CÁCH
NGUYỆN HOẶC XẢ Y
ADHITTHÀNA
CÌVARA
Thầy Tỳ Khưu trong
Phật
giáo mỗi khi được y vừa cở phải chú nguyện là bề
ngang bốn ngón, bề dài tám ngón Ðức Phật (T.Tg quyển 8
tr. 143) lối năm tấc Xúc 1 thước tây). Nếu có thọ lãnh lễ
kathina dâng y thì được phép cất giữ y ấy trong khoảng
năm tháng kể từ ngày ra hạ kỳ trước, nếu không có phước
báu của lễ kathina thì được phép cất giữ trong một
tháng sau khi ra hạ kỳ trước, ngoài thời hạn kể trên mỗi
khi được y chỉ được phép cất giữ trong 10 ngày, như thế
tùy theo hạng định phải chú nguyện về loại y nào cho rồi
để quá hạn kỳ sẽ phạm Ưng Xã Ðối Trị.
Trước khi chú
nguyện
phải làm dấu – bindu là khoanh tròn trong ba màu là: màu
xanh, bùn, đen, tròn cở đ?u cọng tranh và không lớn hơn mắt
con công. Khi làm dấu nói như vầy: "Imam bindu kappam
karomi". Tôi làm dấu y này.
Có bảy thứ y
phải
chú nguyện là:
1. Tam y
2. Y tắm mưa
3. Y tọa cụ
4. Y ngọa cụ
5. Y đắp ghẻ (y mặc lót trong khi có ghẻ)
6. Y hoặc khăn lau mặt
7. Y phụ thuộc.
Trừ sáu thứ y sau
ra,
còn tam y trước khi chú nguyện y mới phải đọc xả bỏ chú
nguyện y cũ (nếu có) bằng không; lời chú nguyện sau không
thành tựu.
- Xả y tăng già
lê
đọc: Imam sanghàtim paccuddharàmi: Tôi xin xả Tăng già
lê này;
- Nếu là y Uất đà la tăng (vai trái) thì đổi chữ sanghatim
lại là uttaràsangam;
- Nếu là y An đà hội (y nội) thì đọc Antaravàsakam....
Khi xả xong mới
nguyện
lá y nào mà mình cần dùng.
Cách chú nguyện bảy
thứ y:
- Y Tăng già lê: Imam
sanghàtim adhitthàmi: Tôi xin chú nguyện y Tăng già lê
này.
- Y Uất đà la tăng: đổi ra uttaràsangam...
- Y An đà hội: đổi lại antaravàsakam...
Ba thứ y này kể
chung
về một loại y là là Tam y.
Y Tắm mưa: đổi lại
là vassikasàtikam...
Y Tọa cụ: đổi lại
là nisìdanam...(trải ngồi)
Y đắp ghẻ: đổi lại
là kandupaticchàdim...
Y ngọa cụ: đổi lại
là paccatharanam...
Y làm khăn lau mặt:
đổi
lại là mukhapunchanacolam...
Y phụ thuộc: đổi
lại
là parikkhàracolam...
Ngoài bảy thứ y này
ra còn mấy thứ khác khi chú nguyện kể tên ra cũng được:
như dây vải buộc ngực (đừng cho y Tăng già lê rớt), đổi
lại là: imam
urabandhanam...
Giây buộc lưng: imam
kàyabandhanam...
Y hăng sắc (lót mồ
hôi): imam ansakam...
Như các thứ y này
mà
mình đứng trong khuôn khổ một hắn một gan thì đọc
imam; còn ở ngoài khuôn khổ thì đọc etam. Ngoài một
lá y thì đọc imam, nhiều lá y thì đọc imàni,
như ngoài khuôn khổ một là y thì đọc etam, nhiều là
y thì đọc etàni.
Thí dụ như nhiều là
y phụ thuộc thì đọc: imàni parikkhàracolàni adhitthàmi:
tôi xin chú nguyện những y phụ thuộc này.
Cách chú nguyện
bình
bát có hai.
Bát ở trong khuông
khổ
và ngoài khuôn khổ (như cách nguyện y ) (1) Bình bát bằng
đất ở trong khuôn khổ thì đọc: Imam mattika pattam
adhitthami: tôi xin chú nguyện đây là bát đất. Nếu bát
sắt thì đọc: imam ayapattam... hoặc nguyện tổng quát
như vầy: imam pattam adhitthàmi. Ngoài hai thứ bát này
ra, thầy Tỳ Khưu dùng xài bát cây, ngọc, vàng, bạc v.v..
phạm tác ác.
Y và bát khi đã chú
nguyện rồi có chín nguyên nhân làm cho đứt adhitthàna.
1. Cho người
2. Trộm cướp lấy mất
3. Bạn thân lấy đi
4. trở xuống bậc thấp
5. Hoàn tục
6. Liểu đạo (chết)
7. Khi trai hóa gái, gái hóa trai
8. Ðọc xả adhtthàna
9. Lủng lỗ bằng ngón tay út
Còn bát thì chỉ
khác
điều thứ chín, nếu bát lũng lỗ vừa cho hột bo hoặc hột
cơm lọt ra vô được, phải vá hoặc trám lại và chú nguyện
lại trong khoảng 10 ngày.
