Giới thiệu & Giảng giải kinh điển
Kinh Di Giáo lược giải
Thích Viên Giác
10/07/2554 14:09 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

-Phần 4-

Ð. Những Lời Khích Lệ và Giáo Huấn Cuối Cùng

Phần này chia làm 3 tiết: tiết 1 lời khích lệ tổng quát, tiết 2 minh định giáo lý căn bản, tiêt 3 những lời giáo huấn cuối cùng.

I. Khích Lệ Tổng Quát.

Từ "các thầy tỳ kheo, đối với mọi thứ công đức...không phải lỗi của người dẫn đường": Kinh văn dạy: "Các thầy tỳ kheo đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù". Mọi thứ công đức là tất cả những công hạnh được đề cập từ đầøu kinh cho đến cuối kinh, tất cả những công hạnh đó đều gom vào trong tam vô lậu học: Giới, Ðịnh và Tuệ. Những gì đức Phật dạy, ngài khuyến khích hãy nỗ lực hành trì đừng để thời gian trống rỗng và đừng để cho tâm phóng túng có cơ hội khởi lên, lấy chánh pháp làm chỗ nương tựa, tâm lý được bảo bọc bởi chánh pháp sẽ được an ổn và thanh tịnh. Những lời nhắc nhở cuối cùng của Ðức Phật không nhằm để tôn vinh vai trò đạo sư, cũng không xuất phát từ động cơ phát triển tôn giáo hay chủ thuyết của mình, mà chỉ vì lòng đại bi thương yêu chúng sinh, thương yêu đệ tử muốn cho họ được sớm thành tựu giải thoát. Mặt khác lời nhắc nhở không phải là lời răn dạy của một vị thầy khó tính,muốn tạo một áp lực tâm lý để gây ấn tượng cho tương lai, Ðức Phật như người cha thương con, trước bước đường chia ly mong con hiểu và đi đúng con đường mà cha đã đi, vì lợi ích chính người con. Kinh văn dạy: "thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh, các con chỉ có nỗ lực thực hành".

Thực hành bằng cách nào? Và bắt đầu từ đâu? Ðức Phật dạy: "Hoặc trong núi rừng, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng để quên mất". Lời dạy này của Ðức Phật tương ứng với lời dạy trong kinh tạng Pàli và Ahàm: "lựa một chỗ thanh vắng tịch mịch như núi rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy ngồi kiết già lưng thẳng, an trú niệm trước mặt" (Tượng Tích Tiểu Dụ kinh, TBK). Vấn đề lựa chọn nơi chốn tu tập, một vài vấn đề cần đặt ra:

1. Nếu một người mới vào đạo, chưa thuần thục trong giáo pháp, chua thọ giới và chưa hành trì giới luật một cách đầy đủ thuần thục , như vậy đức hạnh chưa thành tựu, mà vội vàng tìm kiếm nơi vắng vẻ để tu niệm là một điều sai lầm nguy hiểm, vì lẽ tu tập thiền quán phải dựa trên cơ sở thành tựu giới học.

2. Chọn nơi thanh vắng, tránh các ngoại duyên để chuyên tâm thiền quán là hợp lý. Người xuất gia sống ở thành phố, hoặc ở gần nơi ồn ào náo nhiệt, sống với công việc, tranh đấu, rất khó tu tập. Tuy nhiên nếu biết sắp xếp công việc, tìm nơi yên tĩnh như một căn phòng nhỏ ở trên lầu chẳng hạn, vẫn có thể tu tập tốt mà không cần phải tìm chốn hoang vu.

Phương pháp tu tập là "nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận". Nghĩa là có chánh niệm, thường quán chiếu các đối tượng thân thể, cảm giác, tâm tư và giáo pháp; hoặc quán sát tu tập 37 phẩm trợ đạo...điều quan trọng là đừng để quên mất", tức là tu không gián đọan, thường niệm chánh pháp. Có chánh pháp, nhớ chánh pháp và hành trì chánh pháp thì cuộc đời sẽ không trôi qua một cách vô ích, khỏi hối tiếc về sau.

Ðức Phật như vị lương y, giáo pháp như thuốc chữa bệnh, có lương y có thuốc, mà bệnh nhân không uống thì bệnh vẫn không lành, lỗi không phải do thầy thuốc mà do chính người bệnh, vì vậy Ðức Phật dạy: "Như Lai như vị lương y biết bệnh và chỉ thuốc, còn uống hay không không phải là lỗi của lương y". Trong các kinh cũng thường gọi Ðức Phật là đại y vương. Thí dụ Ðức Phật như vị lương y rất thân thiết với đời sống con người vốn nhiều bệnh tật. Thí dụ Ðức Phật như người dẫn đường cũng rất chính xác, kinh văn Phật dạy tiếp: "Lại như người dẫn đưòng rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi thì không phải lỗi của người dẫn đường". Lời giáo huấn rất thiết tha và nhân bản, con người là chủ nhân của chính mình, có thể tạo cho mình đời sống hạnh phúc hay khổ đau. Ðức Phật không phải là một vị thần linh hay thượng đế có quyền năng ban phúc hay giáng họa, hay ban cho mình sự giác ngộ. Tương tự Ðức Phật đã dạy trong Trung Bộ kinh khi Bà la môn Ganaka Moggallana hỏi: "Do nhân duyên gì mà trong khi có sẵn Niết bàn, có bậc đạo sư dẫn dắt mà có người chứng quả có người không chứng qủa ? ". Ðức Phật lấy ví dụ thành Vương Xá, có con đường đi đến thành, có người chỉ đường rành rẽ. Vậy mà có người đi lầm lạc, có người đi đến đích. Niết bàn cũng vậy, Như Lai chỉ là người chỉ đường đi đến Niết bàn (K.Ganaka Moggallana, TBK I)

Lời khích lệ của Ðức Phật đối với đệ tử rất thiết tha rõ ràng và hợp lý. Giáo pháp đã được dạy cần phải hành trì, đời sống ngắn ngủi đừng để trôi qua một cách vô ích. Phải tự mình nỗ lực tiến lên đừng ỷ lại vào ai, ngay cả chính Ðức Phật, vì Ðức Phật chỉ là người chỉ đường.

II. Minh Ðịnh Giáo Lý Căn Bản

Từ "Các thầy tỳ kheo đối với 4 chân lý...không còn hoài nghi gì nữa": Kinh văn Phật dạy: "Các thầy tỳ kheo đối với 4 chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp". Vấn đề nêu ra là Tứ diệu đế, trong kinh Du Hành (Trường Ahàm) cũng có đoạn tương tự: "này các tỳ kheo, các ông đối với Phật, Pháp, chúng Tăng và chánh đạo có gì nghi ngờ nữa không? Ai nghi thì mau hỏi đi cho kịp thời, để sau này khỏi ăn năn, giờ đây ta vẫn còn mà giải quyết cho".

