Chương VII
Phẩm bảy bài kệ
396. Chuyện Ác Hạnh (Tiền thân Kukku)
Cái nóc nhà này cao thước rưỡi...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo hóa một
quốc vương. Hoàn cảnh này sẽ xuất hiện trong tiền thân Tesakuna, số 521.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là quốc sư về
thế sự cũng như thánh sự. Vua ấy đi theo tà
đạo, cai trị bất chánh và thâu góp tài
sản bằng cách đàn áp dân chúng. Bồ-tát
muốn khuyến giáo vua, liền đi quanh quẩn tìm
một ví dụ.
Bấy giờ, nội thất trong cung làm chưa xong, nên mái nhà trên ấy chưa hoàn
chỉnh. Các cây rui chống đỡ nóc nhọn chỉ vừa
mới được đặt vào đúng vị trí. Vua đã
du ngoạn trong ngự viên, khi trở về cung, vua nhìn lên và thấy nóc nhà hình
tròn, sợ nó sẽ rớt xuống, vua bước ra đứng bên
ngoài, rồi lại nhìn lên và suy nghĩ: "Làm thế nào nóc nhà này
đứng yên như vậy. Các rui này ra sao? Và
vua liền ngâm vần kệ đầu hỏi Bồ-tát:
1. Cái nóc nhà này cao thước rưỡi,
Tám cây kèo lớn đỡ quây quần
Gỗ sim-sa với sà-ra thẳng,
Bởi vậy nóc nhà đứng vững chăng?
Nghe vậy, Bồ-tát suy nghĩ: "Ta đã có
được một ví dụ để khuyến giáo nhà vua".
Ngài liền ngâm các vần kệ sau:
2. Ba mươi rui nhỏ gỗ sa-ra
Ðược xếp đều quanh dưới mái nhà,
Áp sát vào nhau nâng thật vững,
Cho nên nóc đứng thẳng ngay mà.
3. Vậy người có trí được quây quần
Với quốc sư hiền, bạn tận trung,
Sẽ chẳng sa cơ lúc mạt vận,
Như rui đỡ nóc mái thăng bằng.
Trong lúc Bồ-tát đang nói, vua xem xét kỹ hành
vi xử thế của mình: "Nếu không có nóc nhà thì các cây rui không
đứng vững; nóc nhà cũng không
đứng vững nếu không được các cây rui nâng đỡ.
Nếu các cây rui gãy thì nóc nhà sụp đổ.
Cũng vậy, một vị vua ác hạnh không tập hợp các thân bằng, đại thần, quân
đội, Bà-la-môn và gia chủ lại với nhau, và nếu
đám quần thần tan rã vua không
được nâng đỡ sẽ mất hết quyền lực, vì
thế vua phải sống công chính".
Ngay lúc ấy, đám thị nữ đem dâng vua một quả
bưởi. Vua bảo Bồ-tát:
- Này Hiền hữu, hãy ăn bưởi này.
Bồ-tát cầm bưởi và thưa:
- Tâu Ðại vương, người nào không biết cách
ăn bưởi sẽ làm cho nó đắng hoặc cay.
Song người có trí biết cách lấy chất đắng ra, và không bỏ chất chua,
hoặc làm hỏng hương vị của bưởi khi ăn bưởi.
Rồi dùng thí dụ này, ngài trình bày cho vua biết cách tạo tài sản chân
chánh qua hai vần kệ:
4. Ăn bưởi luôn phần vỏ đắng cay,
Nếu không gọt vỏ với dao này,
Chỉ ăn phần ruột là thơm ngọt,
Nếu thêm vỏ thì hết ngọt ngay.
5. Vậy người có trí chẳng hung tàn
Thâu góp thuế trong các xóm làng,
Tăng sản nghiệp nhưng không phạm tội.
Bước đường chân chánh tạo danh vang.
Vua vừa tham vấn Bồ-tát vừa đi đến hồ sen,
khi nhìn một hoa sen đang nở có màu
sáng đẹp như mặt trời mới mọc, không bị nước làm
ô nhiễm, nhà vua bảo:
- Này Hiền hữu, hoa sen kia mọc thẳng lên không bị nước làm ô nhiễm sắc
hương.
Bồ-tát liền đáp lại:
- Tâu Ðại vương, một vị vua cũng phải như vậy.
Rồi Ngài ngâm các vần kệ này để khuyến giáo:
6. Như hoa sen nở ở trong hồ
Rễ trắng, nước trong bảo dưỡng cho,
Dưới ánh mặt trời hoa nở đẹp
Không hề bụi bặm chẳng bùn nhơ.
7. Vậy người có đức hạnh đưa đường,
Khéo luyện ôn nhu, đủ thiện lương,
Như đóa sen trong hồ nước ấy,
Bùn nhơ chẳng cấu uế tâm can.
Vua nghe lời Bồ-tát khuyên giáo từ đó về sau
trị nước chân chính và thực hành các thiện sự, bố thí cùng nhiều
phước nghiệp khác, nên được sinh lên
thiên giới.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật và nhận diện
Tiền thân:
- Thời ấy, vua là Ànanda và vị quốc sư có trí chính là Ta.
-ooOoo-
397. Chuyện Sư Tử Manoja (Tiền thân Manoja)
Cung nọ đã giương cong vút lên...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Trúc Lâm về một Tỷ-kheo thân
cận bạn ác.
Hoàn cảnh đã
được nêu
đầy đủ chi tiết trong tiền thân Mahilàmukhata, số 26. Bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, không phải lần đầu kẻ này
thân cận bạn ác.
Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là Sư tử sống với
Sư tử cái và hai con, một trai một gái. Sư tử con tên là Manoja. Khi lớn
lên, nó lấy một sư tử cái làm vợ. Như thế cả bầy có năm
sư tử.
Manoja thường giết trâu rừng và nhiều dã thú khác, nhờ
đó nó đem thịt sống về nuôi cha mẹ, em và
vợ. Một hôm trong chỗ săn mồi, nó thấy một chó
rừng tên Giriya không chạy được và
đang nằm sấp. Nó hỏi:
- Này bạn, sao thế?
- Tâu Chúa công, tôi muốn phục vụ ngài.
- Thế thì tốt.
Sau đó, nó đem chó rừng về hang, Bồ-tát thấy
vậy bảo:
- Này con Manoja, chó rừng là loại độc ác
tham tàn, hay xúi giục điều xấu, đừng
đưa thứ chó này về ở gần con.
Song ngài không ngăn cản được nó.
Thế rồi một hôm, chó rừng muốn ăn thịt ngựa,
liền nói với Manoja:
- Tâu Chúa công, trừ thịt ngựa ra, chúng ta không có gì
ăn cả. Vậy chúng ta hãy
đi bắt ngựa.
