NAMO
TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMĀSAMBUDDHASSA
GIẢI VỀ KIẾP
(KAPPAKATHĀ)
PHƯƠNG PHÁP THƯỜNG TRỰC SANH MẠNG
Để được thâu nhiếp tâm đừng cho
sa ngã vào trong hành vi ô trược, nên quán niệm đến điều tai hại là sự tiêu
hoại cõi đời, kể như cái nhà, như cái hang hoặc như cái vực sâu của chúng ta
phải sanh, phải nương gá, không thể trốn tránh khỏi điều tai hại ấy được.
Lẽ thường người ở trong cái nhà
cửa khóa gài chắc chắn, rồi dễ duôi không nghĩ ngợi gì đến điều tai hại, chỉ
tính việc ngủ cho đã, lơ đễnh bỏ mất chìa khoá, đến khi bị lửa cháy nhà, bỗng
nhiên khiếp sợ rung rẫy mất hồn, chạy la kêu và chịu sự khổ nặng nề, cho đến
khi bị thiêu đốt cháy tiêu toái trong đống lửa ấy. Có ý nghĩa ví dụ thế nào,
tất cả chúng sanh trong thế gian, đang mê-sa đảng trí theo mọi trần cảnh, chẳng
hề nghĩ tưởng gì về điều tai hại thường trực của sanh mạng, chỉ tính việc vui
chơi thái quá, sái với hành trình của bậc trí thức, cũng như thế ấy.
Lẽ thường các hàng trí tuệ là
những người có trí lự, thường lo thực hành trước khi dứt sanh mạng, hằng lo
kiếm phương pháp, đặng lánh xa điều tai hại thường trực của sanh mạng luôn khi,
không thả trôi cho sanh mạng luống qua và chạm phải tai hại ấy đâu.
Phương pháp để lánh khỏi điều
tai hại ấy chỉ có một pháp thôi là: THANH HẠNH PHÁP (Sucarita
Dhamma).
Thân thanh hạnh là:
- Không lấn hiếp và sát sanh hại
mạng của mình hoặc chúng sanh khác.
- Không trộm cắp tài sản của
người.
- Không gian đoạt vợ, chồng, con
của kẻ khác.
Khẩu thanh hạnh là:
- Nói lời chơn thật, không giả
dối.
- Nói lời hòa nhã, không đâm
thọc.
- Nói lời hiền lành, không chưởi
rủa, mắng nhiếc.
- Nói lời hữu ích và không uống
rượu.
Ý thanh hạnh là:
- Không tham lam san đoạt của
người đem về phần mình.
- Không cưu thù hủy hại kẻ khác.
- Không cứng rắn chống lại với
chân lý, là biết tin cái nghiệp và quả của nghiệp v.v...
Nếu kẻ nào có pháp Sucarita
nầy rồi, thì người ấy sẽ thành bậc trí thức, có tri kiến tốt, không để cho sanh
mạng vấp phải điều tai hại vậy.
Nói về điều tai hại vắn tắt có
hai cách:
- Tai hại không cố định thời.
- Tai hại phải cố định thời.
Tai hại không cố định thời là
nói đến sự tai hại của chúng sanh trong hiện tại nầy. Trong mỗi quốc độ, xóm,
làng chung sống cùng nhau, song chúng sanh có kẻ bị tai hại, có kẻ an vui tiến
hóa, có khi ngày, tháng, năm nay kẻ kia bị tai hại, trái lại ngày, tháng, năm
kia chúng sanh nầy có sự tai hại, v.v... không quyết định thì giờ, không quyết
định chúng sanh, như thế gọi là tai hại không cố định thời.
Tai hại cố định thời la nói về
tai hại thường trực tuổi thọ quả đất, lâu lắm mới có một lần; sự tai hại nầy vô
cùng to lớn, nên cỗ nhân hằng nói rằng: "Phát khởi điều tiêu hoại, lửa
cháy nước, cháy đất, cháy hoại kiếp (kappa)". Trong khi lửa cháy kappa
ấy, tất cả chúng sanh ở trên quả địa cầu nầy bao nhiêu và ở trên sáu tầng trời
Dục-Giới, luôn đến sắc giới gần Tịnh-Cư thiên (Suddhāvāsa), đều phải
chịu điều tai hại ấy cả.
Đặc biệt chúng sanh nào dễ duôi
không lưu tâm với pháp Sucarita, trong lúc ấy, theo lẽ thường thiện ác
nghiệp và Sankhara phải chia chẻ phân biệt chúng sanh ra, nghĩa là chúng
sanh nào tham lam, hành động ác nghiệp, chúng sanh đó bị họp thọ sanh trong
thời kỳ ấy.
Chúng sanh nào hành động thiện
pháp đứng đắn tốt đẹp, chúng sanh ấy được đi sanh trong chỗ thái bình an lạc,
nhất là được sanh trong cõi Tịnh-Cư Phạm-Thiên v.v... chẳng bị lẫn lộn sanh
chung với các chúng sanh đã tạo ác nghiệp đó đâu.
Như thế gọi là điều tai hại cố
định thời.
Sự tai hại này càng tiến gần lại
rồi, bởi vì mảnh đất mà ta và mọi người nương gá hằng ngày đây, có tên theo
tuổi thọ là tiến hóa kiếp (bhadda kappa), được 5 vị Phật tổ ra đời trong
một thời khoảng của tuổi thọ trái đất này, nay đã Niết-Bàn mất 4 vị rồi là:
- Đức Phật Câu-Lu-Tôn (Kakusandho)
- Đức Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni (Konāgamano)
- Đức Phật Ka-Diếp (Kaksapo)
- Đức Phật Cồ-Đàm (Gotamo)
Chỉ còn có 1 vị Phật tổ nữa là
đức Di-Lặc (Ariya-metreyya) thôi, khi ấy thì đến thời kỳ lửa sẽ cháy kappa
và chúng sanh sẽ bị tai hại.
Tiếng gọi là kappa và vấn
đề lửa cháy kappa ấy sẽ giải như sau đây:
GIẢI VỀ TIẾNG KAPPA
Khoảng thời gian trụ rất lâu gọi
là kappa (kiếp), là tên của tuổi thọ trái đất, hoặc là tên tuổi thọ cõi
không gian (okāsa loka).
Tiếng gọi là không gian ấy trong
bộ kinh Visuddhi magga (Thanh-Tịnh-Đạo) giải rằng: đặc chỉ về chỗ
ở của chúng sanh, hằng có sự tiêu hại là thường.
Trong cõi không gian đó có nhiều
cõi sa-bà thế giới (cakkavāla).
Cõi sa-bà ta đang ở nầy có bề ngang
và bề dọc đến một triệu hai ức ba ngàn bốn trăm năm chục do tuần (1.203.450 do
tuần).
Bề chu vi đến ba triệu sáu ức một
vạn ba trăm năm chục do tuần (3.610.350 do tuần).
Bề dài trái đất trong sa-bà thế giới
nầy chừng hai ức bốn vạn do tuần (240.000 do tuần).
- Nước nâng đỡ trái đất dày đến bốn
ức tám vạn do tuần (480.000 do tuần).
- Có quả núi gọi là Tu-Di sơn (Sineru),
chân ăn sâu xuống trong biển đến tám muôn bốn ngàn do tuần (84.000 do tuần) chót
núi cao lên cũng tám vạn bốn ngàn do tuần giống nhau.
- Kế cận núi Tu-Di sơn ấy lại có
Thất-Trùng sơn (Satta Paribhaṇda) nữa là:
1. Núi Yugandhara cao 42.000 do tuần.
2. Núi Isindhara cao 21.000 do tuần.
3. Núi Karavīka cao 10.500 do tuần.
4. Núi Sudassana cao 5.250 do tuần.
5. Núi Nemindhara cao 2.625 do tuần.
6. Núi Vinataka cao 1.312 do tuần.
7. Núi Assakaṇṇa cao 656
do tuần.
Cả Thất-Trùng sơn nầy toàn là núi
kết thành bằng bảo vật (ratana), nhất là vàng, bạc v.v... có chân ăn sâu
vào dưới biển cũng đồng như trên vậy, ở bọc quanh núi Tu-Di, cách khoảng xa nhau
cũng bằng với bề cao của các núi ấy. Nơi khoảng cách những núi ấy toàn là biển
gọi tên là Sīdantara.
Cả bảy lớp núi nầy là nơi trú của
Tứ-Đại Thiên-Vương:
1. Dhata Raṭṭha.i
2. Virūpakkha
3. Virullahaka.
4. Kuvera.
Và là nơi trú, nơi đi lại của chư
thiên, và dạ-xoa cả thảy. Chẳng phải trình độ của người thường đi đến và xem
thấy hoặc nghĩ ngợi được đâu, chỉ có Đức Phật và các vị A-la-hán mới đi đến và
xem thấy biết rõ đầy đủ.
Núi lớn Sineru, có ba hòn
núi lớn dở phía dưới, gọi là núi Trayakuṭa.
Phía trên đỉnh núi Tu-Di sơn là địa
phận của đức vua trời Đế-Thích (Sakka), gọi là cõi trời Đạo-Lợi, kế phía
trên là cõi Dạ-Ma, Đâu-Suất-Đà, Hóa-Lạc, Tha-Hóa-Tự-Tại. Tất cả các cõi nầy là
nơi trú của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của loài người đâu. Kế phía trên các
cõi trời nữa là cõi của chư Phạm-Thiên Hữu-sắc và Phạm-Thiên Vô-sắc.
Phạm-Thiên Hữu sắc có 16 tuần
là:
1. Phạm-Chúng thiên.
2. Phạm-Phụ thiên.
3. Đại-Phạm.