CHỈ
ĐỊNH (nhường cho) CÁCH Y, BÁT: VIDHÌ VIKAPPA
Khi được y đúng cở
phải chú nguyện đã giải phía trước, nếu không chú nguyện
về loại y nào theo thời gian nhất định thì phải đem đi
chỉ định với năm hạng người đồng đạo là: Tỳ Khưu,
Tỳ Khưu ni, sadi, sadi ni, sikkhàmànà (thức xóa ma na - phụ nữ
Tự Tứ tập sự hai năm đặng lên Tỳ Khưu ni), nhưng hiện
nay chỉ còn Tỳ Khưu và sadi mà thôi (theo Phật giáo nam
tông mấy hạng Tự Tứ nữ kia không còn tồn tại ).
Cách chỉ
định có hai:
1. Cách chỉ định có mặt:
2. Cách chỉ định vắng mặt.
Khi thầy Tỳ Khưu
đem
một lá y trước mặt một vị khác nói rằng: imam
cìvaram tuyham vikappemi: tôi xin chỉ định (nhường) y này
cho Ngài (hoặc bạn), gọi là chỉ định ngay mặt. Nếu mình
thân thích vị Tỳ Khưu hoặc sadi tên gì thì chỉ định
ngay tên ấy (hiện vị ấy không có mặt) mình nói với vị
nào tại đó cũng được (như thế gọi là chỉ định vắng
mặt).
Khi đem y đến trước
mặt một vị nào nói rằng: imam cìvaram (tên...) bhikkhuno
vikkappemi: tôi xin chỉ định y này cho vị Tỳ Khưu tên...
nếu muốn chỉ định cho ông sadi thì nói: imam civaram
(tên...) sàmanerassa vikappemi. Nếu y nhiều lá thì nói: imàni
cìvaràni... y nhiều, ít, ở xa, gần cũng phải đổi pàli
theo như cách nguyện y. Khi chỉ định như thế rồi mình cất
giữ đi cũng được, nhưng không được phép dùng xài hoặc
cho ai. Trong một lúc sau vị mình chỉ định ấy nói như vầy:
imam cìvaram mayham santakam (nếu nhiều là y thì nói
santakàni) paribhunja và vissajjehi và yathàpaccayam và karohi
y này của tôi, bạn cứ lấy cần dùng hoặc bỏ cho ai hoặc
làm thế nào tùy ý. Khi vị kia nói như vậy thì chỉ định
lúc trước đã xóa bỏ. Thầy Tỳ Khưu muốn cần dùng y ấy
làm chỉ định cũng được (đây là cách hủy bỏ sự chỉ
định có mặt); còn cách chỉ định vắng mặt thì vị nào
mình nói trước mặt đó, vị ấy khi nói với mình như vầy:
Tên... (1) bhikkhuno santakam paribhunja và... ya này của
thầy
Tỳ Khưu tên... bạn cứ lấy cần dùng v.v.. Còn một cách
chỉ định khác là mượn vị khác chỉ định dùm, là đem
y đến trước mặt một vị nào và nói xin làm ơn chị định
y này cho vị Tỳ Khưu hoặc sadi nào mà mình thân thích. Vị
kia nói: Aham tên... (1) bhikkhuno dammi tôi cho y này
đến
Tỳ Khưu tên... (cách này không mấy cần thiết lắm). Theo
trong chú giải Vimani vinodanì nói rằng: y sau khi đã xả
bỏ chỉ định, như không nguyện để vậy dùng xài cũng
được và quá 10 ngày cũng không phạm tội vì y ấy đã thuộc
về loại y chỉ định rồi. Có chỗ nói nên nguyện thì
càng tốt.
cách chỉ định bát
Giống cách chỉ định
y chỉ đổi pàli là: Imam
pattam...
Nếu có nhiều bát
thì
nói: ime patte...
Nếu có nhiều bát
hủy
bỏ chỉ định thì nói: Mayam santake... hơn nữa khi bát
đã chỉ định cho vị nào rồi, nếu vị ấy là bạn thân,
mình có thể lấy bát ấy đem dùng xái cách thân mật trước
mặt hoặc vắng mặt vị ấy cũng được không phạm tội.
CÁCH
SÁM HỐI
DESANÀKATHÀ
Trong Phật pháp mỗi
khi vị Tỳ Khưu nào có phạm tội lỗi chi phải ăn nan hối
ngộ khai tội ấy ra rồi sám hối.
Tội lỗi ấy có 7
thứ:
1. Bất Cộng Trụ –
pàràjika.
2. Tăng Tàng – sanghàdisena
3. Tội trọng – thullaccaya
4. Ưng đối trị – pàcittiya
5. Ưng phát lộ – patidesanìya
6. Hành ác – dukkata
7. Ác khẩu – dubbhàsita.
Như tội thứ nhất
khi
phạm rồi thì phải khai ra và hoàn tục hoặc xuống sadi
(tùy theo tội), phạm tội thứ nhì thì phải phạt cấm
phòng tù theo lâu mau. Còn như phạm tội kia thì chỉ sám hối
xong thì được trong sạch.