- Song nơi đâu có ngựa thế, bạn?
- Tại Ba-la-nại, cạnh bờ sông.
Manoja nghe lời khuyên này và cùng đi với
chó đến nơi có bầy ngựa tắm dưới sông. Nó bắt một con ngựa, mang trên
lưng chạy nhanh về miệng hang. Sư tử cha ăn
thịt ngựa và bảo:
- Này con, bầy ngựa là tài sản của vua, mà vua chúa thường có nhiều mưu
kế, lại nhiều người thiện xạ bắn cung. Sư tử ăn
thịt ngựa không sống lâu được đâu. Từ rày con
đừng bắt ngựa nữa.
Sư tử con không theo lời cha khuyên nhủ, cứ tiếp tục bắt ngựa. Vua nghe
có con sư tử đến bắt ngựa, liền bảo làm
một hồ nước cho ngựa ở trong kinh thành. Song sư tử vẫn
đến bắt ngựa. Vua truyền làm chuồng ngựa
với máng thức ăn, nước uống đem đến tận nơi cho
chúng. Sư tử nhảy vượt bức tường và bắt ngựa từ chuồng ra. Vua liền
truyền gọi một xạ thủ có tài bắn nhanh như chớp, hỏi anh ta có thể bắn sư tử
chăng. Anh ta tâu có thể, rồi làm một
tháp canh gần bức tường, nơi sư tử thường đến và
đợi tại đấy.
Sư tử đến, để chó rừng ở một nghĩa địa bên
ngoài, còn nó nhảy vào thành bắt ngựa. Người xạ thủ suy nghĩ: "Tốc lực của
sư tử này quá nhanh khi nó đến". Cho nên
anh ta chưa bắn nó, song khi nó trở về mang theo con ngựa, bị vướng víu vì
gánh nặng kia, người xạ thủ liền bắn một mũi tên nhọn vào phía
đùi sau của sư tử. Mũi tên
đâm xuyên suốt ra phía
đùi trước và bay vút lên không. Sư tử
thét lên:
- Ta bị thương rồi!
Sau khi bắn sư tử xong, vị thiện xạ búng dây cung vang lên như sấm. Chó
rừng nghe tiếng sư tử gầm và tiếng cung vang rền, liền suy nghĩ: "Bạn ta
đã bị bắn, chắc hẳn phải chết, thôi
chẳng còn tình bạn gì với vật đã chết,
ta muốn đi về hang cũ trong rừng kia". Rồi nó
ngâm hai vần kệ:
l. Cung nọ đã giương cao vút lên,
Dây cung phát tiếng sấm vang rền,
Ma-no-ja, chúa sơn lâm ấy,
Thân hữu của ta, bị giết liền.
2. Than ôi, ta phải kiếm khu rừng,
Cố sức hết lòng, thật gắng công,
Ta phải tìm về nơi trú ẩn,
Bỗng dưng tình bạn hóa thành không.
Sư tử con chạy vụt về ném xác ngựa trước miệng hang, rồi ngã chết liền.
Thân quyến vội bước ra, thấy mình nó nhuộm đầy
máu từ vết thương chảy xiết, vừa nằm chết vì
đã đi theo
bạn ác. Cha, mẹ, em và vợ sư tử lần lượt ngâm bốn vần kệ:
Cha:
3. Số phận con ta chẳng thịnh hưng,
Say mê, kết hợp ác thân bằng,
Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
Do bởi lời khuyên của chó rừng.
Mẹ:
4. Lòng mẹ chẳng vui khi thấy con
Kết giao với bọn ác thân bằng
Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
Máu chảy nhuộm đầy cả tấm thân.
Em:
5. Cũng vậy bước đi kẻ thấp hèn
Trong đời tăm tối phải nằm yên,
Không hề nghe được lời khuyên nhủ
Của bạn thật chân, bậc trí hiền.
Vợ:
6. Phần số tệ tàn hơn biết bao
Khi người ở địa vị trên cao
Lại tin tưởng bọn người hèn kém,
Nhìn chúa sơn lâm đã ngã nhào!
*
Và cuối cùng là vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của
đức Phật:
7. Ai theo bọn hạ tầng
Chính nó bị bỏ ruồng;
Ai thân người đồng đẳng
Chẳng hề bị phụ phàng;
Ai phục người tối thượng
Sẽ mau chóng thịnh hưng.
Vậy tìm người ưu việt
Ðể có chốn nương thân.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết
thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thân cận bạn ác đã
được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, chó rừng là Ðề-bà-đạt-đa, Manoja
là vị Tỷ-kheo thân cận bạn ác, em gái là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc),
vợ của sư tử là Tỷ-kheo-ni Khemà (Thái Hòa), Sư tử mẹ là mẫu thân Ràhula và
Sư tử cha chính là Ta.
-ooOoo-
398. Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền thân Sutana)
Vua đã gửi ngươi một bát cơm...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng
dưỡng cha mẹ mình. Hoàn cảnh sẽ xuất hiện trong Tiền thân Sàma, số 540.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh vào một gia
đình nghèo, cha mẹ
đặt tên ngài là Sutana. Khi lớn khôn,
ngài làm việc kiếm tiền nuôi cha mẹ, đến thời
cha ngài qua đời, ngài phụng
dưỡng mẹ mình.
Thời ấy, vua Ba-la-nại thích săn bắn. Một
hôm vua cùng quần thần đông đảo đi vào
một khu rừng rộng khoảng một hai đặm, và
truyền lệnh cho tất cả mọi người:
- Nếu có con nai nào chạy thoát ở điểm canh
giữ của người nào thì người ấy bị phạt số tiền bằng giá con nai.
Sau khi dựng một túp lều được dấu kín bên
vệ đường, quần thần dâng nó cho vua dùng.
Bầy nai bị chấn động vì tiếng la hét của
đám người bao vây nơi trú ẩn của chúng, rồi một
con nai chạy về địa điểm vua canh giữ. Vua nghĩ thầm "Ta muốn bắn nó" rồi
giương cung lên. Con vật biết mưu kế
đánh lừa, thấy mũi tên sắp đến gần sườn
liền ngã lăn tròn như thể trúng
mũi tên. Vua nghĩ: "Ta đã bắn trúng nó
và chạy lại bắt nai."
Nhưng con nai vùng lên lao vụt nhanh như gió. Quần thần và mọi người kia
đều cười nhạo vua. Ông liền đuổi theo con nai
cho đến khi nó mệt nhoài thì rút kiếm chặt nó làm
đôi. Rồi kéo con nai lên một khúc gỗ,
ông khiêng nó lên như cái đòn gánh, vừa
đi vừa nói: "Ta muốn nghỉ ngơi một lát", ông
đến gần cây đa bên vệ đường và
nằm xuống ngủ say.