4. Thiếu-Quan thiên.
5. Vô-Lượng quang thiên.
6. Quang-Âm thiên.
7. Thiếu-Tịnh thiên.
8. Vô-Lượng tịnh thiên.
9. Biến-tịnh thiên.
10. Quản-quả thiên.
11. Vô-Tưởng thiên.
12. Vô-Phiền thiên.
13. Vô-Nhiệt thiên.
14. Thiện-Hiện thiên.
15. Thiện-Kiến thiên.
16. Vô-thiểu thiên.
Phạm-thiên vô sắc có bốn tầng
là:
1. Không vô biên xứ thiên.
2. Thức vô biên xứ thiên.
3. Vô-sở hữu xứ thiên.
4. Phi-Tưởng Phi-Phi tưởng thiên.
Cõi trời Phi-Tưởng phi phi tưởng
xứ này là nơi cao nhất hơn cả của Tam-Giới, trong cõi hư không thế giới khoảng cách
xa cõi cuối cùng Tam-Giới ấy xuống đến cõi người nầy không thể đếm được bao
nhiêu do tuần cả.
Trong bộ kinh Loka Dīpaka có
giảng giải so sánh rằng: Sabba bhavaggo thatvaca kutāgarasamāsalā pātitā
tīhi vassedhivimā māsehi ca atthahi rattindivehi v.v...
Nghĩa là: Chư thiên
có thần lực nhiều, ở trong cõi cuối cùng (của Tam-Giới) thả một tảng đá to bằng
cái nhà cho rơi xuống tới cõi người mất một thời gian rất lâu chừng ba năm hai
tháng tám ngày và 14 phút mới đến cõi người, cục đá ấy chỉ là chạm bởi gió, mà
mòn hết chỉ còn dư lại bằng trái cam thôi.
Kế sau đây chỉ giảng giải theo bộ
kinh Visuddhi magga như vầy: Theo sự chỉ dẫn rằng: Núi Tu-Di (Sineru)
ở giữa cõi Sa-bà, núi Thất-Trùng sơn bao quanh núi Sineru, phía bên ngoài
núi Thất-Trùng sơn ấy, toàn là nước cả thảy, trong bốn hướng có Tứ-Đại châu
cách xa hẳn với núi ấy.
TỨ ĐẠI CHÂU
1. Jambūdvīpa: Nam-Thiện-Bộ
châu, ở phía Nam
núi Tu-Di, có cây Jambū (cây trâm) thường trực của cõi, người trong châu
ấy nuôi mạng bằng nông nghiệp, thương nghiệp v.v... phụ nữ thụ thai phải 9 hoặc
10 tháng mới sanh ra con trai, con gái.
2. Uttara kurudvīpa: Bắc-Câu-Lư
châu, ở phía bắc núi Tu-Di có cây kappa (Như-ý- thọ) thường trực của
cõi. Người ở trong châu ấy khỏi bận làm nông nghiệp, thương nghiệp v.v... muốn
vật chi, muốn ưng ăn món gì, thực phẩm cách nào thì đi đến cây kappa thì
được như ý nguyện. Phụ nữ thụ thai 7 tháng thì sanh con, hài nhi trai hoặc gái
sanh ra 7 ngày là biết đi biết chạy.
3. Aparagoyānīdvīpa: Tây-Ngưu-Hóa
châu ở phía tây núi Tu-Di có Kadumba (ngọc như-ý châu) thường trực của
cõi. Người ở trong châu ấy không bận với nghề nghiệp nông-tang đâu, bởi vì có
viên ngọc làm cho thành tựu như ý.
4. Pubbavidehadvīpa: Đông-Thắng-Thần
châu ở phía đông núi Tu-Di, có cây Sirīsa thường trực của cõi. Người ở
trong châu nầy không cực nhọc phải làm nông nghiệp, thương nghiệp v.v... bởi vì
có một cây tức là cái bảo diện kết thành bằng bảy thứ ngọc, cao 15 do tuần, làm
cho thành tựu ý như tất cả ý nguyện của mọi người.
Trong bốn châu ấy, tất cả chư Phật
không khi nào giáng sanh ba châu kia, mà chỉ đản sanh trong Nam-Thiện Bộ châu
thôi, bởi vì cả ba châu ấy là nơi để cho chúng sanh thọ hưởng quả thanh-hạnh
pháp, không phải là nơi để tạo thanh-hạnh pháp, như Nam châu nầy đâu.
Trong châu Jambu có núi Hy-Mã-Lạp-Sơn
(Himalaya) cao 500 do tuần, bề ngang và
bề dọc tới 3.000 do tuần;
Bề cao, to của Đại-Thọ thường trực
bốn châu và các cõi như vầy:
- Cây Jambū (cây trâm) trong Nam-Thiện-Bộ Châu.
- Cây Kappa (cây như ý thọ) trong Bắc-Câu-Lư châu.
- Cây Kadamba trong Tây-Ngưu-Hóa châu.
- Cây Sirīsa trong Đông-Thắng-Thần châu.
- Cây Paricchitta trên cõi Đạo-Lợi Thiên.
- Cây Pātalī của nhóm A-Tu-La.
- Cây Simbalī (cây chông) của Đại Bàng (Garuda).
Tất cả cây đó toàn là đại thọ chúa
của loài cây, vẫn sống trọn một kappa (kiếp của trái đất).
Sự to và cao bằng nhau cả, là thân
cây chung quanh chừng 15 do tuần, bề dài của cây và bề dài của nhánh chừng 50
do tuần, thế là toàn cây từ gốc đến ngọn 100 do tuần.
Chu vi của bốn
châu như vầy:
- Nam-Thiện-Bộ châu, cõi trời Đao-Lợi,
cõi A-Tu-La, cõi địa ngục A-Tỳ, chu vi một vạn do tuần giống nhau.
- Tây-Ngưu-Hóa châu và Đông-Thắng-Thần
châu, chu vi hai ngàn do tuần.
- Bắc-Câu-Lư châu, chu vi tám ngàn
do tuần.
Cả Tứ-Đại châu nầy mỗi cái đều có
5 trăm châu nhỏ phụ tùng, chung ở trong một cõi sa-bà thế giới. Chung quanh cõi
sa-bà có núi lớn dài bao bọc. Núi ấy mọc chân sâu vào trong biển cả, đến tám
vạn hai ngàn do tuần. Cao lên trên cũng 8 vạn 2 ngày do tuần vậy.
Giải rõ tiếng Lokadhātu (Thế-giới)
và tiếng Cakkavāla (Sa-bà) là tiếng chỉ khác nghĩa đó thôi nhưng có thể
gọi chung là thế giới sa-bà.
Trong mỗi một cõi thế giới sa-bà,
có Tứ-Đại châu và 500 châu nhỏ, có một quả núi Tu-Di, có Thất-Trùng sơn, có 6
tầng trời Dục-giới, có 16 tầng Phạm-thiên hữu-sắc và 4 tầng Phạm-thiên vô-sắc,
có cõi người và cõi địa ngục, ngạ-quỉ, súc sanh, A-tu-la, có mặt trời và mặt
trăng.
Mặt trời chu vi 50 do tuần, mặt trăng
chu vi 49 do tuần, là bảo điện của vị trời Suriya và vị trời Canda. Pháp hành
thế gian cấu tạo lên để soi sáng cho cõi đời, theo thường lệ là đi quanh núi
Tu-Di. Mặt trời trong một ngày một đêm đi quanh một vòng giáp núi Tu-Di. Mặt
trăng đi một tháng mới giáp một vòng núi Tu-Di sơn.
Gồm các vật phụ tùng như đã kể, gọi
là một cõi Lokadhātu hoặc Cakkavāla thế giới sa-bà ấy có nhiều vô
số chẳng phải chỉ có một cõi đâu.
Gồm tất cả cõi thế hoặc sa-bà thế
giới, gọi là hư-không thế giới (Okāsaloka).
Hư không thế giới sẽ chia theo quốc
độ của Phật thấu triệt nữa như sau đây.
Buddhakkhetta Phật quốc
độ có 3 là:
1) Jātikhetta: Sanh quốc độ,
nghĩa là một vị Bồ-Tát sắp thành Phật trong kiếp chót, khi giáng sanh vào lòng
mẹ, hoặc giờ phút đản sanh ra đời v.v... sẽ do phước đức phi thường của Ngài,
khiến cho một vạn cõi sa-bà thế giới thảy đều rung động.
2) Ānākhetta: Oai lực quốc
độ, nghĩa là một vị Phật Chánh-Đẳng Chánh-Giác thuyết về lời cầu nguyện Ratana
paritta, Khandha paritta, Dhayagga paritta, Ātānatiya paritta và Mara
paritta... do năng lực kinh Paritta sẽ có phước đức phi thường tức là
lời cầu nguyện của Đức Phật khiến cho một ức koti thế giới sa-bà (100
ngàn koti cõi sa-bà), thảy đều rung động.
3) Visayakhetta: Trình độ
quốc độ, nghĩa là năng lực về trí tuệ của một vị Phật Toàn-Giác sẽ chiếu khắp đến
vô số sa-bà thế giới luôn cả vô hư không thế giới, tuệ-giác của Ngài thông suốt
chẳng có nơi cùng tận, cần rõ điều gì, nguyên nhân nào, thì hiểu trọn vẹn y như
ý nguyện, không bị một vật chi ngăn ngại.
Trong ba Phật quốc độ nầy trừ điều
trình độ quốc độ ra bởi vì theo thường lệ với cái trình độ tuệ-giác của mỗi vị
Phật tổ.
Riêng về sinh quốc độ và oai lực
quốc độ thì có một ức koti cõi sa-bà thế giới ấy, là quốc độ của một vị Phật toàn-giác,
bởi Ngài sẽ hóa độ chúng sanh trong đó.
Cả một ức koti sa-bà thế giới
ấy, pháp hành của vũ trụ (Sankhāra loka) cấu tạo lên một thời kỳ, an trụ
cũng giống nhau, tiến hóa cũng đồng thời với nhau, như có giải trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo
ở đoạn Abhinnaniddesa rằng:
- Evametesu tisu Buddhakkhattesu
ekam anakhettam vinassati. Tasmiṃ pana vinassente jatikke tampi vīnaṭṭha-meva hotu. Vinassantañca ekatevavinassanti saṇthahantam-pīikato va santhahati.
Tassavaṃ vināse ca saṇthahanañca veditabbaṃ.
Nghĩa là trong cả ba Phật quốc độ
đó, thì oai lực quốc độ bị hoại, hễ khi oai lực quốc độ bị hoại, thì sanh quốc
độ cũng bị hư hoại giống nhau vậy.