Như phạm một tội
thì
sám hối như vầy (cách phạm trọng tội ). Vì vị phạm tội
ấy đến trước một vị Tỳ Khưu nào, nếu vị ấy cao hạ
phải qùy lạy và bạch rằng: Aham bhante ekam thullaccayam
àpattim àpanno tam patidesemi – Bạch Ngài tôi đã phạm một
tội trọng, tôi xin sám hối tội ấy. Vị kia trả lời: Passasi
àvuso? Bạn có thấy tội không? Vì phạm tội nói: Ama
bhante passàmi – Bạch Ngài tôi thấy rồi. Vị kia nói tiếp:
Ayatim àvuso samvareyyâsi. Vậy bạn hãy thu thúc từ nay
về sau. Vị phạm tội trả lời: Sàdhu, sutthu bhante
samvareyyâmi - Lành thay ! Bạch Ngài tôi thu thúc cho tốt
đẹp từ nay – Nếu vị cao hạ hơn sám hối với vị nhỏ
hạ thì nói: Aham àvuso..., này bạn v.v... vị nhỏ hạ
trả lời: passatha bhante? Ngài có thấy không? Vị lớn
hạ nói: ama àvuso passàmi. Nầy bạn tôi thấy rồi.Vị
nhỏ hạ nói: ayatim bhante samvareyyâtha: Vậy Ngài hãy
thu thúc từ nay về sau – Còn câu sau chót thì chỉ đổi chữ
àvuso. Như phạm mấy tội sau nữa thì chỉ đổi tên
của tội ấy như : ekam
pàcittiyam......,
ekam patidesanìyam......, ekam dukkatam..., ekam dubbàsitam...
Nếu phạm một tội
nào mà hai lần thì nói: ....dve thullaccayâyo àpattiyo
apanno, tà patidesemi... Nếu phạm một tội mà ba lần sắp
lên thì đổi chữ dve lại thành Sambahulà (nhiều
tội).
Nếu phạm một tội
nhiều mà điều học khác nhau thì nói: Aham bhànte
sambahulà nà nà vathukàyo thullacccayâyo àpattiyo, àpanno tà
patidesemi – Bạch Ngài tôi đã phạm nhiều tội trọng
mà điều học khác nhau....
Nếu phạm các tội
khác thì đổi chỗ tên tội ấy lạilà: pàcittiyâyo....patidesanìyâyo....dukkatàyo...dubbhàsitàyo...
Còn một cách sám
hối
tổng quát không khai rõ tội chi, chỉ nói có phạm tội nặng,
tội nhẹ vậy thôi (cách này ít khi dùng chỉ còn dùng nơi
các phái xưa).
Sabbe garu
lahuk'àpattiyo
àrocemi aham bhante sambahulà nànà vatthukàyo àpattiyo àpanno,
tà patidesemi – Bạch
Ngài
tôi xin cho Ngài hay tôi có phạm nhiều tội nặng, nhẹ mà
điều học khác nhau, vậy tôi xin sám hối những tội lỗi
ấy.
Vị cao hạ trả lời: passàsi
àvuso tà àpattiyo? Bạn có thấy những tội lỗi ấy
không? (phần sau cũng như ở trên).
CÁCH
SÁM HỐI VỀ ƯNG XẢ ÐỐI TRỊ (B. SIKKHÀ P. 509)
Thầy Tỳ Khưu thọ
lãnh
y cở đúng theo khuôn khổ mà quên không chú nguyện không chỉ
định cho ai để quá hạn kỳ 10 ngày thì phải đem y ấy xả
bỏ giữa Chư Tăng hoặc một, hai, ba vị cũng được, rồi
sám hối mới hết tội. Xã giữa Chư Tăng thì đọc: Idam
me bhante cìvaram dasàhàtikhantam nissaggiyam, imàham sanghassa
nissajjàmi – Bạch đại đức Tăng, y này tôi để quá
10 ngày, phải xả bỏ, tôi xin xả y này đến Chư Tăng. Vị
luật sư phải tuyên ngôn trình Chư Tăng như vầy: Sunàtu
me bhante sangho, idam cìvaram (tên...) bhikkhuno nissaggiyam
sanghassa nissattham, yadi sanghassa pattakallam, sangho imam
cìvaram
(tên...) bhikkhuno dadeyya – Bạch Chư Tăng, xin Chư Tăng
nghe tôi trình, y này của vị Tỳ Khưu tên... đã xả bỏ đến
Chư Tăng; sự xả bỏ này nếu hợp thời đến Chư Tăng xin
Chư Tăng cho y này lại vị Tỳ Khưu tên...
nếu y nhiều thì khi
xả
bỏ phải đọc như vầy: imàni me bhante cìvaràni
dasàhàtikkhantàni, ninaggiyâni imànàham sanghassa nissajjàmi.
(chỉ đổi lại số nhiều thôi). Nếu xả y với ba vị
thì: idam me bhante cìvaram dasàhàtikkhantam, ninaggiyam,
imàham
àyasmantànam nissajjàmi. Chỉ có khác là bạch các Ngài,
nghĩa y như trên.
Cách cho y xả ấy
lại,
nếu nói tiếng pàli không được thì thứ tiếng nào cũng
được miễn là người nghe cho hiểu công việc ấy. Pàli đọc
trình các vị Tỳ Khưu đặng cho y lại: sunantu me
àyasmantà, idam cìvaram (tên....) bhikkhuno nissaggiyam
àyasmantànam nissattham; yad'àyasmantànam pattakallam, àyasmantà
imam cìvaram (tên...) bhikkhuno dadeyya, chỉ có khác nghĩa
là:
Bạch chư đại đức.
Nếu vị xả y với một
vị Tỳ Khưu thì nói: idam me bhante cìvaram dasàhàtikkantam
nissaggiyam, imàham àyasmato nissajjàmi. Nếu vị lớn hạ hơn
xả y thì nói: àvuso và àyasmato... nếu xả bỏ bát
quá 10 ngày trước Chư Tăng thì chỉ đổi chữ cìvaram ra
chữ pattam – Nhiều bát thì nói:
ime.... Patte...
