14. Kinh Ðại bổn
(Mahàpadàna sutta)
Tụng phẩm I
1. Như vậy tôi nghe. Một thời,
Thế Tôn ở tại nước Sàvatthi (Xá-vệ) rừng Jeta (Kỳ-đà), vườn ông
Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc), trong am thất cây Kareri (Hoa Lâm). Lúc bấy giờ,
số đông các Tỷ-kheo đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi
và tụ họp lại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại thuộc về tiền thân
được khởi lên: "Ðây là tiền thân, đây là tiền thân".
2. Thế Tôn, với thiên nhĩ thanh tịnh vượt quá loài
người nghe được câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo. Rồi Thế Tôn,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa Lâm viên đường. Khi đến xong,
Ngài ngồi trên ghế đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn hỏi các
Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, câu chuyện gì, các người
đang ngồi bàn? Câu chuyện gì đã bị gián đoạn giữa các người?
Khi được nói vậy, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng con đi khất thực về, sau
khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp tại Hoa Lâm viên đường, pháp
thoại về tiền thân được khởi lên: "Ðây là tiền thân, đây
là tiền thân". Bạch Thế Tôn, đó là câu chuyện đang được
bàn đến giữa chúng con thời Thế Tôn đến.
3. - Này các Tỷ-kheo, các người có muốn nghe pháp
thuộc thoại về tiền thân không?
- Bạch Thế Tôn, thật là đúng thời; bạch Thiện
Thệ, thật là đúng thời để Thế Tôn giảng pháp thoại thuộc về
tiền thân. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, các người hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ giảng.
- Dạ vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo này đáp lời Thế Tôn. Thế Tôn
giảng như sau:
4. - Này các Tỷ-kheo, chín mươi mốt kiếp về
trước, Thế Tôn Vipassì (Tỳ-bà-thi), bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra
đời. Này các Tỷ-kheo, ba mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn
Sikhì (Thi-khí) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo,
cũng trong ba mươi mốt kiếp ấy, Thế Tôn Vessabhù (Tỳ-xá-bà) bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo cũng trong tiền
kiếp ấy, Thế Tôn Kakusandha (Câu-lâu-tôn) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn
Konàgamana (Câu-na-hàm) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. Này các
Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp)
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong
tiền kiếp ấy, nay Ta, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
5. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sanh thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong
giai cấp Sát-đế-lỵ. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai
cấp Sát-đế-lỵ. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai
cấp Sát-đế-lỵ. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp
Bà-la-môn. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn. Này các
Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng
tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn. Này các Tỷ-kheo, nay Ta là
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong
giai cấp Sát-đế-lỵ.
6. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna (Câu-ly-nhã). Này các
Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh
Kondanna. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác thuộc danh tánh Kondanna. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. Này các Tỷ-kheo, Thế
Tôn Konàgamara, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. Này các
Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh
Kassapa. Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc
danh tánh Gotama (Cù-đàm).
7. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là tám vạn năm. Này
các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
tuổi thọ loài người là bảy vạn năm. Này các Tỷ-kheo, trong thời
Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người
là sáu vạn năm. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là bốn vạn năm. Này các
Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
tuổi thọ loài người là ba vạn năm. Này các Tỷ-kheo, trong thời
Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ của loài
người là hai vạn năm. Này các Tỷ-kheo, nay tuổi thọ của Ta không bao
nhiêu, ít oi, tuổi thọ loài người khoảng một trăm năm hay hơn một chút.
8. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây pàtali (bà-bà-la). Này
các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ
dưới gốc cây pundarika (phân-đà-ly). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn
Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây sirĩsa
(thi-lợi-sa). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây udumbara (ô-tam-bà-la). Này các
Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ
dưới gốc cây nigrodha (ni-câu-luật-đà). Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giác ngộ dưới gốc cây assattha (bát-đa-la).
9. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhứt
đệ tử của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là
Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá). Này các Tỷ-kheo, hai vị
hiền sĩ, đệ nhứt đệ tử của Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác, tên là Abhibhù (A-tỳ-phù) và Sambhava (Tam-bà-bà). Này các
Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn
Vessabhu, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Sona (Phù-du) và Uttara
(Uất-đa-la). Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử
của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Vidhùra
(Tỳ-lâu) và Sanjìva (Tát-ni). Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ
nhất đệ tử của Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
tên là Bhiyyosa (Thư-bàn-na) và Uttara (Uất-đa-la). Này các Tỷ-kheo, hai vị
hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác tên là Tissa (Ðề-xá) và Bhàradvàja (Bà-la-bà). Này các
Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Ta là Sãriputta
(Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên).
10. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội sáu mươi tám
triệu Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám
vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc
Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội mười vạn
Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn
Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc
Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhù,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội tám vạn
Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội sáu vạn
Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhù,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là
bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội bốn vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là
bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konàgamana,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội ba vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konàgamana,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là
bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội hai vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc
A-la-hán. Này các Tỷ kheo, nay trong thời của Ta có một Tăng hội một ngàn
hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, tất cả đều là bậc Lậu tận.
11. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Asoka (A-dục),
vị này là vị thị giả đệ nhất. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Khemankara
(Nhẫn Hành), vị này là vị thị giả đệ nhất. Này các Tỷ-kheo, Thế
Tôn Vessabhũ, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên
là Upasannaka (Tịch Diệt) vị này là vị thị giả đệ nhất. Này các
Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị
giả Tỷ-kheo tên là Vuddhija (Thiện Giác), vị này là thị giả đệ
nhất. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Sotthija (An Hòa), vị này là vị thị
giả đệ nhất. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Sabbamitta (Thiện Hữu), vị
này là vị thị giả đệ nhất. Này các Tỷ-kheo, nay Ta có vị thị giả
Tỷ-kheo tên là Ananda (A-nan), vị này là vị thị giả đệ nhất.
12. Này các Tỷ-kheo, phụ vương của Thế Tôn
Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bandhumà (Bàn-đầu); mẫu hậu
tên là Bandhumati (Bàn-đầu-bà-đề). Kinh thành của vua Bandhumà tên là
Bandhumatì. Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác tên là Aruna (Minh Tướng); mẫu hậu tên là Pabhãvatĩ (Quang
Huy); kinh thành của vua Aruna tên là Pabhàvatì.
Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Vessabhù,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Suppatìta (Thiện Ðăng), mẫu hậu
tên là Yasavati (Xứng Giới); Kinh thành của vua Suppatita tên là Anopama (Vô
Dụ).
Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế
Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Aggidatta (Tự Ðắc); mẫu
thân Bà-la-môn tên là Visàkhà (Thiện Chi). Này các Tỷ-kheo, lúc bấy
giờ vua trị vì tên là Khema (An Hòa); kinh thành vua Khema tên là Khemavatì (An
Hòa).
Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế
Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Yannadatta (Ðạt Ðức)
mẫu thân Bà-la-môn tên là Uttarà (Thiện Thắng; Này các Tỷ-kheo, lúc
bấy giờ, vua trị vì tên là Sobha (Thanh Tịnh); kinh thành của vua Sobha tên là
Sobhavatì (Thanh Tịnh).
Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế
Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Brahmadatta (Phạm Thi) mẫu
thân Bà-la-môn tên là Dhanavatì (Tài Chủ). Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ
vua trị vì tên là Kikì (Hấp Tỳ); kinh thành vua Kikì là Baranasì (Ba-la-nại).
Này các Tỷ-kheo, nay phụ vương của Ta tên là
Suddhodana (Tịnh Phạn); mẫu hậu của Ta tên là Màyà (Ma-da); kinh thành tên là
Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Giảng xong
Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh xá.
13. Thế Tôn đi ra chẳng bao lâu cuộc đàm thoại sau
đây khởi lên giữa những Tỷ-kheo ấy:
- Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Này các
liền giả, thật kỳ diệu thay, đại thần lực, đại oai lực của Như Lai!
Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết bàn,
đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự
luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh
của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh,
cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ
đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như
vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp
hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát
là như vậy". Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có
phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới
này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã
đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân
hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các
vị này, cũng nhớ đến danh tánh cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ
đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến
các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy,
danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh
là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là
như vậy? Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai
nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết bàn đã
đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân
hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các
vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ
đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến
các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy,
danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh
là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như
thế này?"
Như vậy là cuộc đàm thoại đang khởi lên giữa những
Tỷ-kheo ấy.
