Chín
Hạng
Ðều
Ðặng
Vãng
Sanh
Cực
Lạc
Chín
loại
chúng
sinh
là:
1.
Thai
sanh
(sanh
bằng
thai
nghén),
2.
Noãn
sanh
(do
sanh
trong
trứng),
3.
Thấp
sanh
(do
sự
ẩm
ướt
sanh
ra),
4.
Hóa
sanh
(do
loài
này
hóa
ra
loài
kia
như
sâu
hóa
bướm),
5.
Loại
hữu
sắc
(loại
có
màu
sắc
như
trời
sắc
giới),
6.
Loại
vô
sắc
(loại
không
có
màu
sắc
như
trời
vô
sắc
giới),
7.
Loại
hữu
tưởng
(như
cõi
trời
vô
sắc,
tuy
không
có
thân
hình
mà
có
tư
tưởng),
8.
Loại
vô
tưởng
(như
cõi
trời
Tịnh
Phạn
vì
mãi
ở
trong
cảnh
giới
thiền
định
nên
không
có
tư
tưởng),
9.
Loại
phi
hữu
tưởng
(như
cõi
thứ
tư
trong
vô
sắc
giới
thiên,
chẳng
phải
có
tư
tưởng,
chẳng
phải
không
tư
tưởng).
Tất
cả
chín
loại
chúng
sanh
trên
đây,
ai
niệm
Phật
cũng
được
vãng
sanh
cả.
Tầm
thường
là
loài
người
(nhơn
đạo)
có
vui
cũng
có
khổ.
Khổ
hơn
hết
là
ngạ
quỉ
(ma
đói)
súc
sanh,
địa
ngục.
Trên
loài
người
các
cõi
trời
là
vui
hơn
hết.
Song
thiên
thần
dù
hưởng
thọ
đến
đâu
hết
phước
rồi
cũng
sa
lần
cho
tới
luân
hồi.
Sao
bằng
Cực
Lạc
khỏi
phải
luân
hồi
nên
ông
Châu
Sĩ
An
(tác
giả
Tây
Qui
Trực
Chỉ)
thường
dưng
hương
Miếu
Văn
Xương
Ðế
Quân
với
Ðông
Nhạc
Ðại
Ðế
lạy
vái
rằng:
‘Xin
Ðế
quân
qui
y
theo
Phật
mà
về
làm
Bồ
Tát
cõi
Tây
Phương’.
Có
khi
dưng
hương
chùa
Ngọc
Hoàng
lạy
rồi
cũng
vái
như
vậy.
Chúng
ta
may
gặp
cửa
Tịnh
Ðộ
mà
không
bước
vào
cho
đặng
vãng
sanh
Cực
Lạc
thiệt
uổng
và
rủi
vô
cùng.
Vì
tu
Tịnh
Ðộ
không
khó
chi,
ai
làm
cũng
đặng,
vừa
làm
vừa
tu
không
bỏ
công
ăn
việc
làm
hàng
ngày,
nhọc
công
hai
năm
thời
đủ.
Còn
sống
tu
thêm
cho
quả
vị
lớn,
tới
lâm
chung
Phật
cho
biết
ngày
vãng
sanh.
Nếu
không
kịp
hai
năm,
Phật
cũng
rước
về
Tây
Phương
làm
dân
tu
thêm
cho
có
quả
vị.
Khó
nhọc
là
tham
thiền
luyện
đơn
hết
hơi
mà
không
thoát
khỏi
nẻo
luân
hồi.
Nhiều
vị
thức
trọn
gần
hai
năm
không
ngủ
để
tham
thiền,
kết
quả
chẳng
đi
đến
đâu.
Nếu
quí
vị
ấy
tu
Tịnh
Ðộ
ít
nhứt
tòa
sen
bực
trung.
Nhiều
vị
trường
trai
đã
sẵn
tu
thêm
Tịnh
Ðộ
rất
lẹ
thập
bội.
Trong
ít
tháng
cũng
đủ,
sao
không
chịu
tu
thêm
cho
đủ
Tam
giáo,
chắc
đặng
vãng
sanh,
bỏ
trống
liên
đài,
uổng
quá,
tiếc
thay!
Niệm
Phật
Không
Uổng
Công
Việc
chi
ở
đời
làm
không
kết
quả
thờ
uổng
công
chớ
tu
Tịnh
Ðộ
dù
sai
chạy
cũng
không
mất
công
chút
nào.
