Lúc Đức Phật
sắp nhập Niết-bàn, Ngài đã khuyên đệ tử dựa theo 4 điều y cứ (tứ y) để tu hành
liễu thoát sanh tử, trong đó điều đầu tiên là “Y pháp bất y nhân”. Pháp chính
là kinh điển. Kinh điển cũng hiểu rộng ra là lời giảng kinh và khai thị của các
bậc đã triệt ngộ. Không dựa vào kinh điển tu tập, người ấy có nguy cơ đi lệch
đường đạo. Không thâm nhập kinh điển, có chút công phu dễ nhầm mình chứng đạo.
Ở tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người ta dĩ nhiên “sống trong định” bèn
tưởng mình là Phật, chẳng ngờ hết phước lại rớt xuống hạ giới như thường. Nói
gì đến những vị ở hạ giới tĩnh tọa hàng tháng trời lại tưởng mình đã ra khỏi
Tam giới. Ngay ở xứ Ấn và bên Tây Tạng, người người tham thiền đến râu tóc phủ
kín mặt song đa phần giống như cốc nước để lâu nên lắng, lúc xả thiền tiếp xúc
với nghịch duyên trần cảnh thì cấu cặn lại trỗi lên.
Nhiều vị nhập định sâu, chỉ một
chút sanh tâm tự mãn liền rơi vào “ấm ma”; ma tạo cảnh giới ảo và họ tha hồ vi
vu khoái lạc, tha hồ gieo rắc nghiệp chướng. Đau xót nhất là hiện tượng tuyên
bố mình chứng quả. Xưa nay trong nhà Phật, gần như ai chứng Thánh quả đều không
hé lộ. Do duyên cơ nào đó “bị lộ”, họ sẽ bỏ xác phàm rời nhân gian. Cũng có
trường hợp “khai” mình chứng quả, liền nhập Niết-bàn. Đây gần như là nguyên tắc
chưa có ngoại lệ. Cho nên để nhận diện một ông Phật giả thật không quá khó.
Trong kinh Đại bảo tích, Đức Phật hỏi đệ tử: Nếu như có một người cướp
hết sản vật của chúng sanh Nam Diêm Phù Đề, tội ấy có nặng không? Đệ tử trả
lời, rất nặng. Phật bảo: Nếu người nào chưa chứng ngộ lại xưng mình đắc
Tu-đà-hoàn, tội kia không bằng. Thế mới biết gieo nhân xấu này ắt xuống địa
ngục thọ quả.
Dẫu biết còn xa thẳm, nhưng Phật
tử nào chẳng mong ngày Phật Di Lặc giáng thế. Kinh Vô lượng thọ nói rõ
tương lai Ngài vẫn sẽ truyền giảng Tịnh độ - pháp môn được Phật Thích Ca nhắc
nhở: Thời mạt pháp tu niệm Phật mới thù thắng diệu dụng. Khá nhiều trường hợp
thuộc hàng ngu phu nhưng phát đại nguyện sanh về Tây phương Cực lạc; sống và
làm bất cứ điều gì đều cốt “trang nghiêm Phật tịnh độ”, ngày đêm chuyên tâm
niệm Phật đẩy lùi vọng tưởng - phân biệt - chấp trước, họ đã nhẹ nhàng đới
nghiệp mà vãng sanh, sớm viên thành Phật đạo. Thế mới gọi pháp môn này “hoành
siêu tam giới”. Chính sự “đi tắt” này nên dễ khiến đại chúng nghi ngờ. Không dễ
tin chỉ nắm vững câu Phật hiệu, một lòng hướng nguyện trở về “bản quán” lại
thành Phật; trong lúc các bậc chân tu muôn vàn khổ công đến bạc tóc vẫn chưa
thể nhập vào dòng Thánh với quả vị thấp nhất.
Hòa thượng Quảng Khâm (bậc chân tu
đại ngộ được cả giới tu Thiền và Tịnh kính ngưỡng) thậm chí còn bảo không nhất
thiết phải học nhiều kinh điển, chỉ cần tâm không rời câu “A Di Đà Phật”. Ý
muốn nói, một khi tin sâu Cực lạc thế giới, chuyên trì danh hiệu cầu vãng sanh
thì mọi kinh luận đều... thừa. Người ta vẫn nghĩ Hòa thượng Tuyên Hóa tu thiền
nhưng ngài chứng ngộ trước tiên nhờ công phu niệm Phật. Sau này do muốn qua Âu
Mỹ rộng độ nên ngài mới giảng thiền, bởi họ luôn nghĩ mình tài giỏi, bị sở tri
chướng ngại.
