Các
Quan Điểm Của các Bộ Phái Thuộc Thượng Tọa Bộ
a. Các quan điểm căn bản của phái Nhất thiết hữu
bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Nhất thiết hữu bộ
cho rằng:
1) Hữu bộ
cho rằng tất cả các pháp đều nằm trong hai loại: danh và sắc.[1]
2) Quá khứ,
vị lai đều có thật thể.
3) Tất cả
các pháp xứ đều là những cái được biết, được nhận thức và được thấu đạt.
4) Sanh và
lão (bệnh tử) là vô thường, thuộc Hành uẩn và không cùng tương ưng với
Tâm.
5) Các pháp
hữu vi có 3, vô vi cũng có 3.[2]
6) Mỗi
tướng của 3 pháp hữu vi thứ đều có thật thể riêng biệt.
7) (Trong
tứ đế), 3 đế là hữu vi, còn 1 đế là vô vi.
8) Bốn
thánh đế đều là pháp hiện quán theo thứ tự.
9) Nương
hai chánh định Không và Vô nguyện có thể chứng nhập Chánh tánh ly sanh.[3]
10) Tư duy các
hành ở Dục giới cũng chứng đắc Chánh tánh ly sanh.
11) Khi chứng
nhập Chánh tánh ly sanh, trong 15 tâm đầu gọi là Hành hướng (Tu-đà-hoàn
hướng), còn tâm thứ 16 gọi là Trụ quả (Tu-đà-hoàn quả).[4]
12) Trong một
(sát na) tâm của Thế đệ nhất pháp gồm
có 3 phẩm.[5]
13) Pháp thế đệ
nhất chắc chắn không còn thối chuyển.
14) Dự lưu không
còn thối chuyển.
15) Có vị
A-la-hán còn bị thối chuyển.[6]
16) Không phải
tất cả các bậc A-la-hán đều chứng được trí vô sanh.
17) Phàm phu[7] cũng có thể đoạn trừ được tham dục và sân hận.
18) Ngoại đạo có
thể chứng đắc ngũ thông.
19) Chư thiên
cũng có người sống đời phạm hạnh.
20) Trong bảy Đẳng chí[8]
thì giác chi có thể chứng đắc, còn những Đẳng
chí khác thì không có.
21) Tất cả các
tĩnh lự đều nằm trong Tứ niệm xứ.
22) Không nương
vào tĩnh lự cũng có thể chứng được Chánh tánh ly sanh, và cũng có thể
chứng được quả vị A-la-hán.
23) Nếu nương
vào thân hình[9] ở cõi Sắc và Vô sắc thì tuy có thể chứng đắc
A-la-hán nhưng không thể nhập Chánh tánh ly sanh.
24) Nương vào
thân hình ở cõi Dục không chỉ chứng nhập Chánh tánh ly sanh mà còn có
thể chứng đắc quả vị A-la-hán.
25) Con người
sống ở Bắc câu lô châu không thể xa lìa cấu nhiễm nên bậc thánh không
sanh ở đó cùng cõi trời Vô tưởng.
26) Bốn quả vị
sa môn không nhất định phải chứng đắc lần lượt (từ thấp đến cao).
27) Nếu đã chứng
nhập Chánh tánh ly sanh, nương vào pháp thế gian thì cũng có thể chứng
đắc quả vị Tư đà hàm và A na hàm.
28) Có thể nói
Bốn niệm xứ gồm thâu tất cả các pháp.
29) Tất cả các
loại tùy miên là tâm sở, cùng tương ưng với tâm[10] và đều có đối tượng.
30) Tất cả tùy
miên thuộc triền phược, nhưng không phải tất cả triền phược đều thuộc
tùy miên.
31) Tất cả các
chi phần của Duyên khởi chính là pháp hữu vi.
32) Có vị
A-la-hán tu tập chuyển hóa tùy theo từng chi phần duyên khởi.[11]
33) Có vị
A-la-hán chuyên tu tập để tăng trưởng phước nghiệp.
34) Duy chỉ có ở
cõi Dục và cõi Sắc là có thân trung ấm.
35) Các thức của
sắc thân như nhãn, nhĩ… vừa nhiễm ô vừa không nhiễm ô. Chúng chỉ có thể
nắm giữ tự tướng mà không có khả năng phân biệt.
36) Tâm và tâm
sở pháp đều có thật thể.
37) Tâm và tâm
sở chắc chắn phải có đối tượng (sở duyên).
38) Tự tánh
không tương ưng với tự tánh, tâm không tương ưng với tâm.
39) Có cái gọi
là chánh kiến thế gian.[12]
40) Có tín căn
thế gian.
41) Có cả pháp
vô ký.
42) Các bậc
A-la-hán đều có pháp hữu học và vô học.