14. Bấy giờ Thế Tôn, vào buổi chiều tối, sau khi
xuất định, liền đến Hoa Lâm viên đường, ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn. Sau khi ngồi xong, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay các Ngươi ngồi luận bàn vấn
đề gì? Ðề tài gì đã được luận bàn giữa các Ngươi?
Khi được hỏi vậy, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đi ra chẳng bao lâu,
cuộc đàm thoại sau đây đã khởi lên giữa chúng con: "Này các Hiền
giả, thật hy hữu thay! Này các hiền giả thật kỳ diệu thay đại thần
lực, đại oai lực của Như Lai! Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị
này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng
đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng
nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng
nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai
vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế
Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy,
giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí
hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy". Này các Hiền giả, quý
vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy,
và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị
này đã nhập Niết bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng
đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng
nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ
đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị
đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn
ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới
hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh
là như vậy, giải thoát là như vậy?" Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai
và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị
này đã nhập Niết bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng
đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng
nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ
đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị
đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn
ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới
hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh
là như vậy, giải thoát như thế này?" Bạch Thế Tôn, như vậy là
vấn đề bàn luận giữa chúng con, khi Thế Tôn đến.
15. - Này các Tỷ-kheo, như vậy là pháp giới ấy
được khéo chứng đạt bởi Như Lai, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai
nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn
các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã
thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị
này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ
đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến
các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy,
danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh
là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là
như vậy". Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có
phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới
này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết bàn, đã
đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân
hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các
vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ
đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến
Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh
tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là
như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như
vậy".
Này các Tỷ-kheo, vậy hãy nghe và suy nghiệm kỹ,
Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, Thế Tôn
giảng như sau:
16. - Này các Tỷ-kheo, cách đây chín mươi mốt
kiếp về trước, Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra
đời. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
thuộc chủng tánh Sát-đế-ly, sanh trong giai cấp Sát-đế-ly. Này các
Tỷ kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh
tánh Kondanna. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác, tuổi thọ đến tám vạn năm. Này các Tỷ-kheo, Thế
Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Patali
(Ba-ba-la). Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử
của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Khanda
(Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá). Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế
Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội sáu
mươi tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội
tám vạn Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Asoka (A-dục), vị này là
vị thị giả đệ nhất. Này các Tỷ-kheo, Phụ Vương Thế Tôn
Tỳ-bà-thi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bandhumà (Bàn-đầu), mẫu
hậu tên là Bandhumatì (Bàn-đầu-bà-đề), kinh thành của Bandhumà tên là
Bandhumatì.
17. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy, Bồ-tát
Vipassì, sau khi từ giã cảnh giới Ðâu-suất thiên, chánh niệm tỉnh giác
nhập vào mẫu thai. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi Bồ-tát
Vipassì từ giã cảnh giới Ðâu-suất thiên, chánh niệm tỉnh giác nhập vào
mẫu thai, khi ấy một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của
chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới ở trên
chư Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên và thế giới ở
dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các vị hoàng tử và dân chúng. Cho
đến các cảnh giới ở giữa các thế giới, không có nền tảng, tối
tăm, u ám, những cảnh giới mà mặt trăng mặt trời với đại thần lực, đại
oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy
một hào quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra. Và các
chúng sanh sống tại những chỗ ấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói:
"Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây". Và mười ngàn thế
giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô
lượng, thần diệu ấy, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế
giới. Pháp nhĩ là như vậy.
Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ
-tát nhập mẫu thai, bốn vị Thiên tử đứng canh gác bốn phương trời và nói:
"Không cho một ai, người hay không phải loài người, được hãm hại vị
Bồ-tát. Pháp nhĩ là như vậy".
18. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát giữ giới một cách hồn nhiên, không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không uống các thứ rượu
men, rượu nấu. Pháp nhĩ là như vậy.
19. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không khởi dục tâm đối với một nam
nhân nào, và không vị phạm tiết hạnh với bất kỳ người đàn ông nào
dầu người này có tâm ái nhiễm đối với bà. Pháp nhĩ là gì vậy.
20. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát có được năm món dục lạc đầy đủ,
tận hưởng, trọn hưởng năm món dục lạc ấy. Pháp nhĩ là như vậy.
21. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không bị một bệnh tật gì. Bà sống
với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái. Bà thấy trong bào thai của mình vị
Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay.
Này các Tỷ-kheo, ví như viên ngọc lưu ly, thanh
tịnh, thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt, khéo giũa, trong sáng, không tỳ
vết, hoàn hảo trong mọi phương diện. Rồi một sợi dây được xâu
qua viên ngọc ấy, dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng
lợt. Nếu có người có mắt để viên ngọc trên bàn tay của mình,
người ấy sẽ thấy rõ ràng: "Ðây là viên ngọc lưu ly, thanh tịnh
thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt khéo giũa, trong sáng, không tỳ vết,
hoàn hảo trong mọi phương diện. Ðây là sợi dây xâu qua, sợi dây màu
xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lạt". Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không một bệnh
tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái. Bà thấy trong bào
thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay. Pháp nhĩ là
như vậy.
22. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Sau khi
sanh vị Bồ-tát bảy ngày, mẹ vị Bồ-tát mệnh chung và sanh lên cảnh trời
Ðâu suất. Pháp nhĩ là như vậy.
23. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Trong khi
các người đàn bà khác mang bầu thai trong bụng chín tháng hay mười tháng
rồi mới sanh, mẹ vị Bồ-tát sanh vị Bồ-tát không phải như vậy. Mẹ vị
Bồ-tát mang vị Bồ-tát trong bụng mười tháng trời mới sanh. Pháp nhĩ là như
vậy.
24. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Trong khi
các người đàn bà khác, hoặc ngồi, hoặc nằm mà sanh con, mẹ vị Bồ-tát sanh
vị Bồ-tát không phải như vậy. Mẹ vị Bồ-tát đứng mà sanh vị Bồ-tát. Pháp
nhĩ là như vậy.
25. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, chư Thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến
loài người. Pháp nhĩ là như vậy.
26. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, vị Bồ-tát không đụng đến đất. Có bốn
Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy
hoan hỷ. Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Pháp nhĩ là như vậy.
27. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi
nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi
loại máu nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ vật bất tịnh nào, thanh thịnh,
trong sạch. Pháp nhĩ là như vậy.
Này các Tỷ-kheo, như viên ngọc ma-ni bảo châu
đặt trên một tấm vải Ba-la-nại. Hòn ngọc không làm nhiễm ô tấm vải
Ba-la-nại, tấm vải Ba-la-nại cũng không làm nhiễm ô hòn ngọc. Vì sao vậy?
Vì cả hai đều thanh tịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo. Khi vị Bồ-tát
từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt
nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào,
không bị nhiễm ô bởi bất cứ sự vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong sạch.
Pháp nhĩ là như vậy.
28. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, hai dòng nước từ hư không hiện ra, một dòng
lạnh, một dòng nóng. Hai dòng nước ấy tắm rửa sạch sẽ cho vị Bồ-tát và cho
bà mẹ. Pháp nhĩ là như vậy.
29. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị
Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía
Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp
cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau:
"Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta
là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái
sanh ở đời này nữa". Pháp nhĩ là như vậy.
30. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị
Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, khi ấy một hào quang vô lượng thần diệu,
thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các
thế giới trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên,
và thế giới ở dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các vị hoàng tử và
dân chúng. Cho đến các cảnh giới ở giữa các thế giới, không có
nền tảng, tối tăm, u ám, những cảnh giới mà mặt trăng, mặt trời với
đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong
những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên
hiện ra. Và các chúng sanh sống tại những chỗ ấy, nhờ hào quang ấy
mới thấy nhau mà nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh.
Và hào quang vô lượng thần diệu ấy thắng xa oai lực của chư Thiên
hiện ra ở thế giới. Pháp nhĩ là như vậy.
31. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì sinh ra, vua
Bandhumà được báo tin: "Ðại vương đã được sinh một hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, khi thấy hoàng tử xong, vua Bandhumà liền cho mời các
vị Bà-la-môn đoán tướng và nói: "Này các Hiền giả, hãy xem tướng
cho Hoàng tử". Này các Tỷ-kheo, khi xem tướng Hoàng tử Vipassì xong,
các vị Bà-la-môn đoán tướng tâu với vua Bandhumà: "Ðại vương hãy hân
hoan; Ðại vương đã sinh một bậc vĩ nhân! May mắn thay cho Ðại vương, đại
hạnh thay cho Ðại vương đã được một Hoàng tử như vậy sanh trong gia đình.