Xưa
có
lão
tiều
gặp
cọp
sợ
quá
leo
lên
cây
niệm
Phật
mà
khỏi
chết.
Sau
chết
đầu
thai
kiếp
khác
tỉnh
ngộ
đi
tu
mà
thành.
Niệm
Phật
một
hồi
còn
đặng
thiện
căn
như
vậy
huống
chi
tu
Tịnh
Ðộ
mãn
đời.
Dầu
kiếp
này
mới
tu
không
mấy
ngày
còn
làm
nhiều
tộ
lỗi,
trong
lòng
xao
lãng
không
đặng
vãng
sanh,
kiếp
sau
có
lúc
tỉnh
ngộ
tu
cũng
thành
có
uổng
công
đâu.
Chẳng
phải
như
ở
đời
đi
buôn
không
lời
lại
lỗ
vốn,
làm
ruộng
mất
mùa
mang
nghèo,
học
không
đậu
uổng
công.
Lý
Nhân
Quả
Thông
Cả
Ba
Ðời.
Gặp
Việc
Buồn
Cũng
Ráng
Niệm.
Tâm
Mình
Có
Thể
Cải
Tạo
Hoàn
Cảnh.
Nhiều
người
mới
làm
lành
chút
ít,
tụng
kinh
niệm
Phật
đã
mong
được
hưởng
phước
lớn.
khi
gặp
cảnh
khổ;
bịnh
hoạn,
nghèo
nàn,
tai
nạn
v.v..
liền
cho
rằng
làm
lành
mắc
họa
rồi
từ
đó
ngã
lòng
chê
bai
Phật
pháp.
Những
kẻ
ấy
không
hiểu
‘lý
nhân
quả
thông
cả
ba
đời’
và
tâm
mình
có
thể
cải
tạo
hoàn
cảnh.
Xưa
nay
ai
đạo
đức
hơn
Ðức
Khổng
Tử
mà
còn
phải
bị
vây
nơi
đất
Khuông;
ngài
tuyệt
lương
nhịn
đói
bảy
ngày
mà
vẫn
đờn
ca
như
thường.
Kế
đó
vua
Sở
đem
binh
giải
vây
mới
khỏi.
Còn
vua
Văn
Vương
bị
vua
Trụ
cầm
ngục
thành
Dũ
Lý
bảy
năm
mới
tha.
Sau
con
Võ
Vương
đặng
làm
thiên
tử.
Huống
chi
người
thường
sao
khỏi
thời
vận.
Xem
tích
ông
Khương
Tử
Nha
thời
đủ
hiểu.
Cứ
làm
lành
tu
niệm
mãi,
tự
nhiên
tai
qua
nạn
khỏi,
dữ
hóa
lành.
Nhân
quả
thông
cả
ba
đời
là
thế
nào?
Như
đời
này
làm
lành
hoặc
dữ,
đời
này
hưởng
phước
hay
mang
họa
đó
là
hiện
báo.
Ðời
này
làm
lành
hoặc
dữ,
đời
sau
hưởng
phước
hay
mang
họa
là
sanh
báo.
Ðời
này
làm
lành
hoặc
dữ,
đời
thứ
ba,
thứ
tư,
thứ
mười,
trăm
ngàn
muôn
đời
sau
mới
hưởng
phước
hay
mắc
họa
gọi
là
hậu
báo.
Hậu
báo
thì
sớm
muộn
không
định,
đã
gây
nhân
tất
có
quả
đó
là
lẽ
tự
nhiên.
Tâm
mình
có
thể
cải
tạo
hoàn
cảnh
là
thế
nào?
Ví
như
mình
có
người
kiếp
trước
gây
nghiệp
ác
nặng,
kiếp
này
chịu
nhiều
điều
khổ
dữ,
ngườI
ấy
biết
tội
lỗi
do
kiếp
trước
làm,
ăn
năn
sám
hối,
đổi
dữ
làm
lành,
tụng
kinh
niệm
Phật
tự
tu
và
khuyên
người
tu
cầu
sanh
về
Cực
Lạc.
Do
sự
hối
cải
ấy,
nghiệp
trước
kia
liền
tiêu
bớt,
đổi
thành
quả
khổ
nhẹ
trong
đời
này
như:
bị
khinh
rẻ,
hoặc
đau
bịnh,
nghèo
nàn
cùng
gặp
những
điều
không
vừa
ý.