Giáo lý tứ diệu đế được Ðức Phật coi là căn bản nhất, cốt lõi nhất trong toàn bộ giáo lý đã dạy, vì vậy ngài chú trọng đến một cách đặc biệt. Giáo lý tứ đế này bao trùm hệ thống giáo lý Phật giáo, đúng như lời nhận xét của ngài Xá Lợi Phất: "Chư hiền giả, ví như tất cả đấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này là lớn nhất trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứù Thánh Ðế" (Tượng Tích Ðại Dụ kinh). Vì tứ diệu đế là căn bản nên sự hiểu biết về tứ diệu đế rất quan trọng, liên quan đến pháp môn tu tập và tiến trình giải thoát. Vì vậy Ðức Phật lặp lại, nhấn mạnh để xác định tầm quan trọng của giáo lý tứ đế, mặt khác giải quyết mhững gì còn hoài nghi, chưa rõ, tạo một niểm tin vững chắc đối với 4 chân lý này. Thượng tọa Chơn Thiện trong "Phật học khái luận" cũng nhấn mạnh: "Người học phật phải ý thức sâu xa rằng Tứ Thánh Ðế chẳng những chỉ là giáo lý nền tảng mà là nền tảng nhất của các giáo lý nền tảng về mặt tôn chỉ" (PHKL T.206)

Ðức Phật hỏi 3 lần, không ai còn hoài nghi gì nữa, ngài A Nậu Lâu Ðà xác định 4 chân lý sự thật là chân lý, không thể khác được, với những ví dụ sinh động: "Mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng 4 chân lý mà đức Thế Tôn đã dạy thì không thể làm cho khác đi được". Ðiều đó nói lên sự hoàn hảo về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn của 4 chân lý.

Tác dụng và hiệu quả của 4 chân lý đã đem lại niềm tin cho các đệ tử, vì vậy không có gì phải hoài nghi về 4 chân lý ấy. Suốt trong 45 năm hoằng pháp độ sinh giáo lý ấy đã được cọ xát, thử thách ở nhiều góc độ khác nhau. Chân lý bao giờ cũng là chân lý.

III. Những Lời Giáo Huấn Cuối Cùng.

Từ "Chư tăng lúc bấy giờ... những lời giáo huấn tối hậu của Như Lai": Những lời giáo huấn cuối cùng của phần này chia làm 3 phần:

1) Ðối với những đệ tử hữu học, khi thấy đức Thế Tôn sắp diệt độ thì xúc động, than thở bi cảm, đức Thế Tôn an ủi rằng:

a- Sự có mặt của Ðức Phật ở cõi đời này nếu kéo dài thêm nữa cũng phải đến lúc ra đi: "nếu Như Lai còn ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa thì sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã".

b- Những gì cần làm thì đức Như Lai đã làm xong, sứ mệnh độ sinh đã hoàn tất, sống thêm ở đời cũng không lợi ích gì nữa: "Chánh pháp tự lợi, lợi tha đã có đầy đủ. Như Lai sống cho lâu cũng không còn lợi ích gì nữa".

c- Các đệ tử hãy nỗ lực tu tập, hành trì dù Ðức Phật của thân xác không còn nhưng Ðức Phật pháp thân thì vẫn thường trú bất diệt: "Từ nay về sau đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trú bất diệt".

2) Ðức Phật giáo huấn về sự vô thường của thế giới và con người: "Các thầy tỳ kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường , có kết hợp thì có tan rã". Giáo huấn về sự vô thường của cuộc đời để khích lệ tinh thần thoát ly, đừng bám víu vào cuộc đời. Nhìn sự vô thường của cuộc đời, có hai thái độ xảy ra, một là vì cuộc đời là vô thường nên tận dụng cơ hội để tu tập không để cho thời gian trôi qua một cách trống rỗng. Hai là vì cuộc đời là vô thường nên vội vã hưởng thụ, sống buông thả không có trách nhiệm gì, thái độ thứ hai này là của hạng phàm phu không biết thánh đạo, không xu hướng thánh đạo. Ðức Phật dạy cho hạng người thứ nhất: "Cuộc đời (vô thường) như thế, nên các thầy phải nỗ lực tinh tấn để sớm cầu tự độ đem ánh sáng trí tuệ để diệt trừ hắc ám vô minh".

Về sự vô thường của thân thể, đức Phật dạy: "Như Lai diệt độ thì cũng như trừ được cơn bệnh khủng khiếp. Ðây là một vật tội ác và đáng bỏ, giả hiện là thân thể mà lại chìm ngập trong biển già, bệnh, sống chết" thân thể là vô thường, nếu không tu tập thì chính nó sinh nhiều tội lỗi, đối với bậc đã đắc đạo , thân thể vẫn là một gánh nặng sau cùng, vì sinh lý vật lý vẫn có những quy luật của nó.

3) Ðức Phật nhấn mạnh một lần nữa và đây là lời dạy sau cùng về bản chất của vũ trụ nhân sinh:"Hãy thường nhất tâm, nỗ lực ân cầu giải thoát. Toàn thể vũ trụ dầu pháp biến động hay không biến động đều là trạng thái bất an và tan rã". Ngài tuyên bố đây là giáo huấn tối hậu của Như Lai. Biến động và không biến động là tất cả trạng thái động và tĩnh của thế gian, cũng có nghĩa tất cả pháp hữu vi. Lời dạy cuối cùng này cũng phù hợp với lời dạy cuối cùng trong kinh trường Ahàm: "Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của Ðức Như Lai "(kinh du hành).

Lời cuối cùng thoát lên một ánh chớp trí tuệ, khái quát bản chất đích thực của đời sống, cũng như ánh chớp loé lên của lưỡi kiếm trí tuệ chặt đứt mọi chấp thủ, mọi bám víu, mọi ảo tưởng về cuộc đời ./.


Phụ Lục

(Phần Dịch Nghĩa)

Kinh Giáo Huấn Vắn Tắt Của Phật Lúc Sắp Niết Bàn
(cũng gọi là Kinh Giáo Huấn Ðể Lại Của Phật)

-oOo-

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên hoá độ tôn giả Kiều Trần Như, thuyết pháp lần cuối cùng hoá độ tôn giả Tu Bạt Ðà La. Những người có thể hoá độ, Ngài đã hoá độ tất cả. Hôm nay, trong rừng Sa la, giữa cây song thọ, Ngài sắp Niết Bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đã vì các đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp.

Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như Lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới vậy.

Giữ tịnh giới thì các thầy không được buôn, bán, đổi chác, sắm sửa đất nhà, nuôi người, tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh tài bảo. Tất cả việc này, hãy tránh như tránh hố lửa. Kể cả việc chặt phá cỏ cây và đào cuốc đất đai. Những việc chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch số, đều không thích hợp với các thầy. Các thầy hãy tiết chế cơ thể, ăn đúng thì giờ, sống bằng cách sống trong sạch, không được tham dự thế sự, lãnh sứ mạng liên lạc. Chú thuật, thuốc tiên, giao hảo huyền quí, và thân thiết với họ, rồi hèn hạ, ngạo mạn, tất cả đều không được làm. Phaỉ tự đoan tâm, chánh niệm cầu độ. Không được che dấu lầm lỗi, tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng. Ðối với bốn sự hiến cúng thì phải biết tự lượng và biết vừa đủ. Hễ được hiến cúng thì không nên tích trữ.

Ðó là Như Lai nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới thì chánh thuận với căn bản của sự giải thoát, nên Như Lai mệnh danh Ba la đề mộc xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực huỷ diệt thống khổ.

Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sanh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức.

Các thầy Tỷ kheo, đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác quan, không cho phóng túng vào năm thứ dục lạc.Như kẻ chăn trâu, cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa má của người. Phóng túng năm thứ giác quan, thì không những chỉ có năm thứ dục lạc, mà có thể sẽ không còn giới hạn nào nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa hung hãn mà không được chế ngự bằng giây cương, thì sẽ mang người lao xuống hầm hố. Giặc cướp làm hại, khổ chỉ một đời, còn giặc giác quan họa đến nhiều kiếp tai hại rất nặng, các thầy không thể không cẩn thận. Thế nên người có trí thì chế ngự mà không theo, giữ như giữ giặc, không cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, thì cũng không bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả.