CÁCH
XẢ VÀNG BẠC MÀ MÌNH ÐÃ THỌ LÃNH
Thầy Tỳ Khưu nào cố
ý hoặc vô ý mà thọ lãnh vàng bạc thì phải đem đến giữa
Chư Tăng xả bỏ như vầy:
Aham bhante
rùpiyam
patiggahesim idam me nissaggiyam, imàham sanghassa nissajjàmi
– Bạch đại đức Tăng, tôi đã thọ lãnh tiền bạc, tiền
bạc này tôi phải xả bỏ, tôi xin xả bỏ tiền bạc này
đến Chư Tăng.
Xong rồi phải sám
hối
tội lỗi ấy – Còn về phần Chư Tăng thì phải xử dụng
tiền bạc ấy cho đúng luật theo cách Ðức Phật đã dạy
(coi luật xuất gia quyển hạ).
CÁCH
NHẬP HẠ VAS'ÙPANÀYIKA
(T. Tg 3 Tr. 2).
Theo trong Phật
Giáo khi
đến mùa mưa các vị Tỳ Khưu và sadi phải nhập hạ trong
ba tháng.
Trong Phật Giáo mỗi
năm
có ba mùa: mùa nắng kể từ 16 tháng 2 đến rằm tháng 6 (cả
thảy 4 tháng) mùa mưa kể từ 16 tháng Asàlha (nếu năm
đi điều hòa không có tháng nhuần trong mùa nắng, thì nhằm
tháng 6 âm lịch) cho đến rằm tháng 10; mùa lạnh từ 16
tháng 10 đến rằm tháng 2. Nhưng khi nhập hạ thầy Tỳ
Khưu chỉ cư trú trong ba tháng thôi. Vì cách nhập hạ có
hai:
-
Purimikàvassà:
nhập hạ kỳ trước, kể từ 16 tháng 6 cho đến rằm tháng
chín âm lịch.
- Pacchimikàvassà:
nhập
hạ kỳ sau, kể từ 16 tháng 7 cho đến rằm tháng 10.
Khi đến mùa kiết hạ
mà thầy Tỳ Khưu không chịu nhập hạ kỳ nào hết, phạm
hành ác.
Trong lúc kiết hạ
nếu
có tai hại bỏ đi chỗ khác không phạm tội chỉ đức hạ
thôi (nếu đứt hạ thì chỉ không được phước báu do lễ
kathina). Như có chuyện thì được phép đi trong 7 ngày
nội ngày thứ 7 phải về tới chỗ nhập hạ đừng để đến
mặt trời mọc lên ngày thứ 8 thì đứt hạ. Như năm hạng
người đồng đạo hoặc cha mẹ đau hoặc có việc cần thiết
không cần ai thỉnh mình đi karanìyakicca trong 7 ngày,
ngoài ra phải có người đến thỉnh để làm phước, thuyết
pháp, dâng chùa v.v.. thì mới được phép đi. Ðến ngày kiết
hạ phải dọn quét chỗ ở cho sạch sẽ, vị sư trưởng phải
cắc nghĩa ranh giới của chùa trong bốn hướng cho mỗi vị
điều biết ngừa khi ra khỏi ranh giới khi mặt trời mọc.
Như có việc cần đi ra khỏi chùa phải trở vào trước khi
mặt trời mọc, còn khi muốn ra đi thì phải chờ cho mặt
trời mọc lên rõ rệt. Sự nhất định mặt trời mọc là
thấy những tia ánh hồng rọi lên ở phương đông, hoặc
xem chỉ tay thấy rõ rệt, hoặc thấy phân biệt lá cây tươi
khô. Khi ra đi lâu thì lúc khỏi ranh chùa nên chú nguyện
trong tâm rằng: "Ta phải trở về trong khoảng 7
ngày".
Nếu chùa to khi kết
hạ
cu hội vào chánh điện đọc chung như vầy: Imasmim àvàse
imam temà sam vassam upema. - "Chúng ta ở kết hạ chỗ
này trong ba tháng"
n?u ở chung trong
chùa
hoặc tịnh thất to lớn thì đọc:
Imasmim
vihàre imam
temàsam vassam upema –
"Chúng ta ở kết hạ chỗ này trong ba tháng"
Nếu chỗ ở có một
mình thì đọc:
Imasmim
senàsane imam
temàsam vassam upemi - "Tôi
ở kết hạ chỗ này trong ba tháng"
khi đến kỳ nhập hạ,
nếu không biết tiếng pàli nhưng chỉ chú nguyện trong tâm
rằng: "Ta phải kết hạ ở đây trong ba tháng"cũng
được .(1)
CÁCH
THỌ LỄ DÂNG Y – KATHINA
(T. Tg. 8è: Trg.
1-8)
thầy Tỳ Khưu nào
kết
hạ kỳ trước, khi ra hạ rồi nếu có thí chủ dâng y
kathina thì được phép lãnh. Nếu chùa mình ở không đủ
năm vị Tỳ Khưu để thọ lãnh thì thỉnh thêm các vị ở
chùa gần cho đủ Tăng (năm vị trở lên) đặng đọc tuyên
ngôn phải làm lễ trong vòng simà mới thành tựu phước báu.
Thầy Tỳ Khưu nào muốn thọ lãnh lễ kathina phải
thông hiểu 8 pháp là:
1. Pubbakarana
–
phận sự phải làm trước (như cắt, may, nhuộm v.v..)
2. Paccuddhàra:
cách xả y cũ (coi cách xả y phía trước).
3. Adhitthàna:
cách nguyện y mới.
4. Atthàra:
cách
nên thọ và không nên thọ (cách nên thọ lãnh có 17, cách
thọ không thành tựu có 24).
5. Màtikà:
nhân
sanh 8 thể cách để thọ lãnh cho đúng phép.