Chịu
đựng
những
khinh
báo
như
thế
xong
người
ấy
có
thể
thoát
đường
sanh
tử.
Kinh
Kim
Cang
có
nói:
‘Nếu
có
người
thọ
trì
kinh
này
mà
bị
kẻ
khác
khinh
chê,
người
đó
đời
trước
gây
tội,
nghiệp
đáng
đọa
vào
ác
đạo.
Do
đời
này
bị
sự
khinh
chê
nên
tội
trước
liền
được
tiêu
diệt,
sẽ
chứng
quả
vô
thượng
bồ
đề’.
Người
đời
khi
gặp
tai
nạn,
nếu
không
oán
trời
tất
cũng
trách
người,
ít
ai
nghĩ
đến
sự
trả
nghiệp
mà
sanh
lòng
ăn
năn
chừa
cải.
Phải
biết
trồng
cây
dưa
được
dưa,
trồng
đậu
được
đậu
là
lẽ
tự
nhiên.
Làm
dữ
mà
vẫn
hưởng
phước
là
đời
trước
vun
bồi
cội
phước
đã
dày,
nếu
không
làm
dữ
thời
phước
còn
lớn
hơn.
Làm
lành
mà
hay
bị
tai
nạn
là
đời
trước
trồng
gốc
tội
đã
sâu.
Nếu
không
làm
lành
tụng
kinh
niệm
Phật,
họa
càng
lớn
hơn
nữa.
Ví
như
người
phạm
tội
nặng
chưa
kịp
hành
hình
lại
lập
được
công
nhỏ,
vì
chưa
có
thể
hoàn
toàn
ân
xá
nặng
thành
nhẹ.
Nếu
lập
công
mãi
đến
khi
công
to
không
những
trừ
hết
tội
trước
lại
được
giải
thoát
nữa.
Lập
Cách
ỀÐộ
Tận
Chúng
SanhỂ
Cách
này
trừ
ra
người
không
tin,
không
tu
theo
Tịnh
Ðộ
thời
thôi,
nếu
tin
mà
tu,
bất
cần
gái
trai
già
trẻ
biết
niệm
Phật
Di
Ðà,
câm
thời
niệm
thầm,
dầu
tu
mấy
triệu,
chết
cũng
đặng
vãng
sanh
Cực
Lạc,
không
sót
một
người
nào
luân
hồi
đọa
lạc.
Nhà
nào
có
duyên
phần,
có
phước,
miễn
một
người
đọc
đặng
cuốn
kinh
này,
giảng
cho
cả
nhà
nghe
chung
chắc
ai
cũng
muốn
khi
chết
Phật
Di
Ðà
rước
hồn
về
Tây
Phương
liên
hoa
hóa
thân
cho
hết
khổ.
Ráng
ăn
trường
trai,
nếu
không
nổi
tập
lần
lục
trai,
thập
trai.
Tệ
quá
thì
ăn
chay
ngày
mồng
một
và
ngày
rằm.
Tuy
không
cấm
việc
vợ
chồng
cưới
gả,
song
phải
giữ
giới
kỳ
cho
nghiêm.
Rảnh
noi
theo
luật
‘công
quá
cách’
làm
lành
sửa
mình,
làm
đặng
chút
nào
đỡ
chút
nấy.
Nhứt
là
nội
nhà
tuy
còn
ăn
mặn,
mà
cữ
tà
dâm
sát
sanh
cho
nghiêm.
Không
nên
uống
rượu
loạn
tánh.
Dùng
khô
mắm,
thịt
chợ,
cá
tôm
chết
sẵn,
không
giết
con
chi
tại
nhà
bếp
mình.
Cữ
huyết
thịt
trâu
bò
cày
và
thịt
chó.
Không
cần
đến
chùa
hay
tìm
thầy.
Hãy
coi
ngày
giờ
chư
Phật
hội
tại
hướng
nào,
thời
đặt
bàn
hương
án
nội
nhà
lập
nguyện.
Nhớ
mỗi
tháng
y
như
vậy.
Thỉnh
tượng
Di
Ðà
thờ,
mỗi
ngày
tụng
nhật
khóa,
dốt
niệm
sáu
chữ
‘Nam
Mô
A
Di
Ðà
Phật’
cũng
đủ.