43) Các vị
A-la-hán đều được tĩnh lự (định) nhưng không phải lúc nào tĩnh lự cũng
hiện tiền (thường hằng).[13]
44) A-la-hán vẫn
còn thọ lãnh nghiệp báo cũ (quá khứ).
45) Có chúng
sanh trụ trong thiện tâm mà chết.
46) Ở Đẳng dẫn
vị chắc chắn không còn mệnh chung.
47) Sự giải
thoát của Phật và Nhị thừa giống nhau, nhưng Thánh đạo của ba thừa mỗi
mỗi đều khác biệt.[14]
48) Lòng từ bi
của chư Phật không duyên vào chúng sanh.[15]
49)
Chấp rằng có thật chúng sanh
(và ý niệm giải thoát) thì không được giải thoát.
50)
Có thể nói Bồ-tát vẫn còn là
chúng sanh, vì chưa đoạn trừ được tất cả các kiết sử.
51)
Nếu chưa chứng nhập Chánh
tánh ly sanh mà ở địa vị phàm phu thì chưa được gọi là siêu việt (giải
thoát).
52) Do bám chấp vào các hiện hữu liên tục nên mới giả
lập thành chúng sanh.
53) Có thể nói
tất cả các hành đều chấm dứt trong một sát na.
54) Chắc chắn
không có một pháp nào được di chuyển từ đời trước qua đời sau mà chỉ có
Bổ-đặc-già-la thế tục di chuyển mà thôi.[16]
55) Đang còn
sống mà các Hành đã chấm dứt hoàn toàn thì các Uẩn không còn chuyển dịch
thay đổi.[17]
56) Có tĩnh lự
(định) xuất thế.
57) Cũng có Tầm
vô lậu.
58) Có thiện
pháp làm nhân (sanh tử trong 3 cõi).
59) Ở Đẳng dẫn
vị thì không còn phát ra ngôn ngữ.
60) Tám chi
thánh đạo là chánh pháp luân, chứ không phải lời nói của Như Lai đều là
chuyển pháp luân.
61) Đức Phật
không thể dùng một âm mà nói tất cả các pháp.
62) Thế Tôn cũng
còn nói những lời không như nghĩa.
63) Không phải
tất cả kinh Phật thuyết đều là liễu nghĩa, bởi vì chính đức Phật tự nói
có những kinh không liễu nghĩa.
Những điều trên đây được gọi là các quan điểm căn
bản của Nhất thiết hữu bộ. Còn những quan điểm dị biệt lại nhiều đến vô
biên.
b. Các quan điểm căn bản của phái Tuyết sơn bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Tuyết sơn bộ cho
rằng:
1) Bồ-tát
vẫn còn là phàm phu.
2) Bồ-tát
khi vào thai không có khởi tâm tham ái.
3) Không có
kẻ ngoại đạo chứng đắc ngũ thông.
4) Cũng
không có chư thiên sống đời phạm hạnh.
5) Có bậc
A-la-hán vẫn còn bị người khác dẫn dụ, vẫn còn vô tri, tâm còn hoài
nghi, lại nhờ người khác mà được ngộ đạo và Thánh đạo nhờ vào tiếng
(khổ) mà phát khởi.
Ngoài ra, những luận chấp khác phần nhiều đồng
với Thuyết nhất thiết hữu bộ.
c. Các quan điểm căn bản của Độc tử bộ
Các quan điểm căn bảncủa Độc tử bộ cho rằng:
1) Bổ-đặc-già-la
không phải uẩn cũng không phải phi uẩn, do nương sự kết hợp của uẩn xứ
giới mà giả đặt tên như thế.
2) Các hành
chỉ tạm tồn tại và hoại diệt trong một sát na nên nếu lìa Bổ-đặc-già-la
thì không pháp nào có thể chuyển tiếp từ đời trước sang đời sau, nhưng
vì nương vào con người nên mới có sự di chuyển.
3) Ngoại đạo
cũng chứng đắc ngũ thông.
4) Năm thức
vừa nhiễm ô, vừa không nhiễm ô.
5) Nếu đoạn
trừ được những kiết sử thuộc “Tu sở đoạn” (Tu đạo sở đoạn) ở cõi Dục thì
gọi là Ly dục chứ không phải là Kiến sở đoạn (Kiến đạo sở phá).[18]
6) Nhẫn,
Danh, Tướng và Thế đệ nhất, bốn pháp này có thể hướng nhập Chánh tánh ly
sanh.[19]
7) Nếu đã
chứng đắc Chánh tánh ly sanh thì 12 tâm đầu gọi là Hành hướng, còn tâm
thứ 13 mới gọi là Trụ quả.