6. Palibodha:
hai
vật ràng buộc (y và chỗ ở).
7. Ubbhàra:
hai
cách xả kathina.
8. Anisansa:
năm
phước báu (đây chỉ tóm tắt các pháp này có giải rộng
trong quyển kathinakathà)
Nếu như y thí chủ
đã
may sẳn đem đến dâng, thầy Tỳ Khưu thông thạo xem xét
coi cách cắt, may, nhuộm, có đúng luật không. Như đúng
theo luật rồi thì phải xả y cũ, chú nguyện theo tên thứ
y nào mà mình thọ (ngoài tam y ra thọ không thành tựu). Như
thọ y Tăng già lê thì nên nói lớn cho mấy vị khác nghe như
vầy: Imàya sanghàtiyâ kathinam attharàmi: tôi thọ kathina
với y Tăng già lê này. Như thọ y Uất đà la tăng thì nói:
Iminà uttàrasangena kathinam attharàmi: tôi thọ kathina
với y Uất đà la tăng này. Nếu thọ y An đà hội thì nói:
Iminà antaravàsakena kathinam attharàmi: tôi thọ kathina
với
y An đà hội này. Khi thọ xong ngồi chồm hổm chấp tay day
về phía Chư Tăng đọc cho mấy vị kia đồng hưởng phước
báu như mình: - Atthatam àvuso sanghassa kathinam dhammiko
kathinatthàro anumodathà: này các bạn, kathina của Chư
Tăng tôi đã thọ rồi, sự thọ này được hợp pháp, xin
các Ngài hoan hỷ thọ lãnh phước báu.
Nếu ở chùa ấy chỉ
có hai vị thì vị lãnh cao hạ hơn phải nói với một vị
kia chữa sau chót hết như vầy: anumodàhi.
Mấy vị kia đều ngồi
chồm hổm chấp tay đọc thọ lãnh phước báu như vầy Atthatam
bhante sanghassa kathinam dhammiko kathinatthàro anumodàma:
bạch
Ngài, kathina của Chư Tăng Ngài đã thọ, sự thọ ấy hợp
pháp, chúng tôi xin hoan hỉ thọ lãnh phướv báu. Như cao hạ
hoặc nhỏ hạ chỉ đổi bhante ra àvuso thôi. Nếu
chỗ ấy chỉ có một vị thọ phước báu thì chữ sau chót
đổi lại là anumodàmi: tôi xin thọ lãnh phước báu.
Khi đọc thọ như thế
rồi thì cũng được đầy đủ năm phước như vị kia vậy.
THỜI
HẠN PHỨC TẠP CỦA VẬT DỤNG
KÀLIKA
SANSAGGA (T, Tg. 7e Trg. 378)
Thời hạn của vật
dụng
có 4:
Yâvakàlika:
thời hạn từ sáng tới đúng ngọ.
Yâmakàlika: thời hạn trong một ngày một đêm.
Satt'àhavika: thời hạn trong bảy ngày.
Yâvajìvika: thời hạn vô tận (dùng xài cho đếnhết
vật ấy).
Thầy Tỳ Khưu thọ
lãnh
vật dụng phải biết rõ thời hạn của vật ấy là baolâu
đặng cất giữ, nếu không biết phân biệt được hoặc quên
mà để quá thời hạn (như đường, sửa, mật v.v..) thì cũng
phạm tội. Như vật thọ lãnh xong chỉ được phép cất giữ
từ sáng đến trưa gọi là Yâvakàlika nếu để quá ngọ
ăn uống hoặc để cách đêm rồi lấy ra dùng như cơm, vật
thực, bánh mới cũ v.v.. Khi sái thời hạn mà còn lấy ăn uống
phạm mỗi tiếng ăn mỗi tội – Tám thứ nước dùng để
giải khát trong buổi chiều tối như là: nước trái trâm,
trái xoài, trái chuối, trái viết: Sràkum, thanh trà
v.v.. Khi chinh xế nếu có người chưa thọ cụ túc giới
làm đem dâng thì được phép cất giữ thọ dụng cho đến
sáng hôm sau, nhưng khi mặt trời mọc ngày sau thì không được
dùng, nếu dùng phạm hành ác. Các thứ nước ấy gọi là
yâmakàlika. Trong buổi sáng thầy Tỳ Khưu thọ trái cây tự
làm nước xong chỉ được phép trong buổi sáng thôi, đến
buổi chiều uống phạm tội vì tự mình làm lấy. Còn thọ
trái cây trong buổi sáng, đến chiều tự mình làm lấy uống
cũng không được. Nếu sadi làm lược xong dâng cho thì thọ
được.
Năm thứ như bơ đặt,
bơ tươi, đường, mật ong (dầu mè v.v..) thầy Tỳ Khưu khi
thọ lãnh chỉ được phép cất giữ trong 7 ngày gọi là Satt'àhakàlika,
nếu để quá 7 ngày các vật ấy không thể dùng được vì
đã phạm Ưng Xã Ðối Trị. Khi đã phạm Ưng Xã Ðối Trị
rồi mà còn lấy ra uống phạm hành ác.