Các thầy Tỷ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các thầy lại phải thận trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế không khác gì voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, thì sẽ hung hăng nhảy vọt, khó mà ngăn cản ; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng túng tâm ra thì làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên,các thầy Tỷ kheo, hãy nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình.

Các thầy Tỷ kheo, thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ thể cho khởi đói khát. Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị mà không tổn thương hương sắc, người xuất gia cũng vậy. Thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Hãy bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng sức lực con trâu của mình chịu đựng nhiều ít, không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực.

Các thầy Tỷ kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Ðừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi. Hãy nhớ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để sớm cầu tự độ, đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường rình giết ta, dữ hơn kẻ thù, tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong tâm, cũng như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Không ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết hổ thẹn. Sự hổ thẹn là phục sức đẹp nhất trong mọi thứ phục sức. Như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên các thầy Tỷ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm thời mà thôi, được phép quên mất đức tinh ấy. Mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hổ thẹn thì không khác gì câm thú.

Các thầy Tỷ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kiềm chế tâm mình, đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Ðức tính của Nhẫn, giữ giới và khổ hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức Nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Tại sao, vì giận dữ thì phá hủy hết thảy thiện pháp và danh tiếng đáng quí, hiện tại vị lai không ai muốn nhìn. Sự giận dữ hơn cả ngọn lửa ác liệt, vì thế mà các thầy phải đề phòng một cách thường trực, đừng cho xâm nhập tâm trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ. Thế gian hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo, không có phương pháp để khống chế, thế nên giận dữ thì còn thể tha thứ được. Còn người xuất gia hành đạo là kẻ loại bỏ dục vọng, vậy mà giận dữ thì thật là bất đáng ; không khác gì giữa bầu trời mây trong mà sấm sét loé lửa là điều không thích hợp.

Các thầy Tỷ kheo, hãy tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp, mình mặt áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực để sống ; tự thấy như vậy mà kêu ngạo còn nổi lên, thì phải cấp tốc tỏa chiết. Tăng thêm kêu ngạo là điều mà thế nhân còn không nên có, huống chi người xuất gia nhập đạo là kẻ vì giải thoát, tự giáng mình xuống mà đi khất thực?

Các thầy Tỷ kheo, tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các thầy phải chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập đạo thì không thể như vậy. Vì thề các thầy cần phải ngay thẳng tâm mình, lấy đức tính chất trực làm căn bản.

Các thầy Tỷ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu lợi nên khổ não cũng nhiều. Còn ít ham muốn thì không cầu hồ, không dục vọng, nên không có cái hoạ đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng đã thực tập, huống chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức. Người ít ham muốn thì không dua nịnh quanh co để cầu được lòng người, cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thừa thãi, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có Niết Bàn. Ðó là hạnh ít ham muốn.

Các thầy Tỷ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ, là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đàng cũng vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ thì luôn luôn bị năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót thương. Ðó là hạnh biết vừa đủ.

Các thầy Tỷ kheo, muốn cầu yên tĩnh, vô vi và an lạc, thì các thầy hãy thoát ly mọi sự ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái. Người ở yên tĩnh thì chúa trời Ðế thích và chư thiên đều tôn kính. Vì thế mà các thầy hãy thoát ly đồ chúng của mình, và đồ chúng của người, ở đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng "tư duy tu" mà cắt đứt gốc rễ đau khổ. Nếu thích đồ chúng thì sẽ bị đồ chúng quấy phá, như cây đại thọ mà cả bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị cái hoạ khô gãy. Thế gian ràng buộc mà chìm ngập thống khổ, thì cũng không khác gì voi già mà sa xuống bùn lầy, hết mong thoát khỏi. Ðó là hạnh siêu thoát.

Các thầy Tỷ kheo, nỗ lực tinh tiến thì không có việc gì khó khăn. Thế nên cấc thầy phải thực hành sự nỗ lực tinh tiến. Nước nhỏ mà chảy mãi thì có thể xuyên thủng cả đá. Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ, thì cũng như kéo lửa chưa nóng mà đã ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng khó mà có được. Ðó là hạnh tinh tiến.

Các thầy Tỷ kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện hỗ trợ, đều không bằng không quên chánh niệm. Không quên chánh niệm thì giặc phiền não hết cách xâm nhập tâm trí. Thế nên các thầy hãy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất chánh niệm thì mất công đức. Nếu chánh niệm có sức lực vững mạnh thì dầu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại, tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặt áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hải gì nữa. Ðó là hạnh không quên chánh niệm.

Các thầy Tỷ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì phải đắp đê sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Ðó là hạnh thiền định.

Các thầy Tỷ kheo, có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như Lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Không như thế thì đã không phải xuất gia, lại không phải thế tục, không còn biết còn gọi là gì. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sinh lão bệnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bệnh tật, là búa sắc chặt cây phiền não. Vì thế mà các thầy hãy dùng cái tuệ văn tư tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí tuệ soi chiếu, thì dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy rõ nhất. Ðó là hạnh trí tuệ.

Các thầy Tỷ kheo, nếu hý luận đủ thứ thì tâm rối loạn. Như vậy, tuy đã xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy từ bỏ tức khắc sự hý luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái hoạ hý luận. Ðó là hạnh không hý luận.

Các thầy Tỷ kheo, đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành. Hoặc trong rừng núi, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái, trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng để quên mất. Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình sẽ chết đi một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận. Như Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn đường.

Các thầy Tỷ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp. Thế tôn nói lên ba lần như vậy, nhưng không ai chất vấn. Vì lẻ chư Tăng không có ai còn hoài nghi gì nữa. Bấy giờ đức tôn giả A Nâu Lâu Ðà quán sát tâm trí chư Tăng, rồi thưa với Ngài, bạch đức Thế Tôn, mặt trăng có thể làm cho nó nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà đức Thế Tôn đã dạy thì không thể cho khác đi được. Ngài dạy khổ thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên ; tập là nguyên nhân của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa ; diệt là khổ diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt thì kết quả cũng diệt ; đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác hơn. Bạch đức Thế tôn, đối với bốn chân lý, các vị Tỷ kheo đây đã quyết định, không còn hoài nghi gì nữa.

Chư Tăng lúc ấy, những người tu học chưa hoàn tất, thì thấy Phật diệt độ hãy còn bi cảm. Những người mới vào chánh pháp, nghe Phật liền được hoá độ, như trong đêm tối mà mà điện chớp sáng là thấy ngay đường đi. Còn những người tu tập đã hoàn tất, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ rằng, Thế Tôn diệt độ sao mà mau chóng như vậy.

Do đó tôn giả A Nâu Lâu Ðà tuy đã bạch Phật, rằng chư Tăng ai cũng thấu triệt bốn chân lý, nhưng đức Thế Tôn muốn làm cho tất cả đều được kiên định, nên vẫn đem tâm đại bi mà huấn dụ thêm nữa. Các thầy Tỷ kheo, không nên buồn rầu. Nếu Như Lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa, thì sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã. Kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ.Như Lai sống cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Ai có khả năng tiếp nhận hoá độ, thì ở trên chư thiên hay ở trong nhân loại, Như Lai đã hoá độ tất cả. Ai chưa thể tiếp nhận hoá độ, thì Như Lai cũng đã tạo yếu tố hoá độ cho họ. Từ nay về sau, đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trú bất diệt.