Tâu Ðại vương, Hoàng tử này có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc
Ðại nhân. Ai có đủ ba mươi hai tướng tốt này sẽ chọn hai con đường
này thôi, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia đình, vị này
sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương, dùng chánh pháp trị nước,
bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu.
Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu, ngựa
báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị
này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục
quân thù. Vị này chinh phục cõi đất này cho đến hải biên và trị nước
với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Nếu vị này từ bỏ gia
đình, xuất gia sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời".
32. "Ðại vương, ba mươi hai tướng tốt của bậc
Ðại nhân là gì mà Hoàng tử nếu đầy đủ những tướng tốt này sẽ
chọn đi hai con đường, không có con đường nào khác. Nếu sống tại
gia đình, vị này sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương dùng chánh
pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc lộ, đầy
đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe
báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và thứ bảy là
tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh
hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù. Vị này chinh phục cõi đất này cho
đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không
dùng đao. Nếu vị này từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, vị
này sẽ thành bậc A-la-hán. Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời.
"Ðại vương, Hoàng tử này có lòng bàn chân bằng
phẳng, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân.
"Ðại vương, dưới hai bàn chân của Hoàng tử này,
có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các
bộ phận hoàn toàn đầy đủ, tướng này được xem là tướng của bậc Ðại
nhân.
"Ðại vương, Hoàng tử này có gót chân thon dài...
(như trước)
"Ðại vương, Hoàng tử này có ngón tay, ngón chân
dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân mềm
mại...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân có màn da
lưới...
"Ðại vương, Hoàng tử này có mắt cá tròn như con
sò...
"Ðại vương, Hoàng tử này có ống chân như con dê
rừng...
"Ðại vương, Hoàng tử này đứng thẳng, không co
lưng xuống có thể rờ từ đầu gối với hai bàn tay...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng mã âm
tàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có màu da như đồng,
màu sắc như vàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có da trơn mướt
khiến bụi không thể bám dính vào...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông da mọc từ
lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mọc xoáy
tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi
mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân hình cao
thẳng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bảy chỗ tròn
đầy...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nửa thân trước như
con sư tử...
"Ðại vương, Hoàng tử này không có lõm khuyết
giữa hai vai...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân thể cân
đối như cây bàng (nigrodha: ni-câu-luật). Bề cao của thân ngang bằng
bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng
bề cao của thân...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bán thân trên vuông
tròn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có vị giác hết sức
sắc bén...
"Ðại vương, Hoàng tử này có quai hàm như con sư
tử..
"Ðại vương, Hoàng tử này có bốn mươi răng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng đều
đặn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng không
khuyết hở...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng cửa (thái xỉ)
trơn láng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng lưỡi rộng
dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có giọng nói
tuyệt diệu như tiếng chim ca-lăng-tần-già (Karavika)...
"Ðại vương, Hoàng tử này có hai mắt màu xanh
đậm...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mi con bò
cái...
"Ðại vương, Hoàng tử này giữa hai lông mày, có
sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nhục kế trên
đầu, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân...
33. "Ðại vương, Hoàng tử có đầy đủ ba mươi hai
tướng tốt của bậc Ðại nhân, với ba mươi hai tướng tốt này, Hoàng tử sẽ
chọn đi hai con đường, không có con đường nào khác. Nếu sống tại
gia đình, Hoàng tử sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương, đem lại an
toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành sở hữu của
Ngài, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, và
thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những
bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù. Vị này chinh phục quả đất này cho
đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không
dùng đao. Nếu Hoàng tử từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình,
Hoàng tử sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che
đời".
Này các Tỷ-kheo, Vua Bandhumà ra lệnh cúng dường
các vị Bà-la-môn đoán tướng ấy, các áo vải mới và làm thỏa mãn mọi
sự đòi hỏi ước muốn.
34. Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà ra lệnh
cúng dường vị các vị Bà-la-môn đoán tướng ấy, các áo vải mới và làm
thỏa mãn mọi sự đòi hỏi ước muốn.
34. Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà cho nuôi những
người vú cho hoàng tử Vipassì. Người cho bú, người tắm, người lo bồng ẵm,
người mang trên nách. Này các Tỷ-kheo, một lọng trắng ngày đêm
được che trên hoàng tử Vipassì, và lệnh được truyền ra: "Không
được để lạnh hay nóng, cỏ, bụi, hay sương làm phiền hoàng tử".
Hoàng tử Vipassì được mọi người âu yếm. Này các Tỷ-kheo, cũng
như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hay hoa sen trắng được mọi người yêu thích.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì được mọi người âu
yếm, gần như được ẵm từ nách này qua nách người khác.
35. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì được sinh
ra, hoàng tử phát âm rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu
ngọt và hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, giống như con chim ca-lăng-tân-già
sinh trong núi Hy-mã-lạp sơn, giọng chim rất là tuyệt diệu, âm vận
điều hòa, dịu ngọt và hấp dẫn. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Hoàng
Tử Vipassì phát âm rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu
ngọt và hấp dẫn.
36. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì sanh ra,
Thiên nhãn hiện ra với Ngài, do nghiệp báo sanh, và nhờ Thiên nhãn ấy,
Ngài có thể nhìn khắp chung quanh đến một do tuần, ban ngày cũng như
ban đêm.
37. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì sanh ra,
Ngài nhìn thẳng sự vật với cặp mắt không nhấp nháy, như hàng Thiên ở Tam
thập tam thiên. Vì hoàng tử Vipassì nhìn không nhấp nháy, nên này các
Tỷ-kheo, hoàng tử được gọi tên là "Vipassì" - "Vị đã
nhìn thấy". Này các Tỷ-kheo, khi vua Bandhumà ngồi xử kiện, vua cho
đặt hoàng tử Vipassì ngồi bên nách mình để xử kiện. Này các
Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì ngồi bên nách vua cha như vậy và chú tâm quan
sát phương thức xử kiện đến nỗi tự mình cũng có thể phán
đoán xử kiện. Này các Tỷ-kheo, do hoàng tử Vipassì "có thể
quan sát và xử kiện đúng luật pháp" và danh từ "Vipassì"
càng được dùng để đặt tên cho Ngài.
38. Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà cho xây dựng ba
tòa lâu đài cho hoàng tử Vipassì, một cho mùa mưa, một cho mùa đông, một
cho mùa lạnh, và năm món dục lạc đều được chuẩn bị đầy đủ. Này các
Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì sống bốn tháng mưa trong lâu đài dành cho mùa
mưa, được hầu hạ mua vui với các nữ nhạc sĩ, và không một lần nào, Ngài
bước xuống khỏi lầu.
Tụng phẩm II
1. - Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, sau thời gian
nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, cho gọi người đánh
xe: "Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi
đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh" - "Thưa vâng, Hoàng
Tử". Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassì, cho
thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassì: "Tâu Hoàng tử,
các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp
thời".
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassì leo
lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến
đến vườn ngự uyển.
2. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì trên đường
đi đến vườn ngự uyển, thấy một người già nua, lưng còng như nóc
nhà, chống gậy, vừa đi vừa run rẩy, khổ não, không còn đâu là tuổi trẻ.
Thấy vậy hoàng tử hỏi người đánh xe: "Này khanh, người đó là ai vậy?
Sao thân người đó không giống các người khác?" - "Tâu Hoàng tử,
người đó là một người được gọi là già vậy". - "Này khanh,
sao người ấy được gọi là một người già?" - "Tâu Hoàng tử,
người ấy gọi là già vì nay người ấy sống không bao lâu nữa". -
"Này khanh, vậy rồi Ta có bị già không, một người chưa qua tuổi
già?" - "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tất cả sẽ
bị già nua, dầu chúng ta chưa qua tuổi già!" - "Này khanh, thôi nay
thăm vườn ngự uyển như vậy là vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về
cung". - "Thưa vâng, Hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng
tử, cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì về
trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ. "Sỉ nhục thay, cái gọi là
sanh. Và ai sanh ra cũng phải già yếu như vậy!".
3. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà cho gọi
người đánh xe và hỏi: "Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không, tại vườn
ngự uyển? "Này khanh, Hoàng tử có hoan hỷ không, tại vườn ngự
uyển?". - "Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn
ngự uyển. Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có hoan hỷ, tại vườn ngự
uyển" - "Này khanh, khi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã
thấy gì?" - "Tâu đại vương, Hoàng tử trong khi đi đến vườn
ngự uyển, thấy một người già nua, lưng còng như nóc nhà, chống gậy vừa
đi vừa run rẩy, khổ não không còn đâu là tuổi trẻ. Thấy vậy, Hoàng tử hỏi
con: "Này khanh, người đó là ai vậy? Sao tóc người đó không giống các
người khác? Sao thân người đó không giống các người khác?" - "Tâu
Hoàng tử, người ấy được gọi là vậy" - "Này khanh, sao người
ấy được gọi là người già? - "Tâu Hoàng tử, người ấy gọi là
già, vì nay người ấy sống không bao lâu nữa". - "Này khanh, vậy rồi
Ta có phải bị già không, một người chưa qua tuổi già?" - "Tâu Hoàng
tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tất cả sẽ bị già nua, dầu chúng ta
chưa qua tuổi già" - "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như
vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". - "Thưa vâng, Hoàng
Tử!". Tâu Ðại vương, con vâng lời Hoàng tử Vipassì, cho đánh xe trở
về cung. Tâu Ðại vương, Hoàng tử trở về cung, đau khổ, sầu muộn và
suy nghĩ. "Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh. Và ai sanh ra cũng phải già
yếu như vậy".
4. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà suy nghĩ:
"Không thể để cho hoàng tử Vipassì từ chối không trị vì. Không
thể để cho Hoàng tử Vipassì xuất gia. Không thể để cho lời
của các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật".
Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà lại sắp đặt cho
hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng
tử Vipassì có thể trị vì, để hoàng tử Vipassì khỏi phải xuất gia,
để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật. Và, này
các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì sống tận hưởng đầy đủ sung túc năm món
dục lạc.
5. Này các Tỷ-kheo hoàng tử Vipassì, sau thời gian
nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi người đánh
xe... (tương tự như đoạn kinh II.1).
6. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, khi đang đi
đến vườn ngự uyển, thấy một người bệnh hoạn, khổ não, nguy
kịch, bò lết trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần có
người khác nâng đỡ, cần có người khác dìu dắt. Thấy vậy, hoàng tử hỏi
người đánh xe. "Này khanh, người này đã làm gì, mà mắt của nó không
giống mắt của những người khác, giọng nói của nó không giống giọng
nói của những người khác?" - "Tâu Hoàng tử, đó là một người
được gọi là một người bệnh vậy". - "Này khanh, sao người
ấy được gọi là một người bệnh?" - "Tâu Hoàng tử, người
ấy được gọi là một người bệnh vì người ấy chưa thoát khỏi căn
bệnh của mình" - "Này khanh, vậy rồi ta có bị bệnh không, một
người chưa bị bệnh?" - "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa,
tất cả chúng ta sẽ bị bệnh tật, dầu chúng ta chưa bị bệnh tật".
- "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho
đánh xe trở về cung". - "Thưa vâng, Hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng
tử cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì về
trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay, cái gọi là
sanh! Và ai sanh ra, cũng phải già, cũng phải bệnh!"
7. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà cho gọi
người đánh xe và hỏi: "Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không tại vườn
ngự uyển? Hoàng tử có hoan hỷ không tại vườn ngự uyển?" -
"Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Tâu
Ðại vương, Hoàng tử không có hoan hỷ tại vườn ngự uyển" -
"Này khanh, khi đi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy
gì?" - "Tâu Ðại vương, Hoàng tử trong khi đến vườn ngự
uyển thấy một người bệnh hoạn, khổ não, nguy kịch, bò lết trong
tiểu tiện, đại tiện của mình, cần có người khác nâng đỡ, cần
có người khác dìu dắt. Thấy vậy, Hoàng tử hỏi con: "Này khanh, người
đó đã làm gì mà mắt của nó không giống mắt của người khác, giọng
nói của nó không giống giọng nói của những người khác?" - "Tâu
Hoàng tử, đó là một người được gọi là môt người bệnh" Vậy:
- "Này khanh, sao người ấy được gọi là một người bệnh?" -
"Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người bệnh, vì người ấy
chưa khỏi căn bệnh của mình!" - "Này khanh, vậy rồi ta có bị
bệnh không, môt người chưa bị bệnh?" - "Tâu Hoàng tử, Hoàng
tử và cả con nữa, tất cả chúng ta sẽ bị bệnh tật, dầu chúng ta chưa bị
bệnh tật". - "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy
vừa rồi! Hãy cho đánh xe trở về cung". - "Thưa vâng, Hoàng
tử". Con vâng theo lời Hoàng tử cho đánh xe trở về cung. Tâu Ðại
vương, Hoàng tử về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ
nhục thay, cái gọi là sanh! Và ai sanh ra, cũng phải già, cũng phải
bệnh!".
- Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà suy nghĩ:
"Không thể để cho Hoàng tử Vipassì từ chối không trị vì! Không
thể để cho Hoàng tử Vipassì xuất gia! Không thể để cho lời
của các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật". Này các
Tỷ-kheo, rồi vua Bandhuma, lại sắp đặt cho hoàng tử Vipassì đầy đủ năm
món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng tử Vipassì có thể trị vì,
để hoàng tử Vipassì không thể xuất gia, để cho lời các vị
Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật. Và này các Tỷ-kheo, hoàng tử
Vipassì sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món dục lạc.
9. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, sau thời gian
nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, cho gọi người đánh
xe: "Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi
đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh". - "Thưa vâng,
Hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử
Vipassì, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassì:
"Tâu hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì
Hoàng tử xem là hợp thời".
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassì leo
lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến
đến vườn ngự uyển.
10. - Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì trên đường
đi đến vườn ngự uyển, thấy một số đông người, mặc sắc phục khác
nhau, và đang dựng một dàn hỏa táng. Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe:
"Này khanh, vì sao đám đông người ấy mặc sắc phục khác nhau và đang
dựng một dàn hỏa táng?" - "Tâu Hoàng tử, vì có một người vừa mới
mệnh chung" - "Này khanh, vậy ngươi hãy đánh xe đến gần
người vừa mới mệnh chung!" - "Thưa vâng, tâu Hoàng tử."
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng
tử, cho đánh xe đến người vừa mới mệnh chung. Này các Tỷ-kheo,
khi thấy thây người chết, hoàng tử Vipassì hỏi: "Này khanh, sao người
ấy được gọi là người đã chết?" - "Tâu Hoàng tử, người
ấy được gọi là người đã chết vì nay bà mẹ, ông cha, các người
bà con ruột thịt khác không thấy người ấy nữa; và người ấy cũng không
thấy bà mẹ, ông cha hay những người bà con ruột thịt khác!" - "Này
khanh, vậy Ta chưa chết, rồi có bị chết không? Phụ vương, Mẫu hậu hay
những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Ta chăng, và Ta sẽ không
thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay những bà con ruột thịt chăng?" - "Tâu
Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tuy nay chưa chết nhưng rồi sẽ
cũng bị chết. Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác
sẽ không thấy Hoàng Tử, và Hoàng tử sẽ không thấy Phụ vương. Mẫu hậu hay
các người bà con ruột thịt khác". - "Này khanh, thôi nay thăm vườn
ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". -
"Thưa vâng, Hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử,
cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì về trong
cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay cái gọi là sanh!
Và ai sanh ra cũng phải già, cũng phải bệnh, cũng phải chết như
vậy!".
11. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà cho gọi
người đánh xe và hỏi: "Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không, tại vườn
ngự uyển? Hoàng tử có hoan hỷ không, tại vườn ngự uyển?"-
"Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Hoàng
tử không có hoan hỷ tại vườn ngự uyển". - "Này khanh đi
đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy gì?" - "Tâu Ðại
vương, Hoàng tử trong khi đang đi đến vườn ngự uyển, thấy một số
đông người, mặc sắc phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng. Thấy
vậy Hoàng tử hỏi con: "Này khanh, vì sao đám đông người ấy, mặc sắc
phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng?" - "Tâu Hoàng tử, vì
có một người mới mệnh chung". - "Này khanh, vậy ngươi hãy đánh
xe lại gần người vừa mới mệnh chung". - "Thưa vâng, tâu Hoàng
tử". Con vâng theo lời Hoàng tử, cho đánh xe đến gần người vừa mới
mệnh chung. Khi thấy thây chết, Hoàng tử hỏi con: "Này khanh, sao
người ấy được gọi là người đã chết?" - "Tâu Hoàng tử,
người ấy được gọi là người đã chết, vì nay bà mẹ, ông cha hay
những bà con ruột thịt khác không thấy người ấy nữa! Và người ấy cũng
không thấy bà mẹ, ông cha hay những người bà con ruột thịt khác". -
"Này khanh, vậy Ta chưa chết rồi có bị chết không? Phụ vương,
Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Ta chăng? Và Ta
sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác
chăng?" - "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tuy nay
chưa chết nhưng rồi cũng sẽ bị chết. Phụ vương, Mẫu hậu hay những
người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy hoàng tử, và hoàng tử sẽ không
thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác" -
"Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho
đánh xe trở về cung". - "Thưa vâng, Hoàng tử". Con vâng theo
lời hoàng tử Vipassì cho đánh xe trở về cung. Hoàng tử về trong cung
đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay cái gọi là sanh! Và ai
sanh ra cũng phải già, cũng phải bệnh, cũng phải chết như vậy!".
12. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà suy nghĩ:
"Không thể để cho hoàng tử Vipassì từ chối không trị vì! Không
thể để cho hoàng tử Vipassì xuất gia. Không thể để cho lời
các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật".
- Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà lại sắp đặt cho
hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng
tử Vipassì có thể trị vì, để hoàng tử Vipassì không thể xuất gia,
để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không đúng sự thật. Và này
các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món
dục lạc.
13. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, sau thời gian
nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi người đánh
xe: "Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi
đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh". - "Thưa vâng,
Hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử
Vipassì, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassì:
"Tâu Hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì
Hoàng tử xem là hợp thời".
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassì leo
lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến
đến vườn ngự uyển.
14. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì trên đường
đi đến ngự uyển thấy một vị xuất gia, đầu trọc, đắp áo cà sa.
Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe: "Này khanh, người này đã làm
gì, mà đầu người ấy lại khác đầu của những người khác, và áo của
người ấy cũng khác áo của những người khác?" - "Tâu Hoàng tử,
người ấy được gọi là người xuất gia!" - "Này khanh, sao người
ấy được gọi là người xuất gia?" - "Tâu Hoàng tử, xuất gia
nghĩa là khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp,
khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng
từ đối với chúng sanh!" - "Này khanh, hãy đánh xe đến gần vị
xuất gia". - "Thưa vâng, Hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng
tử Vipassì, đánh xe đến gần người xuất gia. Này các Tỷ-kheo, rồi
hoàng tử Vipassì hỏi vị xuất gia: "Thưa Hiền giả, Ngài đã làm gì,
mà đầu của Ngài không giống những người khác, và áo của Ngài không giống
các người khác?" - "Thưa Hoàng tử, tôi là một người xuất gia!"
- "Thưa Hiền giả, thế nào gọi là người xuất gia?" -
"Thưa Hoàng tử, tôi là người được gọi là xuất gia, vì tôi khéo tu
phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công
đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với
chúng sanh". - "Thưa Hiền giả, lành thay hạnh xuất gia của Ngài,
lành thay khéo tu phạm hạnh, khéo tu tính hạnh, khéo hành thiện nghiệp,
khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng
từ đối với chúng sanh".
15. Này các Tỷ-kheo, rồi hoàng tử Vipassì bảo
người đánh xe: "Này khanh, hãy lấy xe này và cho đánh xe về cung.
Còn Ta ở nơi đây, sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình". - "Thưa vâng, Hoàng tử". Người
đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassì lấy xe và đánh xe về cung. Còn hoàng
tử Vipassì, chính tại chỗ ấy, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia
từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
16. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ, tại kinh đô
Bandhumatì có một đại chúng tám vạn bốn ngàn người nghe tin: "Hoàng tử
Vipassì đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không gia đình". Khi nghe tin, các vị ấy suy nghĩ: "Pháp luật như vậy
không phải tầm thường, xuất gia như vậy không phải tầm thường, vì hoàng tử
Vipassì trong pháp luật ấy đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ
bỏ gia đình, sống không gia đình". Nay hoàng tử Vipassì đã cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình tại sao
chúng ta lại không?" Này các Tỷ-kheo, rồi đại chúng tám vạn bốn
ngàn người ấy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, dưới sự lãnh đạo của Bồ-tát Vipassì. Rồi Bồ-tát
Vipassì cùng với đồ chúng, du hành, đi ngang qua những làng, thị xã và đô
thị.
17. Này các Tỷ-kheo, trong khi yên lặng tịnh cư,
Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Sao Ta lại sống bị bao vây bởi đồ chúng này.
Tốt hơn là Ta sống một mình, lánh xa đồ chúng này!"
Này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Bồ-tát Vipassì
sống một mình, lánh xa đồ chúng, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia này đi một
ngả, Bồ-tát Vipassì đi một ngả.
18. Này các Tỷ-kheo, trong khi yên lặng tịnh cư tại
chỗ thanh vắng, Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Thế giới này thật rơi
vào cảnh khổ não, phải sanh rồi già, rồi chết, rồi từ bỏ thế giới
này để tái sanh thế giới khác. Không một ai biết một con đường
giải thoát khỏi sự đau khổ này, thoát khỏi già và chết".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, già chết mới có mặt? Do duyên gì, già chết
sanh?". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy,
nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do sanh có mặt, nên già,
chết có mặt. Do duyên sanh, già chết sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, sanh mới có mặt? Do duyên gì, sanh phát khởi?" Này
các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí
tuệ, phát sanh minh kiến sau đây: "Do hữu có mặt nên sanh mới có
mặt. Do duyên hữu, nên sanh phát khởi".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, hữu mới có mặt? Do duyên gì, hữu phát sanh?" Này
các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí
tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thủ có mặt nên hữu mới có
mặt. Do duyên thủ, hữu phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt thủ mới có mặt? Do duyên gì, thủ phát sanh?". Này
các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí
tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do ái có mặt, thủ mới phát
sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, ái mới có mặt. Do duyên gì, ái phát sanh?" Này các
Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ
phát sanh minh kiến sau đây: "Do thọ có mặt, ái mới có mặt. Do
duyên thọ, ái phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, thọ mới có mặt. Do duyên gì, thọ mới phát
sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy,
nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do xúc có mặt, thọ
mới có mặt. Do duyên xúc, thọ mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, xúc mới có mặt. Do duyên gì xúc mới phát sanh?"
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí
tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do lục nhập có mặt, xúc mới có
mặt. Do duyên lục nhập, xúc mới phát sanh ".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, lục nhập mới có mặt. Do duyên gì, lục nhập mới phát
sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy,
nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc có mặt, lục
nhập mới có mặt. Do duyên danh sắc, lục nhập mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, danh sắc mới có mặt? Do duyên gì, danh sắc mới phát
sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy,
nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thức có mặt, danh sắc
có mới có mặt. Do duyên thức, danh sắc mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì có mặt, thức mới có mặt. Do duyên gì, thức mới phát sanh?"
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí
tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc có mặt, thức mới có
mặt. Do duyên danh sắc, thức mới phát sanh".
19. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ
như sau: "Thức này xoay trở lui lại, từ nơi danh sắc, không vượt khỏi
danh sắc. Chỉ như thế này, con người được sanh ra hay trở thành già, hay
bị chết, hay từ biệt cõi này, hay sanh lại ở cõi khác, nghĩa là do
duyên danh sắc, thức sanh; do duyên thức, danh sắc sanh; do duyên danh sắc, lục
nhập sanh; do duyên lục nhập, xúc sanh; do duyên xúc, thọ sanh; do duyên
thọ, ái sanh; do duyên ái, thủ sanh; do duyên thủ, hữu sanh; do duyên hữu,
sanh sanh; do duyên sanh, lão, tử, sầu bi, khổ ưu não sanh. Như vậy là sự tập
khởi của toàn bộ khổ uẩn này".