Các thứ thuốc để
dành
đặng chữa bịnh như rễ cây, củ, lá, bông, trái, vỏ thuộc
loại dùng làm thuốc hoặc muối hay là một thứ thuốc nào
theo cách cần dùng hiện tại đều gọi là thuốc để ngừa
bịnh: Yâvajìvaka khi thọ lãnh rồi có thể để dành
cần dùng cho đến khi hết vật ấy. Nhưng muối lấy đem ra
thọ dụng chung với vật thực thì không nên, chỉ dùng để
chữa bịnh không mà thôi. Còn các vật này mà phức tạp trộn
lộn lẫn nhau thì Ðức Phật có giải như vầy: Này các thầy
Tỳ Khưu, vật dụng có thời hạn từ sáng đến trưa mà lẫn
lộn nhau với vật dụng có thời hạn trong một ngày một
đêm, thầy Tỳ Khưu thọ lãnh trong ngày ấy thì chỉ dùng
được từ sáng đến trưa thôi. Như vật dụng có thời hạn
trong bảy ngày trộn lộn với vật dụng có thời hạn từ
sáng đến trưa thì chỉ dùng được trong buổi sáng thôi.
Còn vật dụng thời vô hạn trộn chung với vật có thời hạn
từ sáng đến trưa chỉ được phép dùng trong buổi sáng,
sái giờ không nên dùng.
Như vật dụng có
thời
hạn 7 ngày trộn lộn với vật một ngày một đêm thì chỉ
được phép dùng trong một ngày đêm ấy thôi.
Còn vật dụng có
thời
vô hạn trộn lộn với vật 7 ngày thì chỉ dùng được
trong 7 ngày thôi, quá 7 ngày không nên dùng. Như thầy Tỳ
Khưu đi khất thực họ để bát có nhiều vật có thời hạn
khác nhau, khi về rồi vật nào không trộn dính lộn với
nhau như họ để củ gừng, trái đầu khấu, trà, đường sửa
v.v.. thì lấy ra để riêng dùng được tùy thời hạn của
vật dụng ấy. Như đường sửa thì để trong 7 ngày, còn gừng,
trà, trái đầu khấu thì cất giữ dùng cho đến hết.
BỐN
PHÁP DUNG HÒA – MAHÀPADESA
(T. Tg. 7e Trg
377)
Pháp dung hòa là
pháp
tùy theo hoặc chìu theo trường hợp. Lúc ấy các thầy Tỳ
Khưu phát tâm nghi ngờ không biết điều nào Ðức Phật cho
phép, điều nào Ngài không cho phép. Bèn đến bạch Phật.
Nhân cớ ấy đức Bổn Sư giải rằng:
Yam bhikkhave mayâ
idam na
kappatìti appatikkhittam tance akappiyam anulimeti kappiyam
patibahati
tam vo na kappati, yam bhikkhave mayâ idam na kappatìti
appatikkhittam
tance kappiyam anulometi akappiyam patibahati tam vo kappati,
yam
bhikkhave mayâ idam kappatìti ananunnàtam tance akappiyam
anulometi
kappiyam patibahati tam vo na'kappati, yam bhikkhave màyâ idam
kappàtìti ananunnàtam tance kappiyam anulometi akappiyam
patibahati
tam vo kappatìti.
Này các thầy Tỳ
Khưu,
điều nàomà Như Lai không cấm chỉ rằng là điều không
nên làm, nếu điều ấy mà dung hòa theo điều không nên
làm thì các thầy không nên làm đều ấy. Còn điều mà Như
Lai không cấm chỉ rằng là điều không nên làm, nếu điều
ấy mà không dung hòa theo điều nên làm thì các thầy nên
làm điều ấy.
Ðiều nào mà Như Lai
không thể chế định (cho phép) rằng là điều nên làm, nếu
điều ấy mà dung hòa theo điều không nên làm thì các thầy
không nên làm điều ấy. Còn điều mà Như Lai không chế định
rằng là điều nên làm, nếu điều ấy mà dung hòa theo điều
nên làm (điều tốt) thì các thầy nên làm điều ấy.
Bốn pháp dung hòa
trên
đây, hai pháp trước thuộc về cấm chỉ, hai pháp sau thuộc
về chế định. Như vậy thầy Tỳ Khưu mỗi khi muốn làm một
điều chi (ngoài điều học mà Ngài đã cấm hoặc cho phép)
thì nên suy xét coi điều ấy có nên làm không. Thí dụ như
tám thứ nước của trái cây Phật cho phép độ trong lúc
sái giờ mặc dầu nước các thứ trái nho nhỏ khác Ngài chưa
cho phép nhưng các nước của thứ trái cây ấy có thể dung
hòa được. Như Ngài cấm 7 thứ mể cốc không cho dùng làm
nước độ trong buổi chiều, dầu các thứ đậu Ngài chưa
cấm nhưng các loại đậu ấy cũng dung hòa theo 7 thứ mễ cốc,
cho nên dùng làm nước độ chiều cũng không được.
Còn như Phật chưa
cho
phép dùng đũa hoặc mu?i nỉa, nhưng các vật này dùng có vệ
sinh và phù hợp theo quốc độ thì các vật ấy cũng dung hòa
cho dùng được. Như nha phiến Phật Ngài chưa cấm nhưng tùy
tình trạng xả hội và quốc luật thì các vật ấy cũng
dung hòa thoe vật không nên dùng.
Các pháp dung hòa
này
dùng để cho các bậc trí thức suy xét cho tỉ mỉ đặng thực
hành cho khỏi lầm lộn.
LINH
TINH – PAKINNAKA
Ngoài những phận sự
kể phía trước, thầy Tỳ Khưu còn cần phải biết nguyên
nhân phát sanh tội lỗi có 6 là:
1. Alajjità:
Không sợ tội lỗi (dầu cho biết làm như thế là phạm tội
nhưng vẫn cứ làm).
2. Annànatà:
Không hiểu luật (là không chịu học hỏi muốn làm chi
thì làm dầu phạm dầu không cũng mặc kệ).