Sinh quốc độ, khi hoại cũng đồng
hoại với oai lực quốc độ, khi trụ cũng giống như oai lực quốc độ vậy.
Thế là sự trụ kiếp hoặc sự trụ kiếp
của jāti khetta và anākhetta, các thức giả nên hiểu như thế ấy.
Ngay nơi Duddhakkhetta nầy,
phần nhiều có ý hiểu khác nhau.
Có kẻ hiểu rằng: Trong cõi hư không
thế giới mà có bầu không khí to rộng thênh thang nầy, chỉ có một ức koti cõi
sa-bà thế giới thôi. Lâu lâu mới có vị Phật tổ ra đời, không có luôn luôn mỗi
ngày mỗi tháng, mỗi năm đâu, bởi vì không có cõi sa-bà thế giới, nhiều hơn con
số một ức koti ấy nữa đâu.
Có kẻ khác hiểu rằng: Trong cõi hư
không thế giới có bầu không khí to rộng thênh thang nầy, không phải chỉ có một
ức koti cõi sa-bà thế giới thôi, nghĩa là có vô số ức koti cõi,
kể không hết, có Phật đắc đạo hằng ngày không hở, là nếu trong một ức koti
cõi thế nầy, Đức Phật Niếp-Bàn, thì có một ức koti cõi thế nọ có Đức Phật
đang giác ngộ, một ức koti cõi thế kia có Bồ-Tát đang đầu thai (gần thành
Phật) hoặc nhiều ức koti cõi thế khác, có các vị Phật đang đắc đạo, đang
độ sanh, đang nhập Niết-Bàn v.v... lại cũng có một ức koti cõi thế khác
đang tiêu hoại, hoặc có một ức koti cõi thế khác đang thời tiến hóa.
Cả hai lẽ hiểu nầy khỏi phải phân
biệt bên nào trúng bên nào trật, chỉ là đem đủ nhân và quả chỉ dẫn giúp cho tri
kiến, rồi tùy nơi Phật tử khi xem qua quyển kinh nầy tự phân biệt lấy, nếu thấy
bên nào nói đúng nhân quả hơn thì bên ấy đúng chắc chắn.
GIÚP CHO TRI KIẾN
Phật quốc độ có ba là: Jātikhetta,
Ānākhetta, Visaya-khetta.
Khetta là tiếng
Magadha, nghĩa là: ruộng, tỉnh, vị trí, biên cương, quốc độ, nghĩa là
phần cõi đất, phần cõi thế, mà người ta phân chia từng khoảng, có biên giới do
ấn định quốc độ hoặc do ấn định thế giới, để phân biệt đừng cho lẫn lộn nhau,
bởi vì có nhiều chứ không phải chỉ một cõi.
- Phật quốc độ thứ nhất là Jātikhetta
chỉ có nhất định một vạn cõi thế. Khi Đức Phật mới đản sanh, thành đạo v.v... ngay
trong cõi thế gian nào, thì trọn một vạn cõi gần đây thảy đều rung động mà thôi,
không rung động đến các thế giới khác ngoài số ấy.
- Phật quốc độ thứ hai là Ānākhetta,
chỉ có nhứt định ức koti cõi thế. Đức Phật thuyết kinh cầu an về Ratana
paritta và Khandha parita v.v... trong thế giới nào, thì trọn một ức
koti những cõi ấy thảy đều rung động mà thôi, không rung động đến các thế
giới khác ngoài số ấy.
Bởi thế nào cho nên Phật quốc độ
thứ hai là Ānākhetta có sự nhất định vị trí một ức koti cõi như thế,
có nhiều cõi thế hơn số ấy nữa sao? Hay là không có? Nếu không có thì tại sao
lại có số nhất định, có biên cương (khetta) mà không nói cả thảy đi một
cái cho khỏe. Bởi cớ Ānākhetta nầy nói ngay về những cõi thế giới hiện
tại, chẳng phải nói đến các thế giới đã qua đâu.
- Okāsa loka: Hư không thế
giới, cái bầu không khí to rộng thênh thang vô cùng vô tận, kiếm chỗ cuối cùng
không thấy. Dù cho Phật tuệ cũng không thấy vậy. Nếu đã to rộng như thế nầy thì
nhiều ức koti thế giới cũng không chật bầu không khí kia được. Cả ba
điều nầy là giúp cho tri kiến, hãy nhận định theo cách nầy đi.
Sự diễn giải đến đây là phân tách
cho thấy rõ tiếng kappa (kiếp) bởi tiếng kiếp nầy là tên của tuổi thọ
quả đất, tên của tuổi thọ cõi sa-bà thế giới hoặc của hư không thế giới. Mỗi ức
koti cõi sa-bà thế giới là quốc độ của mỗi vị Phật tổ, Sankhāra cấu
tạo lên trong một thời với nhau, bị tiêu hoại cũng đồng thời với nhau, nếu tính
từ khi cấu sanh lên cho đến khi tiêu hoại thì nhiều năm lắm, đến một, mười, một
trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, luôn đến A-tăng-kỳ cũng không hết, bởi vì cõi sa-bà
thế giới nầy có tuổi thọ dài lắm, cho nên các hạng trí tuệ, nhất là Đức Phật
định danh là kiếp (kappa) nghĩa là cõi sa-bà có tuổi thọ một kappa
mới tiêu hoại.
Trong bộ Samyutta nikāya ngay
nơi phẩm Tina kattha có ý nghĩa dạy rằng: Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự
gần thành Savatthī, có một vị Tỳ khưu vào hầu và phục bạch hỏi như vầy:
Bạch Đức Thế Tôn, Kappa có thời gian bao lâu?
Đức Thế Tôn đáp rằng: Dīgho kho
bhikkhu kappa so na sukaro sankhatuṃ ettakani vassani iti vā ettakani
vassatani iti va ettakani vassasahassāni iti va ettakani vassasatasahassāhi
iti:
Nầy Tỳ khưu, kappa có thời hạn lâu
lắm. Kappa không dễ gì đếm rằng: bao nhiêu năm, bao nhiên ngàn năm, hoặc
bao nhiêu ức năm, bao nhiêu triệu năm v.v... được đâu.
Thầy Tỳ khưu bạch hỏi nữa rằng: vậy
Đức Thế Tôn ví dụ được không?
Phật phán rằng: Có thể ví dụ được,
rồi Ngài thuyết kệ ngôn như vầy:
Seyyathāpi bhikkhu mahāseho pabbato
yojanaṃ, āyā-mena yojanaṃ vithārena yojanaṃ ubbedhena, acchiddo asusiro ekaghano
tamenaṃ puriso, vassasatassa,
vassasa-tassa accayena kasikena, va’thena sakiṃ sakiṃ parimajjeyya khippataraṃ khoso, bhikkhu mahāseso pabbato imina
upakkamena parikkhayaṃ,
payādānaṃgaccheyya na tveva kappo
evaṃ dīgho kho bhikkhu
kappo.
Nầy Tỳ khưu! Ví như một tảng đá to
bề dọc một do tuần, bề ngang một do tuần, bề cao một do tuần, không lủng, không
bộng, là đá đặc ruột, trải qua mỗi một trăm năm, có một người cầm vải Kasika
(mỏng) lại lau cái núi đá một lần: nầy Tỳ khưu! Hòn núi đá lớn kia, mãi cho đến
khi mòn hết, do sự cố gắng nầy, còn mau hơn, song kiếp (kappa) vẫn chưa hết.
Nầy Tỳ khưu, kappa có thời gian lâu như thế đó.
Trong khoảng thời gian sau có một
vị Tỳ khưu vào hầu và bạch hỏi như trước nữa.
Đức Thế Tôn đáp như vầy:
Seyyathāpi bhikkhu āyasaṃ nagaraṃ, yojanaṃ āyā-mena yojanaṃ vittharena yojanaṃ ubbedhena puṇṇaṃ, sāsapānaṃ gulikā bandhaṃ tato puriso vassasatassa, vassa-satassa accayena ekametaṃ sasapaṃ uddhareyya khippa-taraṃ kho so bhikkhu mahāsāsaparāsi
iminā, upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya na tveva, evaṃ dīgho kho bhikkhu kappo.
Nầy Tỳ khưu! Ví dường như cái thành
trì, bao bằng thành lủy, bề dài một do tuần, bề ngang một do tuần, bề cao cũng
một do tuần, đựng đầy những hột cải, là cái thành trì mà họ đậy bằng đất sét,
trải qua mỗi một trăm năm, có một người đến lấy bỏ ra một hột cải khỏi đống ấy,
nầy Tỳ khưu, cái đống hột cải kia mãi cho đến khi hết sạch, do sự cố gắng này
còn mau hơn, song kappa vẫn chưa hết, nầy Tỳ khưu, kappa có một
thời gian lâu như thế đó.
Kappa nầy chia
ra làm nhiều cách nữa, như chia làm hai, làm ba, làm bốn, làm sáu.
Chia làm hai là:
- Saṃvaṭṭa kappa: Hoại kiếp.
- Vivaṭṭa kappa: Kiếp trước hóa thành.
Chia làm bốn là:
- Tejo saṃvaṭṭa kappa: Kiếp hoại do lửa.
- Antarā kappa: Nhất định
theo tuổi thọ tăng và giảm của nhân loại, nghĩa là tuổi thọ tăng lên một A-tăng-kỳ,
rồi giảm xuống còn 10 tuổi là thượng thọ. Xuống rồi tăng lên mỗi lần như thế
gọi là một Antarā kiếp.
- Asaṃ kheyya kappa: A-tăng-kỳ kiếp, là nhất
định lấy 64 kiếp Antara gọi là một A-tăng-kỳ kiếp.
- Mahā kappa: Đại kiếp,
nhất định dùng một kiếp A-tăng-kỳ gọi là một đại kiếp.
Chia làm bốn nữa là:
- Saṃ vaṭṭa kappa: Hoại kiếp, là tính từ khi trái
đất bị hoại cho đến ngày tiêu hết.
