NGUYÊN THỦY VÀ ĐẠI THỪA [^]
Vấn đề Phật giáo nguyên
thỉ thường được các học giả xem như là một vấn đề chính yếu của Phật
học. Có người nói rằng chính Phật giáo nguyên thỉ mới là Phật giáo còn
ngoại giả đều là những thứ Phật giáo cải cách. Có người lại lựa chọn ra
một bên những thứ mình ưa thích và gọi đó là nguyên thỉ, và bên còn lại
kia thì gọi là không nguyên thỉ.
Thực ra ta phải định
nghĩa thế nào là Phật giáo nguyên thỉ. Trước hết ta phải trở lại định
nghĩa Phật giáo mà chúng tôi đã trình bày trong chương trước : Phật giáo
là tất cả những sinh hoạt nào của con người nhằm biểu hiện những nguyên
lý Phật học mà đức Phật và các thế hệ Phật tử kế tiếp đã thực chứng. Để
thực hiện những nguyên lý ấy, mỗi thời đại, mỗi địa phương có những
hình thái sinh hoạt khác nhau, để một mặt thích ứng với nhu cầu sinh
hoạt của con người, một mặt biểu hiện được dòng sinh hoạt chính pháp.
Cho nên Phật giáo nguyên thỉ phải được định nghĩa là những hình thức
sinh hoạt văn hóa trong xã hội Ấn Độ cách đây hai ngàn năm trăm năm nhằm
mục đích thể hiện những nguyên lý Phật học để phụng sự cho con người
của xã hội ấy.
Trong xã hội và thời đại
của đức Phật, những hình thức sinh hoạt văn hóa ấy đã được coi là rất
thích hợp cho con người, đáp ứng được mọi nhu cầu trí tuệ, tình cảm, lý
tưởng và giải thoát của con người; nói tóm lại đã thể hiện được những
nguyên lý Phật học mà đức Phật đã chứng nghiệm. Nhưng các cơ cấu xã hội
luôn luôn biến đổi theo luật vô thường : mỗi xã hội, mỗi thời đại đều có
những nhu cầu sai biệt, và các sinh hoạt tâm lý, tình cảm và trí tuệ
của con người trong xã hội đó cũng biến chuyển không ngừng. Cho nên,
những hình thức sinh hoạt gọi là Phật giáo nguyên thỉ không còn thích
hợp nữa, hoặc ít ra không còn thích hợp một cách hoàn toàn nữa; do đó sự
tạo dựng những hình thức sinh hoạt Phật giáo mới là một sự tất yếu, dĩ
nhiên phải có, nếu người Phật tử không muốn cho Phật chủng (hạt giống
đạo Phật) bị đoạn diệt. Vì vậy mà chúng ta thấy có Phật giáo Bắc tông,
Phật giáo Nam tông, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo
Việt Nam, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Tích Lan, Phật giáo Ấn Độ… Các
nền Phật giáo nầy có những sinh hoạt khác biệt về phương diện hình thức
và cũng có khi cả về phương diện nội dung tư tưởng nữa, nhưng tất cả đều
nhắm tới một mục đích là làm sống những nguyên lý Phật học trong đời
sống nhân loại.
Có người nói rằng Phật
giáo Nam tông mà hiện thời đại biểu là phái Theravada là hình bóng bất
biến của Phật giáo nguyên thỉ. Nói như vậy là không hiểu gì về Phật giáo
nguyên thỉ cả. Làm sao mà những hình thức sinh hoạt văn hóa của một xã
hội cách đây hai nghìn năm trăm năm lại có thể áp dụng thích nghi với
những nhu yếu sinh hoạt của một xã hội mới hôm nay ? Phật giáo Tích Lan,
Cam Bốt chẳng hạn, đã biến đổi rất nhiều trong nội dung cũng như ngoài
hình thức. Ta cần thêm rằng phái Theravada chỉ là một trong nhiều học
phái khác của Phật giáo Nam phương trong đó ta nên kể phái Sarvastivada,
một học phái đã hưng thịnh trong suốt mười lăm thế kỷ ở Mathura,
Gandhara và Kashmir. Điều đáng chú ý là con người phương Nam, nghĩa là
con người những xứ nhiệt đới, bao giờ cũng thiên về sinh hoạt nội tâm
hơn, và ít ưa hoạt động hơn người phương Bắc. Vì thế Phật giáo Nam
phương có tính các nội hướng và bảo thủ hơn. Cho nên, một ít hình thức
sinh hoạt nguyên thỉ còn có thể bảo tồn được ở các xứ ấy. Và khi nhìn
những hình thức kia người ta cứ tưởng lầm Phật giáo Nam phương là Phật
giáo nguyên thỉ. Kỳ thực trên dòng lịch sử truyền bá và sinh hoạt, không
giờ khắc nào mà Phật giáo không chuyển biến. Không chuyển biến tức là
không sinh tồn, bởi vì sinh tồn là chuyển biến vậy (sinh sinh chi vị
dịch). Điều hệ trọng nhất là qua tất cả các sinh hoạt luôn luôn chuyển
biến ấy của các nền Phật giáo, người ta đều có thể nhận thấy bản chất
của đạo Phật : đó là những nguyên lý căn bản để tạo dựng nền sinh hoạt
đạo pháp, là những căn nguyên khơi mở dòng sinh hoạt đạo pháp.