Một quỷ Dạ-xoa (Yakkha) tên là Makhadeva tái sinh ở cây
đa này,
được Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) cho phép bắt mọi sinh vật nào
đến gần nó để ăn thịt. Khi vua này thức
dậy, Dạ-xoa bảo:
- Cứ ở lại đây, ngươi là món mồi của
ta.
Rồi nó cầm lấy tay vua.
- Ngài là ai? Vua hỏi.
- Ta là Quỷ Dạ-xoa, sinh ra tại đây. Ta bắt
mọi người đến nơi đây để ăn thịt.
Vua lấy hết can đảm hỏi:
- Thế ngài chỉ ăn thịt hôm nay hay ăn mãi?
- Ta sẽ còn ăn mãi mọi vật ta bắt
được.
- Thế thì hãy ăn con nai này hôm nay
và để ta đi về. Từ ngày mai ta sẽ gửi
cho ngài một người cùng với một đĩa cơm mỗi ngày.
- Vậy hãy cẩn thận đấy. Hễ ngày nào
không gởi ai đến thì ta sẽ
ăn thịt ngươi.
- Ta là quốc vương ở Ba-la-nại, chẳng có việc gì ta không làm
được cả.
Quỷ Dạ-xoa nhận lời hứa rồi để vua ra về.
Khi vua đến kinh thành, ông đem chuyện
ấy kể cho vị cận thần nghe và hỏi những gì cần phải làm.
- Tâu Ðại vương, có hạn kỳ nhất định nào
không?
- Không.
- Thế thì Ðại vương đã tính việc sai
rồi đấy. Nhưng không sao cả. Có rất nhiều tù
nhân trong ngục.
- Vậy khanh cố sắp đặt việc này
để cứu mạng ta.
Vị cận thần đồng ý, mỗi ngày bắt một
tù nhân từ trong ngục gửi ra cho quỷ Dạ-xoa cùng với một dĩa cơm mà không
nói gì với kẻ ấy cả. Quỷ Dạ-xoa ăn hết cả cơm
lẫn người. Sau một thời gian các ngục thất đều trống vắng. Vua tìm
không ra người đi đưa cơm, lòng run rẩy
sợ chết. Vị cận thần an ủi ông và bảo:
- Tâu Ðại vương, lòng tham tài sản còn mạnh hơn lòng tham sống. Ta hãy
gói một ngàn đồng tiền đặt trên lưng
voi, rồi lấy trống truyền lệnh: "Ai muốn đem
cơm cho quỷ Dạ-xoa và lãnh số tiền bạc này?".
Vua nghe lời làm theo như vậy. Bồ-tát suy nghĩ: "Ta chỉ làm công
được một xu rưởi mỗi ngày khó lòng phụng
dưỡng mẹ. Nay ta muốn lấy số tiền kia trao cho mẹ rồi
đi gặp quỷ Dạ-xoa. Nếu ta thắng nó thì
tốt, còn nếu không thì mẹ ta cũng sống an nhàn sung túc". Vì thế ngài nói
chuyện với mẹ, song bà bảo:
- Mẹ vừa đủ rồi, mẹ không cần tiền bạc.
Rồi bà ngăn cản ngài hai lần, nhưng
lần thứ ba, ngài không xin phép mẹ nữa, mà đến
gặp quan quân nói:
- Thưa các quan, hãy đưa ngàn
đồng tiền, tôi nhận mang cơm đi.
Rồi đưa cho mẹ ngàn
đồng tiền, ngài bảo:
- Mẹ thân yêu, đừng lo buồn, con sẽ thắng
quỷ Dạ-xoa và đem hạnh phúc cho mọi
người. Con sẽ trở về nhà khiến cho mẹ
đang khóc than phải cười to lên đấy.
Rồi chào mẹ xong, ngài cùng quan quân đi yết
kiến vua, rồi kính lễ vua và đứng tại
đó. Vua hỏi:
- Này, thiện nam tử, cậu muốn đem cơm
à?
- Tâu Ðại vương, phải.
- Thế cậu cần mang theo vật gì bên mình?
- Tâu Ðại vương, đôi hài bằng vàng
của ngài.
- Tại sao thế?
- Tâu Ðại vương, quỷ Dạ-xoa kia chỉ ăn thịt
kẻ nào đứng trên mặt
đất dưới gốc cây của nó, còn tiểu tử sẽ
đứng trên
đôi hài, chứ không phải trên mặt đất.
- Thế còn vật gì nữa?
- Tâu Ðại vương, chiếc lọng của ngài.
- Tại sao thế?
- Tâu Ðại vương, quỷ Dạ-xoa kia chỉ ăn thịt
kẻ nào đứng dưới bóng cây của nó, còn
tiểu tử đứng dưới bóng chiếc lọng, chứ không
phải bóng cây.
- Thế còn vật gì nữa?
- Tâu Ðại vương, thanh kiếm của ngài.
- Ðể làm gì?
- Tâu Ðại vương, ngay loài quỷ cũng sợ những người mang khí giới trong
tay.
- Thế còn gì nữa chăng?
- Tâu Ðại vương, cái bát vàng của ngài, đựng
đầy ngự thiện dâng lên ngài.
- Này thiện nam tử, tại sao vậy?
- Một người có trí khôn như tiểu tử mà phải
ăn cơm gạo thô trong dĩa đất thì không thích hợp chút nào.
Vua chấp thuận và sai các quan đem đủ mọi
thứ ngài đã yêu cầu. Bồ-tát thưa:
- Tâu Ðại vương, đừng sợ gì cả, tiểu
tử nguyện sẽ trở về hôm nay sau khi chiến thắng quỷ Dạ-xoa và
đem lại an lạc cho ngài.
Thế rồi ngài cầm mọi thứ cần dùng và đi đến
nới ấy, ngài sắp đặt mọi người đứng
không xa nơi ấy rồi mang đôi hài vàng vào chân,
đeo thanh kiếm vào
đai, che chiếc lọng trên
đầu và cầm bát cơm bằng vàng
đến gặp Dạ-xoa.
Quỷ Dạ-xoa nhìn ra đường thấy ngài
liền suy nghĩ: "Người này đến đây không giống
bọn người đã đến trước kia, vì
duyên cớ gì vậy?".