- Saṃ vaṭṭatthāyi kappa: Không kiếp
là bắt đầu từ khi tiêu hoại hết, cho đến khi cơ cấu lại nữa.
- Vivaṭṭa kappa: Thành kiếp, là kể từ khi kiếp
sanh lên cho đến khi có mặt trời, mặt trăng:
- Vivaṭṭatthayi kappa: Trụ kiếp, kể từ khi có
mặt trời, mặt trăng phát hiện cho đến khi bắt đầu bị tiêu hoại.
Chia làm sáu là:
- Sāra kappa: Kiếp có
một vị Phật tổ giác ngộ.
- Maṇḍa kappa: Kiếp có hai vị Phật tổ giác
ngộ.
- Vara kappa: Kiếp có
ba vị Phật tổ giác ngộ.
- Sāramaṃda kappa: Kiếp có bốn vị Phật tổ giác
ngộ.
- Bhadda kappa: Kiếp có
năm vị Phật tổ giác ngộ.
- Suñña kappa: Kiếp không
có Phật tổ giác ngộ.
Giảng giải về kiếp hoại:
Kiếp hoại theo ba cách là:
1) Hoại bằng lửa cháy. Khi cả một
ức koti cõi sa-bà thế giới đủ tuổi một kiếp rồi, thì lửa cháy tiêu hoại
tất cả thế giới ấy.
Trước khi lửa cháy có mưa to rơi
xuống, trong khắp một ức koti thế giới, tất cả mọi người rủ nhau vải, gieo
các thứ giống, đến khi mọc lên chừng bò ăn được thì không sa mưa xuống nữa, cả
hằng nhiều vạn năm, chúng sanh có nghiệp nhẹ nhàng, chết rồi được sanh lên cõi
trời Phạm-Thiên cả thảy, chỉ còn chúng sanh nào có ác nghiệp thì vẫn bị đọa
đày, đến một thời gian lâu, các chỗ nước đọng cũng khô hết, mọi loài như cá,
tôm, cua, rùa đều chết sạch. Chúng sanh địa ngục (chúng sanh địa ngục chết trong
khi 7 mặt trời mọc lên) và loài bàn-sanh hoặc loài người, sau khi
chết, được sanh lên cõi trời Dục-Giới, cố tinh tấn tham-thiền trong cõi trời
cho đắc định, khi chết được sanh lên cõi trời Phạm-Thiên Sắc-Giới cả.
Thật ra một ức năm trước khi lửa
bắt đầu cháy, có một vị trời tên Loka Byūhā, từ cung trời giáng xuống, biến
thành ra người mặc y phục đỏ, thả tóc xả, cái mặt tràn trề cả nước mắt, lau
nước mắt và đi theo các nẽo đường phố cáo rằng: các người chỉ còn một ức năm
nữa cõi trời sẽ bị tiêu hoại, nước biển sẽ khô, quả đất, núi Tu-Di, cõi trời,
cõi Phạm-Thiên (thấp) đều phải tiêu hoại. Các ngươi hãy cố tham-thiền, rãi tâm
từ-bi và cố gắng hầu hạ phụng dưỡng cha mẹ bằng cách cung kính.
Trong khi ấy các người thiện trí
thức nghe lời chư thiên rồi thì phát sanh kinh cảm trước, vội vã cố tinh tấn lo
làm phước bố thí, phụng dưỡng cha mẹ, không dám dễ duôi, khi chết đều được sanh
lên cõi trời, rán tham thiền trong cõi trời đắc định, đến khi chết được sanh lên
cõi trời Phạm-Thiên, khỏi thọ khổ lâu dài như các người Phi-tịnh giả.
Trong bộ Visuddhi magga dạy
rằng:
Vassupacchedate pana uddhaṃ
dīghassa addhuno accayena dutiyo suriyo pātu bhavati...
Nghĩa: Kể từ khi dứt mưa, trải qua
một thời gian lâu, có mặt trời thứ hai mọc lên rõ rệt. Khi trong thế gian có
hai mặt trời thì ngày và đêm không phân biệt. Một mặt trời mọc thì mặt kia lặng,
trong thế gian có sự nóng nãy do mặt trời luôn khi.
Trong thời kỳ trước khi mặt trời
chưa làm cho kappa tiêu hoại đó, vị trời Suriya hằng ở trong cái bảo
điện, đến khi mặt trời làm cho cõi thế bị tiêu hoại, thí cái bảo điện ấy không
có chư thiên ở nữa.
Mặt trời mới, mọc có sắc nóng thái
quá, mây mù gì trên hư không đều tiêu mất hết, nên hư-không chẳng có chi ngăn
ngại.
Khi cả hai mặt trời đua nhau mọc
thì nước ở trong các ngòi, rãnh nhỏ đều khô hết.
Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ
ba mọc lên thì nước trong các sông khô hết.
Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ
tư mọc lên thì nước trong cả hồ lớn, nhất là hồ Anotattā cũng khô hết.
Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ
năm mọc lên thì nước ở trong đại-hãi cũng khô hết, trong cả toàn cõi thế-gian
không có một nhiễu nước.
Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ
sáu mọc lên, cả một ức koti cõi sa-bà có bụi trần phải phủi lên và có nhựa của
trái đất chảy ra.
Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ
bảy mọc lên, cả một ức koti trong cõi sa-bà có một ngọn lửa cháy hỏa-hào, cháy
tiêu các núi bề cao chừng một do tuần, rồi lần đến núi Tu-Di làm cho tiêu hoại
mất hết. Ngọn lửa ấy nhập lại cháy cõi Tứ-Đại-Thiên-Vương, cõi trời Đao-Lợi,
cõi Dạ-Ma, cõi Đâu-Suất-Đà, cõi Hóa-Lạc, cõi Tha-Hóa-Tự-Tại và cháy các tầng
trời Phạm-Thiên dưới, đến cõi Quan-Âm thiên (Abhassata).
Sa yava aṇu mattampi saṅkhāragataṃ atthi tāvana nibbā yati: Ngọn lửa
ấy nếu các vật bị cháy hãy còn thì cũng chưa tắt, cháy cho đến không còn dư
tro, bụi mới tắt, ví như lửa cháy dầu ở phía dưới là không khí, phía trên cũng
là không khí giống nhau cả thành một khối tối thênh thang mờ mịt.
2) Tiêu hoại do nước. Khi Lokadhātu
hoặc là sa-bà thế giới, đủ tuổi thọ một kappa, thì bị tiêu hoại. Sự tiêu
hoại bằng nước, hành trình cũng giống như hoại bằng lửa vậy, chỉ khác nhau như thế
nầy: Bầu trời làm cho mưa toàn thủy, rơi xuống trong cả một ức koti cõi sa-bà
thế giới, các vật liệu như núi, đồi v.v... khi đụng phải nước rồi, thì bị rả
tan cả, nước toan ấy có gió thổi nâng đở chung quanh, làm tan rả các núi đồi ở
dưới xong rồi, làm tan sáu tầng trời Dục-Giới, và nhiều tầng trời Phạm-Thiên nữa,
đến cõi gọi là Biến-Tịnh-Thiên (Subhakinhā).
Nước toan ấy khô đi, các vật liệu
như núi rừng bị tiêu tan theo nước... cũng ví như muối mà người ta bỏ vào nước
vậy. Tiêu mất không còn dư chút ít gì cả.
Ở dưới là không khí, phía trên cũng
là không khí giống nhau, thành một khối tối mênh mông.
3) Tiêu hoại do gió. Khi Lokathātu
trong cõi thế giới sa-bà đủ tuổi thọ một kappa, thì bị tiêu hoại. Sự tiêu
hoại bằng gió, hành trình cũng giống như hoại bằng lửa vậy, chỉ khác nhau như
thế nầy: Bầu trời làm cho gió bảo lớn phát khỏi lên, thổi bụi lên cho bay lên
hư-không mất cả, rồi thổi bưng cả cát, đất, sạn, sỏi, đá, cây, núi va chạm nhau
và bay lên trên không hư hoại cả, không dư sót một món gì, kế thổi tan quả đất,
cõi trời Dục-Giới, cõi trời Phạm-Thiên, luôn đến tầng gọi là Quản-Quả Thiên (Vehapphalā),
làm cho tiêu tan hết, chẳng còn dư sót tí nào cả. Gió hết trơn rồi ở dưới là
không khí, phía trên cũng là không khí giống nhau, thành một khối thênh thang.
Kiếp hoại do ba thể cách như đã giãi
đây, cả ba thể cách nầy không phải thay đổi nhau mà tiêu hoại mỗi lần một món
đâu, nghĩa là hoại bằng cách thức như vầy:
Hoại do lửa 7 lần, hoại do nước một
lần, hoại do lửa và nước như thế nầy đến 63 lần mới hoại do gió một lần.
Đây là lệ thường của sự hoại kiếp.
Trong bộ Visuddhi magga có
nói về nhân khiến cho hoại như vầy Akusala Mūlesu hi ussannesu evaṃ loko vinassati.
So ca kho rāge ussannatare agginā
vinassati dose ussannatare udakena vinassanti. Keci pana dese ussan-natare.
Āgginā rāge ussanatare udākenāti vadanti. Mohe ussannatare vatena vinassati.
Nghĩa là: Kế khi cả ba ác căn là:
Tham-luyến, sân-hận, si-mê dày (nhiều) lên rồi, thì cõi thế sẽ hoại bằng ba cách
trên: cõi thế gian nào có sự tham luyến dày hơn, thì bị hoại bằng lửa, nếu sân
hận dày hơn, thì bị hoại bằng nước, nếu ai si-mê dày hơn, thì bị hoại bằng gió.
Riêng về Keci Ākāriya giải
rằng: Nếu có sân nhiều hơn thì bị hoại bằng lửa, nếu có tham luyến nhiều hơn
thì hoại bằng nước, nếu có ai si-mê nhiều hơn, thì bị hoại bằng gió.
Dứt kiếp hoại vắn tắt.
