Tổng quan:
1- Nhìn chung, kinh này khuynh hướng nguyện sinh Cực
lạc. Có lẽ đó là chiều theo một khuynh hướng khá có tính thời đại. Nhưng
tôi không hoàn toàn đồng ý như vậy. Nói ba ngàn Phật là nói chư Phật
của quốc độ này. Như vậy chủ yếu phải nói là sự liên quan với các Ngài.
May mà kinh này có nói cái chủ yếu đó. Rằng tôn kính các Ngài thì được
các Ngài thọ ký cho. Được Phật thọ ký quan trọng đến mức nào thì chữ thọ
ký đã nói lên.
2- Cái nét lớn nhất của kinh này là nói lên đặc tính
nhân bản. Nói một cách đề cao. Phật có thể thị hiện làm chủ đạo quốc
gia, làm chỉ đạo quần chúng. Nước phải giàu, dân phải mạnh. Phải có quân
lực, và quân lực ấy là để chống xâm lăng. Không phải để xâm lăng, dĩ
nhiên. Kinh này ít, rất ít, dùng chữ đại bi. Chữ được dùng là ái, là sự
thân mến, thân thiết. Ái không phải là ái dục, là tính dục. Tính dục
không được thừa nhận là bẩm sinh, là hạnh phúc, hơn nữa là hạnh phúc lý
tưởng. Ái được sử dụng có chế ngự. Bởi vì nói gì thì tính dục vẫn là tai
họa cho bản thân, đã đành, nhưng ở đây là tai họa cho xứ sở, cho xã hội
loài người. Ái, cuối cùng bị hủy diệt, và hủy diệt được, với đại bi
thay vào. Thế có nghĩa là tình dục được chuyển hóa thành tình thương,
mạnh đến tuyệt đối, cho bất cứ cấp độ tiến bộ nào của con người.
3- Phẩm chất đời sống càng được cứu xét. Giá trị cuộc
sống cũng có cái mặt tương đối nhưng cần thiết. Phật phục vụ, Phật cống
hiến. Và những nhu cầu bình thường Phật cũng làm cho thỏa mãn. Phật làm
lãnh đạo, cũng làm tôi tớ, làm không tuyên bố, dĩ nhiên. Phật là như
vậy, là Niết bàn, không vướng mắc cực đoan nào hết.
4a- Một số pháp hạnh căn bản cũng được nói đến, cho
sự bồi dưỡng nhân cách. Tinh tiến, đa văn, không bị bỏ quên. Nhất là sự
bất phóng dật, không sống buông thả. Sống buông thả là tự vứt bỏ mình
đi. Mà như thế là hết nói, hết cứu vãn.
4b- Kinh này ghét sự khiếp nhược. Nhưng quan tâm khá
kỹ đến sự sợ hãi, rùng mình, lo buồn. Nhất là lo buồn. Phật tạo cơ hội
đắc độ cho ta. Đắc độ cấp bách nhất là vượt qua sự lo buồn ấy. Phật tối
thượng, tối thượng ở chỗ tự hạ cái tâm mình xuống mà làm kẻ phục vụ và
phục dịch. Ta có hai Đức Phật: Đức Phật làm thầy cho ta, và Đức Phật
khác là chính ta biết làm theo Phật. Như vậy thì cái gì cũng có thể bị
đánh bại.
4c- Từ nguồn gốc, cái gì làm khổ ta thì toàn là vô
minh đen tối. Sự đen tối ấy nhờ Phật, Phật ở Phật và Phật ở ta, mà có
thể và phải tiêu diệt. Nói đến Phật là nói ánh sáng, mà ánh sáng là như
thế này đây. Và, thượng đỉnh trong sự tu dưỡng nhân cách, như thế này
mới là đích thực, đích thực cuối cùng. Cũng từ sự thượng đỉnh ấy mà nói
đến tính cách nhân bản trọn vẹn của kinh này.
5- Từ văn tự mà nói thì kinh này khó mà ghép vào
trường phái bậc thầy: Trường phái La Thập và trường phái Huyền Tráng.
Thế nhưng, những gì nói trên đây thật là nhất quán. Nhất quán đặc biệt
là tính cách nhân bản của kinh. Dẫu là như vậy, vẫn nên xét đến ảnh
hưởng mà kinh này có được. Có nhất là triết thuyết Hoa Nghiêm. Triết
thuyết ấy cao nhất là "sự sự pháp giới". Sự sự là các pháp, vừa là cá
thể, vừa là đại thể, liên quan và tác động lẫn nhau, khiến các pháp toàn
là diệu dụng. Ta đây, và thế giới của ta đây, là cái khối vĩ đại của
diệu dụng ấy. Vĩ đại như vậy mới thật là vĩ đại, kể cả đặc tính nhân bản
của kinh này.