đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục.
6. Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, việc nào là tốt hơn: Bị một người lực sĩ nắm lấy đầy hay nắm
lấy vai, ép ngồi hay ép nằm trên một giường sắt hay một ghế sắt nóng
đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn; hay là hưởng thọ giường ghế
do các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại
phú vì lòng tin cúng dường?
- Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Hưởng thọ giường và ghế do các
nhà Sát-đế-lỵ đại phú... do các gia chủ đại phú vì lòng tin cúng dường.
Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị người lực sĩ nắm lấy đầu hay nắm lấy vai,
ép ngồi hay ép nằm trên một giường sắt hay một ghế nóng đang cháy đỏ,
cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn!
- Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ nắm lấy đầu hay nắm lấy vai,
ép ngồi hay ép nằm trên một giường sắt hay một ghế sắt nóng đang cháy
đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này
các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết, nhưng
không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người
ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh... tánh tình bất tịnh, hưởng thọ
các giường ghế do các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, hay do
các gia chủ đại phú, vì lòng tin cúng dường; như vậy, này các Tỷ-kheo,
khiến cho vị ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
7. Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, việc nào là tốt hơn: Bị một người lực sĩ nắm chân phía trên,
đầu phía dưới và quăng vào một ghè sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy đỏ lửa ngọn, tại đấy, người ấy bị nấu sôi lên như bọt nước tự mình
nổi lên, tự mình chìm xuống, tự mình đi ngang; hay là hưởng thọ tinh xá
do các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú hay do các gia chủ đại
phú vì lòng tin cúng dường?
- Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn, hưởng thọ tinh xá do các
Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú vì
lòng tin cúng dường. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị người lực sĩ nắm chân
phía trên, đầu phía dưới, và quăng người ấy vào trong một cái ghè sắt
nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Tại đấy bị nấu sôi...
tự mình đi ngang.
- Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị người lực sĩ nắm chân phía trên, đầu phía
dưới... tự mình đi ngang. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các
Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết, nhưng không
vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ,
ác thú đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người ác giới,
theo ác pháp... tánh tình bất tịnh, hưởng thọ tinh xá, do các Sát-đế-lỵ
đại phú... hay các gia chủ đại phú, vì lòng tin cúng dường, như vậy, này
các Tỷ-kheo, khiến cho người ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân
hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do vậy, này
các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau: "Chúng ta hưởng thọ các
vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh của
những ai, đối với những người ấy, sở hành như vậy sẽ có quả lớn, có lợi
ích hơn. Và sự xuất gia của chúng ta sẽ không có trống không, có kết
quả, có thành tích".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
8. Này các Tỷ-kheo, với ai thấy được
lợi ích của mình, thật là vừa đủ để tinh cần, không phóng dật. Này các
Tỷ-kheo, với ai thấy được lợi ích của người, thật là vừa đủ để tinh cần,
không phóng dật. Này các Tỷ-kheo, với ai thấy được lợi ích cả hai, thật
là vừa đủ để tinh cần, không phóng dật.
Thế Tôn thuyết như vậy. Trong khi lời nói này được nói lên, có khoảng
sáu mươi vị Tỷ-kheo hộc máu nóng từ miệng, có khoảng sáu mươi Tỷ-kheo
từ bỏ học pháp và hoàn tục, nghĩ rằng: "Khó làm thay, Thế Tôn! Thật khó
làm thay, Thế Tôn!". Có khoảng sáu mươi Tỷ-kheo, với tâm được giải
thoát, không chấp thủ các lậu hoặc.
(IX)
(69) Sunetta
1. - Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có
Ðạo Sư tên là Sunetta, thuộc ngoại đạo, đã ly tham đối với các dục. Ðạo
sư Sunetta, này các Tỷ-kheo, có hàng trăm đệ tử. Ðạo sư Sunetta thuyết
pháp cho các đệ tử để cọng trú với thế giới Phạm thiên. Này các Tỷ-kheo,
những ai tâm không hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư Sunetta để
cọng trú với thế giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung, họ phải sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, còn những ai tâm
hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư Sunetta để cọng trú với thế
giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung, họ được sanh lên thiện thú,
thiên giới, cõi đời này.