GIẢI VỀ KIẾP THÀNH
Lẽ thường pháp tạo tác thế gian,
(Saṅkhāraloka), hễ một khi cõi trước hoại rồi thì pháp tạo tác thế-gian
phải cấu tạo cõi mới lên nữa. Sự cấu tạo thế giới mới, trước nhứt trời mưa đầy
cả một ức koti cõi thế, khi đầu có từ nhiểu nước nhỏ như mù sương, lâu lâu mưa
to giọt nước bằng cây sen, bằng cán chổi, bằng cái chày tay, bằng cây thốt nốt
hoặc cây dừa, cho đến từ giọt nước lớn bằng trái núi, gió thổi nước ấy cho đông
đặc, nước đó có hình thái như nước đọng lên lá sen, mới kẹo đặc sệt xuống theo
tuần tự. Đám mưa đó lâu lắm, không từng lạnh ráo một lần nào, lâu chừng một kappa
dứt hột mưa, khối nước đọng cao đến cõi trời Phạm-Thiên. Hễ chi gió thổi cho
nước rặc xuống tới chỗ Phạm-Thiên thì thành cõi Phạm-Thiên, rặc tới chỗ Lục-Dục
thiên thì thành cõi Lục-Dục thiên, rặc hạ xuống đến chỗ nào núi, châu, cồn,
biển thì thành núi châu, cồn, biển v.v... pháp tạo tác thế gian trong khi trước
có trạng thái thế nào, pháp tạo tác sau cũng như thế ấy, không sai khác mấy.
Khi nước rặc xuống tới chỗ vừa
thành châu, thì bọt nước đó có vi ngọt đóng thành đất, đất được thành lên đó
nỗi trên mặt nước, như lá sen nỗi trên mặt nước vậy, hoặc như sũa nóng chảy
trên mặt nước.
Trái đất trong buổi đầu có vị
ngon và màu sắc tốt tươi, mùi thơm lạ thường, ngon ngọt như sữa trong trộn lẫn
với mật ong hoặc cơm sữa (Madhupāyāsa).
Sự cấu khởi quả đất, thì chỗ
Bồ-Đoàn sanh trước, có một cụm sen mọc lên làm hiện tượng đầu tiên (Pubba
nimitta).
Chỗ Bồ-Đoàn nếu có một vị Phật
thành đạo trong kappa ấy thì sen chỉ trổ một cái hoa thôi (1),
kiếp như thế gọi là Sāra kappa. Nếu có hai vị Phật thành đạo trong kiếp
ấy thì sen trổ hai cánh hoa, kiếp như thế gọi là Maṇḍa kappa.
Nếu có ba vị Phật thành đạo
trong kiếp ấy, thì sen trổ ba cái hoa, kiếp như thế gọi là Vara kappa.
Nếu có bốn vị Phật thành đạo
trong kiếp ấy, thì sen trổ bốn cái hoa, kiếp như thế gọi là Sara maṇḍa kappa.
Nếu có năm vị Phật thành đạo
trong kiếp ấy, thì sen trổ năm cái hoa, kiếp như thế gọi là Bhadda kappa.
Nếu không có vị Phật nào thành
đạo trong kiếp ấy, thì chẳng có sen mọc làm tiền hiện tượng, kiếp như thế gọi
là Suñña kappa.
Hoa sen trổ một, hai, ba, bốn
hoặc năm cái cũng đều mọc chung một cuống như chùm bông Kaṇṇikā vậy.
Thời ấy có lắm trời Phạm-Thiên
giáng xuống, nhiều kẻ lẹ tính thấy đất có vị ngon, bèn nghĩ rằng: ở cái nầy là
gì ư? Liền lấy tay quẹt lấy đất ấy rồi nếm thử xem, vị đất liền vào các thần
kinh dành để hưởng thọ vị vật thực, sự mong mỏi trong vị ngon đã phát sanh đến
chúng sanh ấy, các chúng sanh khác bắc chước theo rủ nhau đưa ngón tay trỏ vệt
đất nếm thử xem, vị ngon của đất cũng thấm nhuần khắp thân thể của những chúng
sanh ấy.
Kế đó các sanh vật ấy cứ cạy
đất, vắt từ vắt mà ăn. Khi các vị Phạm-Thiên ham ăn đất có vị ngon thì ánh sáng
chiếu diệu nơi thân tiền tiêu mất đi, sự tối mờ phát sanh lên, các sanh vật ấy
khi thấy tối thì khiếp sợ cả.
Liền đó vừng mặt trời có chu vi
50 do-tuần, tức thì phát sanh lên, đặng tiêu trừ sự sợ hãi về đêm tối của chúng
sanh, khi các sanh vật ấy thấy vừng mặt trời thì vui mừng cùng nhau gọi: Mặt
trời! Mặt trời (Suriya)!
Mặt trời chói sáng trong ban
ngày rồi lại mất, chúng sanh ấy cũng phát sanh sự kinh hải lên nữa, nói với
nhau rằng chúng mình được ánh sáng rồi lại bị mất đi, chúng mình sẽ được ánh
sáng gì nữa ư?
Liền đó vừng mặt trăng có chu-vi
49 do-tuần tức thì phát sanh lên, chúng sanh ấy thấy mặt trăng thì vui mừng
cùng nhau gọi mặt trăng (Canda).
Khi có mặt trời, mặt trăng rõ
rệt rồi, các tinh tú cũng sanh lên, thì giờ, ngày và đêm cũng phân định, một
tháng và nữa tháng cũng phát sanh, mùa và năm cũng phát sanh, núi Tu-di, núi-Hy-Mã,
núi Sa-Bà, Tứ-Đại châu sông biển cũng phát sanh rõ rệt trong ngày trăng tròn
tháng Phagguṇa không trước không sau, như có Pāli chỉ rõ trong bộ
Visuddhi magga ở đoạn núi Abhiññā rằng:
Te ca kho apubbam acarimaṃ
phagguṃa puṇṇa mī divaseyena pātubbavanti.
Khi chúng sanh ấy ăn đất có vị
ngon, lấy đất làm vật thực, thì ở yên một thời gian khá lâu, sự mập mạnh trong
thân thể của chúng sanh ấy cũng phát sanh đầy đủ, màu da cũng phát sanh, rõ
rệt, có nhóm màu da tốt, có nhóm màu da xấu, các chúng sanh có màu sắc tốt chê
chúng sanh có màu sắc xấu rằng: Chúng mình có sắc thân xinh đẹp hơn chúng nó,
chúng ta khá hơn và cao thượng hơn, chúng sanh ấy có màu sắc xấu hơn chúng ta,
vậy chúng ta chẳng nên tôn trọng lễ độ với chúng sanh ấy? Khi những chúng sanh
đó có ngã chấp và có sự khinh bỉ làm trợ nhân, thì đất có vị ngon để ăn cũng bị
tiêu họai hết, đến khi vị ngon của đất mất rồi, thì Pappa taka cái mày
của đất liền phát sanh lên, cái mày của đất có hình dạng như một thứ nấm, màu
sắc như toàn sữa hoặc bơ (Sappi) cũng giống như sữa cục (Navanīta)
có vị ngon như mật ong trộn lẫn vơi con ong non.
Kế đó dây Padā mọc lên có
vị ngon, chúng sanh ấy cùng nhau lấy dây Padā làm vật thực, ở yên một
thời gian lâu, khi chúng sanh ăn dây Padā thì sự tráng kiện thân thể
cũng phát sanh tột độ, màu sắc càng khác nhau, chúng sanh ấy lại ngã chấp và
khinh rẽ nhau nhiều hơn trước nữa, dây Padā cũng tiêu hoại mất hết.
Lúa Sālī tự chín và lúa
không trấu, không cám, trắng tốt, có mùi thơm, trỗ trái ra từng chùm, phát sanh
dầy đẫy, chúng sanh rũ nhau lấy lúa Sālī ngay chỗ nào mà ăn buổi sáng,
đến buổi chiều, lúa cũng mọc lên ngay chỗ ấy, cùng nhau lấy ăn nữa khỏi khổ
nhọc phải đi kiếm nơi khác, từ đấy chúng sanh dùng lúa Sālī tự chín làm
vật thực, ở yên một thời gian khác lâu, chúng sanh nhờ ăn lúa ấy nên sự tráng
kiện của thân thể cũng phát sanh tột độ, cả màu sắc cũng sai biệt nhau càng rõ
rệt. Các mục ghẻ cũng bể ra thành khiếu nhỏ, khiếu lớn đặng bài tiết nước, xác
và nam tướng mạo, nữ tướng mạo cũng phát sanh rõ rệt, nhóm nữ nhìn xem nhóm
nam, nhóm nam nhìn xem nhóm nữ luôn khi, lòng luyến ái bèn phát khởi lên, sự
nóng nảy bởi lòng luyến ái cũng tập trung trong thân thể. Kể từ khi đó chúng
sanh bắt đầu gieo dâm với nhau, bởi có tâm luyến ái (Rāga) là trợ nhân.
Thời ấy các chúng sanh đang giao cấu, thì lấy đất hoặc các vật khác mà ném, có
kẻ khác lại chưởi mắng các chúng sanh đang dâm-dục đó. Khi chúng sanh đã nặng
tình trong sự dâm-dục rồi, thì rũ nhau làm nhà để che dấu sự giao hiệp từ lúc
ấy.
Trong thời gian sau lại có chúng
sanh lười biếng mới nghĩ như vầy: Ôi! ta lấy lúa sáng thì ăn trong buổi sáng,
đi lấy buổi chiều thì ăn trong buổi chiều, thật đấy là cả một sự khó khăn lắm
vậy. Thôi ta hãy đi lấy lúa để dành ăn trong buổi sáng, và lấy luôn để dành ăn
chiều nữa mới tiện.
Có một chúng sanh vào gặp người
ấy rũ rằng: Nầy bạn, hãy cùng tôi đi lấy lúa Sālī về ăn.
Chúng sanh đó đáp: Thôi khỏi,
tôi lấy về ăn đầy đủ rồi.
Người ầy khi nghe thì cảm thấy
có phần giản tiện, nên cũng bắt chước theo, đi lấy lúa Sālī về để dành
ăn hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày hoặc nhiều hơn nữa.
