KINH PHẠM VÕNG
CÂU CHUYỆN HAI DU SĨ
PARIBBĀJAKAKATHĀ
1. Tôi đã nghe như vầy. Một dịp
nọ Thế Tôn khởi hành từ Vương Xá đến Nālanda cùng với đại chúng tỳ-kheo,
khoảng năm trăm vị. Đồng thời du sĩ Suppiya cũng du hành trên con đường
đó cùng với người đệ tử, thanh niên Brahmadatta. Trên đường đi, du sĩ Suppiya
dùng đủ lý lẽ để hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Nhưng người đệ tử, thanh niên Brahmadatta,
dùng đủ lý lẽ để ca tụng Phật, Pháp, Tăng. Như vậy hai thầy trò, theo sau Thế
Tôn và chúng tỳ-kheo, đã nói những lời hoàn toàn mâu thuẫn nhau.
2. Bấy giờ Thế Tôn cùng với
chúng tỳ-kheo vào trú xá hoàng gia ở vườn Ambalatthika để nghỉ qua đêm.
Du sĩ Suppiya cùng với thanh niên Brahmadatta cũng vào trú xá
hoàng gia đó để nghỉ qua đêm. Tại đây, du sĩ Suppiya cũng dùng nhiều lý
lẽ để hủy báng Phật, Pháp, Tăng, trong khi người đệ tử dùng nhiều lý lẽ để ca
tụng Tam Bảo. Hai thầy trò ngụ gần Thế Tôn và chúng tỳ-kheo, đã nói những lời
hoàn toàn mâu thuẫn nhau.
3. Khi bình minh lóng dạng, một
số tỳ-kheo, sau khi thức dậy đã tụ họp trong nhà họp (ngôi nhà hình tròn, nóc
nhọn). Câu chuyện sau đây diễn ra trong nhóm tỳ-kheo đó: "Chư hiền giả,
thật kỳ diệu, thật hy hữu, Thế Tôn bậc Toàn tri, Toàn kiến, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, Ngài đã thâm nhập hết thảy tâm hướng sai biệt của chúng sanh. Du sĩ Suppiya
dùng nhiều lý lẽ để hủy báng Phật, Pháp, Tăng trong khi người đệ tử, thanh niên
Brahmadatta dùng nhiều lý lẽ để ca tụng Tam Bảo. Hai thầy trò theo sau
Thế Tôn và chúng tỳ-kheo, đã nói những lời hoàn toàn mâu thuẫn nhau."
4. Khi ấy Thế Tôn biết được cuộc
thảo luận của các tỳ-kheo kia. Ngài bước vào nhà họp, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn
và hỏi: "Chư tỳ-kheo, hiện giờ các ngươi
đang bàn chuyện gì? Đề tài của câu chuyên liên quan đến vần đề nào?"
Các tỳ-kheo đáp: Bạch Thế Tôn,
khi bình minh ló dạng chúng con tựu trong nhà họp. Câu chuyện sau đây khởi lên
giữa chúng con: "Chư hiền giả, thật kỳ diệu, thật hy hữu, Thế Tôn bậc Toàn
tri, Toàn kiến, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Ngài đã thâm nhập hết thảy tâm
hướng sai biệt của chúng sanh. Du sĩ Suppiya dùng nhiều lý lẽ để hủy
báng Phật, Pháp, Tăng trong khi người đệ tử, thanh niên Brahmadatta dùng
nhiều lý lẽ để ca tụng Tam Bảo. Hai thầy trò theo sau Thế Tôn và chúng tỳ-kheo,
đã nói những lời hoàn toàn mâu thuẫn nhau." Bạch Thế Tôn, đây là câu
chuyện chúng con đang tàn thì Thế Tôn đến.
5. Chư tỳ-kheo, nếu những ai hủy
báng Ta, hủy báng Pháp hoặc hủy báng Tăng, các ngươi không nên tỏ ra bực tức,
bất mãn hoặc phẫn nộ đối với họ. Vì trong tình thế đó các ngươi chỉ tạo ra một
chướng ngại cho chính mình. Nếu các ngươi giận dữ hoặc bất bình khi những ai
hủy báng chúng ta, các ngươi có thể nhận thức những lời của họ là đúng hay là
sai không?
"Bạch Thế Tôn, chắc chắn
không?"-Chư tỳ-kheo, những ai hủy báng Ta, Pháp hoặc Tăng, các ngươi nên
giải thích điều nào là sai lầm và chỉ ra chỗ sai đó, rằng: "Vì sao đây là
sai, không xác thực, không có điều nào như thế về phía chúng tôi, điều này
không bao giờ có nơi chúng tôi."
6. Chư
tỳ-kheo, nếu những ai ca tụng Ta, Pháp hoặc Tăng, các ngươi không nên tỏ ra hân
hoan, hài lòng và thỏa thích. Vì trong tình thế đó, các ngươi chỉ tạo ra một
chướng ngại cho chính mình. Nếu những ai ca tụng Ta, Pháp hoặc Tăng, các ngươi
nên thừa nhận điều nào là thật, rằng "Vì sao đây là thật, xác đáng, có
điều như thế về phía chúng tôi, điều này đương nhiên có nơi chúng tôi."
7. Chư
tỳ-kheo, chỉ liên quan đến những vấn đề nhỏ nhặt, tầm thường, không ngoài những
tiểu tiết nhỏ về giới luật thuần túy mà một phàm phu đề cập đến khi ca tụng Như
Lai. Những tiểu tiết về giới luật thuần túy là gì mà kẻ phàm phu đề cập đến?
8-27 (Giải thích về Giới ...)
NHỮNG SUY ĐOÁN VẾ QUÁ KHỨ
(PUBBANTAKAPPIKA)
28. Chư tỳ-kheo, có các pháp
khác, sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh, cao thượng, vượt qua phạm vi luận
lý, chỉ người có trí mới có thể hiểu biết mà Như Lai, sau khi tự mình chứng ngộ
với tuệ toàn tri đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; và chính vì đối với các
pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh như thực của Như
Lai sẽ bàn đến. Các pháp này là gì?
29. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về quá khứ, nắm
lấy những quan điểm về quá khứ và ở trên mười tám lập trường khẳng định các tà
kiến liên quan đến quá khứ. Và do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn
và bà-la-môn này dựng lên các suy đoán của họ?
CHỦ THUYẾT THƯỜNG KIẾN
(SASSATAVĀDA)
30. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến, và đứng trên
bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng. Và do cái gì, liên quan
đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ.