Những luận điểm như thế có rất nhiều điểm sai
biệt khác nhau. Nhân cùng nhau giải thích một bài kệ tụng nhưng không
thống nhất với nhau về luận nghĩa trong bài tụng ấy mà từ bộ phái này
(Độc tử bộ) đã phát sinh thêm bốn bộ phái nữa, đó là: Pháp thượng bộ,
Hiền trụ bộ, Chánh lượng bộ và Mật lâm sơn bộ. Bài tụng đó như sau:
Giải thoát rồi vẫn đọa, Bởi do tham khởi lên.
Đạt vui sướng “an, hỉ”, “Lạc hạnh” đưa
đến lạc.
d. Các quan điểm căn bản của Hóa địa bộ
Các quan điểm căn bảncủa Hóa địa bộ cho rằng:
1) Quá khứ
vị lai thì không có thật, hiện tại và vô vi thì có thật.
2) Cả Bốn
thánh đế đều hiện quán trong một lúc. Thấy được Khổ đế liền thấy tất cả
các đế khác, nhưng cần phải thấy được (các thánh đế) rồi mới thấy được
như thế.[20]
3) Tùy miên
không phải tâm, không phải tâm sở và cũng không có cảnh sở duyên.
4) Tùy miên
khác với triền phược, vì tự tánh của tùy miên không tương ưng với tâm
nhưng tự tánh triền phược lại tương ưng với tâm.
5) Chúng
sanh thì chưa đoạn trừ được tham dục và sân nhuế.
6) Không có
hàng ngoại đạo chứng được ngũ thông.
7) Cũng
không có chư thiên sống đời phạm hạnh.
8) Chắc chắn
không có thân trung ấm.
9) Không có
A-la-hán tăng trưởng phước nghiệp.
10) Năm thức vừa
nhiễm ô vừa không nhiễm ô.
11) Sáu thức cùng
tương ưng với Tầm và Tứ.[21]
12) Có
Tề-thủ-bổ-đặc-già-la.[22]
13) Có Chánh kiến
thế gian.
14) Không có Tín
căn thế gian.
15) Không có Tĩnh
lự xuất thế.
16) Cũng không có
Tầm và Tứ vô lậu.
17) Thiện pháp
không phải là nhân (sanh tử trong 3 cõi).[23]
18) Dự-lưu cũng
có thể thối chuyển.
19) A-la-hán thì
nhất định không còn thối chuyển.
20) Tám chi phần
thánh đạo đều được bao hàm trong Tứ niệm xứ.[24]
21) Pháp vô vi
gồm có 9 loại, gồm: 1) Trạch diệt, 2) Phi trạch diệt, 3) Hư không, 4)
Bất động, 5) Thiện pháp chơn như, 6) Bất thiện pháp chơn như, 7) Vô ký
pháp chơn như, 8) Đạo chi chơn như, 9) Duyên khởi chơn như.
22) Từ khi mới
nhập bào thai cho đến khi chết thì các đại chủng của sắc căn đều chuyển
biến, tâm và tâm sở cũng chuyển biến như thế.
23) Trong tăng có
Phật (hiện hữu), nên cúng dường chư tăng sẽ được phước báo rất lớn chứ
không phải chỉ có cúng dường chư Phật mới được.
24) Chư Phật và
hàng Nhị thừa đều đồng một thánh đạo, và đồng một con đường giải thoát.
25) Tất cả các
hành đều chấm dứt trong một sát na nên chắc chắn không có một pháp nào
được chuyển biến từ đời trước qua đời sau.
Những điều trên đây chính là quan điểm căn bản
của Hóa địa bộ.
e. Các quan điểm dị biệt của Hóa Địa bộ
Còn về quan điểm dị biệt của tông này thì cho
rằng:
1) Quá khứ,
vị lai đều có thật thể.
2) Cũng có
thân Trung ấm.
3) Tất cả
các Pháp xứ đều là những pháp được biết, được nhận thức.
4) Nghiệp
chính là Tư.
5) Không có
thân nghiệp và khẩu nghiệp.
6) Tầm và
Tứ tương ưng với nhau.
7) Đại địa
thì tồn tại lâu dài.[25]
8) Cung
kính cúng dường tháp miếu chỉ được phước báo nhỏ.
9) Tự tánh
của Tùy miên thường luôn hiện hữu trong hiện tại.
10) Các Uẩn xứ
giới cũng thường luôn hiện hữu trong hiện tại.
Các quan điểm dị biệt của bộ phái này còn do
những kiến giải khác nhau trong lúc cùng giải thích bài kệ tụng sau:
Năm pháp này trói buộc, Các
khổ từ đó sanh,
Là vô minh, tham, ái, Năm kiến và
các nghiệp.
f. Các quan điểm căn bản của Pháp tạng bộ
Các quan điểm căn bảncủa Pháp tạng bộ cho rằng:
1) Phật tuy
ở trong tăng nhưng cúng dường riêng cho đức Phật thì được phước báo
rộng lớn còn cúng dường cho chư tăng thì không bằng.
2) Cúng
dường tháp miếu sẽ được công đức thật rộng lớn.