Thế nên, các thầy Tỷ kheo, phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả. Ngược lại, cuộc đời như thế thì các thầy phải nỗ lực tinh tiến để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi bền bỉ. Như Lai được diệt độ thì cũng như trừ được cơn bệnh khủng khiếp. Ðây là vật tội ác và đáng bỏ, giả hiệu là thân thể mà lại chìm ngập trong biển cả già bệnh sống chết, như thế người có trí tuệ ai lại không hoan hỷ khi trừ bỏ được thân này như trừ bỏ kẻ thù?

Các thầy Tỷ kheo, hãy thường nhất tâm, nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát. Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động, đều là trạng thái bất an và tan rã. Thôi, các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa. Thì giờ sắp hết, Như Lai muốn diệt độ. Trên đây là những lời giáo huấn tối hậu của Như Lai.


NHỮNG LỜI DẠY THẮM THIẾT CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
(Kinh Di Giáo)

Thích Nữ Trí-Nguyệt dịch từ Hán văn

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lần đầu tiên giảng pháp cho nhóm năm tu sĩ đồng tu với Kiều Trần Như, lần cuối cùng Ngài giảng pháp cho Tu Bạt Đà La. Tóm lại, những người đáng được độ Ngài đã độ tất cả. Một bữa nọ, trong rừng caTa La, vào lúc giữa đêm không một tiếng động, trước giờ phút vào Niết bàn rốt ráo, đức Phật vì đại chúng tỳ kheo tóm tắt những pháp và luật quan trọng mà Ngài đã thuyết giảng trong suốt 45 năm.

Này các tỳ kheo! Sau khi Như Lai diệt độ, quý thầy nên quý trọng giới luật như người đi đêm quý trọng ngọn đuốc sáng và như người nghèo gặp được một tài sản lớn. Các vị nên biết rằng giới luật đó là bậc thầy sáng suốt của quý vị, cho dù Như Lai có còn sống nữa cũng không khác gì giới luật đó. Quý trọng giới luật là:

  • Không nên kinh doanh thương mãi, mua ruộng cất nhà, thuê mướn tôi tớ, chăn nuôi súc vật, trao đổi hàng hóa, tích lũy của báu.
  • Không nên đốn chặt cây cỏ, đào xới đất đai, điều chế thuốc thang, coi tướng đoán mộng, cúng sao giải hạn, nghiên cứu tinh tượng, tìm tòi hưng suy, coi ngày bói quẻ.
  • Không được tham gia việc đời, gián điệp thông tin, luyện bùa chế thuốc, kết thân nhà giàu, gần kẻ hung tàn.
  • Không được che dấu lỗi lầm, bày trò lường gạt, chứa đồ quốc cấm.
  • Phải xa lìa những pháp ấy như tránh hầm lửa lớn.
  • Phải biết giữ gìn thân tâm, ăn uống đúng lúc, sống đời trong sạch, cuộc sống tri túc.
  • Phải tự kiềm chế dục vọng để mong cầu giải thoát.

Này các tỳ kheo! Đây là tóm lược những giới luật cần thiết, vì đó là cửa ngỏ chính để giải thoát, cho nên giữ gìn giới này có thể sanh các thứ thiền định và trí tuệ diệt khổ. Các thầy nên quyết tâm vâng giữ giới luật này, đừng nên yếu kém mà vi phạm. Vị nào có nghị lực giữ gìn giới luật này trọn vẹn thì vị ấy có vô lượng pháp lành an lạc. Vị nào quá yếu kém để vi phạm vào giới luật đó thì vị ấy mất hết mọi pháp lành và trọn đời không được an lạc. Do đó Như Lai gọi giới luật này là phương pháp để giải thoát và là nơi dung chứa mọi công đức an ổn.

Lại nữa, này các tỳ kheo! Nếu các vị đã có thể giữ gìn giới luật này rồi thì các vị nên kiểm soát năm giác quan của mình, chớ buông lung đắm nhiễm vào năm dục lạc. Người nào biết kiểm soát năm giác quan của mình cũng giống như mục đồng kiểm soát trâu của mình, không để ph?m vào lúa mạ của kẻ khác. Nếu ai không đủ nghị lực kiểm soát năm giác quan mình, không những càng ngày càng đắm sâu trong năm dục, mà còn do đó tạo ra rất nhiều tội lỗi nữa. Kẻ đó giống như con ngựa chứng, không có dây cương chế ngự nó, thì nó sẽ hất tung người cỡi xuống hố thẳm. Các vị nên biết giặc giã cướp bóc chỉ gây tai hại một kiếp, còn buông lỏng năm giác quan vào năm thứ dục lạc thì gây tai họa cho nghìn đời. Cho nên quý vị nên cẩn thận với năm giác quan của mình. Người có trí tuệ kiểm soát được năm giác quan của mình, không đam mê năm dục lạc, không cho buông lung, do đó dần dần chế ngự được tâm mình.

Tâm là chủ tể của năm giác quan. Nếu không chế ngự được tâm, thì tâm ấy đáng sợ hơn rắn độc, cọp dữ. Muốn chế ngự tâm thì phải kiểm soát năm giác quan, và ngược lại, muốn kiểm soát năm giác quan thì phải theo dõi tâm. Ví như người bưng bát nước đầy đi đường xa, phải vừa nhìn bát nước vừa để ý con đường trước mặt thì mới có thể an toàn và không mất đi một giọt nước nào. Nếu để tâm mình buông lung, thì chẳng khác gì voi điên không có móc sắc, khỉ vượn gặp được rừng cây, mặc sức đập phá, nhảy nhót. Buông thả tâm này thì mọi công đức lành mất hết. Chế ngự được tâm thì công đức lành nào cũng đạt được, quả vị nào cũng có thể chứng đắc. Vì vậy các thầy nên cố gắng chế ngự tâm mình.

Này các tỳ kheo! Khi thọ dụng thức ăn, các vị nên đặt mình trong tình huống đang mang bệnh và thức ăn là một liều thuốc trị bệnh đói gầy, cho nên các vị không nên phát khởi ý tưởng khen chê ngon hay dở, vì liều thuốc đó đang trị bệnh đói khát. Như ong lấy mật hoa, chỉ hút mật hoa mà không tổn hại đến hương và sắc của hoa. Cũng vậy, khi các thầy thọ dụng đồ cúng dường không nên có nhu cầu quá nhiều, vì làm như thế gây thương tổn lòng thành tín của tín đồ. Như người có trí tự biết lường được sức trọng tải của xe mà chất đồ để khỏi xe hư giữa đường.

Này các tỳ kheo! Ngày đêm phải cố gắng chuyên tâm tu tập, không nên để thời gian luống qua một cách vô ích. Đầu hôm và gần sáng phải tụng kinh thiền quán, giữa đêm cũng nên duy trì chánh niệm để tự đoạn trừ tội lỗi, không nên vì ham mê ngủ nghỉ mà để một đời trôi qua không được một chút ích lợi gì. Các vị nên luôn tâm niệm rằng mọi sự sống và con người đang bị cái hiện tượng già suy, cái tàn phai héo úa đe dọa và bào mòn từng giây từng phút không ngừng, cho nên các vị phải mau chóng tự tìm cho mình một phương pháp tu tập để giải thoát, không nên lãng quên tai họa trước mắt mà chìm sâu trong ngủ nghỉ. Làm sao các vị có thể yên tâm ngủ nghỉ được khi xung quanh mình toàn là những oán thù, giặc giã, oan gia, lửa dữ của phiền não nghiệp chướng? Tâm các vị chưa được chế ngự mà ham mê ngủ nghỉ thì chẳng khác nào ôm chất nổ đi vào lửa. Phiền não còn trong tâm các vị giống như rắn độc đang ở trong nhà, phải dùng giới luật để đoạn trừ phiền não như dùng gậy đuổi rắn độc ra, lúc ấy mới thật an ổn mà ngủ nghỉ, nếu không dứt phiền não mà đắm chìm trong ngủ nghỉ thì là người không biết hổ thẹn. Hổ thẹn có thể ngăn ngừa các pháp ác, cho nên các vị nên luôn biết hổ thẹn, không được tạm bỏ. Tỳ kheo biết hổ thẹn giống như phụ nữ có trang điểm và đeo nữ trang. Nếu ai xa lìa hổ thẹn thì người đó mất hết mọi công đức. Người biết hổ thẹn thì có các pháp lành. Ai sống không biết hổ thẹn thì chẳng khác gì cầm thú hoang dã.