31. Chư tỳ-kheo, trong trường
hợp thứ nhất có vị sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên
cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định và do đó vị ấy nhớ lại nhiều đời sống
quá khứ: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba
mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời hoặc một trăm
ngàn đời, nhiều trăm đời, nhiều ngàn đời, nhiều trăm ngàn đời. Vị ấy nhớ:
"Lúc đó tôi có tên như thế, thuộc về một gia tộc như thế, hình dáng như
thế, thức ăn như thế, tuổi thọ như thế. Sau khi từ bỏ cõi đó, tôi sanh ở cõi
khác. Tại đấy, tôi cũng có tên như thế, thuộc về một gia tộc như thế, hình dáng
như thế, thức ăn như thế, kinh nghiệm hạnh phúc và đau khổ như thế, tuổi thọ
như thế. Từ cõi đó, tôi tái sanh ở đây. Như vậy, vị ấy nhớ lại nhiều đời sống
quá khứ cùng với các đặc điểm và các chi tiết liên quan (như tên, tuổi, gia
tộc).
Vị ấy nói như vầy: Ngã và thế
giới là thường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ và
mặc dù chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh, tuy nhiên ngã và thế giới vẫn y
như vật thường trụ. Vì sao? Bởi vì do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và
chánh tác ý nên đạt đến tâm định và do đó tôi nhớ lại nhiều đời sống quá khứ
cùng với các đặc điểm và các chi tiết liên quan. Vì lẽ đó tôi biết: ngã và thế
giới là thường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ và
mặc dù những chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh, tuy nhiên ngã và thế giới
vẫn y như vật thường trụ.
32. Trong trường hợp thứ hai, do
cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa môn và bà-la-môn là những nhà thường
kiến tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng?
Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn
hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt
đến tâm định và do đó vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ: một thành và hoại
kiếp, hai, ba, bốn, năm, hoặc mười thành và hoại kiếp. Vị ấy nhớ lại: "Lúc
đó tôi có tên như thế, thuộc về một gia tộc như thế, hình dáng như thế, thức ăn
như thế, kinh nghiệm hạnh phúc và đau khổ như thế, tuổi thọ như thế. Sau khi bỏ
cõi đó, tôi tái sanh ở nơi khác. Tại đấy, tôi cũng có tên như thế, thuộc về một
gia tộc như thế, kinh nghiệm vui và khổ như thế, tuội thọ như thế. Diệt từ cõi
đó, tôi tái sanh ở đây. Như vậy vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với
các đặc điểm và các chi tiết liên quan.
Vị ấy nói như vầy: Ngã và thế
giới là thường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ.
Và mặc dù những chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh. Tuy nhiên ngã và thế
giới vẫn y như vật thường trụ. Vì sao? (Phần còn lại giống đoạn 31, ngoại trừ
khoảng thời gian).
33. Trong trường hợp thứ ba, do
cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường
kiến, tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng?
Chư tỳ-kheo, ở đây một số sa-môn
hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt
đến tâm định và do đó vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ: mười thành và hoại
kiếp, hai mươi, ba mươi hoặc bốn mươi thành và hoại kiếp…. (như trên). Như vậy
vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ cùng với các đặc điểm và các chi tiết liên
quan.
Vị ấy nói như vầy: "Ngã và
thế giới là thường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch
trụ. Và mặc dù những chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh. Tuy nhiên ngã và thế
giới vẫn y như vật thường trụ. Vì sao? (Như đoạn 31, ngoại trừ khoảng thời
gian.)
34. Trong trường hợp thứ tư, do
cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường
kiến, tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng?
Chư
tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn là nhà suy luận, nhà khảo sát. Vị ấy
tuyên bố quan điểm như vầy, được rút ra do suy luận, được tìm ra từ những khảo
sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình, như vầy: "Ngã và thế giới là thường
hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ. Và mặc dù những
chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh. Tuy nhiên ngã và thế giới vẫn y như vật
thường trụ."
35. Chư
tỳ-kheo, đứng trên bốn lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn kia tuyên bố
ngã và thế giới là thường hằng. Bất cứ sa-môn và bà-la-môn nào tuyên bố ngã và
thế giới là thường hằng, tất cả làm như thế trên bốn lập trường này, hoặc trên
một trong chúng. Không có quan điểm nào bên ngoài bốn lập trường.
36. Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu và Ngài hiểu: "Những quan điểm này nhận lầm
như vậy và nắm giữ sai lạc như vậy, dẫn đến một sanh thú như thế, đến một kết
quả như thế ở đời sau. Ngài cũng hiểu pháp nào vượt qua điều này. Tuy hiểu biết
như thế Ngài không nắm giữ sai lạc và bởi vì tà chấp đã được giải thoát. Ngài
đã tự chứng ngộ trạng thái an tịnh toàn hảo. Sau khi hiểu như thực sự sinh khởi
và sự diệt tận của các cảm thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly chúng, Như
Lai đã giải thoát không có chấp thủ.
37. Chư tỳ-kheo, đây là các pháp
sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh và cao thượng, vượt qua phạm vi luận lý, tế
nhị, chỉ người có trí mới có thể hiểu biết, mà Như Lai sau khi tự mình chứng
ngộ với tuệ toàn tri, đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; và chính vì đối với
các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh như thực của
Như Lai sẽ bàn đến.
CHỦ THUYẾT THƯỜNG KIẾN PHIẾN DIỆN
(EKACCASASSTAVĀDA)
38. Chư tỳ-kheo, có một số
sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến đối với vài điều, và không phải
những nhà thường kiến đối với những điều khác, họ đứng trên bốn lập trường
tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường hằng và một phần không thường hằng,
Do cái gì, liên quan đến điều gì những sa môn và bà-la-môn này tuyên bố các
quan điểm của họ.
39. Chư
tỳ-kheo, đến một thời, sau một thời kỳ dài thế giới này tiêu hoại. Trong khi
thế giới tiêu hoại, phần lớn chúng sanh tái sanh vào cõi Quang Âm Thiên. Các
Phạm thiên này sống ở đấy, do tâm tạo, nuôi sống bằng ý, thân tỏa hào quang,
phi hành qua hư không, trú trong tịnh lạc. Chư
vị tiếp tục sống như vậy trong một thời gian rất lâu.
