Kinh
Di Giáo
lược giải
Thích
Viên
Giác, 1997
-Phần
1-
Lời nói đầu
Kinh Di Giáo là một
tác
phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất
gia, văn chương đẹp đẽ, ý tứ rõ ràng. Ðây là những
lời dạy sau cùng của Ðức Phật, đầy tình thương và
sự khích lệ.
Thời còn hành điệu
tôi
được học kinh này bằng Hán văn, giờ học vào ban đêm.
Chùa tôi ở giữa núi rừng bao la tịch mịch, những lời
kinh đơn giản nhưng đầy xúc cảm đã tác động rất
mạnh vào tâm hồn thơ ngây của tôi, nhất là những đoạn
như "Ư Sa la song thọ gian, tương nhập Niết bàn, thị
thời trung dạ tịch nhiên vô thanh, vị chư đệ tử lược
thuyết pháp yếu"; "Nhữ đẳng thả chỉ, vật đắc
phục ngữ. Thời tương dục quá, ngã dục diệt độ ...
Thị ngã tối hậu chi sở giáo hối". Niềm xúc động
lan tỏa trong tâm hồn non trẻ, đã tạo dấu ấn và niềm
tin thanh tịnh đối với Tam bảo, điều đó đã dẫn tôi vượt
qua bao chướng ngại trên con đường tu học sau này.
Khi được nghe Ban
giáo
dục tăng ni Trung ương mời các giảng sư đóng góp giáo án
cho chương trình giáo dục Phật giáo các cấp, dù khả năng
giới hạn, tôi cũng muốn góp phần mình trong sự nghiệp
chung. Ðược Thượng tọa Chơn Thiện gợi ý về kinh Di giáo,
tôi nhận soạn giáo trình kinh Di giáo một cách nhanh chóng vì
ấn tượng của tuổi thơ hiện về trong tôi.
Giờ đây tầm nhìn
về kinh Di giáo có khác xưa, hệ thống hơn, sâu sắc hơn và
rộng rãi hơn, nhưng không hơn được hình ảnh đẹp đẽ
của Ðức Phật trong tâm thức tôi thời kỳ hành điệu.
Khi soạn giáo trình
này
tôi dựa vào bản dịch và lời chú giải của Hòa thượng
Trí Quang về kinh Di giáo, kinh tạng Nikàya và A hàm. Giáo trình
có hai phần chính: một là phần nhận thức tổng quát, hai
là phần lược giải nội dung kinh. Có thêm phụ lục nguyên
văn bản dịch kinh Di giáo của Hòa thượng Trí Quang cho người
dạy và tăng, ni sinh tham khảo.
Với khả năng có
giới hạn, kinh nghiệm tu tập còn non yếu, chắc chắn không
tránh khỏi sai lầm và thiếu sót. Kính mong chư tôn đức,
thiện hữu tri thức hoan hỷ bổ khuyết để giáo án được
hoàn bị hơn.
Nam mô Bổn sư
Thích
Ca Mâu Ni Phật
Tp Hồ Chí Minh
ngày
15 tháng 10 năm 1997
Tỳ kheo Thích Viên Giác
(*) Phần Phụ Lục
có kèm
thêm bản dịch mới của Thích Nữ Trí Nguyệt.
Kinh
Di Giáo Lược
Giải
Chương 1
Nhận
Thức Tổng Quát
I. Xuất Xứ
Kinh di giáo là một
bộ
kinh ghi chép những lời dạy cuối cùng của đức Phật,
những gì tiêu biểu nhất, tinh tuý nhất của giáo pháp. Vì
vậy kinh này được coi là căn bản và cần thiết cho người
xuất gia.
Kinh di giáo xuất
hiện
ở Trung Hoa vào đời Diêu Tần (384-417), bản kinh do ngài Cưu
Ma La Thập dịch. Căn cứ vào bản dịch đó, nhiều nhà nghiên
cứu và chú giải về kinh này làm cho kinh Di Giáo càng phong phú
và sâu sắc hơn, các luận bản như là: Di Giáo Kinh Luận, Di
Giáo Kinh Luận Pháp Trú Ký, Di Giáo Kinh Luận Ký, Phật Di Giáo
Kinh Luận Sớ Thiết Yếu, Phật Di Giáo Kinh Giải...(Dịch
giải kinh giáo huấn để lại của Phật, Trí Quang).