3) Sự giải
thoát của Phật và Nhị thừa tuy đồng nhưng Thánh đạo lại khác.
4) Không có
ngoại đạo chứng đắc được ngũ thông.
5) Thân thể
của A-la-hán đều là vô lậu.
Ngoài ra, những luận điểm khác phần nhiều tương
đồng với Đại chúng bộ.
g. Các quan điểm căn bản của phái Ẩm quang bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Ẩm quang bộ cho
rằng:
1) Các pháp
đã đoạn trừ và đã biến tri thì không có. Còn chưa đoạn trừ và chưa biến
tri thì có.[26]
2) Nếu
nghiệp quả đã thành thục thì không, nghiệp quả chưa thành thục thì có.
3) Có Hành
lấy quá khứ làm nhân, nhưng không có Hành nào lấy vị lai làm nhân.[27]
4) Tất cả
các hành đều đoạn diệt trong một sát na.
5) Tất cả
các pháp hữu học đều có quả Dị thục.
Ngoài ra, những luận điểm khác phần nhiều đồng
với quan điểm của Pháp Tạng bộ.
h. Các quan điểm căn bản của phái Kinh Lượng bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Kinh Lượng bộ thì
cho rằng:
1) Các Uẩn
có thể di chuyển từ đời trước đến đời sau. (Vì thuyết này nên) đặt tên
bộ phái này Thuyết Chuyển.
2) Nếu không
lìa thánh đạo thì có thể hoàn toàn chấm dứt các uẩn.
3) Có cái
Uẩn căn biên, và có cái Uẩn một vị.[28]
4) Trong
hàng phàm phu vẫn có thánh pháp.[29]
5) Có thắng
nghĩa Bổ-đặc-già-la.[30]
Ngoài ra, những luận điểm khác phần nhiều đồng
nhất với quan điểm của Nhất Thiết Hữu bộ.
Ngài Tam tạng pháp sư Huyền Tráng sau khi phiên
dịch bộ luận này xong, vì muốn nói cái ý mà Ngài đã dịch bộ luận này lần
thứ hai nên có làm bài kệ:
Tôi đã nghiên cứu rõ, Các văn
bản phạn văn,
Bộ Dị tông luận này, Nay phát
tâm dịch lại.
Lời văn tuy cô đọng, Nghĩa lý
lại không sai,
Hành giả là bậc trí, Nên
chuyên tâm thọ học.
Luận Dị Bộ Tông Luân, 1 quyển hết.
[1] Tất cả các pháp có hai loại: 1) Pháp
nhất thiết: gồm tâm, tâm sở, sắc pháp, tâm bất tương ưng và vô
vi, và 2) Thời nhất thiết: gồm cả ba thời quá khứ, hiện
tại và vị lai. Các bộ phái khác đều cho rằng sắc có thể thâu nhiếp hết
thảy các pháp, tuy nhiên, các sắc uẩn thô lớn thì có thể nhận biết còn
bốn uẩn kia cùng vô vi vốn vi tế, kín nhiệm, nếu không nhờ đến danh để
hiển bày thì không thể nào biết. Cho nên ở đây mới cho rằng tất cả các
pháp đều gồm trong cả danh và sắc.
[2] Hữu vi có 3: theo Thuật Ký của Khuy cơ
giải thích thì hữu vi có 3 tức là 3 thời: quá khứ, hiện tại và vị lai.
Ngoài ra, 3 pháp hữu vi khác đó chính là: sắc pháp, tâm pháp và phi sắc
phi tâm. Vô vi cũng có 3 là: trạch diệt, phi trạch diệt và hư không vô
vi.
[3] Không 空 (sunyata)
và Vô nguyện
無願 (apranihita) là hai trong Ba giải thoát môn (trini
vimoksa-mukhani): không, vô tướng và vô nguyện. Không môn:
quán tất cả pháp đều không tự tính, do nhân duyên hòa hợp mà sinh, nếu
thông đạt như vậy thì được tự tại đối với các pháp. Vô nguyện:
nếu biết tất cả pháp vô tướng thì không mong cầu điều gì trong ba cõi,
nếu không mong cầu thì không tạo tác các nghiệp sinh tử, nếu không có
nghiệp sinh tử thì không có cái khổ quả báo và được tự tại. (còn Vô
tướng môn (animitta): đã biết tất cả pháp là không, liền quán các tướng
nam, nữ, nhất dị… thật bất khả đắc. Nếu thông đạt được các pháp vô tướng
như thế thì lìa tướng sai biệt và được tự tại).