40. Chư
tỳ-kheo, sau một thời kỳ dài, đến một thời khi thế giới này bắt đầu hình thành
trở lại, một Phạm cung trống không xuất hiện. Lúc đó có chúng sanh, do hết tuổi
thọ hoặc hết phước, từ bỏ Quang Âm Thiên và tái sanh trong Phạm cung trống
không. Vị này sống ở đấy, do tâm tạo, nuôi sống bằng hỷ, thân tỏa hào quang,
phi hành qua hư không, trú trong tịnh lạc và tiếp tục sống như vậy trong một
thời gian rất lâu.
41. Sống một mình nơi Phạm cung
quá lâu, vị Phạm thiên này sanh tâm chán nản và xao xuyến nên mong ước:
"Các chúng sanh khác hãy đến nơi này!" Ngay lúc đó, do hết tuổi thọ
hoặc hết phước, các chúng sanh khác từ bỏ Quang Âm Thiên và tái sanh trong Phạm
cung để làm bạn với vị Phạm thiên đầu tiên. Họ sống ở đấy, do tâm tạo, nuôi
sống bằng hỷ, thân tỏa hào quang, phi hành qua hư không, trú trong tịnh lạc và
tiếp tục sống như vậy trong một thời gian rất lâu.
42. Bấy giời chúng sanh mà tái
sinh ở đấy trước tiên tự nghĩ: Ta là Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, Thắng Giả, Vô
Địch, Đại Thấu Thị, Đại Thần Lực, Thượng Đế, Sáng Thế, Tạo Hóa, Chí Thánh, Thần
Định Mạng, Đấng Tự Tại, Cha của tất cả chúng sanh đã sanh và sẽ sanh. Những
chúng sanh này do ta tạo ra. Vì sao? Bởi vì trước đó ta đã mong ước: "Các
chúng sanh kia hãy đến nơi này!" Sau khi ta đã khởi tâm như thế, bây giờ
các chúng sanh này đã đến.
Các chúng sanh mà tái sanh ở đấy
sau vị ấy cũng nghĩ: Vị này là Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, Thắng Giả, Vô Địch,
Đại Thấu Thị, Đại Thần Lực, Thượng Đế, Sáng Thế, Tạo Hóa, Chí Thánh, Thần Định
Mạng, Đấng Tự Tại, Cha của tất cả chúng sanh đã sanh và sẽ sanh. Chúng ta do
Ngài tạo ra. Vì sao? Bởi vì chúng ta thấy rằng vị ấy sanh ở đây trước và chúng
ta xuất hiện sau Ngài.
43. Chư tỳ-kheo, ở đây chúng
sanh mà tái sanh trước có tuổi thọ dài hơn, dung sắc tuyệt diệu hơn, oai lực
hùng hậu hơn các chúng sanh sinh sau.
44. Chư tỳ-kheo, bấy giờ, sự
kiện này xảy ra, một chúng sanh sau khi từ bỏ cõi đó, tái sanh ở đời này, sau
đó vị ấy xuất gia và do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên
đạt đến tâm định và nhờ định này vị ấy nhớ lại đời sống trước đó của mình,
nhưng không nhớ hơn kiếp đó. Vị ấy nói như vầy: "Chúng ta được sáng tạo do
Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, Thắng Giả, Vô Địch, Đại Thấu Thị, Đại Thần Lực,
Thượng Đế, Sáng Thế, Tạo Hóa, Chí Thánh, Thần Định Mạng, Đấng Tự Tại, Cha của
tất cả chúng sanh đã sanh và sẽ sanh. Ngài là vĩnh cửu, bền vững, thường hằng,
không bị thay đổi và sẽ y như vật thường trụ. Nhưng chúng ta do Ngài tạo ra và
xuất hiện ở đời này-Chúng ta là vô thường, không bền vững, thọ mạng ngắn, bị
biến hoại. Chư tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ
nhất.
45. Trong trường hợp thứ nhì, do
cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường
kiến đối với vài điều và không phải nhà thường kiến đối với những điều khác,
tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường hằng và một phần không thường hằng?
Chư
tỳ-kheo, có những chư thiên gọi là "bị sa đoạ do vui đùa". Những vị
này phung phí nhiều thời gian say đắm trong hoan lạc vui đùa. Do đó họ quên ăn
và từ bỏ cõi đó.
46. Chư tỳ-kheo, bấy giờ, sự
kiện này xảy ra, có chúng sanh sau khi từ bỏ cõi đó, tái sanh ở đời này, sau đó
vị ấy xuất gia và do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt
đến tâm định và nhờ định này vị ấy nhớ lại đời sống trước đó của mình, nhưng
không nhớ hơn kiếp đó. Vị ấy nói như vầy: "Những chư thiên nào không bị sa
đọa do vui đùa, không phung phí thời gian say đắm trong hoan lạc vui đùa. Do đó
họ không quên ăn, và bởi vì họ không quên ăn nên không từ bỏ cõi đó. Những chư
thiên đó là vĩnh cửu, bền vững, thường hằng, không thay đổi và sẽ y như vật
thường trụ."
47. Chư
tỳ-kheo, có những chư thiên gọi là "bị sa đoạ do ý." Những chư thiên
này nhìn nhau với tâm ganh tỵ quá đáng. Do đó tâm của họ bị sa đọa bởi sân hận
đối với nhau, khiến cho thân và tâm của họ bị kiệt lực và họ phải từ bỏ cõi đó.
48. Chư tỳ-kheo, bấy giờ, sự
kiện này xảy ra, có chúng sanh sau khi từ bỏ cõi đó, tái sanh ở đời này, sau đó
vị ấy xuất gia và do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt
đến tâm định. Do định này vị ấy nhớ lại đời sống trước đó của mình, nhưng không
nhớ hơn kiếp đó. Vị ấy nói như vầy: "Những chư thiên nào không bị sa đọa
do ý, không nhìn nhau với tâm ganh tỵ quá đáng. Kết quả là tâm của họ không bị
sa đọa bởi sân hận đối với nhau, thân và tâm họ không bị kiệt lực và họ không
từ bỏ cõi đó. Những chư thiên đó là vĩnh cửu, bền vững, thường hằng, không thay
đổi và sẽ y như vật thường trụ. Nhưng chúng ta là những chư thiên bị sa đọa do
ý. Chúng ta nhìn nhau với tâm ganh tỵ quá đáng, kết quả là tâm chúng ta bị sa
đọa bởi sân hận đối với nhau. Do đó thân và tâm chúng ta bị kiệt lực và phải từ
bỏ cõi đó. Xuất hiện ở đời này, giờ đây chúng ta là không vĩnh cửu, không bền
vững, thọ mạng ngắn, chịư sự biến hoại. Chư tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ ba.