Bồ-tát đứng gần cây, lấy mũi kiếm đẩy dĩa
cơm vào dưới bóng cây rồi đứng gần bóng
cây, ngâm vần kệ đầu:
1. Vua đã gửi ngài một bát cơm,
Lại thêm thịt nấu thật ngon thơm,
Ma-kha có ở nhà không đấy,
Xin hãy bước ra nhận để ăn!
Nghe vậy, quỷ Dạ-xoa suy nghĩ: "Ta muốn đánh
lừa nó, rồi sẽ ăn thịt nó khi nó bước vào bóng cây". Con quỷ liền
ngâm vần kệ thứ hai:
2. Hãy bước vào trong, hỡi cậu trai,
Với cao lương mỹ vị trên tay,
Cả cơm cùng với thân người nữa,
Này cậu, ta xơi tuyệt lắm thay!
Tiếp theo, Bồ-tát đáp hai vần kệ:
3. Dạ-xoa sẽ mất vật to hơn
Ðổi lấy vật này bé con con.
Tất cả mọi người đều sợ chết,
Chẳng còn ai đến biếu cao lương!
4. Vậy ngài sẽ được cấp lương cao
Tinh sạch nêm gia vị ngọt ngon.
Song nếu ăn ta, thì khó kiếm
Một người nào khác đến đem cơm.
Quỷ Dạ-xoa suy nghĩ: "Cậu trai này nói có lý", rồi
đầy thiện ý, nó ngâm hai vần kệ:
5. Su-ta-na, quả thật đúng thay
Mối lợi ta như cậu tỏ bày,
Hãy trở lại thăm hiền mẫu nhé,
Ta cho phép cậu bước đi ngay.
6. Lấy gươm, lọng, bát, cậu thanh niên,
Hãy nhắm đường đi, cất bước liền,
Thăm mẹ hiền trong niềm phấn khởi,
Cho bà sống hạnh phúc bình yên.
Nghe lời Dạ-xoa, Bồ-tát hoan hỷ, ngài nghĩ thầm: "Bổn phận ta
đã hoàn thành, quỷ Dạ-xoa
đã được
chinh phục, ta được hưởng tài sản và lời hứa của vua
đã được
thực hiện". Ngài liền ngâm vần kệ cuối cùng:
7. Dạ-xoa cùng với mọi thân nhân,
Mong ước toàn gia được phước ân,
Lệnh vua đã thực hành viên mãn,
Tài sản ta nay được hưởng phần.
Ngài khuyến giáo quỷ Dạ-xoa và bảo:
- Này bạn, xưa kia bạn đã tạo ác
nghiệp, bạn tham tàn độc ác, ăn thịt nhiều
người nên tái sinh làm quỷ Dạ-xoa. Từ rày về sau
đừng giết hại sinh mạng như vậy nữa.
Thế là ngài nêu rõ mọi công đức nhờ giữ giới
hạnh và các nỗi khổ đau vì tạo ác
nghiệp. Rồi an trú quỷ Dạ-xoa vào Ngũ giới, ngài bảo:
- Này, tại sao bạn ở trong rừng? Mau lên, ta sẽ
để bạn cư ngụ cạnh cổng thành và bảo
đem cao lương mỹ vị đến cho bạn.
Sau đó ngài ra
đi cùng quỷ Dạ-xoa, bảo nó cầm kiếm cùng
nhiều vật khác và đến thành Ba-la-nại.
Quân sĩ báo tin Sutana đã trở về cùng
quỷ Dạ-xoa. Vua cùng triều thần đi ra đón
Bồ-tát và làm chỗ cư trú cho quỷ Dạ-xoa tại cổng thành, rồi sai người
đem cao lương mỹ vị cho nó. Xong vua vào
thành, lấy trống truyền lệnh hội họp toàn dân trong thành
để tuyên dương công trạng của Bồ-tát và
phong ngài chức vụ thống lãnh quân đội. Còn
chính vua được an trú vào lời dạy của
Bồ-tát, thực hành nhiều thiện sự, bố thí và các công
đức khác nên về sau tái sinh cõi thiên.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết
thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ đã
đạt Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, quỷ Dạ-xoa là Angulimàla (Người
đeo vòng ngón tay), vua là Ànanda và hiếu tử kia chính là Ta.
-ooOoo-
399. Chuyện Chim Thứu (Tiền thân Gijjha)
Làm sao thân lão biết tìm mồi...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng
dưỡng mẹ mình.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh làm chim Thứu (kên kên). Khi
lớn lên, ngài đưa cha mẹ đã già và mù
mắt vào ở trong hang thứu và đem thịt quạ cùng
nhiều loại khác về nuôi hai vị. Thời ấy có một thợ săn
đặt bẫy bắt chim thứu quanh nghĩa địa Ba-la-nại.
Một hôm Bồ-tát đi kiếm thịt đến gần nghĩa
địa và sa chân vào bẫy. Ngài không nghĩ
đến mình, mà chỉ nhớ đến cha mẹ già:
"Giờ đây làm sao cha mẹ sống
được? Ta chắc hai vị sẽ chết vì không
biết ta mắc bẫy, sẽ bơ vơ khốn khổ và héo mòn dần trong hang núi ấy". Do vậy
ngài ngâm vần kệ đầu than khóc:
1. Làm sao thân lão biết tìm mồi
Trong chốn hang sâu của núi đồi?
Ta bị buộc chân vào chiếc bẫy,
Làm nô lệ của Ni-la thôi.
Con trai người thợ săn, nghe ngài
than khóc, liền ngâm vần kệ thứ hai, chim Thứu ngâm vần kệ thứ ba và cứ liên
tiếp xen kẽ như vậy:
Con của thợ săn:
2. Chim Thứu, sao chim khóc ỉ ôi,
Tiếng chim đưa đến tận bên tai,
Ta chưa từng thấy hay nghe được
Chim biết thốt ra tiếng giống người.
Chim Thứu:
3. Ta nuôi phụ mẫu đã già rồi
Ở trong hang nọ dưới chân đồi,
Làm sao thân lão tìm mồi được
Khi thứu trở thành nô lệ người?
Con của thợ săn:
4. Kên kên nhìn xác chết đằng xa
Hơn cả một trăm dặm vượt qua,
Vì cớ sao chim không thấy rõ
Lưới kia bẫy nọ thật gần mà?
Chim Thứu:
5. Khi đời sắp đến vận suy tàn,
Thần chết đang đòi hỏi số phần,
Dù có đứng gần bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy đặt dây giăng!
Con của thợ săn:
6. Thôi hãy về đi với lão thân
Ở trong hang núi, hãy chăm nom,
Về thăm cha mẹ trong an lạc,
Chim được ta cho thỏa ước mong.