Sở dĩ nói nương vào chánh
định này có thể nhập Chánh tánh ly sanh là vì hai chánh định này gồm
thâu cả bốn hành tướng của Khổ đế (Khổ, không, vô thường, vô ngã). Không
thâu nhiếp cả Vô thường và Không; còn Vô nguyện thâu nhiếp cả
Khổ và Vô ngã. Nương nhờ vào Không thì thấy suốt Vô thường và
Không, còn nương nhờ vào Vô nguyện thì thấy suốt cả Khổ và Vô
ngã, cho nên nói nương nhờ và Không và Vô nguyện thì
có thể đắc chánh định là vậy.
[4] Gọi 16 hành tướng của tâm trong
pháp quán Tứ đế là vì trong mỗi Đế đều có hai loại: Pháp và Loại. Trong
Pháp và Loại lại có Nhẫn và Trí. Ví dụ về Khổ thì có 4 hành tướng: Khổ
pháp nhẫn, Khổ pháp trí, Khổ loại nhẫn, khổ loại trí (Tập, Diệt, Đạo
cũng như thế), cộng chung lại thành 16 hành tướng. Trong 15 tâm đầu là
hướng về Kiến đạo nên gọi là Hành hướng (Chân đế dịch là Tu đà
hoàn hướng), còn tâm cuối cùng (16, đạo loại trí) trú vào Kiến đạo nên
gọi là Trụ quả (Tu đà hoàn quả).
[5] Thế đệ nhất 世第一法 (Laukikàgradharma)
là Gia hành thứ tư trong 4 gia
hạnh vị, gồm: noãn, nhẫn, đảnh, thế đệ nhất (theo Duy thức). Câu-xá
luận, 23: “vì là hữu lậu nên gọi thế gian; vì là tột đỉnh nên gọi
đệ nhất”. Thế đệ nhất pháp là pháp cùng cực, thù thắng bậc nhất trong
các pháp hữu lậu thế gian vì nó có khả năng dẫn sinh ra Thánh đạo, chứng
đắc đạo quả Niết bàn. Hành giả khi đạt được thế đệ nhất pháp thì nương
theo vô gián định phát khởi trí tuệ như thật thượng phẩm, quát sát năng
sở thủ đều rỗng không liền chứng được kiến đạo vị, giải thoát sanh tử
luân hồi.
Thuật ký (X53n0844):Ba phẩm
của Thế đệ nhất pháp chính là vì nương theo ba thừa nên phân chia thành
ba phẩm.
[6] Theo Câu-xá luận, 25 thì A-la-hán có
sáu thứ: 1) Thối pháp A-la-hán, là vị A-la-hán có thể bị thối chuyển quả
chứng xuống quả vị thấp hơn như nhất lai, bất hoàn v.v… do bởi bị ngoại
duyên tác động chi phối. 2) Tư pháp A-la-hán, là vị A-la-hán vì sợ thối
thất quả A-la-hán nên thường mong kết liễu mạng sống để nhập Vô dư
Niết-bàn; 3) Hộ pháp A-la-hán, là vị luôn luôn phòng hộ để khỏi thối
thất quả vị A-la-hán; 4) An trú A-la-hán, là vị đã chứng A-la-hán, luôn
tránh xa ngoại duyên để không bị thối thất; 5) Kham đạt A-la-hán, là vị
có kham năng tu hành để mau chóng chứng đạt đến địa vị Bất động; 6) Bất
động A-la-hán, là vị căn tánh lanh lợi, một khi đã chứng đắc quả vị
A-la-hán rồi thì không bao giờ bị thối chuyển dù gặp bất cứ hoàn cảnh
nào.
Chính vì quan niệm có sáu
loại A-la-hán như thế cho nên ở phần trên mới nói là “có vị A-la-hán còn
thối chuyển” là nghĩa như thế. Tuy nhiên, trong luận giải thích là chỉ
thối chuyển xuống quả vị thấp hơn như A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn
nhưng vẫn có thể tiếp tục tu tập để chứng đạt quả vị cao hơn, và một khi
chứng được Bất động A-la-hán thì sẽ không còn thối chuyển, chứ không
nói là trở lại làm phàm phu như một chúng sanh thường tình. Đây là vấn
đề cần lưu ý.
[7] Trong nguyên văn dùng chữ Dị sanh (異生). Đây là một tên gọi khác của phàm phu.
Kinh Đại Nghĩa Sớ, q.1 có nói: “phàm phu đúng ra nên gọi là dị
sanh, vì do vô minh theo nghiệp chịu báo nên không được tự tại rơi vào
các nẻo sắc tâm, tượng, loại, thảy đều sai biệt cho nên gọi là dị sanh”.
[8] Đẳng chí 等至 còn gọi là Chính thọ hay Chính định hiện tiền, dịch từ
chữ Samàpatti là trạng thái dứt hết loạn tưởng, duyên lự, lãnh
thọ được cảnh sở quán. Nhờ sức định khiến cho thân tâm an lạc, cũng như
gương sáng hiện rõ mọi vật. Luận Câu-xá 28 lấy Tứ thiền và Tứ
vô sắc làm Đẳng chí.