Bối cảnh thuyết kinh
là
trong rừng Sa la Song Thọ, trước giờ đức Phật nhập Niết
bàn. Các nhà nghiên cứu Phật học Trung Hoa xếp kinh Di Giáo này
vào hệ thống kinh Niết Bàn, gồm những kinh tạng của Nguyên
thủy và Ðại thừa, là những kinh nói về trạng thái Ðức
Phật lúc nhập Niết bàn và những lời giảng dạy của ngài
(LSPGTH, Thanh Kiểm)
Truyền thống Nikàya
và
Ahàm có 2 kinh: Trường bộ kinh có kinh Ðại Bát Niết Bàn, Trường
Ahàm có kinh Du Hành. Cả hai kinh này nội dung giống nhau (khi
trích dẫn chỉ trích kinh Ðại Bát Niết Bàn là đủ). Kinh
ghi chép lại chuyến du hành cuối đời của Ðức Phật vào
khoảng thời gian (6 đến 10) tháng trước khi ngài nhập Niết
bàn. Lộ trình đi bắt đầu từ thành Vương Xá cho đến xứ
Kusinara.
Truyền thống Ðại
thừa cũng có nhiều kinh, nhưng tiêu biểu nhất là kinh Ðại
Bát Niết Bàn, 40 quyển do ngài Ðàm Vô Sấm dịch (kinh này trùng
tên với kinh Trường bộ). Nội dung nói về "pháp thân thường
trú" mang tính triết học bản thể.
Ðể cho sự nghiên cứu
được dễ dàng, chúng ta không bàn đến quan điểm "pháp
thân thường trú" của kinh Ðại Bát Niết Bàn hệ Ðại
thừa.
II. Liên hệ Kinh
Di Giáo
với Kinh Ðại Bát Niết Bàn.
Sau khi đọc hai kinh
Ðại
Bát Niết Bàn và kinh Du Hành trong Trường Bộ kinh và Trường
Ahàm, đối chiếu với bản kinh Di Giáo này, một số nhận định
có thể rút ra như sau:
1. Về mặt hình
thức:
Kinh Ðại Bát Niết Bàn
và kinh Du Hành thuộc loại văn tường thuật, ký sự. Kể
lại chuyến du hành cuối đời Ðức Phật đi từ Vương Xá
đến Kusinara, đi qua từ 14 đến 17 địa danh khác nhau. Qua
mỗi địa phương Ðức Phật và đại chúng dừng lại nghỉ
ngơi một thời gian, mỗi nơi Ðức Phật đều thuyết pháp độ
sinh, những thời pháp ấy đều được ghi lại.
Kinh Di Giáo bản Hán
dịch có hình thức một tác phẩm văn học, được sắp xếp
hệ thống hóa những lời dạy của Ðức Phật thành một
thời thuyết pháp từ đầu cho tới cuối và đặt ngay vào
thời điểm Ðức Phật sắp nhập Niết bàn.
2. Về mặt bố
cục nội dung:
Kinh Du Hành và kinh
Ðại
Bát Niết Bàn trình bày nội dung trải dài theo con đường mà
Ðức Phật và đại chúng đi qua, những gì xảy ra, những gì
được thuyết giảng đều ghi chép, cho đến thời điểm Ðức
Phật nhập Niết bàn tại rừng Sa La Song Thọ.
Giáo lý được Ðức
Phật nhấn mạnh và lặp đi lặp lại là phương pháp hành trì
Giới-Ðịnh-Tuệ. Giáo lý được Ðức Phật xác định rằng
đó là nội dung chứng ngộ, giảng dạy và truyền bá là 37
phẩm trợ đạo. Một số lời dạy mang tính di huấn 3 lần
qua 3 thời điểm khác nhau trong chuyến du hành cuối cùng ấy.
Kinh Di Giáo bản Hán
trình
bày bố cục nội dung rất mạch lạc và có hệ thống, nghĩa
là đúc kết những gì Ðức Phật dạy trong kinh Du Hành và Ðại
Bát Niết Bàn thành một bản văn, ý tứ rõ rệt, có thêm
hoặc bớt so với hai kinh trên một số vấn đề. Nội dung
được trình bày tuần tự Giới – Ðịnh – Tuệ và những
lời khích lệ tu tập sau cùng.
3. Những điểm giống nhau:
a) Pháp môn tu tập
Giới
Ðịnh Tuệ
Ở kinh Du Hành và Ðại
Bát Niết Bàn, pháp môn Giới Ðịnh Tuệ được Ðức Phật
lặp đi lặp lại từ đầu kinh cho đến cuối kinh 8 lần, điều
đó cho thấy Giới Ðịnh Tuệ là những gì cần thuyết, là
cốt lõi của sự tu tập: "Ðây là Giới, đây là Ðịnh,
đây là Tuệ. Ðịnh cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả
vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến
giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc tức là dục lậu ,
hữu lậu và vô minh lậu" (ÐBNB).