Chim Thứu:
7. Hỡi thợ săn cùng cả họ hàng,
Cầu mong hạnh phúc đến nhà chàng!
Ta về với mẹ cha già yếu,
Chăm sóc hai thân ở dưới hang.
Sau đó Bồ-tát được giải thoát khỏi nỗi sợ
chết, vui mừng tạ ơn vừa ngâm vần kệ cuối cùng, vừa ngậm
đầy thịt trong mỏ và bay về
đưa mồi cho cha mẹ.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo
được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, người thợ săn là Channa
(Xa-nặc), cha mẹ ta là thân quyến trong hoàng gia và Thứu vương là Ta.
-ooOoo-
400. Chuyện Hoa Cỏ Kusa (Biệt hiệu của Chó rừng - Tiền thân Dabbhapuppha)
Này bạn A-nu, chạy tới ngay...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Upananda, một người
của bộ tộc Thích-ca (sakya).
Vị ấy xuất gia theo Giáo-pháp, nhưng lại từ bỏ các hạnh tri túc và những
đức hạnh khác nên trở thành tham lam.
Ðầu mùa mưa, ông đến ở thử hai ba tinh xá, để
lại một cái dù hay chiếc hài ở một tinh xá, và một chiếc gậy hay bình
nước ở một tinh xá khác, rồi chính ông đến an
cư ở một tinh xá khác nữa. Ông bắt đầu trú mưa tại một tinh xá ở thôn quê
và bảo:
- Chư Tỷ-kheo phải sống tri túc.
Rồi cố ra vẻ như đang làm cho mặt trăng
xuất hiện trên trời, ông giải thích pháp môn
đưa đến hạnh tri túc, tán thán đời sống tri túc
với các nhu cầu tối thiểu. Nghe lời ông, Tăng chúng ném bỏ mọi y bát tốt
đẹp, mang bát đất phấn tảo y (y bằng giẻ rách), ông liền đem các thứ kia về
tư thất của mình. Khi mùa mưa và lễ Tự tứ (Pavàranà)
đã xong, ông chất
đầy một xe chở đến Kỳ Viên.
Trên đường đi, dừng lại phía sau một tinh xá
trong rừng, ông lấy dây leo quấn hai chân và nói:
- Chắc chắn có thể kiếm được vài thứ
ở đây.
Rồi ông đi vào tinh xá. Có hai
Tỷ-kheo già đã an cư mùa mưa ở
đó, họ kiếm được hai tấm y vải thô và
một chiếc mền lông mịn, rồi chẳng biết phải chia chúng ra sao, họ hoan hỷ
khi thấy ông đến, nghĩ thầm: "Trưởng lão
này sẽ chia các vật dụng cho hai ta", liền nói:
- Này Hiền giả, chúng tôi không thể chia các y phục dùng cho mùa mưa này
được, chúng tôi có bàn cãi về việc này,
xin Hiền giả chia dùm chúng tôi.
Vị ấy bằng lòng, chia hai tấm y vải thô cho họ, còn ông lấy cái mền, và
bảo họ:
- Vật này dành cho tôi là người biết Giới luật.
Rồi ông bỏ đi. Hai Trưởng lão này
thích chiếc mền, liền cùng đi với ông đến Kỳ Viên
và kể câu chuyện với chư Tăng hiểu biết luật,
rồi hỏi:
- Có đúng là những vị biết Giới luật
lại cướp bóc tài sản như vậy chăng?
Tăng chúng thấy đống y bát do Tỷ-kheo
Upananda đem đến, liền hỏi:
- Này Hiền giả, Hiền giả thật có đại phước
đức, Hiền giả đã tạo được nhiều thực
phẩm và y phục thế kia!
Ông đáp:
- Này các Hiền giả, tôi có phước đức gì
đâu? Tôi chỉ lấy được các thứ này theo
cách như vầy như vầy.
Rồi ông đem mọi chuyện kể ra hết cho mọi
người nghe.
Tại Chánh pháp đường, Tăng chúng nêu
vấn đề thảo luận, bảo nhau:
- Này các Hiền giả, Tỷ-kheo Upananda thuộc bộ tộc Thích-ca, rất tham lam
tài vật.
Bậc Ðạo Sư thấy đề tài của các vị,
liền bảo:
- Này các Tỷ-kheo, hành vi của Upannanda không phù hợp
để tinh tấn. Khi một Tỷ-kheo giảng giải hạnh
tinh tấn cho người khác thì trước tiên thì tự mình phải cho phù hợp
rồi mới giáo giới người khác.
Giữ mình đúng mực trước tiên,
Rồi sau thuyết giảng, bậc hiền vị tha.
Bằng cách ngâm vần kệ Pháp cú này, Ngài giải bày Giáo pháp và nói:
- Này các Tỷ-kheo, không phải Upananda chỉ tham lam lần
đầu, mà xưa kia kẻ ấy cũng
đã cướp bóc tài vật của loài khác nữa.
Rồi ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa. khi vua Brahamdatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát làm một Thần
cây bên bờ sông. Một con chó rừng tên Màyàvì, đã
có vợ và sống một nơi gần bờ sông. Một ngày kia, vợ nó bảo chồng:
- Này chàng, thiếp có một niềm ao ước, thiếp muốn
ăn cá hồng rohita tươi.
Chó rừng đáp:
- Cứ yên lòng, ta sẽ đem cá tươi về cho nàng.
Rồi nó ra phía con sông, quấn chân bằng dây leo
đi dọc theo bờ. Lúc ấy có hai con rái cá tên
Gambhìracàri và Anutìracàri đang đứng trên
bờ rình bắt cá. Gambhìracàri chợt thấy một con cá hồng rohita lớn, liền nhảy
xuống nước chụp lấy đuôi cá. Con cá quá mạnh vùng
ra được lôi theo rái cá. Nó liền gọi bạn:
- Con cá này to lắm, vừa đủ cho hai ta.
Rồi nó ngâm vần kệ đầu:
1. Này bạn A-nu, chạy tới ngay,
Ta cầu khẩn bạn giúp ta đây,
Ta vừa bắt cá này to lớn,
Song nó kéo ta mạnh thế này!
Nghe vầy, con kia ngâm vần kệ thứ hai:
2. Gam-bhi, bạn tốt số dường nào!
Móng vuốt bạn cầm vững mạnh sao!
Chẳng khác đại bàng câu rắn nước,
Ta câu cá nọ nhấc lên cao!
Sau đó cả hai rái cá kéo con cá hồng rohita
đặt xuống đất và cắn nó chết xong, lại bảo nhau:
- Bạn chia cá ra nào.