"Tập khởi, tập khởi". Này các Tỷ-kheo, từ
nơi Bồ-tát Vipassì, khởi sanh pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí
sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.
20. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt, già chết không có mặt? Cái gì diệt,
già chết diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi
như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do
sanh không có mặt, già chết không có mặt, do sanh diệt, già chết
diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt, sanh không có mặt? Cái gì diệt, sanh
diệt!. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy,
nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do hữu không có mặt,
sanh không có mặt, do hữu diệt, sanh diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt, hữu không có mặt? Cái gì diệt, hữu
diệt?". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thủ không có
mặt, hữu không có mặt, do thủ diệt, hữu diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt, thủ không có mặt? Cái gì diệt, thủ
diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do ái không có mặt,
thủ không có mặt, do ái diệt, thủ diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt, ái không có mặt? Cái gì diệt, ái
diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thọ không có
mặt, ái không có mặt, do thọ diệt, ái diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt, thọ không có mặt? Cái gì diệt, thọ
diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do xúc không có
mặt, thọ không có mặt, do xúc diệt, thọ diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt xúc không có mặt? Cái gì diệt, xúc
diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do lục nhập không
có mặt, xúc không có mặt, do lục nhập diệt, xúc diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì có mặt, lục nhập không có mặt? Cái gì diệt, lục nhập
diệt". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc không có
mặt, lục nhập không có mặt, do danh sắc diệt, lục nhập diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Do cái gì không có mặt, danh sắc không có mặt? Cái gì diệt danh sắc
diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thức không có
mặt, danh sắc không có mặt, do thức diệt, danh sắc diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Cái gì không có mặt, thức không có mặt? Do cái gì diệt, thức
diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư
duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc không có
mặt, thức không có mặt, do danh sắc diệt, thức diệt".
21. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ:
"Ôi, Ta đã chứng được con đường đưa đến Bồ-đề, nhờ pháp tu
quán. Nghĩa là, do danh sắc diệt, thức diệt; do thức diệt, danh sắc
diệt; do danh sắc diệt, lục nhập diệt; do lục nhập diệt, xúc
diệt; do xúc diệt, thọ diệt, do thọ diệt, ái diệt; do
ái diệt, thủ diệt; do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt, sanh
diệt; do sanh diệt, già, chết, ưu, bi, khổ, sầu, não diệt. Như
vậy, toàn bộ khổ uẩn diệt".
"Diệt, diệt". Này các Tỷ-kheo, từ
nơi Bồ-tát Vipassì, khởi hành pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí
sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.
22. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau một
thời gian sống quán sự sanh diệt trong năm uẩn: "Ðây là sắc, đây là
sắc tập khởi, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập
khởi, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập khởi,
đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập khởi, đây là hành
diệt! Ðây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức diệt".
Và đối với Ngài, sau khi sống quán pháp sanh diệt
trong năm thủ uẩn, chẳng bao lâu các lậu hoặc được tiêu trừ và Ngài được
giải thoát.
Tụng phẩm III.
1. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác liền suy nghĩ: "Nay Ta hãy thuyết
pháp".
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín,
khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu,
chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái
ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham
thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý "Y tánh duyên khởi
pháp" (ida-paccayata paticca samuppàda); thật khó mà thấy được
định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được trừ bỏ, ái
được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết
pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho
Ta!"
2. Này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những bài kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa
từng được nghe, được khởi lên:
Sao nay Ta lại nói lên chánh pháp mà Ta đã chứng
ngộ rất khó khăn?
Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị tham sân chi phối.
Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ rất khó thấy pháp này.
Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.
Này các Tỷ-kheo, với những lời như vậy, suy tư
trên vấn đề tâm của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp. Khi bấy giờ, một
trong các vị Ðại Phạm thiên, khi biết được tư tưởng của Thế Tôn
Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhờ tư tưởng của mình, liền suy
nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ bị tiêu diệt, thế giới sẽ bị
hoại vong, nếu tâm của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác, hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp!"
3. Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên ấy, như một
nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay duỗi
thẳng, cũng vậy vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên và hiện ra
trước mặt Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này các
Tỷ-kheo, rồi vị Ðại Phạm thiên đắp thượng y trên một bên vai, quỳ đầu
gối bên phải trên mặt đất, chắp tay hướng về Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và bạch rằng: "Bạch Thế Tôn, hãy
thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng
sanh ít bị bụi trần che phủ sẽ bị nguy hại nếu không được nghe chánh
pháp. Nếu được nghe, những vị này có thể thâm hiểu chánh
pháp".
4. Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Thế Tôn
Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nói với vị Ðại Phạm thiên: "Này
Phạm thiên, Ta đã suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật là
sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi
diệu, chỉ có người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái
dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái
ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý y tánh duyên
khởi pháp; thật khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh,
tất cả sanh y được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt,
Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu
Ta, thời như vậy thật mệt mỏi cho Ta, thời như vậy thật khổ não cho
Ta". Này Phạm thiên, khi ấy những bài kệ bất khả tư nghì, từ trước
chưa từng nghe khởi lên nơi Ta:
Sao nay Ta lại nói lên chánh pháp mà Ta đã chứng
ngộ rất khó khăn?
Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị tham sân chi phối.
Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ rất khó mà thấy được pháp này.
Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.
Này Phạm thiên, với những lời như vậy, suy tư trên
vấn đề, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết
pháp.
5. Này các Tỷ-kheo, lần thứ hai vị Ðại Phạm thiên
ấy... (như trên)...
6. Này các Tỷ-kheo, lần thứ ba, vị Ðại Phạm thiên
ấy bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Bạch
Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiên Thệ, hãy thuyết pháp! Có
những chúng sanh ít bị bụi trần che phủ sẽ bị nguy hại nếu không được
nghe chánh pháp, những vị này có thể thâm hiểu chánh pháp!"
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác biết được lời khuyên thỉnh của vị Phạm Thiên, vì lòng
từ bi đối với chúng sanh, nhìn đời với Phật nhãn. Này các Tỷ-kheo,
Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nhìn đời với Phật nhãn,
thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm nhiều bụi đời, có hạng
lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy,
và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự
nguy hiểm của những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, sen hồng
hay sen trắng, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước,
lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng
dưới nước; có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước
lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước, có một số hoa sen xanh,
sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước lớn lên dưới nước vươn lên khỏi
mặt nước, không bị nước làm đẫm ướt. Cũng vậy này các Tỷ-kheo,
Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhìn quanh thế giới
với Phật nhãn. Ngài thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm
nhiều bụi đời, có hạng lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh
nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy, một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái
sanh thế giới khác và sự nguy hiểm của những hành động lỗi lầm.
7. Rồi vị Ðại Phạm thiên, với tâm mình biết
được tâm tư của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
liền nói với Ngài, bài kệ sau đây:
Như con người đứng trên đỉnh núi nhìn quanh dân
chúng phía dưới.
Cũng vậy Ngài Sumedha lên lầu chánh pháp, bậc biến nhãn, thoát ly sầu
muộn.
Nhìn xuống quần chúng, âu lo sầu muộn bị sanh già áp bức.
Hãy đứng lên, bậc anh hùng, bậc chiến thắng ở chiến trường!
Vị trưởng đoàn lữ khách, đấng thoát ly mọi nợ nần!
Thế Tôn hãy đi khắp thế giới hoằng dương chánh pháp.
Có người nhờ được nghe, sẽ thâm hiểu diệu nghĩa!
Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trả lời vị Ðại Phạm thiên với bài kệ sau
đây:
Cửa bất diệt đã được mở rộng,
Hỡi những ai được nghe, hãy từ bỏ tà kiến của mình.
Vì nghĩ đến mệt mỏi hoài công, này Phạm Thiên.
Ta không muốn giảng Chánh pháp vi diệu cho loài người!
Này các Tỷ-kheo, rồi vị Ðại Phạm thiên với ý
nghĩ: "Ta đã là người mở đường cho Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác thuyết pháp", rồi đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
8. Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ: "Ta thuyết pháp cho ai trước tiên?
Ai sẽ mau hiểu chánh pháp này?"
Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ: "Nay vương tử Khanda (Kiển-trà)
và con vương sư Tissa (Ðề-xá) trú ở kinh đô Bandhumatì
(Bàn-đầu-bà-đề) là bậc trí thức đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống
ít nhiễm ô bởi bụi đời. Nay ta hãy thuyết pháp cho vương tử Khanda và
con vương sư Tissa trước tiên, hai vị này sẽ sớm thâm hiểu chánh pháp
này".
Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
như một nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay
duỗi thẳng, biến mất từ cây Bồ đề, hiện ra tại vườn Lộc
Uyển Khenma, kinh đô Bhadhumatì.
9. Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác gọi người giữ vườn: "Này bạn, hãy vào
kinh đô Bandhumatì, nhắn với vương tử Khanda và con vương sư Tissa rằng
Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh đô
Bandhumatì, hiện trú ở Lộc Uyển Khema và muốn gặp hai vị!" -
"Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Này các Tỷ-kheo, người giữ vườn vâng theo lời dạy
của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vào kinh đô
Bandhumatì và thưa với vương tử Khanda và con vương sư Tissa: "Thưa
quý vị, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến
kinh đô Bandhumatì và hiện ở Lộc Uyển Khema. Ngài muốn gặp quý
vị!"
10. Này các Tỷ-kheo, Vương tử Khanda và con vương
sư Tissa cho thắng những cỗ xe thù thắng, tự mình leo lên một cỗ xe
thù thắng rồi cùng với các cỗ xe thù thắng khác, cho xe ra khỏi kinh thành
Bandhumati, đi đến Lộc Uyển Khema, đi xe cho đến chỗ còn đi xe
được, rồi xuống xe đi bộ đến trước Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác. Khi đến nơi, hai vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống
một bên.
11. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác thuận thứ thuyết pháp, thuyết về bố thí, thuyết về
trì giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ
liệt, sự nhiễm ô của dục vọng, và sự lợi ích của xuất ly. Khi
Thế Tôn biết được tâm trí của hai vị này đã thuần thục, nhu thuận,
thoát ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại
mà được chư Phật đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như
tấm vải thuần tịnh không có tỳ vết, rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy,
vương tử Khanda và con vương sư Tissa, chính tại chỗ ngồi này chứng
được Pháp nhãn xa trần ly cấu: "Phàm pháp gì đã sanh rồi cũng phải
diệt".
12. Hai vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp,
thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự, diệt tận, chứng được
tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền
bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Thật vi
diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Bạch Thế
Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn và quy y Pháp. Bạch Thế Tôn, mong
Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn cho
chúng con được thọ đại giới".
13. Này các Tỷ-kheo, vương tử Khanda và con vương
sư Tissa được xuất gia với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác, được thọ đại giới. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác giảng dạy hai vị này, khuyến khích làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ với pháp thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm
ô của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết-bàn. Và hai vị này nhờ
Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến
khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu
tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
14. Này các Tỷ-kheo, trong khi kinh thành Bandhumatì
có đại chúng khoảng tám vạn bốn ngàn vị được nghe: "Thế Tôn
Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh thành Bandhumatì và
ở tại Lộc Uyển Khema. Vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình với
Thế Tôn, Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". Khi nghe vậy, các
vị này tự nghĩ: "Chắc chắn, pháp luật này không thể tầm thường, sự
xuất gia này không thể tầm thường, vì vương tử Khanda và con vương sư
Tissa đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình với Thế
Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Tại sao chúng ta lại không làm
vậy?"
Này các Tỷ-kheo, rồi đại chúng ấy gồm khoảng tám
vạn bốn ngàn vị đi ra khỏi kinh thành Bandhumatì đến Lộc Uyển Khema,
chỗ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở. Khi đến
nơi, các vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
15. Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
thuận thứ thuyết pháp, thuyết về bố thí, thuyết về trì
giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ
liệt, sự nhiễm ô của dục vọng và sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế
Tôn biết được tâm trí của các vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát
ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà
chư Phật đã đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như tấm vải
thuần tịnh, không có tỳ vết rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy tám vạn
bốn ngàn vị này, chính tại chỗ ngồi này, chứng được pháp nhãn xa trần
ly cấu: "Phàm pháp gì đã sanh rồi cũng phải diệt".
16. Những vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp,
thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được
tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền
bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Thật vi
diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, Như
người dựng đứng lại, những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch
Thế Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn và quy y Pháp. Bạch Thế Tôn,
mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn
cho chúng con được thọ đại giới!".
17. Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị này
được xuất gia với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
được thọ đại giới. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác giảng dạy những vị này, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ với pháp thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô
của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết Bàn. Và những vị này, nhờ
Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến
khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu
tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
18. Này các Tỷ-kheo, nay tám vạn bốn ngàn các vị
xuất gia từ trước, được nghe: "Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác đã đến kinh thành Bandhumatì, ở tại Lộc Uyển Khema và
thuyết pháp". Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia này,
đi đến Lộc Uyển Khema, chỗ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác ở. Khi đến nơi, các vị này đảnh lễ Ngài và ngồi
xuống một bên.
19. Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
thuận thứ thuyết pháp, thuyết về bố thí, thuyết về trì
giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ
liệt, sự nhiễm ô của dục vọng và sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế
Tôn biết được tâm trí của các vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát
ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà
chư Phật đã đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như tấm vải
thuần tịnh, không có tỳ vết, rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy tám vạn
bốn ngàn vị xuất gia này, chính tại chỗ ngồi này, chứng được pháp nhãn
xa trần ly cấu: "Phàm pháp gì đã sanh ra rồi cũng phải diệt".
20. Những vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp,
thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự
tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền
bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Thật vi
diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, Bạch Thế Tôn! Như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Bạch Thế
Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tăng. Bạch Thế
Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong
Thế Tôn cho chúng con được thọ đại giới!"
21. Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia
với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được thọ đại
giới. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy những
vị này, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp
thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các pháp hữu
vi và sự lợi ích của Niết Bàn. Và những vị này nhờ Thế Tôn Vipassì,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến khích, làm cho phấn khởi,
làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu tâm trí không còn chấp thủ,
được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
22. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ đại chúng
Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh đô Bandhumatì, Này
các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, trong khi
yên lặng tịnh cư đã suy nghĩ như sau: "Nay đại chúng Tỷ-kheo khoảng
sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh thành Bandhumatì. Sao Ta lại không
khuyến dạy các vị Tỷ-kheo ấy: "Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng
khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài
Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy
thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa
văn đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn
thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe
chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp.
Cứ sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumati để tụng đọc giới
bổn".
23. Này các Tỷ-kheo, một vị Ðại Phạm thiên khác,
với tâm tư của mình biết được tâm tư của Thế Tôn Vipassi, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Như một vị lực sĩ duỗi cánh tay co lại hay co
lại cánh tay đã duỗi ra, vị này biến mất ở cõi Phạm thiên và
hiện ra trước mặt Thế Tôn Vipassi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này
các Tỷ kheo, lúc bấy giờ vị Ðại Phạm thiên, đắp thượng y trên một bên
vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác và bạch Ngài: "Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là
phải, bạch Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy khuyến dạy
đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị ở kinh đô Bandhumati:
"Này các Tỷ-kheo hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì
an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi
ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một
chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu
rõ phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời,
nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ
thâm hiểu chánh pháp". Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ làm như các vị
Tỷ-kheo. Sau sáu năm, các vị này đến kinh đô Bandhumati để tụng
đọc giới bổn".
Này các Tỷ-kheo, Ðại Phạm thiên thuyết như
vậy. Sau khi nói xong, vị này đảnh lễ Thế Tôn Vipassi, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác, lưng bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
24. Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassi, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vào buổi chiều xuất định đứng dậy và nói
với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, trong khi Ta yên lặng tịnh cư tại
chỗ thanh vắng, ý nghĩ sau đây khởi lên: "Nay đại chúng
Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh thành Bandhamatì.
Sao Ta lại không khuyến dạy các Tỷ-kheo ấy: "Này các Tỷ-kheo,
hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài
Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các
Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống
phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời,
nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ
thâm hiểu chánh pháp. Cứ sau sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumati
để tụng đọc giới bổn".
