Chương II
LOẠI TÂM BẤT THIỆN ÐẦU TIÊN
Trong phân đoạn chú giải[90],
phần giải thích về nhất tâm, có một thành ngữ kép, ‘trạng thái vững chắc và
kiên định’ đồng nghĩa với hiện trạng ổn định. Nhưng thành ngữ này đã được đề
cập đến trong phần giải thích về tâm thiện, tức ‘hiện trạng này đứng vững đâm
vào hay thâm nhập vào đối tượng[91] không được kể đến ở đây. Thực vậy, nơi tâm
bất thiện như đã chứng minh ở trên, là nhất tâm hiện tại hơi yếu một chút. Ý
muốn nói là không tán loạn đối nghịch lại với tán loạn, được tạo ra thông qua
phóng dật và bối rối không đạt đến được ở đây. Nhưng ta không thể phóng dật
trước các hiện trạng cùng tồn tại gọi là trạng thái không tán loạn, điều không
tán loạn là bất phóng dật; thông qua nhất tâm bất thiện thì hiện trạng tâm này
là không tán loạn. Hiện trạng này không rung động nhờ những pháp đồng sanh –
đây chính là sức mạnh định lực. Chính vì tập trung và gắn với đối tượng lại bị
hư hỏng, nên định lực đã trở thành tà định. Như vậy ở đây ta nên hiểu theo
nghĩa này.
Trong
phần diễn giải về cần quyền[92] thì phương pháp được nêu lên ở trên – cụ thể là
‘cố gắng đẩy lùi tính tham dục’[93] không thể thực hiện được ở đây. Chỉ được
hiểu theo nghĩa không nao núng vì các pháp đồng sanh chính là ‘sức mạnh’ được
gọi là cần lực được hiểu ở đây.
Phần
diễn giải về các tà kiến[94] hiểu theo nghĩa quan điểm không đúng đắn, những
quan điểm như vậy được gọi là ditthigata (tương ưng tà kiến) gồm trong sáu mươi
hai quan điểm dị giáo[95] mà ra. Ý nghĩa của từ này đã được bàn đến ở trên. Chỉ
nguyên từ ‘quan điểm cho là’ đã là điều khó có thể hiểu được tỷ như ‘quan điểm
cho là cánh rừng rậm nhiệt đới,’ cánh rừng ở đây có thể là khu đất hoang mọc
đầy cỏ dại, có thể là cánh rừng rậm nhiệt đới, hay cánh rừng trên một ngọn núi.
Từ ‘quan điểm’ cho là cũng ám chỉ điều gì đó nguy hiểm và dễ sợ hiểu theo nghĩa
‘quan điểm cho là một vùng hoang dã’ giống như cánh đồng hoang đầy trộm cướp và
động vật hoang dã dữ tợn, một vùng hoang dã đầy cát, khô cằn vì thiếu nước,
chẳng tìm được bất kỳ loại thực phẩm nào. Cũng có ‘quan điểm cho là’ thông qua
chánh kiến đây là điều khiến ta phải lao đao và khó chịu và có thể ngược lại
như ‘quan điểm cho là điều gì đó lộn xộn.’ Vì một khi tà kiến nổi lên, nó xuyên
qua chánh kiến, và đi ngược lại với chánh kiến. Ðã một thời xuất phát từ những
quan điểm thay đổi và dao động của những người chủ trương thường kiến và Ðoạn
kiến cho rằng ‘quan điểm chính là một cuộc hỗn chiến.’Một người có quan điểm
lại không thể giữ vững được quan điểm của mình tức là lúc thì theo đuổi quan
điểm của những người chủ trương thường kiến, lúc khác lại ngả theo phái đoạn
kiến. Lại có quan điểm tù túng có nghĩa là ‘bị gông cùm’ xuất hiện từ thuật ngữ
‘quan điểm tù túng.’ Nó (quan điểm) chộp chaët lấy đối tượng giống như cá sấu
ngoạm chặt lấy con mồi v.v... là một kẻ xấu số nào đó. – chính vì vậy quan điểm
lại có nghĩa là ‘kìm chặt lại’ và quan điểm ‘cố định’ là do những quan điểm đó
đã được định sẵn rồi. Vì thế một tà kiến hay là một quan điểm xuất phát từ ‘sức
mạnh’trong qui trình tồn tại tự củng cố và kiên định vững vàng. Nhờ đặc tính
vĩnh cửu v.v... quan điểm này trở nên thuyết phục- chính vì thế ta có thuật ngữ
‘thâm tín’ (hay là khuynh hướng). Chuyển qua bản chất nội tại nơi các vật thể.,
tà kiến coi các vật thể này là tà đạo, là thường hằng - đây chính là một ‘tà
giáo’. Tà kiến này chính là một đường lối thấp hèn, vì nó đem lại nhiều điều
thất lợi; hoặc giả, tà kiến này chính là con đường dẫn đến những địa điểm đau
khổ thấp hèn. – chính vì thế ta có thuật ngữ ‘thông qua con đường này’. Xuất
phát từ hiện trạng không phải là chánh đạo, tà kiến trở thành ‘ta đạo.’ Giống
như một người đi lạc đường, cho dù người đó cho rằng đây là con đường dẫn đến
ngôi làng cần đến, thì đi theo con đường đó ta không tài nào đến được ngôi làng
vậy. Chính vì thế mà những tà kiến xuất khởi từ đây. Cho dù ta coi đó là đường
dẫn đến vận may hạnh phúc, thì ta cũng chẳng tài nào chiếm được vận may đó; do
đó vì không phải là chánh đạo dứt khoát tà kiến chính là ‘tà đạo’. Xuất phát từ
bản chất sai lệch chỉ có tà tánh xảy ra mà thôi. (Chính vì ta có thể tưởng
tượng ra mình đang đi phà vượt sông) những kẻ khờ dại thường xuyên lướt qua một
ý nghĩ, hay một quan điểm xuất phát từ thái độ đi lang thang đó đây - chính vì
thế ta có thuật ngữ ‘chỗ cạn’. Ðây là một chỗ cạn, một nơi đầy bất trắc thất
lợi – như vậy nơi đó là một ‘căn nguyên tà giáo’(titthayatana), hay hiểu theo
nghĩa nơi sanh, một cư ngụ (ayatana) của một người theo tà giáo. (tittha) chính
là titthayatana. Trạng thái hay bản chất nội tại đó chính là nghịch chấp
(vipariyessagaha); hay là một chấp thủ(gaha) do đối tượng đã trở thành đồi truỵ
đem lại; như vậy đối tượng được coi như là vipariyessagaha. Nghịch chấp chính
là ý nghĩa nên được hiểu trong mạch văn này.