Giác chi
覺支 chính là 7 giác chi trong 37 phẩm
trợ đạo. Tông phái này cho rằng chỉ có 7 Đẳng chí (chính là 4 thiền
giới và 3 Vô sắc giới) là có giác chi còn đẳng chí thứ tám là Phi tưởng
xứ và các Đẳng chí ở Dục giới không có giác chi.
[9] Chân Đế dịch là nương vào Tâm ở cõi Sắc và
Vô sắc giới (依色界無色界心).
[10] Bản của Chân Đế cho rằng Tùy miên không
tương ưng với tâm (隨眠煩惱是心法。不與心相應).
[11] Có nghĩa rằng các vị A-la-hán đã thấu suốt
12 chi phần Duyên khởi nhưng con đường đi đến giác ngộ giải thoát của
các ngài không giống nhau, có vị tu tập qua chi phần này nhưng vị kia
lại tu tập qua chi phần khác nên mới nói là “隨
阿羅漢轉” hay “隨阿羅漢多行”.
[12] Chánh kiến 正見 (sammà
ditthi) là kiến giải đúng về Tứ đế, xa lìa hai thứ Hữu và Vô, là
một trong tám món Thánh đạo. Theo luận Đại tỳ-bà-sa, 97 thì
Chánh kiến có thể chia làm 2 thứ: Chánh kiến hữu lậu tức là Chánh kiến
thế tục, chỉ cho thiện huệ hữu lậu tương ưng với ý thức nhưng hướng về
con đường lành nên cảm lấy quả báo lành trong tương lai; Chánh kiến vô
lậu hay Chánh kiến xuất thế gian, tức là thiện huệ tương ưng với ý thức,
cả trí vô sinh cũng không nhiếp được, như 8 trí vô lậu nhẫn, 8 trí hữu
học, Chính kiến vô học.
[13] Giống với điều 22 ở trên.
[14] Chư Phật và thanh văn giống nhau về giải thoát
nghĩa là đồng nhau về mặt đoạn đức (Niết bàn) nhưng lại không giống nhau
về mặc trí đức (thánh đạo bồ đề).
[15] Lòng từ bi của đức Phật là Vô duyên từ, không có
đối tượng. Tùy theo chúng sanh có khổ đau chư Phật liền tùy duyên ứng
hiện cứu khổ ban vui, cứu khổ ban vui mà không lấy chúng sanh làm cảnh
giới (đối tượng).
[16] Bổ-đặc-già-la 補特伽羅 (S: Pudgala) còn gọi là
Phúc-già-la, Phú-đặc-già-la. Dịch là nhân, chúng sanh, sát thủ thú hay
chúng số giả. Phật giáo chủ trương Vô ngã nên không thừa nhận có một chủ
thể sinh tử, tức là không có cái ngã chân thật (Thắng nghĩa
bổ-đặc-già-la) nhưng vì phương tiện để nói nên gọi giả danh của
người là giả ngã (Thế tục bổ-đặc-già-la). Mục này được nói lên
nhằm pháp chấp ngã và chấp pháp. Các pháp sanh diệt tương tục trong một
sát na nên không có thật thể để chuyển tiếp.
[17] Ý nói khi đã chấm dứt hoàn toàn các hành thì các
Uẩn không thể di chuyển từ đời trước qua đời sau, do đó không có một
pháp nào có thể chuyển tiếp từ đời này qua đời khác. Ở mục 52, bộ phái
này đã phá chấp có thật ngã, ở mục này thì lại pháp chấp pháp. Hợp cả
hai lại, luận bộ này chủ trương phá cả ngã lẫn pháp rằng không có một
cái nào có thực thể.
[18] Kiến sở đoạn 見所斷 (S. Darsana-heya), là những
thứ được đoạn trừ nhờ kiến đạo; còn Tu sở đoạn 修所斷 (Bhàvanà-heya) là những thứ
được đoạn trừ ở giai đoạn tu đạo. Theo Câu-xá luận 2, Kiến sở
đoạn là khi ở giai vị kiến đạo đoạn trừ 88 tùy miên và các pháp câu hữu,
tùy hành với nó. Tu sở đoạn là khi ở giai vị tu đạo đoạn trừ 81 phẩm tư
hoặc và các pháp câu hữu, tùy hành với nó (còn Phi sở đoạn là người
đã chứng quả A-la-hán, không còn lậu hoặc nào để đoạn). Còn theo Đại
thừa A-tỳ-đạt-ma tạp, 4: Kiến sở đoạn là đoạn trừ Phân biệt hoặc
và các Phiền não hoặc nghiệp do Kiến hoặc phát khởi; Tu sở đoạn là đoạn
trừ các pháp hữu lậu còn lại, (còn phi sở đoạn là các pháp vô lậu, vô
vi, tự tính thanh tịnh).