Những nguyên lý căn bản
ấy mới chính là bản chất của đạo Phật. Nghiên cứu Phật giáo nghĩa là cố
đạt tới những nguyên lý ấy, những nguyên lý rất linh động ấy, chứ không
phải là chép lại những hình thái sinh hoạt trong một giai đoạn, trong đó
kể cả kinh điển, chữ nghĩa. Kinh điển chữ nghĩa cũng là để đối trị với
căn bệnh của thời đại, của con người trong thời đại. Ta phải đi xuyên
qua kinh điển để tìm những nguyên lý sinh hoạt kia. Kinh Trường A Hàm
(tương đương với Dighanikaya, bản dịch của Pali Text Society) chẳng hạn
đã nhắm nhiều tới mục đích chỉ vạch những kiến thức sai lạc của các nền
tư tưởng học phái đương thời. Nếu Trường A Hàm được thuyết vào thế kỷ
XX, thế nào ta cũng được đọc về những sai lạc căn bản của thuyết Mác
xít, thuyết Hiện sinh và mọi tà thuyết khác hiện thời. Như thế kinh
điển, cũng như giáo điều căn cứ trên kinh điển, cũng như những hình thức
sinh hoạt Phật giáo xây dựng trên các giáo điều ấy, đều chỉ là hình
thức, là phương tiện biểu hiện cái nội dung quan trọng là bản chất Phật
học, là những nguyên lý Phật học. Bản chất ấy, những nguyên lý ấy, ta
thấy ở bất cứ một nền Phật giáo nào : ở Phật giáo Nam phương cũng như ở
Phật giáo Bắc phương, ở Phật giáo Tây Tạng cũng như ở Phật giáo Nhật
Bản, ở Phật giáo Không tông cũng như ở Phật giáo Hữu tông. Bản chất ấy
là những hạt giống, hạt giống Bồ Đề. Các hạt giống ấy, tùy theo miếng
đất ta gieo, sẽ mọc lên thành nhiều cây Bồ Đề khác nhau. Khí hậu màu mỡ,
đất đai sẽ qui định những chỗ khác nhau ấy, nhưng bao giờ cây Bồ Đề
cũng vẫn là cây Bồ Đề. Chứ không phải chỉ có một cây ấy, trồng ở thời
đại ấy, trên miếng đất xã hội ấy mới được gọi là cây Bồ Đề.
Huống nữa, đi sâu vào
nội dung, ta thấy những danh từ Nam tông, Bắc tông, Đại thừa, Tiểu thừa
chỉ gây những khái niệm hết sức tương đối. Ở Phật giáo Bắc phương người
ta thấy có những tông phái Tiểu thừa, những kinh điển Tiểu thừa, cũng
như ở Phật giáo Nam phương người ta vẫn thấy tư tưởng Đại thừa và lối
hành trì Đại thừa. Ở Cam Bốt chẳng hạn, vào khoảng năm 1360 của kỷ
nguyên Phật giáo, tức là vào khoảng năm 800 của kỷ nguyên Tây lịch, giáo
lý Đại thừa đã được phát đạt một thời. Kinh điển Pali và những sinh
hoạt của Phật giáo Nam phương ngày xưa đã có hơn một lần truyền đến miền
Bắc Việt Nam, nhưng có lẽ vì thủy thổ không thích hợp, nên những hạt
giống kia không bắt rễ đâm chồi được. Những cố gắng hiện thời của Tăng
sĩ Theravada ở Nam phần Việt Nam cũng chưa đạt đến những kết quả nào
đáng kể, có lẽ vì Việt Nam từ lâu đã thuộc về khu vực văn hóa Bắc
phương.