Đến khi chúng sanh cùng nhau bắt
đầu ăn lúa Sālī đã lấy về cắt như thế, thì võ trấu và cám bao bọc hột
gạo cũng phát sanh đến đỗi chổ lấy lúa đó nó cũng thôi mọc nữa.
Khi ấy những chúng sanh hội họp
và than thở rằng: Nầy chúng mình ơi! pháp thấp hèn đã phát sanh đến chúng ta
rồi, pháp thấp-thỏi xấu xa đã phát sanh đến chúng ta rồi. Lúc trước kia chúng
ta sanh do tâm thiền định, có phỉ lạc là vật thực hào quang chói từ trong thân
túa ra phi hành theo hằng không được dễ dàng như ý muốn, ngày nay đến đổi lúa Sālī
cũng có trấu và các chỗ lấy lúa nó cũng thôi mọc lại nữa, bởi cớ ác pháp đã
phát sanh đến ta rồi, nếu thế thì chúng ta nên chia lúa Sālī và chia
phần đất để trồng lúa; kể từ đó chúng sanh rũ nhau chia lúa Sālī, đóng
cọc phân ranh riêng cho mỗi người; thời ấy có một chúng sanh là hạng thấp kém,
xấu xa lén dấu phần lúa phát sanh của mình, đi trộm cắp của kẻ khác về ăn,
chúng sanh khác bắt người ấy và rầy mắng rằng: Ô! người làm nghiệp xấu xa lắm,
người chẳng nên dấu phần lợi của mình, rồi trộm phần của kẻ khác về mà ăn,
người đừng làm như thế nầy nữa. Về sau người ấy cũng cứ trộm hai, ba lần như
cũ, các kẻ khác cũng bắt được và mắng rầy đủ điều, có kẻ tát tay bằng bàn tay
hoặc đánh bằng cây.
Trong khi ấy sự trộm cắp phát rõ
rệt, sự chê bai cũng phát sanh rõ rệt, trong sự nói dối, sự thiết lập uy thế
cũng phát sanh rõ rệt thế gian nầy.
Kinh Dīgha nikaya ở bài
tụng Aggañña dạy rằng: Lúc Đức Thượng-Sư A-La-Hán Chánh-Đẳng Chánh-Giác
an ngự trong chùa Kiến-Sơ (Pubba rama), có diễn giải cho hai ông sadi
như vầy: Athakho te vāsettho sattā sanni patimsu sannipatitvā anuthanimsu
pāpaka bho dhammā sattesu pātubhūtā yatra hi nāma adinnādānaṃ. Paññāyissati
garaha Paññāyissati musāvādo paññāyissati dandā dānaṃ Paññāyissati yannūna
mayaṃ ekaṃ sattaṃ sammaneyy āma yo no sammākhīyitabbaṃ khīyeyya
sammāgarahi-tabbaṃ garaheyya sammā pabbā jetabbaṃ pabbājeyya mayaṃ panassa
sālīnaṃ bhagaṃ anuppadassāmāti athakho te vāsettho sattā v.v...
Nghĩa là: Nầy Vāsettha và
Bhūra Dvāja, khi ấy những chúng sanh tập họp lại mới than thở rằng: Ô!
ác pháp cả thảy đã phát sanh đến chúng ta rõ rệt rồi, bởi sự trộm cắp, sự hủy
báng cũng phát sanh rõ rệt, nói lời giã dối cũng phát sanh rõ rệt, sự thiết lập
uy thế cũng phát sanh rõ rệt, nếu vậy chúng ta nên đề cử một chúng sanh cho làm
người khiển trách, những chúng sanh đáng khiển trách, hiệp theo duyên cớ, cho
hủy báng, những kẻ đáng hủy báng hiệp theo duyên cớ, cho tẩn xuất những người
đáng đuổi ra đúng theo duyên cớ, làm giúp việc cho chúng ta; về phần chúng ta
thì nên hiến số lúa Sālī cho người ấy.
Nầy Vāsettha và Bhurā
Dvāja, chúng sanh ấy vào kiếm người có sắc thân xinh đẹp, đáng nhìn xem,
đáng ngưỡng mộ, có chức quyền to lớn, tức là đức Bồ-Tát.
Khi vào đến nói như vầy: Thưa
Ngài, Ngài hãy khiển trách chúng sanh đáng khiển trách hiệp theo duyên cớ, hãy
hủy báng chúng sanh đáng hủy báng hiệp theo duyên cớ, hãy tẩn xuất chúng sanh
đáng đuổi ra theo duyên cớ, thì chúng tôi sẽ hiến phần lúa Sālī cho
Ngài. Đức Bồ-Tát nhận lời với chúng sanh ấy rằng: Tốt! Rồi kể từ đó Ngài khiển
trách các chúng sanh đáng khiển trách, hủy báng các chúng sanh đáng hủy báng,
hoặc đuổi ra theo duyên cớ. Tất cả chúng sanh ấy đều hiến phần lúa Sālī cho
Bồ-Tát.
Toàn chúng sanh tôn xưng Đức
Bồ-Tát đó là: "Mahā sammatā" vậy, bởi có câu trích giải rằng: Mahājana
sammatoti: Mahā sammato (chúng sanh nào) mà đại-chúng tôn xưng rồi
(chúng sanh ấy) gọi là Mahā Sammati: Đại-Tôn hoặc Đại-vương, nghĩa là
người mà phần đông tôn vương được phát sanh từ lúc ấy.
Có nhóm chúng sanh gọi đức
Bồ-Tát bằng Hattiya: Vua bởi Đức Bồ-Tát là chủ của tất cả ruộng, do có
câu trích giải rằng: Khettānaṃ adhipatīti Hattiyo (chúng sanh nào) là
chủ của tất cả ruộng (chúng sanh ấy) gọi là khattiya vua, là đấng làm
chủ đất nước có từ khi đó.
Có nhóm chúng sanh khác gọi Bồ-Tát
là Rājā: Vương, thủ lãnh trong quốc-độ, bởi vì Bồ-Tát làm cho chúng sanh
được mãn nguyện, đúng theo pháp, có câu trích giải rằng: Dhammenaparesam
ranjetīti: Raja (chúng sanh nào) làm cho tất cả người khác mãn nguyện bằng
pháp (chúng sanh ấy) gọi là Rājā: Người làm cho các chúng sanh khác được
mãn nguyện bằng pháp, riêng rājā có từ lúc ấy.
Câu chuyện nầy dứt vắn tắt chỉ
có thế.
Kể từ lúc ấy, cõi thế cứ có sự
tiến triển và không tiến triển, xoay vần lên xuống nhiều lần nhiều lượt. Đây sẽ
dẫn sự xoay vần lên xuống đó lại giảng giải theo trong bộ Dīgha nikaya ở
bài kinh Cakka vatti như đây: Thuở nọ Đức Phật Chánh-Giác an ngự trong
rừng Mātulā nơi xứ Māgadha.
Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết dạy
chư Tỳ-khưu rằng: Bhūta pubbam bhikkhave rājā dalhanemi nāma ahosi cakkavatti
dhammiko dhammarājā chāturanto vijjitāvī janapadatthā vavikayappatto
sattaratana sammannāgato. Tassimāni satta ratanāmi v.v...
Nghĩa là: Nầy chư Tỳ-khưu! thưở
đời quá khứ có một đức vua tên Dalhanemi làm vua Chuyển-Luân-Vương, ngài
là vị vua hợp pháp làm lớn trên quả đất có bốn biển là nơi biên cương cuối cùng
là vua thắng trận, ngài có thần dân hùng mạnh, ngài đầy đủ 7 thứ châu báu, đức
vua Dalhanemi cai trị đất nước có bốn biển làm ranh giới, hợp pháp luôn
khi, không cần dùng uy-quyền, chẳng cần dùng khí giới.
Đến thời gian trôi qua nhiều
năm, nhiều ngàn năm, vua Dalhanemi mới phán với người cận thần rằng: Nếu
người thấy bánh xe báu mất khỏi chỗ giờ nào, thì hãy báo tin cho trẫm trong giờ
ấy, đến thời gian lâu hàng ngàn năm về sau người ấy thấy cái xe báu lìa khỏi
chỗ bèn vào tâu cho đức vua rõ.
Thời ấy đức vua Dalhanemi
hoàng tử lớn lại phán như vầy: Nầy con yêu quí của cha, nghe nói ngọc luân quí
của mình đã mất rồi, điều nầy theo cha nghe rằng: Nếu bánh xe quí báu của vua
chuyển-luân nào biến mất khỏi chỗ rồi thì kế đó vị vua ấy không sống lâu nữa
đâu, còn về dục-lạc của nhơn gian cha đã thọ dụng no chán rồi, giờ nầy là giờ
cha cần sưu tầm an lạc cao quí. Nầy con yêu dấu của cha, con hãy cai trị đất
nước mà có biển là biên cương ấy đi.
Còn cha sẽ cạo đầu, cạo râu, mặc
y cà-sa xuất gia tu hành. Đức vua phải phủ dụ đông cung trưởng tử cho thỏa
thích trong ngôi vị đế vương xong rồi, ngài ra khỏi hoàng cung, ngự vào rừng tu
đạo-sĩ. Trong khi đức đạo-sĩ mới tu được 7 ngày thì cái ngọc-luân quí ấy cũng
mất luôn.
Kế sau đó thị-thần vào hầu đức
Tân-Quân vừa mới tức vị và tâu cho lãm tướng rằng: Kính tâu lịnh thiên-tử, xin
ngài tường, cái ngọc-luân quí báu biến mất đi rồi.
Đức vua nghe xong thì có lòng
buồn rầu vô hạn, mới ngự đến hầu Đức Đạo Sĩ phụ hoàng và bạch rằng: Kính bạch
phụ vương rõ, cái bảo luân đã mất rồi.
Đức đạo-sĩ phán dạy con như vầy:
Nầy con, nếu xe báu mất đi thì con đừng buồn, đừng tủi gì cả, con hãy thực hành
chuyển-luân pháp (Cakkabatti vatta) cho con thượng đi, nếu con thiệt
hành chơn chánh rồi, ngọc-luân có một ngàn cái căm đầy đủ bằng mọi thể cách sẽ
phát sanh rõ rệt đến cho con, hãy dọn mình cho thanh tịnh để thọ trì
trai-tịnh-giới, nên ở yên trên bảo-điện trong những ngày trai tịnh.