Kinh Di Giáo cũng
trình bày
pháp môn Giới Ðịnh Tuệ nhưng đề cập chi tiết và dài dòng
hơn.
b) Những lời di huấn:
-Xác định giới pháp
là
thầy, trong kinh ÐBNB, Phật dạy: "Này Anan, pháp và luật
ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi ta diệt độ thì pháp
và luật ấy sẽ là đạo sư của các ngươi"(Trường
bộ kinh II, T. 663).
Kinh Di Giáo Phật
dạy:
"các thầy tỳ kheo, sau khi Như Lai diệt độ phải trân
trọng tôn kính tịnh giới...phải biết tịnh giới là đức
thầy cao cả của các ngươi. Nếu Như Lai có ở đời thì cũng
không khác gì tịnh giới ấy" (Trí Quang dịch).
-Lời dạy cuối
cùng:Trong
kinh Ðại Bát Niết Bàn, Phật dạy:"Này các tỳ kheo, nay
ta dạy các ngươi: các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh
tấn lên chớ phóng dật" (sđd).
Kinh Di Giáo Phật
dạy:
"Này các tỳ kheo hãy thường nhất tâm nỗ lực cần
cầu tuệ giác giải thoát, toàn thể vũ trụ là pháp biến động
hay không biến động đều là trạng thái bất an và tan rã (vô
thường)" (Trí Quang dịch).
c) Những lời khích lệ
Kinh Ðại Bát Niết Bàn
đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, nếu có tỳ kheo nào
nghi ngờ hay phân vân gì về Phâït, Pháp, Tăng, con đường
hay phương pháp thì các thầy hãy hỏi đi. Sau khỏi hối
tiếc rằng: Bậc đạo sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta
không tận mặt hỏi Thế Tôn" (sđd). Sau đó đại chúng
phát biểu không có gì thắc mắc.
Kinh Di Giáo đức Phật
dạy: "Các thầy tỳ kheo, đối với bốn chân lý các
thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc
không nên giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp" (sđd).
Sau đó đại chúng cũng không thắc mắc.
Qua những liên hệ
trên,
chúng ta có thể kết kuận rằng mối quan hệ giữa hai kinh Ðại
Bát Niết Bàn (ÐBNB) và Du Hành với kinh Di Giáo có mối quan
hệ chặt chẽ. Có thể nói rằng kinh Di Giáo đã đúc kết
lại hệ thống hóa nội dung của hai kinh trên. Tất nhiên kinh
Di Giáo được trước tác về sau.
III. Nội Dung Tổng
Quát
Kinh Di Giáo.
Nội dung kinh Di Giáo
được
xây dựng trình tự Giới, Ðịnh, Tuệ. Phần Giới được nói
đến nhiều nhất, hơn một nửa dành cho Giới. Ðây chính là
phần nền tảng của kinh cũng là căn bản của Ðịnh, Tuệ và
giải thoát.
1) Giới học:
Sự quan trọng của
giới được xác định ngay từ đầu kinh rằng: "Phải
biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy, nếu
Như Lai có ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới
ấy". Xác quyết như vậy để đề cao vai trò của giới
luật, nhưng dễ gây ngộ nhận về giá trị tuyệt đối của
giới, vì vậy có những hành giả chỉ tu tập giới, chấp
thủ giới điều như là những nguyên tắt bất di bất dịch.
Kinh ÐBNB nói rõ hơn
một chút: "Này Anan pháp và luật ta đã giảng dạy và trình
bày..." bao hàm cả giáo pháp và giới luật, là chỗ nương
tựa cho chúng tỳ kheo sau khi Ðức Phật nhập diệt.
Có người coi giới là
phụ thuộc của thiền định và trí tuệ họ coi những hình
thức giữ giới có vẻ tiểu tiết, thuộc căn cơ trình độ
thấp, họ coi thiền và tuệ phóng khoáng và siêu thoát hơn.
Thực ra giới hạnh là nền tảng cho thiền và tuệ. Mối quan
hệ của 3 phần này không thể phân ly. Giới hạnh không chỉ
thực hành những qui định trong giới bổn mà còn là công phu
gạn lọc, kiểm soát, ngăn ngừa và đoạn trừ các ô nhiễm
của tâm lý. Từ đó tạo điều kiện cho thiền định được
vững chãi, phát triển trí tuệ được dễ dàng.