[19] Nhẫn 忍 (Ksànti),
Danh 名 (nama), Tướng 相 (laksana),
Thế đệ nhất 世第一法 (Laukikàgradharma) là bốn thiện căn
để chứng nhập Chánh tánh ly sanh. Nhẫn là nhẫn khả, là giai đoạn ban đầu
quán sát tổng tướng của Tứ đế mà có thể kham nhẫn tu tập; Danh là quán
Tứ đế; Tướng là quán các thể sở thuyên của Tứ đế; và cuối cùng là Thế đệ
nhất pháp, tức là có thể biết được căn bản của các pháp vậy.
[20] Thuật-ký: Cả Bốn thánh đế đều hiện quán
trong một lúc: là ở vào giai vị Kiến đạo liền khởi tâm quán sát
tướng chung của Không và Vô ngã, khi đã tỏ ngộ Không và Vô ngã liền thấy
khắp cả Tứ đế (đây là quán tổng tướng). Thấy được Khổ đế liền thấy
tất cả các đế khác là thuộc giai đoạn tu đạo: nếu khởi tâm quán sát
tướng riêng biệt của Tứ đế ở trong giai đoạn Tu đạo thì khi thấy được
Khổ đế liền có thể thấy cả 3 đế còn lại, như trong một ý thức có thể bao
gồm cả 5 uẩn, 10 loại sắc (đây là quán biệt tướng)… Cho nên trong cùng
một thời điểm mà có thể thấy biết các tướng sai biệt như thế thì
nó thuộc vào giai vị Tu đạo mà không phải là giai vị Kiến đạo. Khi nào
hoàn thành được giai vị Kiến đạo (đã thấy được tổng tướng của Tứ đế xong
rồi) bước qua giai vị Tu đạo thì mới có thể thấy biết được như thế.
[21] Tầm 尋
(Vitarka, P. Vitakka) còn gọi là giác; Tứ
伺 (Vicàra) còn gọi là quán.
Là 2 trong 5 thiền chi (5 trạng thái trợ giúp cho việc tọa thiền, định
tâm, gồm: Tầm (Vitakka) là đem tâm hướng về định tướng, Tứ (Vicara)
là bám sát vào định tướng, Hỷ (Pity) là ưa thích định tướng,
Lạc (Sukha) là cảm giác an lạc, sung sướng khi tiếp xúc với
định tướng, Nhất tâm (Ekaggata) là tập trung tâm về một điểm
(đó là định tướng).
Khi chứng đắc Sơ thiền
(thuộc Sắc giới) thì 5 thiền chi đều có mặt: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất
tâm. Tầm: suy nghĩ hướng về đối tượng, thì dập tắt hôn trầm;
Tứ: tư duy trên đối tượng, thì dập tắt nghi; Hỷ thì
dập tắt sân; Lạc thì dập tắt trạo cử; Nhất
tâm thì dập tắt dục. Từ tầng thiềnthứ 2 (Nhị thiền ở Sắc
giới) thì chỉ còn có mặt 3 thiền chi: Hỷ, Lạc, Nhất tâm mà không có Tầm
và Tứ. Hai tầng thiền ở sau là Tam thiền chỉ có Lạc, nhất tâm và Tứ
thiền chỉ có Xả, Nhất tâm mà không còn có mặt của Tầm Tứ.
[22] Tề thủ bổ-đặc-già-la 齊首補特伽羅 (có chúng sanh đạt đến điểm tận
cùng của sự sanh tử)chính là quả vị A-na-hàm (Anàgàmin,
dịch là Bất hoàn). Tề thủ (có thể dịch là tới điểm cao nhất,
hay đạt đến điểm cuối cùng) chính đầu mối, hay nói khác hơn
chính là điểm tận cùng của sinh tử (X53n0844_p0587: 齊首謂生死之首).
Hành giả đã chứng quả
A-na-hàm liền sanh lên cõi trời Hữu Đảnh đến khi gần mệnh chung thì các
Kiết sử tự diệt liền chứng quả A-la-hán cho đến Niết-bàn mà không còn
chịu thân sinh tử, cũng không còn sinh trở lại vào các cảnh giới thấp
kém ở bên dưới để tu tập các thánh đạo vô lậu và chứng quả A-la-hán. Vì
sinh lên cõi trời Hữu Đảnh, là cảnh giới sau cùng nhất rồi chứng đắc
thánh đạo giải thoát mà không còn sinh trở vào bất cứ cảnh giới nào nên
gọi là tề-thủ.