3. Kukkucca
pakattakà:
Nghi cũng cứ làm (như trong nước không có vi trùng (con quăn)
mà tâm hoài nghi không chừng có, nhưng vẫn múc nước ấy
dùng xài) như thế cũng phạm tội.
4. Akappiye
kappiya
sannità: Ðều không nên làm tưởng cho rằng nên làm
(như 10 thứ thịt không nên dùng mà thầy Tỳ Khưu tưởng
cho rằng thứ thịt nên dùng rồi ăn cũng vẫn phạm tội).
5. Kappiye
akappiya
sannità: Ðiều nên làm tưởng cho rằng không nên làm
(như y mới phải làm dấu và chú nguyện nhưng không làm cũng
vẫn phạm tội).
6. Satì
samosà:
Quên không chú ý (như đường, sửa, mật ong chỉ để dành
trong 7 ngày nhưng quên vô ý để 8, 9 ngày cũng vẫn phạm
tội vì vô ý).
Khi biết được
nguyên
nhân phát sanh tội lỗi thì thầy Tỳ Khưu khi làm điều chi
coi có lọt vào trong những nhân ấy không, mới tránh được
điều tội lỗi.
-ooOoo-
CÁCH
TỎ SỰ ƯNG THUẬN VÀ TRONG SẠCH
CHANDA
PÀRISUDDHI (T. Tg 6è 387 – 391)
Thầy Tỳ Khưu ở
chung
nhau trong một Simà (chỗ kết giới) khi Chư Tăng có
hành Tăng sự nào mà mình mắc bận không thể đến cu hội
được thì nên tỏ sự ưng thuận của mình với công việc
làm của Chư Tăng ấy, như ở gần hoặc gặp vị nào sẽ
đi hành Tăng sự mình nói: chandam dammi chandam me hara
chandam me àrocchi – Tôi xin tỏ sự ưng thuận, bạn hãy
đem sự ưng thuận của tôi nói với Chư Tăng.
Ðức Phật có giải
rằng:
Này các thầy Tỳ Khưu. Khi thầy Tỳ Khưu có bịnh hoặc bận
việc tỏ sự ưng thuận của mình cho vị Tỳ Khưu nào mà vị
ấy khi đi được giữa đường hoàn tục, xuống sadi, hoặc
chết v.v.. thì sự ưng thuận của vị Tỳ Khưu ấy chưa
đem đến Chư Tăng, nếu đem đến Chư Tăng rồi trở lại
hoàn tục hoặc chết v.v.. thì sự ưng thuận của vị Tỳ
Khưu ấy đã được đem đến Chư Tăng rõ rệt. Còn như vị
nào lãnh đem sự ưng thuận của vị khác đến Chư Tăng,
nhưng khi đến nơi ngủ quên, hoặc vô thiền, hoặc quên
không nói thì sự cho ưng thuận của vị kia đẽ đến Chư
Tăng rõ rệt, nhưng nếu vị lãnh đem nói lại mà cố ý
không chịu nói thì phạm hành ác còn vị kia vẫn cô tội
và sự ưng thuận ấy kể như đã đem đến Chư Tăng tròn
đủ rồi.
Nếu như Tăng sự ấy
là lễ Phát Lộ như ở chung một Simà thì khi cho sự
ưng thuận (chanda) rồi thì nên tỏ sự trong sạch (pàrisuddhi)
của mình luôn, như không tỏ sự trong sạch của mình thì
phạm hành ác. Muốn tỏ sự trong sạch, vào gần một vị Tỳ
Khưu ngồi chồm hổm chấp tay lên nói: Pàrisuddhim dammi
pàrisuddhim me hara pàrisuddhim me àrocehi. Tôi xin tỏ sự
trong sạch, bạn hãy đem sự trong sạch của tôi nói với Chư
Tăng.
Cách đem đến Chư
Tăng thành tựu hay không y như cách giải đem sự ưng thuận
vậy.
Còn như ở ngoài
vòng
simà, đến ngày làm lễ Phát Lộ, Tự Tứ không cần cho chanda
chỉ tỏ sự trong sạch của mình thôi... Nếu mình có bịnh
hoặc bận rộn không thể đi được.
CÁCH
XUẤT GIA SADI (TÓM TẮT)
PABBAJJÀ
VIDHÌ
Giới tử nào muốn
xuất
gia phải học cho thuộc 16 phép quán tưởng (như đã giải
phái trước), thập giới bằng tiếng Palì và những
bài palì xin xuất gia sau này: Khi cạo râu tóc sạch sẽ vào
đãnh lễ ông thầy tế độ xong đứng chấp tay đọc: Ukàsa
vandàmi bhante mayâ katam punnam sàminà anumoditabbam sàminà
kalam
punnam sàminà anumoditabbam sàminà katam punnam mayham dàtabbam
sàdhu sàdhu anumodàmi. Bạch Ngài tôi xin đãnh lễ Ngài,
xin Ngài xả những tội lỗi cho tôi. Phước báu mà tôi đã
làm xin Ngài hoan hỉ thọ lãnh, còn phước báu của Ngài đã
làm, xin Ngài chia sớt cho tôi, tôi rất vui lòng thọ lãnh phước
báu ấy cho được thành tựu những điều lợi ích.
Xong đọc tiếp: Ukàsa
kàrunnam katvà pabbajjam dema me bhante. Bạch Ngài xin Ngài
vui lòng bi mẫn cho tôi xuất gia, ngồi xuống đọc tiếp: Aham
bhante pabbajjam yàcàmi dutiyampi...., tatiyampi... Bạch
Ngài,
tôi xin xuất gia.