Này các tỳ kheo! Công đức của Nhẫn nhục, Trì giới và Khổ hạnh không gì có thể sánh kịp. Giả sử có kẻ bất lương đánh đập, đâm chém các vị, các vị nên bình tĩnh nhu hòa, không những không nên khởi lên sân hận, mà còn phải chế ngự lời nói, không thốt ra những lời xấu xa ác độc với họ. Nếu không chế ngự tâm và lời nói thì tự mình ngăn lấp tánh sáng suốt và do đó đốt cháy mọi công đức. Vị nào tu hạnh nhẫn nhục thì vị đó đáng gọi là bậc thiện nam tử có hùng lực và bi lực trong giáo pháp của Như Lai. Nếu ai không thể chịu đựng những sự oan ức cay đắng và lời mắng chưởi ác độc một cách vui vẻ thì chẳng gọi là tỳ kheo/tỳ kheo ni có trí tuệ. Vì khi khởi lên giận dữ thì mọi công đức lành và tiếng tốt bị lửa sân hận đốt cháy hết, không những đời này mà còn nhiều đời sau nữa. Các vị phải nên đề phòng, đừng để giận dữ len lỏi vào tâm. Mọi công đức quý báu tu tập bị mất hết cũng do tên giặc cướp giận dữ gây ra. Người cư sĩ tại gia không biết ngăn ngừa giận dữ còn có thể tha thứ; người xuất gia học đạo mà còn ôm lòng sầu hận thì không thể chấp nhận trong pháp và luật của Như Lai.

Này các tỳ kheo! Các vị tự vò đầu mình rồi thì sẽ biết. Các vị đã bỏ những đồ trang sức tốt đẹp, mặc ba tấm y cũ rách, mang bình bát khất thực tự sống mà còn khởi tâm kiêu mạn khinh người thì cũng không thể chấp nhận, nếu có hãy mau trừ diệt. Người thế tục còn không nên có lòng kiêu mạn, huống gì người xuất gia nhập đạo. Vì mong cầu giải thoát, các vị tự hạ mình đi khất thực để sống, thế mà còn kiêu mạn, tự cao được sao?

Này các tỳ kheo! Các vị nên giữ tâm ngay thẳng, vì tâm dua nịnh cùng với đạo lý giải thoát trái nhau. Tâm dua nịnh chỉ là lừa đảo, người nhập đạo không nên dua nịnh. Các vị nên ngay thẳng, dùng chất trực làm gốc.

Này các tỳ kheo! Người đa dục vì cầu lợi nhiều nên khổ não nhiều, người thiểu dục không mong cầu, không ham muốn nên không có khổ não. Hạnh thiểu dục còn phải tu tập huống gì thiểu dục để sanh các pháp lành? Người thiểu dục thì không dua nịnh để vừa ý người, cũng không bị các căn dẫn dắt. Người tu hạnh thiểu dục tâm được thản nhiên, không lo sợ. Người thiểu dục thì có an lạc và có vô lượng công đức.

Này các tỳ kheo! Nếu các vị muốn đoạn trừ khổ não thì phải tri túc, vì tri túc là pháp giàu có, an ổn và vui vẻ. Người có tri túc tuy nằm trên sàn nhà, nền đất cũng thấy thoải mái; người không tri túc dù ở khách sạn năm sao cũng không vừa ý. Người tri túc tuy nghèo mà an lạc sung sướng; người không tri túc tuy giàu mà không an tâm hưởng thụ. Người không tri túc thường bị ham muốn quậy phá suốt đời, thường làm nô lệ cho mơ ước viễn vông, rất đáng thương xót.

Này các tỳ kheo! Các vị muốn cầu quả vị tịch tịnh an lạc thì phải xa lìa chỗ ồn ào náo nhiệt, riêng ở chỗ vắng vẻ. Người ở nơi vắng vẻ được Đế Thích, chư Thiên kính trọng. Cho nên phải chọn nơi rảnh rang an trú một mình để diệt khổ. Nếu thích đông người sẽ bị các sự phiền nhiễu náo loạn. Như cây lớn phải bị nhiều chim chóc làm tổ, tất có ngày bị cái hại khô cây gãy nhánh. Cũng vậy, còn dính líu với thế gian tất bị dìm trong các khổ, cũng như voi yếu sa lầy, không thể tự thoát được.

Này các tỳ kheo! Các vị nên siêng năng tinh tấn, vì siêng năng tinh tấn thì không có phiền não nào không đoạn trừ được, không có quả vị không chứng đắc, giống như dòng nước luôn chảy thì có thể xuyên thủng đá. Ngược lại, nếu tâm của các vị thường biếng nhác, bỏ bê công phu tu tập chẳng khác nào người kéo lửa, vừa nóng lại ngưng, dù muốn có lửa cũng khó mà toại nguyện.

Này các tỳ kheo! Tìm bạn lành, tìm người đồng tu từ bên ngoài để hỗ trợ công phu tu tập không bằng tự mình không quên chánh niệm. Nếu các vị không quên chánh niệm thì phiền não không thể nào sanh khởi. Cho nên các vị nên duy trì chánh niệm tại tâm, nếu mất chánh niệm thì mất tất cả công đức. Một khi các vị duy trì chánh niệm thật vững chắc thì dù có tiếp xúc với năm thứ dục lạc cũng không bị đắm nhiễm, giống như chiến sĩ lâm trận với bộ áo giáp kiên cố thì không bị làn tên mũi đạn làm hại.

Này các tỳ kheo! Một khi đã duy trì được chánh niệm thì tâm an trú trong thiền định, do đó các vị có thể thấy biết rõ sự sanh diệt thay đổi của mọi vật trong thế gian. Cho nên các vị nên siêng năng tu tập thiền định để củng cố tâm mình. Như đắp đê giữ nước, cũng vậy, các vị nên tu bổ đê thiền định để giữ nước trí tuệ.

Này các tỳ kheo! Người có trí tuệ thì không có tham trước, thường tự quán sát không để sanh ra tội lỗi, thì ở trong giáo pháp của Như Lai có thể đạt được giải thoát. Nếu chẳng vậy, đã không thể gọi là bậc đại nhân, lại cũng chẳng phải là bạch y cư sĩ, không biết nên gọi là gì? Người có trí tuệ chân thật ấy là chiếc thuyền tốt có thể vượt qua biển sanh, già, bệnh, chết, cũng là ngọn đèn sáng chiếu phá cảnh tối tăm, mờ ám; là liều thuốc hay trị tất cả các chứng bệnh; là lưỡi búa bén chặt đứt cây nghiệp phiền não. Cho nên các vị nên dùng huệ Văn, Tư và Tu mà tự làm cho thêm phần lợi ích. Nếu người có trí tuệ chiếu soi, dù là với cặp mắt thường, cũng là người thấy được thông suốt.