Trong triết học Marx có đề
cập đến một thuật ngữ là điểm giới hạn hay điểm nút,
có nghĩa là các sự vật khi đạt đến điểm giới hạn, là giai đoạn
cuối cùng của một chu trình nào đó, thì nó nhất định phải chuyển đổi qua
một trạng thái khác mà không còn ở trong trạng thái cũ nữa. Ở đây, chữ tề-thủ
cũng có nghĩa tương tự như vậy, tuy không hoàn toàn mang ý nghĩa
là “điểm giới hạn” nhưng ý của nó muốn nói là khi chứng đắc quả
vị A-na-hàm và sinh lên cõi trời Hữu đảnh thì coi như hành giả đó đã đạt
đến điểm tới điểm tận cùng của sự sanh tử. Nhất định
chúng sanh ấy sẽ chấm dứt sự sanh tử để bước lên thánh đạo vô lậu cho
đến Niết-bàn ngay trong giai đoạn ở cõi trời Hữu đảnh này. Đối chiếu với
bản Chân đế ta sẽ thấy rõ nghĩa hơn khi Chân Đế dùng từ “thời đầu”
(時頭), có nghĩa là điểm đầu (hay
cuối) của chuỗi thời gian sanh tử vậy.
[23] Khuy Cơ giải thích rằng thiện pháp không phải là
chánh nhân mà nó chỉ có chức năng hỗ trợ cho bất thiện nghiệp để cảm
quả báo thọ thân sanh tử trong ba cõi sáu đường. ngay đến khi sanh lên
hai cõi Sắc và Vô sắc thì thiện nghiệp cũng chỉ có chức năng hỗ trợ mà
thôi, vì ác nghiệp thông cả cõi Sắc và Vô sắc. Đối lập với điều thứ 52
của phái Hữu bộ.
[24] Tứ Niệm xứ 四念處hay còn gọi là Tứ niệm trụ (S. Catvàri
smrty-upasthànàni), là bốn nơi để trụ tâm, gồm: thân, thọ, tâm,
pháp. Đây là 4 phương pháp tập trung tâm niệm vào một điểm, đề phòng và
ngăn dứt không cho tạp niệm sinh khởi để đạt được chân lý. 4 pháp này
thường được giảng giải rộng trong các kinh điển nguyên thủy, tức là dùng
tự tướng, cộng tướng quán thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường,
pháp vô ngã để lần lượt đối trị 4 phiền não: tịnh, lạc, thường, ngã của
phàm phu.
[25] Đại địa tồn tại lâu dài là muốn giản biệt với
hoại diệt trong một sát-na. Đồng với luận giải của Chánh lượng bộ.
[26] Các pháp ở đây chính là phiền não. Nếu phiền não
chưa được đoạn trừ và chưa được biến tri thì thể của phiền não trong
quá khứ là có nên nói có phiền não; nhưng nếu đã được đoạn trừ, đã được
biến tri thì thể của phiền não trong quá khứ là không có thật nên nói
phiền não không có vậy.
[27] Lập luận này nhằm đối lại với Tát-bà-đa
bộ vì cho rằng các pháp trong hiện tại lấy các pháp trong vị lai
làm năng tác nhân, còn các pháp trong vị lai lại lấy các pháp trong vị
lai nữa làm năng tác nhân tiếp theo. Cho nên, bộ phái mới đưa ra quan
điểm chỉ có một số pháp lấy các pháp trong quá khứ làm nhân sinh ra quả
hiện tại, hoặc có một số pháp lấy các pháp trong hiện tại làm nhân sinh
ra quả vị lai chứ không có pháp nào lấy các pháp trong vị lai làm nhân
để sinh ra quả vị lai tiếp theo. (Chân Đế (Đ. 2033) thì lại cho rằng: 有為法不以過去法為因。以現在及未來法為因 (các pháp hữu vi không lấy các pháp trong quá khứ làm nhân mà
chỉ có các pháp trong hiện tại và vị lai làm nhân).)
[28] Uẩn một vị 一味薀 là chỉ cho Tế ý thức. Cái thức này xoay vần tiếp nối
tương tục từ quá khứ tới hiện tại mà chưa từng gián đoạn và trong nó
luôn bao hàm cả 4 thức kia nên gọi là Uẩn một vị; Uẩn
căn biên 根邊薀 là chỉ chung
cho tế ý thức và 5 uẩn. Căn chỉ cho Tế ý thức vì thức này làm
nhân căn bổn cho sự sanh tử, do căn bổn này mà 5 uẩn khởi lên; còn chữ biên
là chỉ cho 5 uẩn vì 5 uẩn này gián đoạn và sinh khởi sau. Hợp cả hai ý
này thành chữ Uẩn căn biên.
[29] Nghĩa là phàm phu vẫn có hạt giống vô lậu xuất
thế, nhờ đó mà thánh đạo xuất hiện nên nói như thế.
[30] Thắng nghĩa bổ-đặc-già-la 勝義補特伽羅 là Thật ngã vì họ quan niệm rằng
luôn có một cái ngã chân thực nhưng rất vi tế, khó có thể trông thấy
được để duy trì mạng căn và điều hành các thức hoạt động.