Giới hạnh là một
phần của định và tuệ. Do vậy nên hiểu giới trong kinh Di
Giáo qua 3 chi phần của bát chánh đạo: chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng. Vậy giới hạnh không chỉ tác dụng
trong phạm vi cá nhân mà còn tạo ảnh hưởng về mặt xã
hội.
Trên cơ sở đó phần
giới của kinh di giáo ngoài những điều mang tính qui định
của giơí bổn, còn thêm các phần: chế ngự các giác quan,
chế ngự tâm ý, tiết chế ăn uống, thực hành đức tàm quí,
nhẫn nhục, khiêm tốn, không dua nịnh, thiểu dục, tri túc và
hạnh độc cư. Những đức tính này cũng có trong kinh Du hành
và kinh Ðại Bát Niết Bàn.
2) Ðịnh học:
Như trên đã nói giới
là
nền tảng, không có giơí hạnh thì hành vi bất thiện, tâm lý
bất an, tâm không sẵn sàng để thực hành thiền định. Chúng
ta không nên hiểu thiền định như là pháp môn của một tông
phái, danh từ thiền tông dễ gây ngộ nhận như vậy. Thiền
định là con đường tu tập của đạo Phật, không có thiền
tất cả các pháp môn đều bế tắc, thiền là xương sống
của Phật giáo.
Tâm lý chúng ta luôn
luôn
bị tác động bởi các đối tượng giác quan và đối tượng
tâm ý. Những tham lam, sân hận, si mê, sợ hãi, phiền muộn
... làm tâm ta náo động, bất an. Ðịnh là làm cho tâm không
bị náo động, tán loạn. Tâm bình lặng thì mới sáng suốt,
do vậy thấy rõ hơn về bản chất của đời sống, như mặt
nước có lặng mới phản chiếu sự vật, kinh Di Giáo Phật
dạy: "Tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định.
Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái
chuyển biến của vũ trụ " (HT Trí Quang dịch). Nhờ
thiền định những hoạt động của tình cảm (thất tình,
lục dục) lắng dịu, tâm lý thoát ly được sự ức chế
của cảm giác và tư duy , thói quen chấp ngã được chuyển hóa,
trí tuệ càng sắc bén, tâm càng thanh tịnh . Không có thiền
định thì không có tuệ, đồng thời giữ giới cũng khó.
Phần định trong kinh
Di
Giáo có 3 tiết: tiết 1 thuyết minh về hạnh tinh tấn, tiết
2 nói về công đức chánh niệm và tiết 3 nói về công đức
thiền định . Như vậy phù hợp với 3 chi phần trong bát chánh
đạo:chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Tinh tấn trong
phần thiền định là sự nỗ lực duy trì sự an trú tâm
trong thiện pháp đưa đến an trú chánh niệm làm cơ sở cho tâm
định. Ðức Phật dạy: "Ta tinh cần, tinh tấn không lười
biếng. Ta an trú chánh niệm, không có loạn, thân được khinh
an, không có giao động, tâm được định tĩnh chuyên
nhất" (Trung bộ kinh I, T. 53). Tinh tấn là sự duy trì tâm,
chuẩn bị tâm trong trạng thái sẵn sàng để tâm vào định.
3) Tuệ học:
Trí tuệ cũng là chánh
kiến, chánh tư duy, vừa là nhân vừa là quả của giới
hạnh và thiền định. Có giới phải là do tuệ, nhưng mức
độ tuệ chưa đạt đến viên mãn có thể đoạn tận các
lậu hoặc, có định cũng do tuệ ở mức độ cao hơn.
Khi tâm định mọi cấu
uế của tâm đều lắng dịu, tâm trở nên thuần nhất, nhu
nhuyến dễ sử dụng, do đó tâm hướng về bất cứ đối tượng
nào đều trực nhận bản chất của đối tượng đó. Ðức
Phật dạy: "Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không
cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản
như vậy, ta dẫn tâm hướng tâm đến túc mạng minh, thiên nhãn
minh, lậu tận minh" (Trung bộ kinh I. T 56).
Trí tuệ theo quan
điểm
của đạo Phật khác với quan niệm thông thường, trí tuệ là
sự thấy biết đoạn trừ phiền não, ô nhiễm, tác dụng
của trí tuệ là đoạn được, ví như lưỡi gươm cắt đứt
mối dây ràng buộc. Có ngươì học cao, địa vị lớn , trí
thức lớn nhưng chưa chắc có trí tuệ như người ta thường
nói học vị cao chưa hẳn đã có văn hóa. Trong kinh Di Giáo đức
Phật dạy: "Các thầy tỳ kheo, có trí tuệ thì hết đam
mê" sự thấy biết mà hết được đam mê ấy Phật giáo
gọi là trí tuệ hay liễu tri – cái biết rốt ráo.