25. Này các Tỷ-kheo, một Ðại Phạm thiên khác với
tâm tư của mình, biết được tâm tư của Ta. Như một vị lực sĩ duỗi
cánh tay đã co lại hay co lại cánh tay đã duỗi ra, vị này biến mất ở
cõi Phạm thiên và hiện ra trước mắt Ta. Này các Tỷ-kheo, vị Ðại
Phạm thiên, đắp thượng y trên một bên vai, chấp tay hướng đến Ta và
bạch với ta: "Như vậy là phải, Bạch Thế Tôn! Như vậy là phải. Bạch
Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy khuyến dạy đại chúng
Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị ở kinh đô Bandhumatì: "Này
các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho
đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an
lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này
các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ phạm hạnh
hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không
được nghe chánh pháp, sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu
chánh pháp. Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ làm như các Tỷ-kheo. Sau sáu
năm các vị này sẽ đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới
bổn". Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên thuyết như vậy. Sau khi
nói xong, vị này đảnh lễ Ta, lưng bên hữu hướng về Ta và biến mất
tại chỗ.
26. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến dạy các ngươi:
"Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì
an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi
ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một
chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy
nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít
nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng chánh pháp sẽ bị nguy hại.
Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp. Cứ sau sáu năm, hãy
đến tại kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn".
Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy, một phần lớn
trong ngày ấy đã lên đường đi khắp quốc độ.
27. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ tại Jambudìpa
(Diêm phù đề) có tám vạn bốn ngàn túc xá. Khi một năm vừa mãn, chư
Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, một năm vừa mãn, nay còn lại năm
năm. Sau năm năm, hãy đến tại kinh đô Bandhamatì để tụng đọc
giới bổn!"
Hai năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền
giả, hai năm vừa mãn, nay còn lại bốn năm. Sau bốn năm, hãy đến tại kinh
đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!".
Ba năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền
giả, ba năm đã mãn, nay còn lại ba năm. Sau ba năm, hãy đến tại kinh đô
Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!".
Bốn năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này
Hiền giả, bốn năm đã mãn, nay còn hai năm. Sau hai năm, hãy đến kinh
đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!"
Năm năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này
Hiền giả, năm năm đã mãn, nay còn lại một năm. Sau một năm, hãy
đến tại kinh đô Bandhumati để tụng đọc giới bổn!"
Sáu năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này
Hiền giả, sáu năm đã mãn. Nay đã đến ngày đi đến kinh đo
Bandhumati để tụng đọc giới bổn".
Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy, một số vị với
thần lực của mình, một số với thần lực của chư Thiên trong ngày ấy đã đi
đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn.
28. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giữa chúng Tỷ-kheo, tụng đọc giới bổn
này:
"Chư Phật dạy Niết-bàn là đệ nhất.
"Nhẫn nhục, khổ hạnh, kham nhẫn, là đệ nhất.
"Người xuất gia hại người xuất gia khác.
"Hại người khác như vậy không xứng gọi là Sa-môn.
"Mọi điều ác không làm, hướng tâm các
thiện nghiệp.
"Giữ tâm trí thanh tịnh, chính lời chư Phật dạy.
"Không chỉ trích, không đánh đập, giữ mình
trong giới bổn.
"Ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ riêng một mình.
"Hướng tâm đến cao khiết, chính lời chư Phật dạy".
29. Này các Tỷ-kheo, một thời ta ở tại Ukkhattha
(Úc-Già La), trong rừng Subhaga, dưới gốc cây ta-la vương. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Ta an lặng tịnh cư, tư tưởng sau đây khởi lên: "Có
một trú xứ, một loại chúng sanh rất dễ đến mà Ta từ trước không
đến ở trong một thời gian khá lâu! Ðó là chư Thiên Suddhàvàsa (Tịnh Cư
thiên). Vậy nay Ta hãy đến chư Thiên ở Tịnh Cư thiên!"
Này các Tỷ-kheo, như một lực sĩ duỗi cánh tay
đã co lại, hay co lại cánh tay đã duỗi ra, Ta biến mất ở Ukkattha,
trong rừng Subhaga, dưới gốc cây Ta-La vương và hiện ra trước chư Thiên
ở Tịnh Cư thiên. Trong đại chúng chư Thiên ấy một số vài ngàn chư Thiên
đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói
với Ta như sau:
"Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt
kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sanh,
thuộc chủng tánh Sát Ðế Ly. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna (Câu-Ly-Nhã). Này Hiền
giả, trong thời Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ
dưới gốc cây Pàtali (Ba-ba-la). Này Hiền giả, hai vị hiền sĩ, đệ
nhất đệ tử của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên
là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá). Này Hiền giả, trong thời
Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội, một Tăng
hội sáu trăm tám mươi vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo,
một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có vị thị giả Tỷ-kheo tên Asoka (A-dục), vị
này là vị thị giả đệ nhất. Này Hiền giả, phụ vương Thế Tôn
Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Bandhuma, mẫu hậu tên là
Bandhumatì (Bàn-đầu-bà-đề). Kinh thành của vua Bandhuma tên là Bandhumatì.
Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất
thế tục như thế này, xuất gia như thế này, tinh tấn như thế
này, giác ngộ như thế này, chuyển pháp luân như thế này. Này
Hiền giả, chúng con là những người đã tu phạm hạnh với Thế Tôn
Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã diệt trừ dục vọng và đã
sanh ra tại chỗ này".
30.
Này các Tỷ-kheo, lại trong đại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư
Thiên (... ... ) một số vài trăm chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và
đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã
nói với Ta: "Này Hiền giả, trong tiền kiếp này, Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác nay ra đời. Này Hiền giả, Thế Tôn, thuộc chủng tánh
Sát-đế -lỵ, thuộc gia tộc Sát-đế-lỵ. Này Hiền giả, Thế Tôn thuộc danh
tánh Gotama (Cù-đàm). Này Hiền giả, Thế Tôn tuổi thọ không bao nhiêu,
ít oi, tuổi thọ loài người khoảng một trăm năm hay hơn một chút. Này
Hiền giả, Thế Tôn giác ngộ dưới gốc cây assattha (bát-đa- la). Này Hiền
giả, Thế Tôn có hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử tên là Sàriputta và
Moggallàna (Xá-lợi-phất và Mục kiền-liên). Này Hiền giả, Thế Tôn có một
Tăng hội một ngàn hai trăm năm mươi vị. Này Hiền giả, Tăng hội này của
Thế Tôn gồm toàn những vị đã diệt trừ lậu hoặc. Này Hiền giả, Thế Tôn
có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Ananda (A-nan), vị này là thị giả đệ nhất.
Này Hiền giả, phụ vương của Thế Tôn tên là Suddhodana (Tịnh Phạn),
Hoàng hậu là Màyà (Ma-gia) kinh đô là Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ). Này
Hiền giả, Thế Tôn xuất thế tục như thế này, xuất gia như thế này, tinh
tấn như thế này, giác ngộ như thế này, chuyển pháp luân như thế này.
Này Hiền giả, chúng tôi là những người đã tu phạm hạnh với Thế Tôn, đã
diệt trừ dục vọng và đã sanh ra tại chỗ này".
31. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên
Avihà (Vô Nhiệt thiên) đến chư Thiên Atappà (Vô Phiền thiên). Này
các Tỷ-kheo, rồi cùng với chư Thiên Avihà và chư Thiên Atappà đến
chư Thiên Sudassà (Thiện Kiến thiên). Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng
với chư Thiên Avihà, chư Thiên Atappà và chư Thiên Sudassa đến chư Thiên
Sudassi (Thiện Hiện thiên).
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihà,
chư Thiên Atappà, chư Thiên Sudassà và chư Thiên Sudassì đến chư Thiên
Akanitthà (Sắc Cứu Kính thiên). Này các Tỷ-kheo, lại trong Ðại chúng chư
Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và
đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã
nói với Ta như sau: "Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt
kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời...
(như đoạn kinh số 29)".
32. Này các Tỷ-kheo, lại trong đại chúng chư Thiên
ấy, một số vài ngàn chư Thiên (như trước) một số vài trăm chư Thiên
đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau
khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau: "Này Hiền
giả, trong tiền kiếp này đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác nay ra đời... (như đoạn kinh số 30)".
33. Này các Tỷ-kheo, như vậy Như Lai khéo chứng
đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập
Niết-bàn, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã
thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này
cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến
tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng
hội như sau: "Các bậc Thế Tôn này, sanh tánh là như vậy, danh tánh
là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như
vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như
vậy".
Thế Tôn thuyết pháp như vậy. Các vị Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Hòa thượng Thích Minh
Châu dịch Việt