49. Trong trường hợp thứ tư: Chư tỳ-kheo, ở đây có sa-môn hoặc bà-la-môn là những nhà
suy luận, nhà khảo sát. Vị ấy tuyên bố quan điểm của mình, được rút ra do suy
luận, được tìm ra nhờ những khảo sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình, như vầy:
"Điều mà gọi là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân" - ngã đó là không vĩnh
cửu, không bền vững, không thường hằng, bị thay đổi. Nhưng điều mà gọi là
"Tâm, ý hoặc thức" - ngã đó là vĩnh cữu, bền vững, thường hằng, không
bị biến hoại và sẽ y như vật thường trự.
50. Chư tỳ-kheo, đứng trên bốn
lập trường này, những sa-môn và bà-la-môn kia tuyên bố ngã và thế giới một phần
thường hằng và một phần không thường hằng. Bất cứ sa-môn và bà-la-môn nào tuyên
bố ngã và thế giới là thường hằng phiến diện, tất cả làm thế trên bốn lập trường,
hoặc một trong bốn lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.
51. Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu và Ngài hiểu: "Những quan điểm này, nhận
lầm như vậy, nắm giữ sai lạc như vậy, dẫn đến một sanh thú như thế, đến một kết
quả như thế ở đời sau. Ngài cũng hiểu pháp nào vượt qua điều này. Nhờ hiểu biết
như thế, Ngài không nắm giữ sai lạc và bởi vì tà chấp đã được giải thoát, Ngài
đã tự chứng ngộ trạng thái an tịnh toàn hảo. Sau khi hiểu như thực sự sinh khởi
và sự diệt tận của các cảm thọ, vị ngọt, và sự xả ly chúng, Như Lai đã giải
thoát không có chấp thủ."
52. Chư tỳ-kheo, đây là các pháp
sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh và cao thượng, vượt qua phạm vi luận lý,
chỉ người có trí mới có thể hiểu biết, mà Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với
tuệ toàn tri, đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; chính vì đối với các pháp này
mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ THẾ GIỚI HỮU BIÊN
VÀ VÔ BIÊN
(ANTĀNANTAVĀDA)
53. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà hữu biên và vô biên và ở
trên bốn lập trường tuyên bố thế giới là hữu biên hoặc vô biên. Do cái gì, liên
quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?
54. Chư
tỳ-kheo, trong trường hợp thứ nhất, có vị sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt
tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do định này, vị
ấy trú và nhận thức thế giới là hữu biên. Vị ấy nói như vầy: "Thế giới là
hữu biên và hạn cuộc. Vì sao? Bởi vì tôi đã đạt đến tâm định, đến mức trú và
nhận thức thế giới là hữu biên. Vì lẽ đó tôi biết thế giới là hữu biên và hạn
cuộc."
55. Trong trường hợp thứ hai: Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ
nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do định này,
vị ấy trú và nhận thức thế giới là vô biên. Vị ấy nói như vầy: "Thế giới
là vô biên và vô hạn." Những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giới là
hữu biên và hạn cuộc là nói sai. Thế giới là vô biên và vô hạn. Vì sao? Bởi vì
tôi đạt đến tâm định đến mức tôi trú và nhận thức thế giới là vô biên. Vì lẽ đó
tôi biết: Thế giới là vô biên và vô hạn."
56. Trong trường hợp thứ ba: Chư tỳ-kheo, ở đây vị sa-môn hoặc bà-la-môn nhờ nhiệt
tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do tâm định này,
vị ấy trú và nhận thức thế giới là hữu biên ở các hướng trên và dưới, nhưng vô
biên về bề ngang. Vị ấy nói như vầy: "Thế giới vừa hữu biên vừa vô
biên." Những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giới là hữu biên và hạn
cuộc, họ nói sai; những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giới là vô biên và
vô hạn, họ cũng nói sai. Thế giới vừa hữu biên vừa vô biên. Vì sao? Bởi vì tôi
đạt đến tâm định, đến mức trú và nhận thức thế giới là hữu biên ở các hướng
trên và dưới nhưng vô biên về bề ngang. Vì lẽ đó tôi biết: Thế giới vừa hữu
biên vừa vô biên.
57. Trong trường hợp thứ tư: Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn là nhà suy
luận, nhà khảo sát. Vị ấy tuyên bố quan điểm của mình, được rút ra do suy luận,
được tìm ra nhờ những khảo sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình như vầy:
"Thế giới không hữu biên cũng không vô biên." Những sa-môn và
bà-la-môn mà tuyên bố thế giới là hữu biên và hạn cuộc, những sa-môn và
bà-la-môn mà tuyên bố thế giới là vô biên và vô hạn, những sa-môn và bà-la-môn
mà tuyên bố thế giới vừa hữu biên vừa vô biên - tất cả chư vị này đều nói sai.
Thế giới không hữu biên cũng không vô biên.
58. Chư
tỳ-kheo, trên bốn lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà hữu
biên và vô biên tuyên bố thế giới là hữu biên hoặc vô biên. Bất cứ sa-môn hoặc
bà-la-môn nào tuyên bố thế giới là hữu biên hoặc vô biên, tất cả làm thế trên
bốn lập trường này, hoặc trên một trong bốn lập trường. Không có quan điểm nào
ở bên ngoài chúng.
59-60. Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… chính vì đối với các pháp này mà những ai ca
tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ NGỤY BIỆN VÔ TẬN
(AMARĀ VIKKHEPAVĀDA)
61. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà ngụy biện vô tận. Khi được
hỏi về điểm này nọ, ở trên bốn lập trường họ dùng đến những lời lẫn tránh và
mập mờ không có chỗ kết thức. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và
bà-la-môn này làm thế?
62. Chư
tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn không hiểu như thực pháp nào là
thiện và pháp nào là bất thiện. Vị ấy nghĩ: "Ta không hiểu như thực pháp
nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Nếu ta tuyên bố điều gì là thiện hoặc
bất thiện thì lời tuyên bố có thể sai lạc và sẽ làm cho ta phiền muộn và phiền
muộn đó sẽ là một chướng ngại cho ta." Do vậy, vì lo sợ và chán ghét việc
nói sai, vị ấy không tuyên bố bất cứ điều gì là thiện hoặc bất thiện. Nhưng khi
vị ấy hỏi về điểm này nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ
kết thúc: "Tôi không nói như vầy, tôi cũng không nói theo cách kia, tôi cũng
không nói theo cách khác. Tôi không nói rằng nó không là thế, tôi cũng không
nói rằng không phải cái này, không phải cái kia." Chư
tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ nhất.