Ngày
sám
hối
đặt
bàn
hương
án
nội
nhà
lập
nguyện:
Tôi
.
.
.
họ
.
.
tên
.
.
ở
làng
.
.
.hạt
.
.
phát
tâm
nguyện
kể
từ
ngày
nay,
cải
ác
tùng
thiện,
ăn
năn
chừa
lỗi.
Giữ
theo
qui
luật
công
quá
cách,
đặng
bao
nhiêu
hay
bấy
nhiêu,
nhứt
là
cữ
sát
sanh,
uống
rượu,
tà
dâm,
gian
giảo,
nói
dối
và
nguyện
ăn
chay
(trường)
(thập)
(lục)
(sóc
vọng).
Mà
mỗi
ngày
niệm
Di
Ðà
tới
đủ
30
muôn
câu,
đặng
nhờ
ơn
Phật
chứng
minh
ứng
mộng,
đem
họ
tên
vào
liên
hoa.
Sau
lâm
chung
Phật
cho
biết
ngày
rước
hồn
về
Cực
Lạc,
hóa
thân
theo
Phật
cho
khỏi
luân
hồi
lục
đạo.
Lạy
bốn
lạy,
niệm
Phật
đếm
đủ
108
câu,
gọi
một
trăm.
Ðem
tượng
Phật
thờ
tại
bàn
nào
thọ
trì
tự
ý.
Từ
ấy
sắp
sau,
đi
đứng
nằm
ngồi
đều
niệm
thầm.
Ngày
đêm
đếm
cộng
đủ
30
muôn,
sẽ
thấy
điềm
Di
Ðà
cho
biết.
(Trừ
ra
nằm
hoặc
ở
trần
thì
niệm
thầm
mà
xả
không
được
ghi
số).
Ðến
cơn
bịnh
đừng
sợ
tốn,
sắm
đồ
chay
cho
người
bịnh
ăn
trường,
niệm
Phật
ngày
đêm
cho
tới
lâm
chung
thời
thấy
Phật
rước.
Mấy
ngày
cũng
đủ,
nhiều
tháng
quí
hơn.
Hai
năm
thời
thấy
điềm
cho
biết
trước
ngày
Phật
rước
hồn,
có
tòa
sen.
Nếu
chưa
tới
phần,
mạnh
lại
như
xưa,
giữ
trường
chay
không
nổi
ăn
lại
theo
lệ
cũ
cũng
không
tội
gì,
đừng
nghe
họ
hăm
mà
sợ
sái,
khi
khác
đau
cũng
vậy.
Ðừng
ơ
hờ,
lơ
lỏng
uổng
công.
Nhớ
đến
cơn
ngặt
mình
(gần
tắt
hơi)
niệm
ra
tiếng
mười
câu,
Di
Ðà
hiện
xuống
rước
liền.
Người
nhà
nên
niệm
Phật
giúp
hoặc
niệm
vãng
sanh,
đừng
nên
khóc
cho
người
bịnh
động
lòng,
loạn
tâm
xao
lãng
sự
tưởng
niệm
Di
Ðà.
Không
phải
kêu
khóc
mà
khỏi
chết
trong
lúc
mãn
phần
số.
Cách
này
độ
vớt
hết,
từ
con
nít
biết
nói,
biết
niệm
sắp
lên,
nó
chưa
biết
nguyện,
cơn
lập
nguyện
để
sau
rốt.
Người
lớn
bảo
nó
nói
theo.
Còn
ai
biết
chữ
thời
đọc
bài
lập
nguyện
trước
đây.
Tôi
cứ
theo
phép
Tịnh
Ðộ
trong
kinh
Ðại
Tạng
lập
ra
mà
độ
giúp
vớI
Phật
‘độ
tận
chúng
sanh’.
Nếu
bày
huyễn
hoặc,
gạt
đời
cho
mất
công
vô
ích,
tôi
thề
bị
hủy
hết
công
tôi
trường
chay
46
năm,
thác
bị
cầm
hồn
tại
địa
ngục,
30
muôn
năm
mới
được
đầu
thai
làm
ong
kiến.
Tôi
ước
nhiều
vị
khuyên
độ
tận
tâm
như
tôi.
Tận
Tâm
Cư
Sĩ
Trần
Phong
Sắc
thệ
cáo.
(bài
này
trích
trong
Lão
Nhơn
Ðắc
Ngộ)
---o0o---