Đức vua con bạch hỏi về pháp
hành của chuyển-luân-vương được đạo-sĩ là phụ hoàng dạy rằng: Nầy con, nếu thế
con chỉ nương theo pháp thôi, và làm lợi cho pháp, con cung kính pháp, trang
trọng pháp, cúng dường pháp, kính nễ pháp, lấy pháp làm cớ, lấy pháp làm cầu,
lấy pháp làm trọng, tổ chức về sự thống trị cho hiệp pháp đối với người bên
trong là vợ, con, hoàng gia thân tộc, đối với toàn dân, hoặc số người quy
thuận, các bậc trưởng giả trong xóm trong thôn, sa-môn, bà-la-môn và loài
phi-cầm tẩu thú.
Nầy con, chẳng nên làm điều ác
trong xứ của con nếu người nào trong xứ của con không có tài sản, con cần cho
của cải đến người ấy.
Nếu có chư sa-môn, bà-la-môn
nào, ở trong xứ của con là các bậc không dễ duôi, an trú trong pháp nhẫn nhục (Khanti)
và pháp dễ dạy (Soracca) con hãy nên vào kiếm các sa-môn, bà-la-môn ấy
luôn khi; nên học hỏi cho thông rõ về những nghiệp nào tội lỗi và không tội
lỗi, nghiệp nào thiện và ác, khi con nghe lời chỉ dạy của các sa-môn, bà-la-môn
rồi, con cần lánh xa nghiệp ác, và tu trì thiện nghiệp.
Nầy con, đây là pháp hành cao
thượng của vua chuyển-luân-thánh-vương.
Đức vua con nghe lời giáo huấn
của đạo-sĩ cha rồi, cố gắng thực hành pháp chuyển-luân-vương cao thượng ấy, dọn
mình thanh-khiết để thọ trì bát-quan-trai giới, ngài an ngự trên bảo điện trong
những ngày trai tịnh.
Khi ấy cái bánh xe báu có cả
ngàn cái căm cũng phát sanh lên, vua thấy rõ rệt bèn nghĩ rằng: Bánh xe báu
phát sanh đến vua nào, thì vua ấy là chuyển-luân-vương. Ồ! vậy ta là vua
chuyển-luân-vương rồi đây!
Khi ấy đức vua rời khỏi chỗ ngự,
choàng y phục chỉnh tề, tay trái cầm cái bình bằng vàng, tay mặt phủ lên bánh
xe báu và chú nguyện rằng: Xin cho xe báu tiến hành vĩnh-cữu, xin cho xe báu có
sự toàn thắng, khi ấy xe báu bay nổi đi đến hướng đông, vua chuyển-luân cũng
nỗi bỗng theo bánh xe báu ấy, luôn cả quân binh. Nếu bánh xe báu để trú nơi
quốc độ nào thì vua đóng đô tại đó.
Còn về các ông nghịch vướng ở
trong hướng đông, thảy đều vào hầu đức vua chuyển-luân và tâu rằng: Tâu
Đại-vương, đất nước của hạ thần là đất nước của Đại-vương, xin Đại-vương nhận
và dạy dỗ cho.
Vua chuyển-luân bèn dạy rằng:
Các người chẳng nên sát sanh, chẳng nên trộm cắp, chẳng nên tà dâm, chẳng nên
nói dối, chẳng nên uống rượu và các chất say, trái lại hãy dùng các vật nên
dùng.
Kế sau đó xe báu bỗng lên, bay
đi đến các hướng Nam, Tây và Bắc, đức vua cũng bay bỗng theo như hành trình
trước, ngài thắng kẻ nghịch trên toàn cõi, có biển làm ranh giới cho an trú
trong ngũ giới cả, rồi ngài ngự trở về hoàng cung, xe báu đến trú trong chỗ tòa
phân xử gần hoàng-thành, xe trú yên dường như gảy trục không chạy nữa và chiếu
sáng làm cho cả hoàng thành rực rỡ.
Đức vua Chuyển-Luân nầy, đến già
cũng trao ngôi cho hoàng tử đông cung theo hành trình phong tục của cha, được 6
vị vua sau cũng làm theo qui cũ ấy.
Đến đời vua thứ 7, không làm
theo phong qui ấy cho nên xe báu chẳng phát sanh đến đức vua đó, vì ngài dạy
dân theo tri kiến kém cõi của mình, trong đất nước vạn-dân không được an vui,
tiến hóa như chư Tiên-Đế ngày xưa. Lúc đó các quan Đại-thần khâm thiên,
kinh-tượng thủ hộ và các ngươi nuôi mạng bằng phù phép (Manta) đều hội
họp nhau và phục tấu với vua rằng: Kính tâu Đại-vương, bá tánh không được tiến
hóa như trong thời minh trị của chư Tiên-Đế là bậc thực hành chuyển-luân-vương
pháp cao thượng.
Tâu Đại-vương, quần thần toàn là
người thông-thuộc chuyển-luân-vương pháp, xin Đại-vương hỏi chúng hạ thần đi,
chúng hạ thần sẽ giàu đáp dâng cho ngài.
Khi ấy đức vua hỏi pháp hành của
Chuyển-Luân-Vương.
Họ cũng giải đáp hiến cho.
Khi đức vua nghe lời của các vị
ấy giải bày, thì ngài chuẩn bị tổ chức thống trị hợp theo vương-pháp trở lại,
song ngài lại không bố thí của cải đến cho mọi người nghèo, thế nên sự nghèo
túng càng thêm lên. Khi sự túng thiếu nhiều thì có người lấy tài sản của người
khác, gọi là trộm cắp, quân lính bắt được người ấy dẫn đến vua và tâu rõ việc.
Đức vua phán hỏi: Ngươi trộm của
người ta phải không?
- Tâu Đại-vương, hạ thần có trộm
thiệt.
- Bởi sao mà ngươi trộm?
- Sở dĩ hạ thần phải trộm là bởi
không có vật chi để nuôi mạng sống.
Liền đó đức vua bố thí của cải
đến người ấy và ngài dặn rằng: Người hãy lấy của cải đi tiêu dùng và phụng
dưỡng cha mẹ, vơ con và hãy làm phước cúng dường đến sa-môn, bà-la-môn.
Người ấy tuân làm theo lời vua.
Về sau lại, phần đông người nghe
tin vua bố thí cho kẻ trộm như thế bèn rủ nhau ăn trộm của người ta, càng nhiều
thêm lên (ác nghiệp cũng khởi sanh trong thế gian càng nhiều thêm kể từ đó).
Kế sau có kẻ trộm, quân lính bắt
nạp cho vua, đức vua phán hỏi nó trình bày như kẻ trộm trước. Khi ấy đức vua
nghĩ rằng: Nếu ta cứ cho của cải đến kẻ trộm nầy nữa về sau chắc hẵn sự trộm
cắp sẽ đầy dẫy trong thế gian, chi bằng ta phải răn trị bằng lối cắt đầu bọn
trộm cướp. Đức vua bèn phán thị thần rằng: Các khanh hãy trói xếp cánh người
nầy cho chặt, rồi cạo đầu cho sạch, đánh trống dẫn đi khắp các nẽo đường, xong
đem ra cửa nam môn mà cắt đầu đi. Quân lính làm theo lệnh nhà vua, nhiều người
nghe tin rằng: Đức vua cho cắt đầu kẻ trộm như thế thì rủ nhau tạo khí cụ rất
bén, rồi dẫn nhau đi cướp của, giết người trong thôn xóm, châu thành, người qua
đường v.v... đọat lấy của cải, rồi chém giết tài gia nữa, sự sát sanh khởi đầu
trong thế gian từ lúc đó.
Trong khi đức vua không bố thí
tài sản cho dân nghèo thì sự trộm cắp có nhiều, sự sát sanh cũng thêm nhiều
nữa.
Kế đó lại có một người trộm,
quân lính bắt đem nạp cho vua, đức vua phán hỏi như trước, nó không dám khai
thật vì sợ vua giết, nên nói dối không trộm cắp bao giờ cả, sự nói dối đã khởi
đầu phát sanh trong thế gian, hể khi sự nói dối có rồi thì bốn điều hạnh phúc
là: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh của chúng sanh phải sụt xuống, còn tám
vạn năm, qua một thời gian lâu, bị giảm xuống còn bốn vạn năm, con cháu của các
người bốn vạn tuổi đó lại có người trộm cắp, nhiều người ghét kẻ gian nên đi
tâu vua bằng lời đâm thọc cho vua nghe đặng bắt kẻ trộm ấy, lời nói lưỡng thiệt
cũng phát sanh rõ rệt trong thế gian, con cháu của nhóm người hai vạn tuổi do
đó phải bị giảm xuống còn một vạn năm.
Trong số người tuổi thọ một vạn,
có kẻ sắc thân đẹp, có kẻ sắc thân xấu xí, người thân hình xấu lại thương kẻ có
sắc thân xinh đẹp, cho nên hành động tà với con vợ kẻ khác. Sự tà dâm phát khởi
lên trong thế gian, kể từ đó.
Con cháu của người một vạn tuổi,
cũng bị giảm xuống còn năm ngàn năm, trong khi nhơn loại còn năm ngàn tuổi, thì
có hai ác pháp là: ác ngữ (Pharusavācā) và vô ích ngữ (Samphappalāpa)
cũng phát sanh lên. Con cháu của những năm ngàn tuổi cũng bị giảm xuống còn hai
ngàn năm trăm năm, có hai ác pháp là: Liếc xem của người hoặc tham (Abhijjhā)
và hủy hoại kẻ khác hoặc sân (Abyā pāda) cũng phát sanh lên trong thế
gian, kể từ đó.
Con cháu của người hai ngàn năm
trăm tuổi cũng bị giảm xuống còn một ngàn năm, có một ác pháp là: Tà-kiến (Micchā
diṭṭhi) cũng phát sanh lên trong cõi người từ khi đó.