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có Ðạo
sư tên là Mùgapakkha... có Ðạo sư tên là Aranemi... có Ðạo sư tên là
Kuddàla... có Ðạo sư tên là Hatthipàla... có Ðạo sư tên là Jotipàla...
có Ðạo sư tên là Araka. Ðạo sư Araka thuộc ngoại đạo đã ly tham đối với
các dục. Ðạo sư Araka, này các Tỷ-kheo, có hàng trăm đệ tử. Ðạo sư Araka
thuyết pháp cho các đệ tử cọng trú với thế giới Phạm thiên. Này các
Tỷ-kheo, những ai tâm không hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư
Araka để cọng trú với thế giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung, họ
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, còn những ai
tâm hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư Araka để cọng trú với thế
giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung, họ sanh lên thiện thú, thiên
giới, cõi đời này.
3. Các Thầy nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, ai với tâm ác quở trách, phỉ báng, bảy bậc Ðạo sư này thuộc
ngoại đạo đã ly tham đối với các dục, được hàng trăm chúng đệ tử đoanh
vây, người ấy có tạo ra nhiều điều vô phước không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Này các Tỷ-kheo, ai với tâm quở trách, phỉ báng bảy Ðạo sư này,
thuộc ngoại đạo, đã ly tham đối với các dục, được hàng trăm chúng đệ tử
đoanh vây, người ấy tạo ra nhiều điều vô phước; còn ai với ác tâm, quở
trách phỉ báng một bậc đầy đủ chánh kiến, do vậy, người này tạo ra nhiều
điều vô phước hơn nữa. Vì cớ sao? Ta tuyên bố không kham nhẫn một người
như vậy, từ trong ra ngoài, đối với các vị đồng Phạm hạnh. Do vậy, này
các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ không có
tâm ác độc đối với các vị đồng Phạm hạnh". Này các Tỷ-kheo, các Thầy cần
phải học tập như vậy.
(X)
(70) Araka
1. - Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có
Ðạo sư tên là Araka thuộc ngoại đạo đã ly tham đối với các dục. Này các
Tỷ-kheo, Ðạo sư Araka có đến hàng trăm đệ tử. Ðạo sư Araka thuyết pháp
cho các đệ tử như sau:
2. "Này Bà-la-môn, ít oi là đời sống
của loài Người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với
bùa chú, hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh! Với người
đã sanh, không có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn, giọt sương trên đầu
ngọn cỏ, khi mặt trời mọc, mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài.
Cũng vậy, này Bà-la-môn, như giọt sương là đời sống loài Người, nhỏ bé,
không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với bùa chú, hãy giác ngộ!
Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh! Với người đã sanh, không có bất
tử. Ví như, này Bà-la-môn, khi trời mưa nặng hạt, bong bóng nước trên
nước mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này Bà-la-môn,
như bong bóng nước là đời sống của loài Người, nhỏ bé, không đáng kể,
nhiều khổ đau, nhiều ưu não.
Với bùa chú, hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh! Với
người đã sanh, không có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn, con sông trên núi
chảy xa, dòng nước chảy nhanh, lôi cuốn theo vật này vật khác, không có
sát-na nào, không có giây phút nào, không có thời khắc nào có dừng
nghỉ, nó phải chảy tới, cuồn cuộn chảy, thúc đẩy chảy tới. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, ví như con sông ấy là đời sống của loài Người, nhỏ bé, không
đáng kể... với người đã sanh, không có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn,
người lực sĩ tụ lại một cục nước miếng trên đầu lưỡi và nhổ đi không có
phí sức. Cũng vậy, này Bà-la-môn, ví dụ với cục nước miếng là đời sống
loài Người, nhỏ bé, không đáng kể... Với người đã sanh, không có bất tử.