Rồi chúng cãi nhau nhưng không chia cá được
phải ngồi xuống, và để cá nằm đó. Lúc ấy
chó rừng vừa bước tới chỗ ấy. Thấy chó, cả hai đều chào rất lễ phép
và nói:
- Thưa Tôn ông có lông màu cỏ xám, con cá này do hai chúng tôi bắt
được, rồi sinh chuyện cãi nhau vì chúng
tôi không biết cách chia cá. Xin Tôn ông chia cá
đều hai phần dùm cho.
Rồi chúng ngâm vần kệ thứ ba:
3. Một cuộc tranh giành giữa chúng tôi
Tôn ông mang áo xám kia ôi!
Xin ông ổn định dùm tranh chấp
Cho thật công bằng giữa cả đôi.
Chó rừng nghe vậy, liền tự xưng anh hùng qua vần kệ:
4. Ta đã giải phân lắm cạnh tranh
Làm xong sứ mạng thật hòa bình,
Chư Tôn hãy để điều tranh chấp
Tại hạ công bình ổn định nhanh.
Ngâm vần kệ xong, chó chia cá và ngâm thêm vần kệ này:
5. A-nu, hãy lãnh phần đuôi,
Còn chú Gam-bhì, thủ cấp rồi,
Phần giữa dành cho ta xử kiện,
Trả công xứng đáng thế này thôi!
Như vậy, sau khi chia cá xong, chó rừng bảo:
- Các ông ăn đầu đuôi cá chứ đừng cãi
nhau nữa.
Rồi ngậm khúc giữa vào mồm, nó chạy bay trước mắt cặp rái cá. Chúng ngồi
ủ rũ, như thể vừa mất cả ngàn đồng tiền, rồi
ngâm vần kệ thứ sáu:
6. Nếu không tranh cãi chuyện vừa rồi,
Chắc chắn là vừa đủ cá thôi,
Nay bị chó rừng mang hết thịt,
Chỉ còn để lại khúc đầu đuôi!
Chó rừng rất hài lòng, nghĩ thầm: "Nay ta
đem cá hồng rohita về cho vợ ta", rồi nó đi tìm vợ. Chó cái thấy nó
đến, liền đon đả chào mừng và ngâm vần
kệ:
7. Như vua mãn nguyện được cầm quyền
Thâu gọn giang sơn trị nước yên,
Mãn nguyện ta nhìn chàng trở lại,
Ngậm đầy trong mỏ cá tươi nguyên!
Rồi nó hỏi chó rừng cách nào kiếm được mồi
ngon qua vần kệ:
8. Chàng vốn sinh ra ở đất bằng,
Làm sao bắt cá giữa dòng sông?
Phu quân, chàng lập kỳ công ấy,
Cho biết vì sao, thiếp ước mong.
Chó rừng ngâm vần kệ giải thích phương cách ấy cho vợ nghe:
9. Vì cạnh tranh nên chúng yếu dần,
Cạnh tranh làm chúng phải suy tàn,
Cạnh tranh, rái cá mất phần hưởng,
Vì vậy Mà-yà được miếng ngon.
*
Và một vần kệ khác nữa xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của
đức Phật:
10. Cũng vậy, tranh giành giữa thế nhân,
Tìm người xử kiện: nó chia phần,
Gia tài của chúng suy tàn hết,
Công khố nhà vua được thịnh hưng.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các sự thật và nhận diện
tiền thân:
- Thời ấy, chó rừng là Upananda, hai con rái cá là hai người kia, và Thần
cây chứng kiến câu chuyện chính là Ta.
-ooOoo-
401. Chuyện Người Nuốt Lưỡi Kiếm (Tiền thân Dasanaka)
Bảo kiếm Da-san thích máu hồng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về âm mưu quyến rủ một
Tỷ-kheo do người vợ cũ gây ra.
Tỷ-kheo ấy thú nhận đã thối thất vì
lý do này. Bậc Ðạo Sư bảo:
- Nữ nhân ấy đã làm hại ông. Thời xưa
ông cũng đã suýt chết vì tương tư kẻ ấy.
Về sau nhờ các bậc trí ông được cứu sống lại.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi Ðại vương Maddava trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh làm con một gia
đình Bà-la-môn. Cha mẹ
đặt tên ngài là nam tử Senaka. Khi lớn
lên, ngài đi học mọi nghệ thuật tại Takkasilà,
và khi về Ba-la-nại Ngài trở thành quốc sư của vua Maddava về thế sự cũng
như thánh sự. Ngài được danh hiệu bậc Hiền trí
Senaka và được cả kinh thành sùng
kính như mặt trăng, mặt trời.
Thời ấy con trai của vị tế sư hoàng gia đến
yết kiến vua, thấy bà chánh hậu trang
điểm ngọc vàng cực kỳ diễm lệ, đâm ra si
tình, khi về nhà chẳng chịu ăn uống gì
cả, cứ nằm dài ra. Bạn hữu liền hỏi thăm và
chàng trai kể hết mọi chuyện. Vua hỏi:
- Con trai của vị tế sư hoàng gia không đến,
việc này là thế nào?
Khi nghe duyên cớ, vua cho gọi chàng trai vào và bảo:
- Trẫm trao hoàng hậu cho cậu trong bảy ngày, cứ ở nhà cậu bảy ngày ấy
xong, qua ngày thứ tám, cậu trả lại nàng cho ta.
- Thế thì tốt lắm, tâu Ðại vương.
Chàng trai đáp rồi đem hoàng hậu về
nhà thọ hưởng lạc thú với nàng. Hai người đâm
ra say mê nhau, và bí mật trốn khỏi nhà chạy sang một xứ khác, không
ai biết họ đi đâu và
đường đi của họ chẳng khác nào
đường của con tàu trên biển cả.
Vua truyền đánh trống thông báo khắp kinh thành,
nhưng dù đã tìm mọi nơi, họ vẫn không
thấy nàng đã
đến đâu cả. Sau đó nỗi đau buồn khủng khiếp vì
thiếu nàng xâm chiếm trọn tâm can vua. Tim ông bừng nóng rực và trào máu ra
ngoài! Tiếp theo đó, máu từ ruột gan chảy ra
khiến bệnh trầm trọng thêm. Các ngự y tài danh
đều không thể chữa trị được đành bó tay.
Bồ-tát suy nghĩ: "Bệnh này không phải do nội thân vua, mà do vua mắc tương
tư vì không thấy hoàng hậu. Ta thử dùng vài phương cách chữa trị xem sao.