Kế tiếp bưng y cà
sa
lên đọc: Sabbadukkha nissarana nibbànasacchi karanatthàya
imam
kàsàvam gahetvà pabbàjetha mam bhante anukampam upàdàya:
Bạch
Ngài, xin Ngài từ bi thọ lãnh y ca sa này và tế độ làm
phép xuất gia cho tôi được lợi ích hầu đặng làm cho thấu
rõ Niết Bàn là pháp giải thoát tất cả các sự thống khổ.
Xong, dâng y ấy cho thầy, rồi đọc xin y lại:
Sabbadukkha
nissarana nibbànasacchi
karanatthàya etam kàsàvam upàdàya:
Bạch Ngài, xin Ngài vì lòng bi mẫn cho y casa lại tôi và tế
độ làm phép xuất gia cho tôi được sự lợi ích, hầu đặng
làm cho thấu rõ Niết Bàn là pháp giải thoát tất cả các
sự thống khổ.
Xong, thầy tế độ
lấy
y casa cho lại và dạy pháp thiền định về năm thể trược:
kesà, lomà, nakhà, dantà, taco, taco, dantà, nakhà, lomà,
kesà: tóc, lông, móng, răng, da (xuôi và ngược lại).
Xong, ra ngoài thay
y cà
sa trở vô đọc: Ukasà vandàmi bhante...., xong đọc tiếp:
Ukàsa karunam katvà tisarannena saha sìlani detha me bhante:
Bạch
Ngài, xin Ngài vì lòng bi mẫn cho tôi tam qui giới.
Rồi đọc tiếp: Aham
bhante sarana sìlam yâcàmi dutiyampi..., tatiyampi.... Xong đọc
Namo tassa... 3 lần.
Thầy nói: Yamaham
vadàmi tam vadehi: ta nói sao ngươi nên nói theo: trả lời Ama
bhante: Dạ, vâng.
Thầy truyền tam qui
và
thập giới.
Pànàtipàtà
veramanì
sikkhàpattam samà diyami.
Adinnàdàna
veramanì
sikkhàpattam samà diyami.
Abrahmacariyâ
veramanì
sikkhàpattam samà diyami.
Musàvàdà
veramanì
sikkhàpattam samà diyami.
Surà me
raya-,ajjapanàdatthàna veramanì sikkhàpattam samà diyami.
Vikala
bhojanà veramanì
sikkhàpattam samà diyami.
Nanca
gìta vadita
visùkadassanà veramanì sikkhàpattam samà diyami.
Malà
gandha vilepana
dhàrana mandana vidhùsanthànà veramanì sikkhàpattam samà diyami.
Uccàsayana
màlàssayanà
veramanì sikkhàpattam samà diyami.
Jàta rùpa
rajata
patigghanà veramanì veramanì sikkhàpattam samà diyami.
(nghĩa: coi theo
cuốn
"Cư sĩ thực hành").
Thầy nói tiếp: Imàni
dasa veramanì sikkhàpattam samà diyami: Tôi xin thọ trì 10
điều học này, trò nói theo 3 lần.
Kế tiếp đọc: Ukasa
vandàmi bhante..., rồi đọc xin ở nương nhờ (nissaya):
Ukàsa kàrunnam katvà nissayam detha me bhante: Bạch Ngài,
xin Ngài từ bi cho tôi nương nhờ,
Rồi đọc luôn 3 lần:
Aham bhante nissayam Yâcàmi. Dutiyampi..., Tatiyampi...
Lạy
xuống đọc tiếp: Upajjhàyo me bhante hohi: Bạch Ngài
xin Ngài là thầy tế độ của tôi.
Thầy trả lời: Sàdhu,
tahu, patirùpam: Lành thay, nhẹ rồi, làm như vậy đúng rồi
(trong một tiếng nào cũng được). Trò trả lời: Ukàsa
sampaticchàmi sampaticchàmi, sampaticchàmi: Tôi xin cung
kính
thọ lãnh.
Xong sa di nói tiếp
ba lần:
Ajjatagge thero mayham bhàro ahampi therassa bhàro. Từ
đây
về sau, những phận sự của Ngài tôi phải cung kính hành
theo luôn luôn. Về phần tôi cũng là một gánh nặng của
Ngài là phận sự Ngài nên nhắc nhở dạy dỗ đến tôi
luôn. (Lạy ba lần xong cuộc lễ).
Nếu sadi hoặc Tỳ
Khưu
mà thầy tế độ đi vắng (mình chưa đủ năm hạ và không
thông kinh luật thì luôn luôn phải xin nương nhờ (nissaya)
với ông thầy chỉ dẫn (àcariya). Nếu không có, nương
với vị nào thì phạm hành ác mỗi ngày. Cách xin nương nhờ
với àcàriya như vầy đọc: Ukàsa vandàmi bhante... Kế
tiếp đọc: Acariyo me bhante hohi dutiyampi....,
tatiyampi....,
bạch Ngài, xin Ngài làm thầy chỉ dẫn cho tôi.
Thầy đã thọ lãnh
phận
sự mà không nhắc nhở, dạy dỗ thì ông thầy cũng phạm hành
ác.
Dứt phận sự của bậc
xuất gia./.
Vinayo sàsana
mùlam
Giới luật là nền tảng Phật Giáo
-Hết-
Soạn xong tại Sài
Gòn cuối mùa thu
năm Mậu
Tuất (31. 10. 1958)
-ooOoo-