Ví như, này Bà-la-môn, một miếng thịt được quăng vào một nồi sắt
được hâm nóng cả ngày, mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài. Cũng
vậy, này Bà-la-môn, ví như miếng thịt là đời sống con người, nhỏ bé,
không đáng kể... Với người đã sanh, không có bất tử. Ví như, này
Bà-la-môn, con bò cái sắp bị giết, được dắt đến lò thịt, mỗi bước chân
giơ lên là bước gần đến bị giết, gần đến chết. Cũng vậy, này Bà-la-môn,
ví dụ với con bò cái sắp bị giết là đời sống con người, nhỏ bé, không
đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với bùa chú, hãy giác ngộ, hay làm
điều lành, hãy sống Phạm hạnh. Với người đã sanh, không có bất tử".
3. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo,
tuổi thọ của loài Người lên đến 60.000 năm. Người con gái 500 tuổi có
thể đến tuổi lấy chồng. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, loài Người có sáu
loại bệnh: lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện. Này các Tỷ-kheo,
bậc Ðạo sư Araka ấy, với loài Người thọ mạng dài như vậy, sống lâu như
vậy, ít bệnh như vậy, lại thuyết pháp cho các đệ tử như vậy: "Ít oi, này
Bà-la-môn, là đời sống loài Người, nhỏ bé không đáng kể, nhiều khổ đau,
nhiều ưu não. Với bùa chú, hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời
Phạm hạnh! Với người đã sanh, không có bất từ". Nay, này các Tỷ-kheo, ai
nói một cách chơn chánh, phải nói như sau: "Ít oi, là đời sống loài
Người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với trí tuệ,
hãy giác ngộ! Hãy làm điều lành,
hãy sống Phạm hạnh! Với người đã sanh, không có bất tử". Nay, này các
Tỷ-kheo, ai sống lâu, vị ấy sống một trăm tuổi, ít hơn hay nhiều hơn.
Mạng sống 100 tuổi, này các Tỷ-kheo, được chia thành 300 mùa: một trăm
mùa đông, một trăm mùa hạ, một trăm mùa mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu cho
sống ba trăm mùa, người ấy sống 12 lần 100 tháng: 400 tháng lạnh, 400
tháng nóng, 400 tháng mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu cho sống 12 lần 100
tháng, người ấy sống 24 lần một trăm nửa tháng: 800 nửa tháng lạnh, 800
nửa tháng nóng, 800 nửa tháng mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu cho sống 24 lần
một trăm nửa tháng, người ấy sống 36 lần 1000 đêm: 12.000 đêm lạnh,
12.000 đêm nóng, 12.000 đêm mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu cho sống 36 lần
1000 đêm, người ấy ăn chỉ có 72 ngàn bữa cơm: 24 ngàn bữa cơm vào mùa
lạnh, 24
ngàn bữa cơm vào mùa nóng, 24 ngàn bữa cơm vào mùa mưa. Ðây gồm có với
sữa mẹ và thời gian không có đồ ăn. Ở đây, có những khi không có bữa ăn
này, nghĩa là tức giận không ăn cơm, khổ đau không ăn cơm, bịnh hoạn
không ăn cơm, trai giới không ăn cơm, không thâu hoạch được, không ăn
cơm.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, tuổi thọ một trăm năm của loài Người được
Ta gọi là tuổi thọ, được gọi là lượng của tuổi thọ, được gọi là thời
tiết, được gọi là năm, được gọi là tháng, được gọi là nửa tháng, được
gọi là đêm, được gọi là đêm ngày, được gọi là bữa ăn, được gọi là giữa
bữa ăn.