"Ngài liền gọi hai quốc sư hiền trí của vua là Àyura và Pukkusa vào bảo:
- Ðức vua không có bệnh gì, ngoại trừ tâm bệnh chỉ vì ngài không thấy
hoàng hậu đó thôi. Giờ đây ngài là bậc
cứu hộ cao cả đối với thần dân. Ta quyết tìm
mọi cách trị bệnh ngài. Ta muốn triệu tập một
đám quần chúng vào sân chầu và bảo một người biết xảo thuật nuốt lưỡi
kiếm sắc biểu diễn việc này. Ta sẽ đưa Hoàng
thượng ra cửa sổ nhìn xuống đám đông. Ngài
sẽ nhìn người nuốt lưỡi kiếm và hỏi: "Có việc gì khó hơn thế chăng?".
Lúc ấy, này Tôn giả Àyura, xin hãy đáp:
"Nói: Ta sẽ từ bỏ vật này vật kia, còn khó hơn nữa". Sau
đó ngài sẽ hỏi Tôn giả Pukkusa, và Tôn
giả cần phải trả lời: Tâu Ðại vương, nếu một người nói: "Ta từ bỏ vật này
vật kia", rồi lại không bỏ nó được, thì
lời nói đó sẽ vô ích thôi. Không ai sống hay
uống ăn bằng những lời như vậy, nhưng người nào hành
động theo lời nói và
đem cho một vật đúng theo lời hứa thì
chính họ làm được một việc khó hơn việc kia nữa
đấy". Sau đó ta sẽ tìm cách tiến hành mọi sự tiếp theo.
Thế là ngài bảo tập họp một đám đông. Rồi ba
bậc trí nhân ấy vào trình vua:
- Tâu Ðại vương, có đám đông trong sân chầu.
Nếu ai nhìn xuống đó đổi sầu làm
vui. Vậy xin Ðại vương hãy cùng chúng thần đến
đó xem sao.
Ba vị rước vua đến hé mở cửa sổ cho vua nhìn
thấy đám đông. Nhiều người lần lượt biểu diễn
các xảo thuật mà mình biết. Sau cùng có một người nuốt lưỡi kiếm sắc
cạnh dài ba mươi ba phân (33 phân Anh: khoảng 80 cm).
Vua thấy vậy suy nghĩ: "Người này đang nuốt
lưỡi kiếm, ta muốn hỏi các bậc trí nhân này xem có việc gì khó hơn
không?"
Rồi vua ngâm vần kệ đầu hỏi Àyura:
1. Bảo kiếm Da-san thích máu hồng,
Cạnh đều sắc nhọn thật hoàn toàn,
Giữa đông người, nó ăn thanh kiếm,
Chẳng có việc nào khó nữa chăng?
Ta hỏi có gì đem sánh được
Nhờ khanh giải đáp, hởi hiền nhân.
Àyura ngâm vần kệ thứ hai đáp lời:
2. Lòng tham dụ kẻ nuốt thanh gươm,
Cho dẫu lưỡi gươm bén thập toàn,
Song nói: "Ta cho, lòng tự nguyện"
Là điều khó thực hiện vô cùng,
Mọi điều gì khác
đều không khó,
Ðại đế Kiệt-đà, tôi giải phân.
Khi vua nghe lời Àyura, ông liền suy nghĩ: "Thế thì bảo: "Ta cho vật này"
còn khó hơn nuốt thanh kiếm. Vậy ta đã
nói: "Ta ban hoàng hậu cho con trai tế sư", tức là ta
đã làm một việc rất khó". Nhờ thế nỗi
đau buồn trong tâm vua lắng dịu được một chút.
Rồi suy nghĩ: "Có gì khó hơn nói: "Ta cho người khác vật này" chăng?",
ông lại ngâm vần kệ thứ ba nói chuyện với Trí giả Pukkusa:
3. Ày-ra đã giải
đáp lời ta,
Trí tuệ cao siêu quả thật là,
Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
Còn gì khó nữa hỡi, Pusk-sa,
Nếu đem so sánh điều trên ấy,
Hiền giả, xin mời giải đáp ta.
Trí giả Pukkusa ngâm vần kệ thứ tư đáp lại:
4. Người ta không sống được bằng lời,
Lời nói thốt ra uổng phí thôi,
Song nếu đem cho không tiếc nuối,
Việc này còn khó bội hơn rồi.
Mọi điều gì khác
đều không khó,
Ðại đế, đây lời đáp của tôi.
Vua nghe vầy, suy nghĩ: "Trước tiên ta nói: "Ta sẽ
đem hoàng hậu ban cho con trai tế sư",
rồi ta đã làm theo lời hứa và
đem cho nàng. Hiển nhiên ta
đã làm một việc rất khó". Do vậy, nỗi
sầu của vua giảm bớt phần nào. Rồi ông chợt nghĩ: "Không có ai thông thái
hơn Trí giả Senaka. Ta muốn hỏi vị ấy câu này".
Ông liền ngâm vần kệ thứ năm hỏi ngài:
5. Puk-sa đã giải
đáp lời ta,
Trí tuệ cao siêu quả thật là.
Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
Còn gì khó nữa, hỡi Sen-ka,
Nếu đem so sánh điều trên ấy,
Hiền giả xin mời giải đáp ta.
Senaka ngâm vần kệ thứ sáu đáp lời vua:
6. Nếu người có của đã
đem cho
Bất luận là gì, dẫu nhỏ to,
Ðừng tiếc nuối sau khi bố thí,
Việc này quả thật khó hơn mà,
Mọi điều gì khác
đều không khó,
Xin đáp Ðại vương Ma-kiệt-đà.
Vua nghe lời Bồ-tát, lại suy nghĩ: "Ta đã
đem hoàng hậu ban cho con trai tế sư do
ta tự nguyện, nay ta lại không kiềm nỗi ưu tư, ta sinh phiền não, héo mòn:
thật không xứng đáng với ta. Nếu nàng
thương yêu ta thì nàng đã không bỏ vương
quốc mà chạy trốn như vậy. Ta còn phải liên hệ gì với nàng
đã không yêu thương ta và bỏ trốn
đi?".
Trong lúc vua suy nghĩ như vậy, mọi sầu não
đều rơi rụng hết như giọt nước đổ trên lá sen, lập tức tâm vua
được bình an. Ông hồi phục sức khỏe và
an lạc ngâm vần kệ cuối cùng tán thán Bồ-tát:
7. Ày-ra giải đáp lời ta,
Thế rồi Hiền giả Puk-sa cũng vầy,
Lời Sen-ka quả thật hay,
Trong ba lời giải lời này tối ưu.
Sau khi tán thán, vua hoan hỷ ban thưởng ngài nhiều vàng bạc châu báu.