Nhiều bộ óc vĩ đại, thông hiểu sâu
sắc kinh giáo, vẫn... không tu, vẫn chỉ đứng ngoài cửa đạo. Đó là “sự lạ”! Thế
mới biết học Phật phải học bằng tâm, xem kinh như Phật. Một khi trong tâm “chưa
có Phật” thì hết thảy kinh điển chỉ là triết học, là sách quý; hết thảy hình
họa, tượng Phật, Bồ-tát chỉ là tác phẩm thuần túy. Một khi tâm Phật hiển lộ thì
với tượng Phật liền một lòng cung kính như Phật bằng da bằng thịt trước mặt. Đó
chính là cái bên trong tương ưng với sự bên ngoài. Rộng hơn, mọi chúng sanh kể
cả động vật và khoáng vật đều là “Phật vị lai”, ta đều phải với tâm chí thành
mà phụng sự. Người đời chửi mắng, trách móc, chê bai chính là đang dạy mình tu
pháp nhẫn nhục. Từ đó xoay ý niệm ghi ơn, hồi hướng thiện lương về họ. Vị tiên vốn
là kiếp trước của Phật Thích Ca phát nguyện độ người “tùng xẻo” mình là tấm
gương chói sáng nhất. Nếu chưa vượt qua ải nhẫn nhục, tức tâm còn ngã kiến,
biên kiến, sân khuể, còn có ý niệm đối lập với người khi dễ ta, đây là biểu
hiện của tâm luân hồi. Tâm luân hồi thì thân luân hồi.
Giấc mơ, nhất là ác mộng không hẳn
“giả”, đó là sự dồn nén hiện thực, dẫn nguồn từ hiện thực, hoặc một hiện thực
mà nhục nhãn không thể nhìn thấy; hay nói đúng hơn là sự chiêu cảm nghiệp lực
chưa được hóa giải. Có một Ni sư đêm mơ thấy mình tát người, sáng ra đã quán
tưởng người đó mà sám hối, lễ và hồi hướng. Một người cha có đứa con bất trị
thuộc hàng mafia chém giết tù tội, gây cho ông muôn vàn đau khổ. Biết rõ oan
gia tương báo, ông đã nghe theo lời dạy của một vị thầy, về dán ảnh đứa con ấy
trong phòng ngày nào cũng âm thầm lễ lạy, nguyện hóa giải oan khiên. Một thời
gian lâu chưa thấy chuyển biến, vị thầy khuyên ông tiếp tục lễ. Cuối cùng đứa
con “tự nhiên” chuyển tâm như một phép màu. Mối oan oan tương báo giữa cha con
từ đời kiếp nào và một phần trong kiếp này được hóa giải. Chẳng những vậy, ngay
cả đến những cao tăng đại đức cũng lễ lạy người “vô cớ vô sự” ganh ghét, oán
thù mình, huống hồ người đời nghiệp chướng sâu dày.
Hễ oan gia trái chủ “đối đầu” mà
ta chưa hề biết thì thôi, chứ nếu sờ sờ trước mắt dẫu chỉ một người luôn khiến
ta bực dọc, khiến dấy lên cái suy nghĩ “giá không có người này...”, chừng đó
nguy cơ ta ở lại với họ trong lục đạo là rất thực tế.
Dẫu lý thuyết kinh giáo trang bị
đầy mình, lúc gặp sự cố chúng ta vẫn bủn rủn... Mọi chướng ngại, phiền não,
hoặc đến như đi đứng vấp ngã, cảm bệnh... đều là khảo nghiệm tâm tính, đều là
đề thi của Phật và Bồ-tát, ta cứ lần lữa và nộp bài với điểm trung bình ắt khó
được “lên lớp” học với Phật. Khảo nghiệm tâm theo cách này cũng khá thú vị: Giả
như niềm vui đến mà trên đường phóng xe về nhà hoặc lâu hơn ta vẫn lâng lâng
(niệm Phật không vô hoặc quên luôn Phật hiệu), chính là tâm khí lao chao. Vui
mà tâm không thanh tịnh, thì lúc nỗi buồn ập tới cũng khiến ta ưu sầu, mất
thăng bằng và sụp đổ. Cho nên luyện tâm, trước hết phải bình lặng ở sự thành
đạt hanh thông. Bởi những điều đó chung quy đều hướng chúng ta vào ma sự.
Tà giáo hay kẻ thù đều là những
sinh mệnh lầm đường lạc lối. Người Phật tử tu theo tinh thần kinh điển chính là
đang đi trên con đường sáng với đôi mắt sáng, thì phải phát tâm dẫn dắt người
chưa sáng vào chánh đạo, sao lại đối lập, đẩy họ sâu thêm vào ngõ tối.
Ai kiếp này có học Chánh pháp (kể cả những tôn giáo gần
với tinh thần của Phật), phần nhiều trong số đó chắc kiếp trước đã tu. Do sự
thôi thúc của nghiệp quá khứ, kiếp này “mở mắt” chưa có cơ duyên gặp Phật, lại
thấy cái gì na ná Phật pháp là chộp liền, mắc kẹt luôn trong đó. Thậm chí cho
cái mình theo là phương tiện đệ nhất, không ngó vào kinh điển để mà đối sánh.
Nếu bảo kinh điển là “cổ tích”, không còn phù hợp với
thời đại, mong họ cũng nên xem qua, lúc lâm nạn nên đưa ra soi xem thế
nào. Còn không chính họ đang mua một cái vé giả. Có thể ta trễ tàu, có thể
tàu hoãn chuyến, nhưng trong tay trước hết phải nắm chắc vé thật. Phải học đúng
Pháp chứ không thể theo tợ Pháp (cái giống Pháp) để rồi biết về đâu giữa mù tăm
dâu bể.