4. Này các Tỷ-kheo, những gì bậc Ðạo
sư phải làm, vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy Ta
đã làm, vì lòng thương tưởng các Thầy. Này các Tỷ-kheo, đây là những
gốc cây, đây là những căn nhà không tịnh. Này các Tỷ-kheo, hãy Thiền
định, chớ có phóng dật, chớ hối tiếc về sau. Ðó là lời giáo huấn của Ta
cho các Thầy.
VIII. Phẩm Về Luật
(I) (71) Trì Luật (1)
1.
- Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo là bậc trì Luật. Thế nào là bảy?
2. Biết vi phạm; biết không vi phạm;
biết phạm nhẹ, biết phạm nặng; có giới luật, sống chế ngự với sự chế
ngự của giới bổn; đầy đủ uy nghi và chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những
lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp; bốn Thiền thuộc
tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không
mệt nhọc, có được không phí sức; do đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với
thắng trí ngay trong hiện tại chứng ngộ, chứng đạt vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
(II) (72) Trì Luật 2)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật. Thế nào là bảy?
2. Biết vi phạm; biết không vi phạm;
biết phạm nhẹ, biết phạm nặng; cả hai giới bổn được khéo truyền lại một
cách rộng rãi, khéo phân loại, khéo điều chỉnh, khéo quyết định thành
sutta và thành chi tiết; bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc
trú, có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí
sức; do đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí ngay trong hiện tại
chứng ngộ, chứng đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
(III) (73) Trì Luật (3)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật. Thế nào là bảy?
2. Biết vi phạm; biết không vi phạm;
biết phạm nhẹ, biết phạm nặng; biết an trú trên luật không thể bác bỏ
được; bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm... có được không phí sức; do đoạn
trừ các lậu hoặc ... tuệ giải thoát.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
(IV) (74) Trì Luật (4)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật. Thế nào là bảy?
2. Biết vi phạm; biết phạm nhẹ, biết
phạm nặng; nhớ đến nhiều đời trước, như một đời, hai đời... như vậy,
nhớ đến nhiều đời trước với những đặc điểm, với những chi tiết; với
thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân... biết rõ chúng sanh; do đoạn trừ các
lậu hoặc, tự mình... tuệ giải thoát.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
(V
- VIII) (75-78) Chói Sáng
1. - Thành tựu bảy pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật chói sáng. Thế nào là bảy?
(Như trên, 71 - 74, chỉ khác thêm chữ chói sáng).
(IX) (79) Thông Ðiệp
1. Rồi Tôn giả Upàli đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Upàli bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con một cách
vắn tắt, sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an
tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
2. - Này Upàli, những pháp nào Thầy
biết: "Những pháp này không được đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn", thời này Upàli, Thầy
cần phải nhất hướng thọ trì là: "Ðây không phải Pháp, đây không phải
Luật, đây không phải lời dạy Thế Tôn". Và này Upàli, những pháp nào Thầy
biết: "Những pháp này đưa đến nhất hướng, nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn", thời này Upàli, Thầy cần
phải nhất hướng thọ trì là: "Ðây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy
Thế Tôn".
(X) (80) Diệt Tránh Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, bảy pháp diệt
tránh này đưa đến chấm dứt, làm cho an tịnh các tranh luận tiếp tục khởi
lên. Thế nào là bảy?
2. Luật về sự hiện diện cần phải áp
dụng. Luật về ức niệm cần phải áp dụng. Luật về không si mê cần phải áp
dụng. Luật về tự thú nhận cần phải áp dụng. Luật về đa số cần phải áp
dụng. Luật về tìm tội ấy cần phải áp dụng. Luật về trải cỏ cần phải áp
dụng.
Này các Tỷ-kheo, bảy pháp diệt tránh này đưa đến chấm dứt, làm cho an
tịnh các tranh luận tiếp tục khởi lên.
IX. Phẩm Các Kinh Không
Nhiếp
[I]
(I) (1) Sự Phá Hoại
1.-
Do phá hoại bảy pháp, này các Tỷ-kheo,
thành vị Tỷ-kheo. Thế nào là bảy?