Này các tỳ kheo! Đối với các công đức thường phải siêng năng tu tập, bỏ các sự buông lung như tránh giặc cướp. Những điều lợi ích từ trước tới nay Như Lai đã nói hết, các vị chỉ nên siêng năng tu tập. Hoặc ở núi cao, đầm vắng, hoặc ở gốc cây hay trong tịnh thất, các vị đều nên nhớ kỹ giới pháp đã thọ chớ để quên mất. Các vị nên thường tự cố gắng tu hành, đừng để luống qua, sau có sự ăn năn. Như Lai giống như bác sĩ biết bệnh cho thuốc. Uống hay không uống chẳng phải lỗi của bác sĩ; cũng giống như người dẫn đường giỏi chỉ con đường tốt, nghe mà không đi chẳng phải lỗi tại kẻ chỉ đường.

Này các tỳ kheo! Đối với giáo lý Tứ Diệu Đế có chỗ nào nghi ngờ nên mau hỏi, không nên ôm mối hoài nghi mà không cầu giải quyết. Đức Thế Tôn nói ba lần như vậy, vẫn không có người nào thưa thỉnh, vì trong đại chúng không có điều gì nghi ngờ nữa. Lúc ấy ngài A Nâu Lâu Đà quán sát tâm niệm của đại chúng và bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, mặt trời có thể trở nên lạnh, mặt trăng có thể trở nên nóng, lời Phật nói về Tứ Diệu Đế không thể nào khác được. Phật nói về Khổ đế thì chắc chắn là Khổ, không thể vui được. Tập đế là nhân, thì không thể có nhân khác được. Nhân diệt thì khổ diệt. Đạo diệt khổ thật là chơn đạo, không có đạo nào khác. Thưa Thế Tôn, các tỳ kheo trong đây đối với Tứ Diệu Đế quyết định không còn điều gì nghi ngờ nữa".

Bấy giờ trong đại chúng, người tu hành chưa trọn, biết Phật sắp vào Niết bàn tối hậu, sanh lòng thương xót, có người mới vào đạo nghe Phật nói tức thời được giải thoát, chẳng khác gì nhà tối ngàn năm gặp ánh sáng, có vị tu hành trọn vẹn, được giải thoát, nhưng lại nghĩ rằng: "Đức Thế Tôn cớ sao vào Niết bàn tối hậu nhanh chóng thế".

Tuy ngài A Nậu Lâu Đà nói rằng trong đại chúng thảy đều thông suốt được ý nghĩa Tứ Diệu Đế, nhưng đức Thế Tôn muốn hết thảy đại chúng đều được lòng tin vững chắc, nên Ngài khởi đại bi tâm vì đại chúng dạy rằng: "Này các tỳ kheo! Chớ ôm lòng sầu não, cho dù Như Lai có sống ở đời bao lâu đi nữa, rốt cuộc cũng phải chia ly. Họp mà không tan là điều không thể có. Những giáo pháp tự lợi, lợi tha ta đã giảng đầy đủ cả, cho nên ta có trụ ở thế gian thêm nữa cũng không lợi ích gì. Những người đầy đủ nhân duyên đáng được độ dù ở cõi người hay cõi trời cũng đã được độ cả, còn những ai chưa đủ nhân duyên được độ thì ta sẽ tạo nhân duyên cho được độ, từ nay về sau các đệ tử của ta tiếp tục sự nghiệp ấy. Thế là pháp thân của Như Lai thường còn, không bao giờ mất.

Thế nên phải biết: Cảnh đời là vô thường, có họp ắt có tan, chớ sanh lòng sầu khổ, tướng thế gian là vậy. Tốt hơn hết các vị nên chuyên cần tu tập để sớm cầu giải thoát, dùng ánh sáng trí tuệ diệt các nghi ám. Cảnh đời hư giả, không gì bền chắc, ta nay nhập diệt như trừ bệnh dữ. Đây là xác thân phải bỏ, vì là nhân duyên hội tụ, giả gọi là thân. Chính những yếu tố này khiến chúng sanh chìm đắm trong biển sanh, già, bệnh, chết. Người nào diệt trừ được nó như giết được bọn giặc cướp, chẳng vui mừng sao?

Này các tỳ kheo! Các thầy thường phải nhất tâm siêng cầu đạo giải thoát. Tất cả sự vật trong thế gian, dù động hay bất động, đều là tướng bại hoại không an. Này các thầy, thôi! Không nên nói nữa. Thời giờ đã đến, ta sắp nhập Niết bàn. Đó là những lời dạy khuyên cuối cùng của ta.

(Source: Phật học Thường thức, http://www.phathocthuongthuc.com )


THE DISCOURSE OF THE TEACHING BEQUEATHED BY THE BUDDHA
(just before His Parinibbana)

Translated into Chinese by the Indian Acarya Kumarajiva sometime prior to the year 956 Buddhist Era [around 344-413 AD].

I. OCCASION

WHEN LORD BUDDHA, Sage of the Sakyas, first turned the Wheel of the Dhamma, Venerable Annakondanna crossed over (the ocean of birth and death); while as a result of his last Discourse Venerable Subhadda crossed over likewise. All those who were (ready) to cross over, them he (helped) to cross over. When about to attain Final Nibbana, he was lying between the twin sala trees in the middle watch of the night. No sound disturbed the calm and silence; then, for the sake of the disciples (savaka), he spoke briefly on the essentials of Dhamma:

II. ON THE CULTIVATION OF VIRTUE IN THIS WORLD

1. Exhortation on keeping the Precepts

O bhikkhus, after my Parinibbana you should reverence and honor the Precepts of the Patimokkha. Treat them as a light which you have discovered in the dark, or as a poor man would treat a treasure found by him. You should know that they are your chief guide and there should be no difference (in your observance of them) from when I yet remained in the world. If you would maintain in purity the Precepts, you should not give yourselves over to buying, selling or barter. You should not covet fields or buildings, nor accumulate servants, attendants or animals. You should flee from all sorts of property and wealth as you would avoid a fire or a pit. You should not cut down grass or trees, neither break new soil nor plough the earth. Nor may you compound medicines, practice divination or sorcery according to the position of the stars, cast horoscopes by the waxing and waning of the moon, nor reckon days of good fortune. All these are things which are improper (for a bhikkhu).

Conduct yourselves in purity, eating only at the proper times and living your lives in purity and solitude. You should not concern yourselves with worldly affairs, nor yet circulate rumors. You should not mumble incantations, mix magic potions, nor bind yourselves in friendship to powerful persons, showing to them and the rich (special) friend-liness while treating with contempt those lacking (in worldly wealth, power and so forth). All such things are not to be done!

You should seek, with a steadfast mind, and with Right Mindfulness (samma sati), for Enlightenment. Neither conceal your faults (within), nor work wonders (without), thereby leading (yourself and) other people astray. As to the four offerings, be content with them, knowing what is sufficient. Receive them when offered but do not hoard them. This, briefly, is what is meant by observing the Precepts. These Precepts are fundamental (to a life based on Dhamma-Vinaya) and accord exactly with freedom (mokkha), and so are called the Patimokkha. By relying on them you may attain all levels of collectedness (samadhi) and likewise the knowledge of the extinction of dukkha (unsatisfactoriness). It is for this reason, bhikkhus, that you should always maintain the Precepts in purity and never break them. If you can keep these Precepts pure you possess an excellent (method for the attainment of Enlightenment), but if you do not do so, no merit of any kind will accrue to you. You ought to know for this reason that the Precepts are the chief dwelling-place of the merit which results in both body and mind (citta) being at rest.