GIẢI RÕ THẬP ÁC
Thập ác nghiệp phát sanh trong
thế gian, không phải sanh theo thứ tự giống như thập thiện nghiệp mà trái lại
sanh như thế nầy:
1) Adinnādānā: Trộm
cắp.
2) Pānātipātā: Sát
sanh.
3) Musāvāda: Nói
dối.
4) Pisunāvādā: Nói
hai lưỡi.
5) Kāmesumicchācāra: Tà
dâm.
6) Pharusavācā: Nói
lời độc ác.
7) Samphappalapa: Nói
lời vô ích.
8) Abhijjhā: Liếc
xem của kẻ khác, muốn đem về phần mình.
9) Byāpāda: Cố ý
hủy hại kẻ khác.
10) Micchā diṭṭhi: Tà
kiến, hiểu lầm, quấy cho là phải, phải cho là quấy.
Về thập thiện nghiệp pháp sanh
như vầy:
1) Lánh xa sự sát sanh.
2) Lánh xa sự trộm cắp.
3) Lánh xa sự tà dâm.
4) Lánh xa sự nói dối.
5) Lánh xa sự nói hai lưỡi.
6) Lánh xa sự nói độc ác.
7) Lánh xa sự nói lời vô ích.
8) Lánh xa sự liếc xem của kẻ
khác, mong đem về phần mình.
9) Lánh xa sự cố ý hủy-hoại kẻ
khác.
10) Lánh xa sự tà kiến.
Hễ khi thập ác nghiệp phát sanh
nhiều trong thế gian, thì con cháu của người một ngàn tuổi cũng bị giảm xuống
năm trăm năm. Trong khi ấy có ba ác pháp cũng phát sanh lên nữa là:
1) Adhammarāgā: Luyến-ái
sái với pháp điều: nghĩa là người có sự luyến ái trong cha, mẹ, chú, bác, cô,
dì và anh em ruột của mình.
2) Visamalobha: Muốn được
quá độ, muốn được bất kể pháp luật, nghĩa là cái không đáng cho ta cũng muốn, ở
trong quốc độ kia lại muốn được vật trong quốc độ nầy, ở nơi xứ nầy lại muốn
được vật nơi xứ khác v.v...
3) Micchā dhamma: Mong
mõi trong tà pháp, nói về sự thỏa thích của người nam với người nam, người nữ
với người nữ.
Hễ khi cả ba pháp nầy phát sanh
nhiều rồi thì con cháu của người năm trăm năm tuổi bị giảm xuống hai trăm năm
chục năm; khi ấy người ta không mấy gì biết cung kính cha, mẹ, thầy tổ, bậc
trưởng lão, tuổi thọ nó cứ bị giảm xuống còn một trăm năm.
Trong thời kỳ tuổi thọ con người
còn 100 năm có vị Bồ-Tát tiền thân Phật Thích-Ca, từ cung trời Đâu-Suất-Bà,
giáng sinh vào lòng bà Māyā, là chánh-hậu của vua Suddho-dāna tại
thành Kapilavatthu.
Ngài xuất gia thành Phật: Đức
Thế-Tôn nhập Níp-Bàn trong lúc đúng tám mươi tuổi. Có chú nguyện giáo pháp tồn
tại năm ngàn năm. Bây giờ đây Phật giáo đã trải qua hết hai ngàn năm trăm lẻ
bốn (2.504) năm rồi, tuổi thọ con người hiện tại đây giảm xuống còn chừng 75
tuổi thôi. Bởi theo sách cho tính như vầy: Cứ trải qua một trăm năm giảm xuống
một tuổi.
Sự giảm thọ của chúng sanh đây
chưa tột mức đâu, còn giảm xuống nữa, cho đến loài người chỉ có tuổi thọ mười
năm, như lời Phật thuyết trong kinh Dīgha nikāya rằng:
Bhavissati bhikkhave so samayo
yaṃ imesuṃ manus-sanaṃ dasa vassāyukāputtā bhavissati v.v...
Nghĩa là: Nầy chư Tỳ-khưu! Kế
đến thời gian sau sẽ tới lúc con cháu những người nầy thọ mười tuổi, hễ khi
người đời mười tuổi là thượng-thọ, phụ nữ 5 tuổi là vừa cho có chồng. Nầy chư
Tỳ-khưu! Trong khi người đời mười tuổi thượng-thọ, thì mật sữa đặc, dầu nước
mía, muối sẽ mất hết, loài người sẽ ăn cỏ trường- diệp, lấy cỏ trường-diệp làm
vật thực?
Cả thập thiện nghiệp tiêu vong
hết, cả thập ác nghiệp phát triển, những người hiếu kính cha mẹ cũng mất hết,
người đời bạo tàn không kể quấy phải, như loài súc sanh vậy, sẽ phát sanh sự
tai hại to lớn trong thời kỳ ấy, gọi là Satthantara Kappa (đao-binh-tai)
nghĩa là tất cả người trong thế gian bị tiêu hoại bởi khí cụ.
Trong khi phát khởi
đao-binh-tai, thì loài người có khí giới đều nhau cả, thấy loài người giống
nhau, dường như kẻ săn bắn thấy thú rừng, nghĩa là cha mẹ thấy con, con thấy
cha mẹ, khỏi sự nóng nảy rượt theo chém nhau trong vòng 7 ngày chết tiêu cả.
Trên mặt đất toàn là máu: Khi qua khỏi 7 ngày có số ít người chạy trốn thoát
trong rừng vắng, hang sâu v.v... cũng ra kiếm gặp nhau, trong cả xứ chỉ còn sót
vài ba người, khi gặp thì ôm hôn và nói lời nhỏ nhẹ với nhau, có tâm thương mến
như anh em ruột.
Sự phát khởi Satthantara
nầy, nếu tính từ khi Phật lịch từ 2504 năm nầy, thì chỉ còn 6.496 năm nữa là
tới rồi (tính bằng lối trải qua một trăm năm, giảm xuống một tuổi, trong tổng
số 9.000 năm từ lúc Phật ra đời).
Nói về các người còn sống sót
lại, khi được gặp nhau thì nhóm bàn với nhau như vầy: Nhân loại sở dĩ tiêu hoại
toàn cả thế giới như vầy chỉ bởi sự hành động ác pháp. Vậy thì chúng mình nên
thực hành thiện pháp.
Giờ đây hành động bằng cách nào?
Chúng ta nguyện quyết tâm lánh
xa sự sát sanh, bởi vì tất cả chúng sanh trong thế gian, toàn là muốn sống đều
nhau cả, nếu ta giết kẻ khác, thì chúng ta ắt phải bị chết như họ chẳng sai.
Khi đã bàn tính như thế rồi thì
cùng nhau cử hại sát hại sanh vật. Điều thiện nghiệp thứ nhứt được tái phát
trong thế gian kể từ khi ấy (chỗ khác nói, khi tất cả chúng sanh đã gìn giữ một
điều thiện nghiệp rồi, có một đám mưa rất lớn, cuôn lôi tất cả tử thi xuống
sông, biển, và có hoa quí rơi xuống rất nhiều.).
Do đó con cháu của những người
10 tuổi, sẽ được tiến hóa lên đến 20 tuổi mới chết.
Sau một thời gian lâu xa, số
người ấy bàn nghĩ với nhau rằng: chúng mình sở dĩ được tăng tuổi thọ lên đây là
nhờ thực hành thiện pháp thế cho nên chúng ta hãy cố gắng thực hành thiện pháp
cho nhiều thêm lên nữa.
Tất cả nhơn loại cùng nhau hành
trì thiện nghiệp tuần tự cho đến tròn đủ cả 10 điều, khiến cho tuổi thọ cứ tăng
tiến lên mãi, cho đến khi con người có tuổi thọ đến 8 vạn năm (Naya khác
nói rằng: Tuổi thọ tăng lên đến một A-tăng-kỳ, rồi mới giảm trở xuống).
Nhân loại 8 vạn tuổi thì các
nàng thanh nữ phải năm trăm tuổi mới vừa có chồng.
Bịnh tật của nhân loại trong
thời kỳ ấy chỉ có 3 thứ là:
1) Muốn trong vật thực.
2) Ăn vật thực không được.
3) Sự tiều tụy thân thể.
Trong khi nhân loại có 8 vạn
tuổi, cõi Diêm-Phù nầy là nơi phong phú to lớn, có thủ đô, xứ sở kế kế nhau,
chừng một khỏang con gà bay rơi xuống, đầy cả người kiếm không thấy chỗ trống,
tạm ví như chúng sanh trong địa ngục vô-gián, không thì như rừng cây sậy, hoặc
như rừng cây dừng núi.
Xứ Bārānasī hằng ngày đây
lúc ấy cũng dùng tên là hoàng thành Ketumatī.
Trong cõi Diêm-Phù nầy có 8 muôn
ngàn quốc-độ, nhất là quốc-độ Ketumanī, có một vị Đại-vương danh hiệu Sankha,
sanh làm vua chuyển-luân-vương trong cõi ấy, làm lớn trên quả địa cầu, có bốn
biển là ranh giới, ngài có quốc dân vĩnh-cữu, đầy đủ bảy báu.
Đến thời gian trãi qua rất lâu,
Đức Phật-Thế-Tôn hiệu Metreyya (Di-Lặc) sẽ ra đời, ngài sanh vào làm con
trong dòng Bà-la-môn to lớn nhất trong xứ Ketumatī ấy, mẹ ngài tên Brahma
Vāti, cha tên Subrahmā.
Thời ấy nhân loại trong thế gian
đầy đủ sự an lạc, đầy đủ về mọi mặt, dường như chư-thiên ở trong các cõi trời.
Đức Phật Mettreyya tuổi
thọ tám vạn năm mới nhập Níp-Bàn, xong một ít lâu nữa, cõi đất (Bhadda kappa)
chúng ta ở nầy sẽ tới tuổi bị lửa cháy làm cho tiêu hoại hết.
Bởi cớ ấy xin các hàng Phật tử
hãy cố gắng thực hành thiện pháp cho đều nhau cả thảy đi, xin chớ bỏ qua.
Dứt Kappa Kathā vắn-tắt.