2. Phá hoại kiến có thân, phá hoại
nghi, phá hoại giới cấm thủ, phá hoại tham, phá hoại sân, phá hoại si,
phá hoại mạn.
Do phá hoại bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, thành vị Tỷ-kheo.
(II-VIII)
(2-8) Các Pháp Khác
1. Này các Tỷ-kheo, do đoạn diệt bảy
pháp, thành vị Sa-môn ... do vất bỏ bảy pháp, thành vị Bà-la-môn ... Do
tiêu diệt bảy pháp, thành vị an lành ... Do gột sạch bảy pháp, thành vị
đã gột sạch ... Do biết rõ bảy pháp, thành bậc có trí ... Do phá hoại
kẻ thù bảy pháp, thành vị Thánh ... Do chặn đứng bảy pháp, thành vị
A-la-hán. Thế nào là bảy?
2. Chận đứng kiến có thân, chặn đứng
nghi, chặn đứng giới cấm thủ, chặn đứng tham, chặn đứng sân, chặn đứng
si, chặn đứng mạn
Do chặn đứng bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, thành vị A-la-hán.
(IX) (9) Phi Diệu Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy phi
diệp pháp này. Thế nào là bảy?
2. Bất tín, không xấu hổ, không sợ
hãi, không nghe nhiều, biếng nhác, thất niệm, ác tuệ. Này các Tỷ-kheo,
có bảy phi diệu pháp này.
(X)(10) Diệu Pháp
1.- Có bảy diệu pháp này, này các
Tỷ-kheo. Thế nào là bảy?
2. Tín, xấu hổ, sợ hãi, nghe nhiều,
tinh tấn, chánh niệm, có trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, có bảy diệu pháp này.
[II]
(I) (1) Người Xứng Ðáng Ðược Cung Kính
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy hạng
người này, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là
bảy?
2. Ở đời, này các Tỷ-kheo, có hạng
người sống tùy quán vô thường trên con mắt, tưởng vô thường, cảm thọ vô
thường, trong tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng
giải, với tuệ thể nhập. Vị ấy, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ
nhất đáng được cung kính ... là phước điền vô thượng ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có hạng
người sống tùy quán vô thường trên con mắt, tưởng vô thường, cảm thọ vô
thường, trong tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng
giải, với tuệ thể nhập. Với vị ấy, sự chấp dứt các lậu hoặc và sự chấm
dứt sanh mạng xảy đến một lần, không trước không sau. Này các Tỷ-kheo,
đây là hạng người thứ hai đáng được cung kính ... là phước điền vô
thượng ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có hạng
người sống tùy quán vô thường trên con mắt, tưởng vô thường, thọ vô
thường, trong tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng
giải, với tuệ thể nhập. Vị ấy sau khi diệt tận năm hạ phần kiết sử,
chứng được Trung gian Bát-Niết-bàn ... chứng được Vô hành Bát-Niết-bàn
... chứng được Hữu hành Bát-Niết-bàn ... chứng được thượng lưu, đạt được
Sắc cứu cánh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ bảy đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là
ruộng phước vô thượng ở đời.
Này các Tỷ-kheo, bảy hạng người này đáng được cung kính ... là ruộng
phước vô thượng ở đời.
(II) (2) Các Người Khác Ðáng Ðược Cung Kính
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy hạng
người này, đáng được cung kính, ..... là ruộng phước vô thượng ở đời.
Thế nào là bảy?