63. Trong trường hợp thứ hai : Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn không hiểu
như thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Vị ấy nghĩ: "Ta không
hiểu như thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Nếu ta tuyên bố điều
gì là thiện hoặc bất thiện thì dục và tham hoặc sân và hận có thể phát sanh
trong tâm ta. Nếu dục và tham hoặc sân và hận phát sanh trong tâm ta, điều đó
sẽ là thủ do ta gây ra. Thủ như thế sẽ làm cho ta phiền muộn và phiền muộn đó
sẽ là một chướng ngại cho ta." Do vậy, vì lo sợ và chán ghét thủ, vị ấy
không tuyên bố bất cứ điều gì là thiện hoặc bất thiện. Nhưng khi được hỏi về
điểm này nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc:
"Tôi không nói như vậy, tôi cũng không nói theo cách kia, tôi cũng không
nói theo cách khác. Tôi không nói rằng nó không là thế, tôi cũng không nói rằng
không phải cái này, không phải cái kia."
64. Trong trường hợp thứ ba: Chư tỳ-kheo, có vị sa-môn hoặc bà-la-môn không hiểu như
thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Hiện giờ có những sa-môn và
bà-la-môn thông thái, đa tài, hùng biện, đi đó đây đả phá các quan điểm của
những người khác với trí tuệ của mình. Nếu ta tuyên bố điều gì là thiện hoặc
bất thiện, những sa-môn, bà-la-môn này có thể thẩm vấn những quan điểm của ta,
buộc ta giải thích và bác bỏ những lời của ta. Trong trường hợp đó, ta không
sao trả lời được và điều đó sẽ làm cho ta bực tức và sự bực tức đó sẽ là một
chướng ngại cho ta. Do vậy, vì lo sợ và chán ghét việc bị thẩm vấn, vị ấy không
tuyên bố bất cứ điều gì là thiện hoặc bất thiện. Nhưng khi được hỏi về điểm này
nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc.
65. Trong trường hợp thứ tư :
Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn do đần độn và ngu xuẩn, khi
người ta hỏi về điểm này nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có
chỗ kết thúc: "Nếu bạn hỏi tôi có thế giới khác hay không - nếu tôi nghĩ
rằng có một thế giới khác, tôi sẽ tuyên bố rằng có. Nhưng tôi không nói như
vậy, tôi cũng không nói theo cách kia, tôi cũng không nói theo cách khác. Tôi
cũng không nói rằng không phải cái này, không phải cái kia."
Cũng vậy, khi được hỏi bất cứ
câu hỏi nào sau đây, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết
thúc:
A)
1. Có phải không có thế giới khác?
3. Có phải vừa có vừa không có thế giới khác?
4. Có phải không có cũng không phải không có thế giới khác?
B)
1. Có phải có những chúng sanh hóa sanh?
2. Có phải không có những chúng sanh hóa sanh?
3. Có phải vừa có vừa không có những chúng sanh hóa sanh?
4. Có phải không có cũng không phải không có những chúng sanh hóa sanh?
C)
1. Có phải có quả dị thục của các nghiệp thiện ác?
2. Có phải không có quả dị thục của các nghiệp thiện ác?
3. Có phải vừa có vừa không có quả dị thục của các nghiệp thiện ác?
4. Có phải không có cũng không phải không có quả dị thục của các nghiệp thiện
ác?
D)
1. Có phải Như Lai tồn tại sau khi chết?
2. Có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết?
3. Có phải Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết?
4. Có phải Như Lai không tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết?
66. Chư
tỳ-kheo, ở trên bốn cơ sở này mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà ngụy
biện vô tận, dùng đến những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc khi
được hỏi về điểm này nọ. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào mà dùng đến những lời
lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc, tất cả làm như thế trên bốn lập
trường này, hoặc trên một trong bốn lập trường. Không có quan điểm nào ở bên
ngoài chúng.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ SỰ SINH KHỞI NGẪU
NHIÊN
(ADHICCASAMUPPANNAVĀDA)
67. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn hoặc bà-la-môn ở trên hai lập trường tuyên bố ngã và
thế giới sinh khởi một cách ngẫu nhiên. Và do cái gì, liên quan đến điều gì,
những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?
68. Chư
tỳ-kheo, có những vị trời gọi là "Chúng sanh vô tưởng". Khi tưởng
sinh khởi, các vị này từ bỏ cõi đó. Chư
tỳ-kheo, bấy giờ sự kiện này xảy ra, một chúng sanh, sau khi từ bỏ cõi đó, tái
sanh ở đời này. Sau đó vị ấy xuất gia, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần
và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do định này, vị ấy nhớ lại lúc tưởng sinh
khởi, nhưng không nhớ điều gì hơn giai đoạn đó. Vị ấy nói như vầy: "Ngã và
thế giới sinh bởi ngẫu nhiên. Vì sao? Bởi vì trước đây ta không có, nhưng bây
giờ ta có. Từ chỗ không có ta hiện hữu ở đời. Chư
tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ nhất.
69. Trong trường hợp thứ nhì: Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn là nhà suy
luận, nhà khảo sát. Vị ấy tuyên bố quan điểm của mình được rút ra do suy luận,
được tìm ra từ những khảo sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình, như vầy:
"Ngã và thế giới sinh khởi ngẫu nhiên."
70. Chư
tỳ-kheo, trên hai lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn tuyên bố ngã và
thế giới sinh khởi ngẫu nhiên. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào tuyên bố ngã và
thế giới sinh khởi một cách ngẫu nhiên, tất cả làm thế trên hai lập trường này,
hoặc trên một trong hai lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.
Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… Chính vì đối với các pháp này mà những ai ca
tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
71. Chư
tỳ-kheo, trên mười tám lập trường này, mà những sa-môn và bà-la-môn là những
nhà suy đoán về quá khứ, nắm lấy những quan điểm về quá khứ, khẳng định các tà
kiến liên quan đến quá khứ. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào là những nhà suy
đoán quá khứ, nắm lấy những quan điểm về quá khứ, và khẳng định các tà kiến
liên quan đến quá khứ, tất cả chư vị làm thế trên mười tám lập trường này, hoặc
trên một trong mười tám lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.
72. Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… giải thoát không có chấp thủ.
73. Chư
tỳ-kheo, đây là các pháp sâu xa…. sẽ bàn đến.
NHỮNG SUY ĐOÁN VỀ TƯƠNG LAI
(APARANTAKAPPIKA)
74. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về tương lai, nắm
lấy những quan điểm về tương lai, và ở trên bốn mươi bốn lập trường khẳng định
các tà kiến liên quan đến tương lai. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những
sa-môn và bà-la-môn dựng lên các suy đoán của họ?