2. Exhortation on the control of Mind and Body.

O bhikkus, if you are able already to keep within the Precepts, you must next control the five senses, not permitting the entry of the five sense desires by your unrestraint, just as a cowherd by taking and showing his stick prevents cows from entering another's field, ripe for the harvest. In an evil-doer indulging the five senses, his five desires will not only exceed all bounds but will become uncontrollable, just as a wild horse unchecked by the bridle must soon drag the man leading it into a pit. If a man be robbed, his sorrow does not extend beyond the period of his life but the evil of that robber (sense-desires) and the depredations caused by him bring calamities extending over many lives, creating very great dukkha. You should control yourselves!

Hence, wise men control themselves and do not indulge their senses but guard them like robbers who must not be allowed freedom from restraint. If you do allow them freedom from restraint, before long you will be destroyed by Mara. The mind is the lord of the five senses and for this reason you should well control the mind. Indeed, you ought to fear indulgence of the mind's (desires) more than poisonous snakes, savage beasts, dangerous robbers or fierce conflagrations. No simile is strong enough to illustrate (this danger). But think of a man carrying a jar of honey who, as he goes, heeds only the honey and is unaware of a deep pit (in his path)! Or think of a mad elephant unrestrained by shackles! Again, consider a monkey who after climbing into a tree, cannot, except with difficulty, be controlled! Such as these would be difficult to check; therefore hasten to control your desires and do not let them go unrestrained! Indulge the mind (with its desires) and you lose the benefit of being born a man; check it completely and there is nothing you will be unable to accomplish. That is the reason, O bhikkhus, why should strive hard to subdue your minds.

3. Exhortation on the moderate use of food.

O bhikkhus, in receiving all sorts of food and drinks, you should regard them as if taking medicine. Whether they be good or bad, do not accept or reject according to your likes and dislikes; just use them to support your bodies, thereby staying hunger and thirst. As bees while foraging among the flowers extract only the nectar, without harming their color and scent, just so, O bhikkhus, should you do (when collecting alms-food). Accept just enough of what people offer to you for the avoidance of distress. But do not ask for much and thereby spoil the goodness of their hearts, just as the wise man, having estimated the strength of his ox, does not wear out its strength by overloading.

4. Exhortation on sleeping.

O bhikkhus, by day you should practice good Dhamma and not allow yourselves to waste time. In the early evening and late at night do not cease to make an effort, while in the middle of the night you should chant the Suttas to make yourselves better informed. Do not allow yourselves to pass your lives vainly and fruitlessly on account of sleep. You should envisage the world as being consumed by a great fire and quickly determine to save yourselves from it. Do not (spend much time in) sleep! The robbers of the three afflictions forever lie in wait to kill men so that (your danger) is even greater than in a household rent by hatred. So, fearful, how can you sleep and not arouse yourselves? These afflictions are a poisonous snake asleep in your own hearts. They are like a black cobra sleeping in your room. Destroy the snake quickly with the sharp spear of keeping to Precepts! Only when that dormant snake has been driven away will you be able to rest peacefully. If you sleep, not having driven it away, you are men without shame (hiri). The clothing of shame (hiri) among all ornaments, is the very best. Shame can also be compared to an iron goad that can control all human wrong-doing; for which reason, O bhikkhus, you should always feel ashamed of unskillful actions (akusalakamma). You should not be without it even for a moment, for if you are parted from shame, all merits will be lost to you. He who has fear of blame (ottappa) has that which is good, while he who has no fear of blame (anottappa) is not different from the birds and beasts.

5. Exhortation on refraining from anger and ill will.

O bhikkhus, if there were one who came and dismembered you joint by joint, you should not hate him but rather include him in your heart (of friendliness -- metta). Besides, you should guard your speech and refrain from reviling him. If you succumb to thoughts of hatred you block your own (progress in) Dhamma and lose the benefits of (accumulated) merits. Patience (khanti) is a virtue which cannot be equaled even by keeping the Precepts and (undertaking) the Austere Practices. Whosoever is able to practice patience can be truly called a great and strong man, but he who is unable to endure abuse as happily as though he were drinking ambrosia, cannot be called one attained to knowledge of Dhamma. Why is this? The harm caused by anger and resentment shatters all your goodness and so (greatly) spoils your good name that neither present nor future generations of men will wish to hear it. You should know that angry thoughts are more terrible than a great fire, so continually guard yourselves against them and do not let them gain entrance. Among the three robbers (the afflictions), none steals merit more than anger and resentment: Those householders dressed in white who have desires and practice little Dhamma, in them, having no way to control themselves, anger may still be excusable; but among those become homeless (pabbajjita) because they wish to practice Dhamma and to abandon desire, the harboring of anger and resentment is scarcely to be expected, just as one does not look for thunder or lightning from a translucent, filmy cloud.

6. Exhortation on refraining from arrogance and contempt.

O bhikkhus, rubbing your heads you should deeply consider yourselves in this way: 'It is good that I have discarded personal adornment. I wear the russet robe of patches and carry a bowl with which to sustain life.' When thoughts of arrogance or contempt arise, you must quickly destroy them by regarding yourselves in this way. The growth of arrogance and contempt is not proper among those wearing white and living the household life: how much less so for you, gone forth to homelessness! You should subdue your bodies, collecting food (in your bowls) for the sake of Dhamma-practice to realize Enlightenment.

7. Exhortation on flattery.

O bhikkhus, a mind inclined to flattery is incompatible with Dhamma, therefore it is right to examine and correct such a mind. You should know that flattery is nothing but deception, so that those who have entered the way of Dhamma-practice have no use for it. For this reason, be certain to examine and correct the errors of the mind, for to do so is fundamental.

III. ON THE ADVANTAGES FOR GREAT MEN GONE FORTH TO HOMELESSNESS.

1. The virtue of few wishes.

O bhikkhus, you should know that those having many desires, by reason of their desire for selfish profit, experience much dukkha. Those with few desires, neither desiring nor seeking anything, do not therefore experience such dukkha. Straight-away lessen your desires! Further, in order to obtain all kinds of merit you should practice the fewness of desires. Those who desire little do not indulge in flattery so as to away another's mind, nor are they led by their desires. Those who practice the diminishing of desires thus achieve a mind of contentment having no cause for either grief or fear and, finding the things they receive are sufficient, never suffer from want. From this cause indeed, (comes) Nibbana. Such is the meaning of 'having few wishes.'

2. The virtue of contentment.

O bhikkhus, if you wish to escape from all kinds of dukkha, you must see that you are contented. The virtue of contentment is the basis of abundance, happiness, peace and seclusion. Those who are contented are happy even though they have to sleep on the ground. Those who are not contented would not be so though they lived in celestial mansions. Such people feel poor even though they are rich, while those who are contented are rich even in poverty. The former are constantly led by their five desires and are greatly pitied by the contented Such is the meaning of 'contentment'.

3. The virtue of seclusion.

O bhikkhus, seek the joy of quietness and passivity. Avoid confusion and noise and dwell alone in secluded places. Those who dwell in solitude are worshipped with reverence by Sakka and all celestials. This is why you should leave your own and other clans to live alone in quiet places, reflecting (to devdop insight) upon dukkha, its arising and its cessation. Those who rejoice in the pleasures of company must bear as well the pains of company, as when many birds flock to a great tree it may wither and collapse. Attachment to worldly things immerses one in the dukkha experienced by all men, like an old elephant bogged down in a swamp from which he cannot extricate himself. Such is the meaning of 'secluding oneself.'