2. Ở đây, có hạng người sống tùy
quán khổ trên con mắt ... tùy quán vô ngã trên con mắt ... tùy quán diệt
tận trên con mắt ... tùy quán hoại diệt trên con mắt ... tùy quán ly
tham trên con mắt ... tùy quán đoạn diệt trên con mắt ... tùy quán từ bỏ
trên con mắt ... trên tai ... trên mũi ... trên lưỡi ... trên thân ...
trên ý ... trên các sắc ... trên các tiếng ... trên các hương ... trên
các vị ... trên các xúc ... trên các pháp ... trên nhãn thức ... trên
thân thức ... trên ý thức ... trên nhãn xúc ... trên nhĩ xúc ....trên tỷ
xúc.. trên thiệt xúc ... trên thân xúc ... trên ý xúc ... trên thọ do
nhãn xúc sanh ... trên thọ do nhĩ xúc sanh ... trên thọ do tỷ xúc sanh
... trên thọ do thiệt xúc sanh ... trên thọ do thân xúc sanh ... trên
thọ do ý xúc sanh ... trên sắc
tưởng ... trên thanh tưởng ... trên hương tưởng ... trên vị tưởng ...
trên xúc tưởng ... trên pháp tưởng ... trên sắc tư ... trên thanh tư ...
trên hương tư ... trên vị tư ... trên xúc tư ... trên pháp tư ... trên
sắc ái ... trên thanh ái... trên hương ái ... trên vị ái ... trên xúc ái
... trên pháp ái ... trên sắc tầm... trên thanh tầm ... trên hương tầm
... trên vị tầm ... trên xúc tầm ... trên pháp tầm ... trên sắc tứ ...
trên thanh tứ ... trên hương tứ ... trên vị tứ ... trên xúc tứ ... trên
pháp tứ ... trên sắc uẩn ... trên thọ uẩn ... trên tưởng uẩn ... trên
hành uẩn ... sống tùy quán vô thường trên thức uẩn ... sống tùy quán khổ
... sống tùy quán vô ngã ... sống tùy quán diệt tận ... sống tùy quán
hoại diệt ... sống tùy quán ly tham ... sống tùy quán đoạn diệt
... sống tùy quán từ bỏ.
[III]
(I) (1) Thắng Tri Tham (1)
1.- Này các Tỷ-kheo, để thắng tri
tham, bảy pháp cần phải tu tập. Thế nào là bảy?
2. Niệm giác chi, trạch pháp giác
chi, tinh tấn giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi.
Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham, bảy pháp này cần phải tu tập.
(II) (2) Thắng Tri Tham (2)
1.- Này các Tỷ-kheo, để thắng tri
tham, bảy pháp cần phải tu tập. Thế nào là bảy?
2. Tưởng vô thường, tưởng vô ngã,
tưởng bất tịnh, tưởng nguy hại, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham, tưởng
đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham, bảy pháp này cần phải tu
tập.
(III) (3) Thắng Tri Tham (3)
1.- Này các Tỷ-kheo, để thắng tri
tham, bảy pháp cần phải tu tập. Thế nào là bảy?
2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng
yếm ly trên đồ ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng
vô thường, tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ. Này các
Tỷ-kheo, để thắng tri tham, bảy pháp này cần phải tu tập.
(IV) (4) Thắng Tri Tham (4)
1. - Này các Tỷ-kheo, để thắng tri
tham ... để hoàn toàn diệt tận ... để đoạn tận ... để diệt tận ... để
hoại diệt ... để ly tham ... để đoạn diệt ... để xả bỏ ... đẻ từ bỏ ...
để từ bỏ tham. Bảy pháp này cần phải tu tập.
2. Ðể thắng tri sân ... si ... phẫn
nộ ... hiềm hận ... che đậy ... não hại ... tật đố ... xan tham ... man
trá ... lường gạt ... ngoan cố ... tháo động ... mạn ... tăng thượng mạn
... kiếu, phóng dật ... để liễu tri ... để hoàn toàn diệt tận ... để
đoạn tận ... để diệt tận ... để hoại diệt ... để ly tham ... để đoạn
diệt ... để xả bỏ ... đẻ từ bỏ ... để từ bỏ tham. Bảy pháp này cần phải
tu tập.
Thế Tôn thuyết như vậy, các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
thuyết.