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ TƯỞNG BẤT TỬ
(SANNIVĀDA)
75. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn mà đề xướng lý thuyết về tưởng bất tử và
ở trên mười sáu lập trường tuyên bố ngã tồn tại hữu tưởng sau khi chết. Và do
cái gì, đối với cái gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm
của họ?
76. Họ tuyên bố: "Ngã bất
biến sau khi chết, hữu tưởng:
A)
1. Có sắc.
2. Vô sắc.
3. Vừa có sắc vừa vô sắc.
4. Không có sắc cũng không phải không có sắc.
B)
1. Hữu biên.
2. Vô biên.
3. Vừa hữu biên vừa vô biên.
4. Không hữu biên cũng không vô biên.
C)
1. Đồng nhất tưởng.
2. Sai biệt tưởng
3. Hữu hạn tưởng.
4. Vô hạn tưởng.
D)
1. Hoàn toàn lạc.
2. Hoàn toàn khổ.
3. Vừa lạc vừa khổ.
4. Không lạc cũng không khổ.
77. Chư
tỳ-kheo, ở trên mười sáu lập trường này, những sam và bà-la-môn đề xướng lý
thuyết về tưởng bất tử, tuyên bố ngã tồn tại hữu tưởng sau khi chết. Bất cứ
sa-môn hoặc bà-la-môn nào đề xướng lý thuyết về tưởng bất tử, tất cả vị đó làm
thế trên mười sáu lập trường này, hoặc trên một trong mười sáu lập trường.
Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.
Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca
tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ VÔ TƯỞNG BẤT TỬ
(ASANNĪVĀDA)
78. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý thuyết vô tưởng bất tử, ở
trên tám lập trường tuyên bố ngã tồn tại vô tưởng sau khi chết. Do cái gì, liên
quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?
79. Họ tuyên bố: "Ngã bất
biến sau khi chết, vô tưởng:
A)
1. Có sắc.
2. Vô sắc.
3. Vừa có sắc vừa vô sắc.
4. Không có sắc cũng không phải không có sắc.
B)
1.Hữu biên
2. Vô biên.
3. Vừa có sắc vừa vô sắc.
4. Không có sắc cũng không vô sắc.
C)
1. Hữu biên.
2. Vô biên.
3. Vừa hữu biên vừa vô biên.
4. Không hữu biên cũng không vô biên.
83. Chư
tỳ-kheo, ở trên tám lập trường này, những sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý
thuyết phi tưởng phi phi tưởng bất tử, tuyên bố ngã tồn tại phi tưởng phi phi
tưởng sau khi chết. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào đề xướng lý thuyết về phi
tưởng phi phi tưởng bất tử, tất cả vị đó làm thế trên tám lập trường này, hoặc
trên một trong tám lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.
Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca
tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
CHỦ THUYẾT ĐOẠN KIẾN
(UCCHEDAVĀDA)
84. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà đoạn kiến, ở trên bảy lập
trường tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt, tiêu hoại của một chúng sanh. Do cái
gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm
của họ?
85. Chư
tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn khẳng định lý thuyết về quan điểm
sau đây: "Ngã có sắc, nó gồm có tứ đại và do cha mẹ sinh ra. Vì ngã này bị
đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân thể, và không tồn tại sau khi chết, ở
trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số tuyên bố sự
đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.
86. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng
không phải ở điểm đó mà ngã hoàn toàn bị tiêu diệt. Vì có một ngã khác-có thiên
tánh, có sắc, thuộc dục giới, sống nhờ đoàn thực. Bạn không biết cũng không
thấy, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự
diệt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị
diệt." Theo cách này một số khác tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu
hoại của một chúng sanh.
87. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị tiêu diệt. Vì có một ngã khác-có
thiên tánh, có sắc, do tâm tạo, đầy đủ chân tay và các giác quan, không thiếu
bất cứ căn nào. Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết nó và
thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân và không tồn
tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này
một số khác tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.
88. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc
về không vô biên xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn các sắc tưởng, do
biến mất các tưởng chống đối, do không chú ý đến các tưởng sai biệt, (do quán)
"Hư không là vô biên". Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng
tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân
và không tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt."
Theo cách này một số khác tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một
chúng sanh.
89. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc
về thức vô biên xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn không vô biên xứ, (do
quán) 'Thức là vô biên'. Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết
nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân và không
tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách
này một số tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.
90. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc
về vô sở hữu xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn thức vô biên xứ, (do
quán) 'Không có vật gì'. Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết
nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự việt của thân và không
tồn tại sau khi chết, ở điểm này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một
số tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.
91. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc
về phi tưởng phi phi tưởng xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn vô sở hữu
xứ, (do quán) 'Đây là tịnh lạc, đây là thâm diệu'. Bạn không biết cũng không
thấy ngã đó, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị diệt, tiêu hoại với sự
diệt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở điểm này ngã hoàn toàn bị
diệt." Theo cách này một số tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại
của một chúng sanh.
92. Chư
tỳ-kheo, ở trên bảy lập trường này mà các sa-môn và bà-la-môn là những nhà đoạn
kiến, tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh. Bất cứ
sa-môn hoặc bà-la-môn nào tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một
chúng sanh, tất cả vị đó làm thế trên bảy lập trường này, hoặc trên một trong
bảy lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.
Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca
tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ NIẾT BÀN HIỆN TẠI
(DITTHADHAMMANIBBĀNAVĀDA)
93. Chư
tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý thuyết về Niết-bàn hiện tại,
ở trên năm lập trường tuyên bố về Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh. Do cái
gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm
của họ?
94. Chư
tỳ-kheo, ở đây, có vị sa-môn hoặc bà-la-môn khẳng định lý thuyết hoặc quan điểm
sau đây: "Khi ngã này được thụ hưởng và cung cấp với năm loại dục lạc,
thỏa thích trong chúng - ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện
tại." Theo cách này một số tuyên bố Niết-bàn hịên tại của một chúng sanh.
95. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao?
Bởi vì các dục lạc là vô thường, khổ, bị thay đổi, và qua sự thay đổi và biến
hoại của chúng, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh khởi. Nhưng khi ngã, được ly thoát
hoàn toàn các dục lạc, viễn ly các bất thiện pháp, nhập và trú trong sơ thiền,
có tầm, tứ, hỷ, lạc sanh từ sự viễn ly các triền cái-ở trường hợp này ngã đạt
đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Theo cách này một nhóm khác tuyên bố tối
thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.
96. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao?
Bởi vì thiền đó chứa tầm và tứ; do vậy nó được coi là thô. Nhưng khi nào, với
sự tịnh chỉ tầm và tứ, ngã nhập và trú trong nhị thiền, nội tâm an tịnh và
chuyên nhất, có hỷ và lạc do định sanh - ở trường hợp này ngã đạt đến tối
thượng Niết-bàn." Theo cách này một nhóm khác tuyên bố tối thượng Niết-bàn
hiện tại của một chúng sanh.
97. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao?
Bởi vì thiền đó chứa hỷ và hứng khởi: do vậy nó được coi là thô. Nhưng khi nào
với sự diệt hỷ, người ta trú trong xả, có niệm và tỉnh giác, thân hưởng an lạc,
nhập và trú tam thiền, mà các bậc thánh thường ca tụng là: "Vị ấy trú một
cách an lạc, trong xả và niệm" - ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng
Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.
98. Đối với vị ấy có người nói:
"Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng
không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao?
Bởi vì thiền đó chứa lạc trú thường xuyên nơi tâm; do vậy nó được coi là thô.
Nhưng khi nào với sự từ bỏ lạc và khổ, với sự biến mất hỷ và ưu trước, người ta
nhập và trú trong tứ thiền, không có lạc và khổ và chứa niệm thanh tịnh do nhờ
xả - ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại". Theo cách
này một nhóm khác tuyên bố tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.
99. Chư
tỳ-kheo, ở trên năm lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý
thuyết về Niết-bàn hiện tại. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào tuyên bố tối
thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh, tất cả vị đó làm thế trên năm lập
trường này, hoặc trên một trong năm lập trường. Không có quan điểm nào ở bên
ngoài chúng.
Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai
hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn
các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
100. Chư
tỳ-kheo, ở trên bốn mươi bốn lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn là
những nhà suy đoán về tương lai, nắm lấy các quan điểm về tương lai, khẳng định
các tà kiến liên quan đến tương lai. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào là những
nhà suy đoán về tương lai, nắm lấy những quan điểm về tương lai, khẳng định các
tà kiến liên quan đến tương lai, tất cả vị đó làm thế trên bốn mươi bốn lập
trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.
Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai
hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn
các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
101. Chư tỳ-kheo, ở trên sáu
mươi hai lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về
quá khứ, tương lai, quá khứ lẫn tương lai, nắm lấy những quan điểm về quá khứ
và tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai.
102. Chư tỳ-kheo, bất cứ sa-môn
hoặc bà-la-môn nào là những nhà suy đoán về quá khứ, tương lai, hoặc quá khứ
lẫn tương lai, nắm giữ những quan điểm vế quá khứ và tương lai, khẳng định các
tà kiến liên quan đến quá khức và tương lai, tất cả vị đó làm thế trên sáu mươi
hai lập trường này, hoặc trên một trong sáu mươi hai lập trường. Không có quan
điểm nào ở bên ngoài chúng.
103. Chư
tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu và Ngài hiểu: "Những quan điểm này nhận lầm
như vậy, nắm giữ sai lạc như vậy, dẫn đến một sanh thú như thế, đến một kết quả
như thế ở đời sau." Ngài cũng hiểu pháp nào vượt qua điều này. Nhờ hiểu
biết như thế Ngài không nắm giữ sai lạc và bởi vì tà chấp đã được giải thoát,
Ngài đã tự chứng ngộ trạng thái an tịnh toàn hảo. Sau khi hiểu như thực sự sinh
khởi và sự diệt tận của các cảm thọ, vị ngọt và sự xuất ly chúng. Như Lai đã
giải thoát không có chấp thủ.
104. Chư tỳ-kheo, đây là các
pháp sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh và cao thượng, vượt qua phạm vi luận
lý, chỉ người có trí mới có thể hiểu biết, mà Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ
với tuệ toàn tri, đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; chính vì đối với các pháp
này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.
SỰ LUÂN CHUYỂN CỦA CÁC DUYÊN VÀ SỰ
GIẢI THOÁT
105. Chư
tỳ-kheo, nơi đây khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên
bố ngã và thế giới và thường hằng-đó chỉ là cảm thọ của những người không biết
và không thấy; đó chỉ là sự giao động và khuynh đảo của những người bị chìm đắm
trong ái.
106. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường
hằng và một phần không thường hằng-đó chỉ là sự giao động và khuynh đảo của
những người bị chìm đắm trong ái.
107. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố thế giới là hữu biên hoặc vô biên.
108. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường dùng đến những lời lẫn tránh và mập mờ
không có chỗ kết thúc.
109. Khi những sa-môn và bà-la-môn
kia ở trên hai lập trường tuyên bố ngã và thế giới sinh khởi một cách ngẫu
nhiên.
110. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên mười tám lập trường nắm giữ những quan điểm về quá khứ,
khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ.
111. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên mười sáu lập trường đề xướng lý thuyết hữu tưởng bất tử,
tuyên bố ngã tồn tại có tưởng sau khi chết.
112. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên tám lập trường đề xướng lý thuyết về vô tưởng bất tử,
tuyên bố ngã tồn tại vô tưởng sau khi chết.
113. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên tám lập trường đề xướng lý thuyết phi tưởng phi phi tưởng
bất tử, tuyên bố ngã tồn tại phi tưởng phi phi tưởng sau khi chết.
114. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên bảy lập trường tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu
hoại của một chúng sanh.
115. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên năm lập trường đề xướng lý thuyết Niết-bàn hiện tại, tuyên
bố tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.
116. Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trênbốn mươi lập trường nắm giữ những quan điểm về tương lai
khẳng định các tà kiến liên quan đến tương lai.
117. Khi những sa môn và
bà-la-môn kia ở trên sáu mươi hai lập trường nắm giữ những quan điểm về quá khứ
và tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai-đó cũng
chỉ là cảm thọ của những người không biết và không thấy; đó cũng chỉ là sự giao
động và khuynh đảo của những người bị chìm đắm trong ái.
DO DUYÊN XÚC
(PHASSAPACCAYAVĀRA)
118. (131) Chư
tỳ-kheo, khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã
và thế giới là thường hằng-đó là do duyên xúc. Sự kiện rằng, họ có thể kinh
nghiệm cảm thọ đó mà không có xúc - trường hợp như thế không thể xảy ra.