4. The virtue of energetic striving.

O bhikkhus, if you strive diligently, nothing will be difficult for you. As a little water constantly trickling can bore a hole through a rock, so must you always strive energetically. If the mind of a disciple (savaka) becomes idle and inattentive, he will resemble one who tries to make fire by friction but rests before the heat is sufficient. However much he desires fire, he cannot (make even a spark). Such is the meaning of 'energetic striving'.

5. The virtue of attentiveness.

O bhikkhus, seek for a Noble Friend (kalyanamitta). Seek him who will best (be able to) aid you (in developing) the unexcelled and unbroken attention. If you are attentive, none of the (three) robbers, the afflictions, can enter your mind. That is why you must keep your mind in a state of constant attention, for by loss of attention you lose all merits. If your power of attention is very great, though you fall among (conditions favoring) the five robbers of sense-desire, you will not be harmed by them, just as a warrior entering a battle well covered by armor has nothing to fear. Such is the meaning of 'unbroken attention.'

6. The virtue of collectedness (samadhi).

O bhikkhus, if you guard your mind, so guarded the mind will remain in a state of steady collectedness. If your minds are in a state of collectedness, you will be able to understand the arising and passing away of the impermanent world. For this reason you should strive constantly to practice the various stages of absorption (jhana). When one of these states of collectedness is reached, the mind no longer wanders. A disciple who practices (to attain collectedness) is just like an irrigator who properly regulates his dykes. As he guards water, even a small amount, so should you guard the water of wisdom, thereby preventing it from leaking away. Such is the meaning of 'collectedness'.

7. The virtue of wisdom. (PRAJNA)

O bhikkhus, if you have wisdom, then do not hunger to make a display of it. Ever look within yourselves so that you do not fall into any fault. In this way you will be able to attain freedom from (the tangle of) the interior and exterior (spheres of senses and sense-objects--ayatana). If you do not accomplish this you cannot be called Dhamma practicers, nor yet are you common persons clad in white, so there will be no name to fit you! Wisdom is a firmly -bound raft which will ferry you across the ocean of birth, old age, sickness and death. Again, it is a brilliant light with which to dispel the black obscurity of ignorance. It is a good medicine for all who are ill. It is a sharp axe for cutting down the strangling fig--tree of the afflictions. That is why you should, by the hearing-, thinking- and development-wisdoms increase your benefits (from Dhamma). If you have Insight (vipassana) stemming from (development-wisdom), though your eyes are but fleshly organs you will be able to see clearly (into your own citta.) Such is the meaning of 'wisdom'.

8. The virtue of restraint from idle talk.

O bhikkhus, if you indulge in all sorts of idle discussions then your mind will be full of chaotic thoughts, and though you have gone forth to homelessness you will be unable to attain Freedom. That is why, O bhikkhus, you should immediately cease from chaotic thoughts and idle discussions. If you want to attain the Happiness of Nibbana, you must eliminate completely the illness of idle discussion.

IV. SELF EXERTION

O bhikkhus, as regards all kinds of virtue, you should ever rid yourselves of laxity, as you would flee from a hateful robber. That Dhamma which the greatly-compassionate Lord has taught for your benefit is now concluded, but it is for you to strive diligently to practice this teaching. Whether you live in the mountains or on the great plains, whether you sojourn beneath a tree or in your own secluded dwellings, bear in mind the Dhamma you have received and let none of it be lost. You should always exert yourselves in practicing it diligently, lest you die after wasting a whole lifetime and come to regret it afterwards. I am like a good doctor who, having diagnosed the complaint, prescribes some medicine; but whether it is taken or not, does not depend on the doctor. Again, I am like a good guide who points out the best road; but if, having heard of it, (the enquirer) does not take it, the fault is not with the guide.

V. ON CLEARING UP ALL DOUBTS

O bhikkhus, if you have any doubts regarding the Four Noble Truths: of unsatis-factoriness (dukkha) and the rest, (its arising. its cessation and the Practice-path going to its cessation), you should ask about them at once. Do not harbor such doubts without seeking to resolve them.

On that occasion the Lord spoke thus three times, yet there were none who question-ed him. And why was that? Because there were none in that assembly (of bhikkhus) who harbored any doubts.

Then the venerable Anuruddha, seeing what was in the minds of those assembled, respectfully addressed the Buddha thus: 'Lord, the moon may grow hot and the sun may become cold, but the Four Noble Truths proclaimed by the Lord cannot be otherwise. The Truth of Dukkha taught by the Lord describes real dukkha which cannot become happiness. The accumulation of desires truly is the cause of the Arising of Dukkha; there can never be a different cause. If dukkha is destroyed (the Cessation of Dukkha), it is because the cause of dukkha has been destroyed, for if the cause is destroyed the result must also be destroyed. The Practice path going to the Cessation of Dukkha is the true path, nor can there be another. Lord, all these bhikkhus are certain and have no doubts about the Four Noble Truths.

In this assembly, those who have not yet done what should be done (i. e., attained to Enlightenment), will, on seeing the Lord attain Final Nibbana, certainly feel sorrowful. (Among them) those who have newly entered upon the Dhamma-way and who have heard what the Lord has (just said), they will all reach Enlightenment (in due course) seeing Dhamma as clearly as a flash of lightning in the dark of the night. But is there anyone who has done what should be done (being an Arahant), already having crossed over the ocean of dukkha who will think thus: "The Lord has attained Final Nibbana; why was this done so quickly?"

Although the Venerable Anuruddha had thus spoken these words, and the whole assembly had penetrated the meaning of the Four Noble Truths, still the Lord wished to strengthen all in that great assembly. With a mind of infinite compassion he spoke (again) for their benefit.

"O bhikkhus, do not feel grieved. If I were to live in the world for a whole aeon (kappa), my association with you would still come to an end, since a meeting with no parting is an impossibility. The Dhamma is now complete for each and every one, so even if I were to live longer it would be of no benefit at all. Those who were (ready) to cross over, both among the celestials and men, have all without exception attained Enlightenment, while those who have not yet completed their crossing (of the ocean of Samsara to the Further Shore or Nibbana) have already produced the necessary causes (to enable them to do so in course of time).

From now on, all my disciples must continue to practice (in this way) without ceasing, whereby the body of the Tathagata's Dhamma will be ever lasting and indestructi-ble. But as to the world, nothing there is eternal, so that all meeting must be followed by partings. Hence, do not harbor grief, for such (impermanence) is the nature of worldly things. But do strive diligently and quickly seek for Freedom. With the light of Perfect Wisdom destroy the darkness of ignorance, for in this world is nothing strong or enduring.

Now that I am about to attain Final Nibbana, it is like being rid of a terrible sickness. This body is a thing of which we are indeed well rid, an evil thing falsely going by the name of self and sunk in the ocean of birth, disease, old age and death. Can a wise man do aught but rejoice when he is able to rid himself of it, as others might (be glad) when slaying a hateful robber?

O bhikkhus, you should always exert the mind, seeking the Way out (of the Wandering-on, or samsara). All forms in the world, without exception, whether moving or non-moving, are subject to decay and followed by destruction. All of you should stop. It is needless to speak again. Time is passing away. I wish to cross over to Freedom (from existence in this world). These are my very last instructions."

* Print version published by The Buddhist Association of the United States (BAUS)