Trong giai đoạn lịch sử
hiện tại, người Phật tử của Phật giáo Nam tông đã nhận thấy cần hướng
nhiều hơn về những hoạt động nhập thế, cũng như người Phật tử của Phật
giáo Bắc tông nhận thấy cần tăng cường năng lực sinh hoạt nội hướng để
đủ chất liệu nuôi dưỡng những hoạt động nhập thế của mình. Như vậy ranh
giới Bắc, Nam, Đại, Tiểu đang đi dần đến sự xóa bỏ, và Phật giáo chỉ
là Phật giáo với tất cả những hình thái có thể phục vụ sự giải thoát con
người về mọi mặt.
Đứng về phương diện kinh
điển, ta phải thấy rõ rằng tuy cả bốn bộ Tứ A Hàm của tạng kinh Bắc
phương cũng như bốn bộ Nikaya của tạng kinh Ba lị đều là những kinh điển
căn bản của Phật giáo hiện giờ, nhưng tạng kinh Nam phương đã mang nặng
màu sắc của nền văn học Abhidharma nhiều lắm. Nền văn học Abhidharma
nhắm mục đích ghi chép nhận thức và quan điểm của học giả Nam tông, do
đó bốn bộ Nikaya hiện thời đều được xem như là đã được chỉnh lý theo
tinh thần Abhidharma. Vào buổi đầu của nền văn học Phật giáo Nam phương,
chưa có sự phân biệt rõ rệt về giới hạnh kinh và luận. Có nhiều tác
phẩm thuộc về luận (sastra) được sáng tác mô phỏng theo hình thức kinh
(sutra). Qua kết quả của sự nghiên cứu ngày nay, ta có thể khám phá ra
được nhiều kinh vốn chính là luận như kinh "Chúng tập" của Trường A Hàm,
"Vệ đà tư tha" của Trung A Hàm… Nhưng không sao, những "kinh" ấy vẫn
nói được các nguyên lý Phật học, tiếp tục khai thác những khu rừng tư
tưởng đã được đức Phật khai mở khi Ngài còn tại thế. Bên Phật giáo Bắc
tông, cũng có đại khái những hiện tượng như thế, nhưng ta phải công nhận
với tinh thần cởi mở tự do, nền Phật giáo Bắc phương đã dám đi xa hơn,
cho nên đã đạt tới những chân trời mới lạ hơn. Một bộ kinh như kinh Pháp
Hoa chẳng hạn đã phản chiếu một giai đoạn sinh hoạt tư tưởng sáng rỡ và
phản chiếu cả một xã hội Phật giáo hưng thịnh. Vậy nếu kinh Pháp Hoa
nối được truyền thống tu chứng của đức Phật thì chính kinh Pháp Hoa đã
nói được điều đức Phật muốn nói, thực hiện được điều đức Phật muốn làm.
Giới Phật tử thường nói
đến những Pháp ấn như "chư hạnh vô thường", "chư pháp vô ngã", "niết bàn
tịch tĩnh" hay những nguyên lý căn bản như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
tức là những đặc chất của Phật giáo. Ở bất cứ một nền giáo lý nào, ở bất
cứ một sinh hoạt chính pháp nào, những pháp ấn ấy, những nguyên lý ấy
vẫn được xem như là căn bản. Lìa những đặc chất kia, phản bội những
nguyên lý kia, mọi sinh hoạt mệnh danh là Phật giáo đều không phải là
Phật giáo, mà là tà đạo.
Như thế Phật giáo là
tổng thể của mọi giáo lý, mọi sinh hoạt văn hóa hiện hữu của nhân loại
trên khắp thế giới, không phân biệt thời gian, địa phương, miễn nhắm tới
sự phục vụ con người bằng cách hướng dẫn con người sống đúng theo những
nguyên lý căn bản của Phật học. Mong rằng một nhận thức như thế sẽ đưa
chúng ta đến gần đạo Phật hơn và xóa bỏ những quan niệm hẹp hòi vướng
bận hình thức, vướng bận chủ quan thiên lệch. Để tìm đến những nguyên lý
Phật học, ta phải đi sâu vào mọi thực tại sinh hoạt của Phật giáo; qua
các thực tại sinh hoạt khác biệt đó ta mới có đủ yếu tố để suy luận, để
chứng nghiệm, để có một nhận thức đầy đủ. Một giọt nước có thể đủ để cho
ta biết được thế nào là đại dương, nhưng chấp rằng giọt nước là đại
dương, ấy là điều nên tránh vậy.