Kinh Di Giáo phần tuệ
học có 2 tiết. Tiết đầu nói về công đức thành tựu trí
tuệ, tiết 2 nói về công đức không hý luận. Không hý
luận tức không đam mê hý luận, coi trọng lý thuyết, học
thuyết, ưa chuộng huyền đàm, bề ngoài có vẽ thông minh trí
tuệ, nhưng bên trong thì rỗng; hý luận làm rối loạn tâm
thức. Vì vậy không hý luận được đưa vào nhóm tuệ là
hợp lý . Trí tuệ ở trong bát chánh đạo là chánh kiến, chánh
tư duy. Chánh kiến tương đương tiết 1, chánh tư duy tương
đương với không hý luận ở tiết 2.
4) Những lời
khích
lệ và dặn dò cuối cùng:
Gồm 6 tiết cuối cùng,
ghi những lời dạy khích lệ tinh thần tu tập của đại chúng.
Con đường chân lý đã có, bậc đạo sư hướng dẫn cũng đã
có, còn lại là phần thực hành của người đệ tử có nỗ
lực tu tập hay không mà thôi.
Ðức Phật cho phép đại
chúng được trình bày chỗ hoài nghi của mình đối với giáo
pháp, để sau này khỏi hối tiếc nhưng đại chúng không nghi
ngờ gì về giáo pháp, bày tỏ niềm tin vững chắc của mình.
Ðức Phật khuyên đệ
tử không nên buồn rầu, những gì cần làm Ngài đã làm,
những người đáng độ Ngài đã độ, các đệ tử cần
tiếp tục chí hướng mà bậc đạo sư đã vạch sẵn thì pháp
thân của Như Lai sẽ thường trú bất diệt.
IV. Kết Luận
Toàn bộ hệ thống giáo
lý Phật giáo đều nhắm đến mục đích giải thoát. Ðức
Phật dạy: "Nước trong bốn biển chỉ có một vị là
vị mặn, giáo pháp của ta chỉ có một vị đó là vị giải
thoát". Suốt cuộc đời của đức Phật, hoạt động không
ngừng nghỉ chỉ để thực hiện mục tiêu giải thoát khổ
đau cho con người.
Phương pháp thực hiện
mục tiêu thoát khổ này, được đức Phật giảng dạy rõ ràng
và nhất quán: Giới, Ðịnh, Tuệ. Ðiều này không có gì bàn
cãi, nó đã được thực hiện cụ thể hay bàng bạc trong
tất cả kinh điển Nguyên thủy lẫn Ðại thừa. Vấn đề
ở chỗ giới thiệu trình bày như thế nào, nhấn mạnh khía
cạnh nào mà thôi.
Ðối với kinh Di Giáo,
Giới Ðịnh Tuệ được giảng dạy trong bối cảnh Ðức
Phật sắp nhập Niết bàn, tạo ấn tượng sâu sắc đối
với người đọc. Lời dạy cuối cùng của một bậc đạo sư
bao giờ cũng là điều thiết yếu, mặc dù lời lẽ đơn
giản ngắn ngủi nhưng đấy là những lời tâm huyết của
một đời người. Cho nên có tác dụng rất lớn về mặt tâm
lý.
Kinh Di Giáo rất coi
trọng phần giới, nên trình bày chi tiết. Vì vậy có người
cho kinh này là pháp của người sơ cơ mới học. Ðó là một
cái nhìn vội vã. Luận sư Thế Thân trong Di Giáo kinh luận đã
nhận định rằng kinh Di Giáo là đạo phương tiện của Bồ
Tát:
"Luận này còn xây
dựng, giải thích nghĩa kinh Phật là để các Bồ Tát biết
được đạo phương tiện. Biết được đạo phương tiện
ấy thì phật pháp trường tồn diệt trừ lỗi phàm thánh, thành
tựu lợi tự tha" (Trí Quang dịch}.
Và kinh Pháp Hoa, một
bộ kinh lớn của Ðại thừa, coi phẩm An lạc hạnh là hạnh
của Bồ Tát, nội dung phẩm An lạc hạnh không khác phần
giới của kinh Di Giáo . Vì vậy phải biết tác dụng của
kinh Di Giáo là lớn lao vô cùng.
-ooOoo-