Trong
phần chú giải về vô tàm và vô úy, ý nghĩa ở đây nên được hiểu ngược lại với
những gì đã bàn về tàm và úy. Và ‘sức mạnh’ này được gọi là vô tàm vô úy cũng
đồng nghĩa với không run sợ trước những pháp câu sanh.
Trong
phần chú giải về tính tham lam và si mê[96] ‘tính tham lam (greed) có nghĩa là
‘thèm muốn’ trở thành ‘thèm muốn’ chính là có tâm trạng thèm khát, ‘thèm muốn’
ở đây lại chính là tâm tương ưng với tham muốn, hay một người có tâm địa đó;
tính tham muốn chính là hiện trạng tâm thèm khát’ hay là có liên quan đến cách
thức đó. Say đắm ‘infatuation’ chính là một hiện trạng hay một con người có tâm
địa như vậy. Tham ác ‘Covetousness’ có nghĩa là thèm khát tham muốn, điểm này
đã được giải thích về tham. (greed) [254] ‘căn bất thiện’ có nghĩa là điều bất
thiện cộng với căn, nguyên do của những gì được coi là bất thiện. ‘không biết
hay thiếu ‘tầm nhìn sâu rộng’ là điều ngược lại với có Minh và kiến. Không lãnh
hội (nhận thức) có nghĩa là không nắm bắt được, không theo kịp với những gì
chúng ta phải đương đầu. Hiểu biết thấu đáo[97] về sự vật chính là óc phán
đoán; thiếu phán đoán’ là tình trạng ngược lại với phán đoán; ‘không giác ngộ’
chính là không thể liên kết sự vật với vô thường, khổ não, và vô ngã; nhân thức
một cách không thực tế, méo mó cũng là một cách thiếu giác ngộ vậy. ‘Không thể
nhập’ tức là không thể thâm nhập thấu đáo vào học thuyết ‘Tứ Diệu Ðế’ được.
‘không tiếp thu (grasping) chính là không thể am hiểu được ngay cả một sự kiện
riêng rẽ thuộc kinh nghiệm ngoại xứ theo luật vô thường tự nhiên. v.v... Không
thể khảo sát kỹ lưỡng được bất kỳ sắc pháp nào – tức là ‘thiếu khả năng chấp thủ
thấu đáo.’ Không thấm nhuần, chính là thiếu tính quan tâm vô tư.[98] Không biết
nhìn vấn đề dựa trên bản chất sự vật. Ðiều này được hiểu là ‘không phản kháng.’
Chẳng có một hành vi đơn lẻ nào trong số những hành vi thiện và bất thiện mà
vọng tưởng này hình dung ra được. Do tính hư hỏng và không thể hiểu không được
bản chất nội tại nơi sự vật- Ðây chính là hành vi ‘thiếu phản tỉnh,[99] hay do
hành vi si mê này ta không thể tự mình thực hiện nổi những suy tư trước bất kỳ
một hành động nào. - Ðây chính là hành vi không phản tỉnh. Si mê (si) đó phá
hoại tính liên tục trong sáng nơi tâm, vì nếu thiếu vắng si mê này thì tâm ta
rất trong sáng và tinh sạch, si mê này phá hoại lòng trinh trong.’ Hiện trạng
khờ khạo chính là tính ngu si. Bị mê muội lại là ‘si mê’ si mê thái quá là ‘si
ám’. bị mê muội trong mọi lãnh vực chính là tính ‘u muội’. Ðiều không phải kiến
thức mà lại đối nghịch lại ta gọi là ‘vô minh.’ Ý nghĩa các từ sau đây, ‘bộc
lưu’, ‘phược’ cũng đã được đề cập đến. Hiện trạng những nằm xuống liên tục tiềm
ẩn một ý nghĩa ‘tùy miên’ – đây chính là ‘thành kiến’. Những bao vây và nô dịch
hóa tâm – có nghĩa là ‘xâm nhập’[100] Không thể thực hiện được những gì có lợi
do không thể dành được lợi nhuận – nó khiến ta tụt hậu - đây là hàng ‘rào cản’;
ở đây ta nên hiểu là khiến ta trở thành khập khiễng ì ạch. Khó mở ra hay gỡ bỏ
được được hiểu là một vật ‘cản.’ Chính vì thế một vật cản bằng sắt rất khó rỡ
bỏ được gọi là mahapaligha, cũng như vậy si mê này giống như một ‘vật cản’ và
vì vậy ta mới gọi là ‘vật cản’. Những gì còn lại xem ra ý nghĩa đã quá rõ ràng.
[255]
Phân đoạn Tóm Lược và ‘rỗng không’ phải được hiểu theo nghĩa như đã diễn giải
theo phương pháp đã đề cập đến ở trên.
Ðến đây
kết thúc việc diễn giải về loại tâm bất thiện đầu tiên.