119. (132) Khi những sa-môn và
bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường
hằng và một phần không thường hằng-đó cũng do duyên xúc. Sự kiện rằng, họ có
thể kinh nghiệm cảm thọ đó mà không có xúc - trường hợp như thế không thể xảy
ra.
120. (133)-129(142). Khi những
sa-môn và bà-la-môn kia là những nhà hữu biên và vô biên, tuyên bố các quan
điểm của họ; khi những nhà ngụy biện, khi những nhà sinh khởi ngẫu nhiên; khi
các nhà suy đoán về quá khứ và nắm giữ các quan điểm vế quá khứ, khẳng định
trên mười tám lập trường về các tà kiến liên quan đến quá khứ; khi những người
mà đề xướng lý thuyết hữu tưởng bất tử, vô tưởng bất tử, hoặc phi tưởng phi phi
tưởng bất tử thuyên bố những quan điểm của học, khi những nhà đoạn kiến tuyên
bố các quan điểm của họ; khi những người đề xướng lý thuyết Niết-bàn hiện tại,
tuyên bố các quan điểm của họ; khi những người mà là những nhà suy đoán về
tương lai, nắm giữ các quan điểm về tương lai, khẳng định trên bốn mươi bốn lập
trường về các tà kiến liên quan đến tương lai-đó cũng là do duyên xúc. Sự kiện
rằng, họ có thể kinh nghiệm cảm thọ đó mà không có xúc - trường hợp như thế
không thể xảy ra.
130 (143). Khi những sa-môn và
bà-la-môn là những nhà suy đoán về quá khứ, suy đoán về tương lai, suy đoán về
quá khứ lẫn tương lai, nắm giữ các quan điểm về quá khứ và tương lai, khẳng
định trên sáu mươi hai lập trường các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương
lai-đó cũng do duyên xúc. Sự kiện rằng, họ có thể kinh nghiệm cảm thọ đó mà
không có xúc - trường hợp như thế không thể xảy ra.
SỰ GIẢI THÍCH VỀ LUÂN CHUYỂN
144. Chư tỳ-kheo, ở đây những
sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến, ở trên bốn lập trường tuyên bố
ngã và thế giới là thường hằng; những nhà thường kiến phiến diện; những nhà hữu
biên và vô biên; những nhà ngụy biện vô tận; những nhà sinh khởi ngẫu nhiên;
những nhà suy đoán về quá khứ; những người đề xướng lý thuyết về hữu tưởng bất
tử; về vô tưởng bất tử; về phi tưởng phi phi tưởng bất tử, những nhà đoạn kiến,
những người đề xướng lý thuyết Niết-bàn hiện tại; những nhà suy đoán về tương
lai, những nhà suy đoán về quá khứ, những nhà suy đoán về quá khứ lẫn tương
lai, nắm giữ các quan điểm về quá khứ và tương lai, ở trên sáu mươi hai lập
trường khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai - tất cả những
sa-môn và bà-la-môn kia kinh nghiệm những cảm thọ này chỉ có các xúc chạm
thường xuyên qua sáu xúc xứ. Với thọ làm duyên ái sinh; với ái làm duyên, thủ
sinh, với thủ làm duyên, hữu sinh, với hữu làm duyên, sanh sinh, với sanh làm
duyên, già và chết, sầu, bi, khổ, ưu và não sinh."
SỰ CHẤM DỨT LUÂN CHUYỂN
(VIVATTAKATHĀDI)
145. Chư tỳ-kheo, khi một
tỳ-kheo hiểu như thực sự sinh khởi và sự diệt tận của sáu xúc xứ, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự thoát ly chúng, lúc đó vị ấy hiểu những gì vượt xa tất cả những
quan điểm này.
146. Chư tỳ-kheo, bất cứ sa-môn
hoặc bà-la-môn nào, là những nhà suy đoán về quá khứ, những nhà suy đoán về
tương lai, những nhà suy đoán về quá khứ lẫn tương lai, nắm giữ những quan điểm
về quá khứ và tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương
lai - tất cả bị kẹt trong lưới của kinh này với sáu mươi hai loại. Bất cứ khi
nào họ trồi lên, họ trồi lên và bị tóm trong lưới này, bị kẹt và nằm gọn ngay
trong lưới này.
Chư tỳ-kheo, y như người đánh cá
lão luyện hoặc đệ tử của người đánh cá, sau khi tung ra một cái lưới có mắt
lưới thật khít qua một hồ nước nhỏ, có thể nghĩ: "Bất cứ sinh vật lớn nào
mà có trong hồ này, bất cả bị kẹt trong lưới này, bị kẹt và nằm gọn ngay trong
lưới này."-Cũng vậy, tất cả những sa-môn và bà-la-môn kia bị mắc kẹt trong
lưới này với sáu mươi hai loại của nó. Bất cứ khi nào họ trồi lên, họ trồi lên
và bị tóm trong lưới này, bị mắc kẹt và nằm gọn ngay trong lưới này.
147. Chư
tỳ-kheo, thân của Như Lai tồn tại, bị cắt đứt khỏi những ràng buộc của hữu ái.
Chừng nào thân của Ngài còn, các trời và người còn thấy Ngài. Nhưng với sự diệt
của thân và sự chấm dứt mạng căn, các trời và người sẽ không thấy Ngài nữa.
Chư
tỳ-kheo, y như khi cuống của một chùm xoài bị cắt, tất cả trái treo trên cuống
cũng rơi theo nó, cũng vậy, thân của Như Lai tồn tại bị cắt đứt khỏi những ràng
buộc của hữu ái. Chừng nào thân Ngài còn, các trời, người còn thấy Ngài. Nhưng
với sự diệt của thân và sự chấm dứt mạng căn, các trời và người sẽ không thấy
Ngài nữa.
148. Khi Thế Tôn đã thuyết xong,
đức Ānanda thưa: "Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay! Thật hy hữu thay! Bạch
Thế Tôn, tựa của thiên khái luận này là gi?"
"Này Ānanda, người có thể
nhớ thiên khái luận này có tựa là Lưới Lợi Ích, Lưới Chân Lý, Lưới Cao Thượng,
Lưới Quan Điểm. Ngươi cũng có thểnhoó nó là 'Khúc Vô Thượng Khải Hoàn".
149. Thế Tôn đã dạy như vậy. Các
tỳ-kheo vô cùng thỏa thích và hoan hỷ về lời dạy của Thế Tôn. Khi Thế Tôn vừa
giảng xong thiên khái luận này thi mười ngàn thế giới chuyển động.
DỨT KINH VĂN