*
Khi pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các sự thật. Khi các sự thật kết thúc, vị Tỷ-kheo thối thất
đã được an
trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, hoàng hậu là người vợ cũ, vua là là Tỷ-kheo thối thất, Àyura
là Moggallàna, Pukkusa là Sàriputta và Hiền giả Senaka chính là Ta.
-ooOoo-
402. Chuyện Túi Da
Đựng Bánh (Tiền thân Sattubhasta)
Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự Viên mãn của Trí
tuệ Tối thắng. Hoàn cảnh chuyện này sẽ xuất hiện trong tiền thân
Mahà-Ummagga, số 546.
*
Ngày xưa có vị vua tên là Janaka trị vì ở Ba-la-nại. Thời ấy Bồ-tát
được sinh vào một gia
đình Bà-la-môn, cha mẹ
đặt tên ngài là nam tử Senaka. Khi lớn
lên, ngài theo học các nghệ thuật tại Takkasilà rồi trở về Ba-la-nại yết
kiến vua. Vua phong cho ngài chức vụ đại thần và
ban cho ngài đại vinh hiển.
Ngài dạy vua về thế sự lẫn thánh sự. Là người thuyết Pháp khả ái, ngài an
trú vua vào Ngũ giới, bố thí và hành trì trai giới và Thập thiện
đạo, như vậy tức là an trú vua vào chánh
hạnh. Toàn quốc độ được ở cảnh như thời có chư
Phật xuất hiện. Vào các ngày trai giới nửa tháng một lần, nhà vua,
các phó vương, cận thần đều tụ tập và
trang hoàng phòng họp.
Bồ-tát thuyết Pháp trong một giảng đường tôn
nghiêm trên bảo tọa bọc da nai, với uy lực của một vị Phật, lời ngài
dạy chẳng khác gì lời dạy của chư Phật.
Thời ấy có một Bà-la-môn già nua, xin tiền bố thí
được một ngàn
đồng, để dành trong một gia
đình Bà-la-môn, rồi lại làm hành khất
thêm nữa. Khi ông ra đi, gia đình nọ
tiêu hết cả tiền. Sau đó ông trở lại đòi
số tiền. Vì gia chủ không có tiền trả, nên gả con gái cho ông làm vợ. Vị
Bà-la-môn già đem nàng về cư ngụ trong
một làng Bà-la-môn không xa Ba-la-nại. Vì cô vợ còn trẻ nên không thỏa mãn-
tham dục và phạm tà hạnh với một Bà-la-môn trẻ.
Ở đời có mười sáu việc không thể nào
thỏa mãn. Ðó là mười sáu việc gì? - Biển không thỏa mãn với các dòng sông,
lửa không thỏa mãn với nhiên liệu, vua không thỏa mãn với quốc
độ, kẻ ngu không thỏa mãn với ác nghiệp,
nữ nhân không thỏa mãn với ba việc ân ái, nữ trang và sinh con, Bà-la-môn
không thỏa mãn với thánh kinh, bậc trí không thỏa mãn với Thiền
định, bậc hữu học không thỏa mãn với
danh vọng, người ly tham không thỏa mãn với khổ hạnh, người tinh tấn không
thỏa mãn với nỗ lực, người hay nói không thỏa mãn với chuyện trò, nhà chính
trị không thỏa mãn với hội nghị, người mộ đạo
không thỏa mãn với việc phục vụ Giáo hội, người thích bố thí không
thỏa mãn với việc bố thí, người đa văn không
thỏa mãn với việc nghe Pháp, tứ chúng không thỏa mãn với việc yết
kiến đức Phật.
Vì thế nữ nhân Bà-la-môn này không thỏa mãn việc ân ái, muốn
đẩy chồng đi xa và phạm tà dục một cách
táo bạo. Một ngày kia, cô ả nằm dài theo gian kế
đã dự trù. Khi ông chồng hỏi:
- Nàng ơi, nàng làm sao thế?
Cô ả đáp:
- Chàng Bà-la-môn ơi, thiếp không thể làm việc nhà chàng
được nữa, phải kiếm một nữ tỳ.
- Nàng ơi, ta không có tiền, vậy ta sẽ lấy gì
để mua nữ tỳ chứ?
- Chàng hãy làm hành khất kiếm tiền mà thuê nữ tỳ.
- Thế nàng hãy sắp đặt vài vật
để ta lên
đường.
Cô ả đặt vào túi da
đủ các thứ bột bánh đã nướng và chưa
nướng xong trao cho lão. Lão Bà-la-môn đi qua
mọi thôn làng thành thị, kiếm được bảy
trăm đồng, nghĩ thầm: "Số tiền này đủ để
mua gia nô nữ tỳ rồi", lão liền trở về làng.
Ðến một địa điểm thuận tiện, để uống nước, lão
mở túi xách ăn một ít bánh nướng, rồi đi uống
nước mà không buộc miệng túi. Lúc ấy một con rắn hổ trong thân cây
rỗng, ngửi mùi bánh bò vào túi nằm cuộn tròn ăn
bánh. Lão trở lại, không nhìn vào túi, cứ buộc túi lại và vác lên vai
ra đi.
Lúc ấy một vị Thần cây ngồi trên bộng thân cây ấy
đến bảo cho lão biết trên
đường đi:
- Này Bà-la-môn, nếu lão dừng lại trên
đường, lão sẽ chết; còn nếu lão về nhà thì vợ lão sẽ chết
đấy.
Xong vị thần biến mất. Lão nhìn quanh, không thấy vị thần nên lòng kinh
hoảng vì sợ chết, vừa đi đến cổng thành
Ba-la-nại vừa khóc than.
Hôm ấy vào ngày rằm trai giới, ngày Bồ-tát thuyết Pháp,
đang ngồi trên bảo tọa trang nghiêm và
một đám đông đem hương hoa đủ loại đến từng đoàn
nghe thuyết Pháp. Lão Bà-la-môn hỏi:
- Các người đi đâu thế?
Họ đáp:
- Này lão Bà-la-môn, hôm nay bậc Trí giả Senaka thuyết Pháp với giọng êm
dịu và oai lực của một vị Phật. Lão không biết ư?
Lão suy nghĩ: "Họ bảo ngài là một bậc thuyết Pháp hiền trí, còn ta
đang lo âu sợ chết, các bậc trí có khả năng
diệt trừ các đại phiền não, vậy ta nên
đến đó nghe Pháp".
Vì thế lão cùng đi với họ; khi quần chúng và
vua đã ngồi chung quanh Bồ-tát, lão
đứng bên ngoài, không xa pháp tọa, với
túi thức ăn trên vai và lòng sợ chết.
Bồ-tát thuyết giảng chẳng khác nào ngài đang
đưa cả dải thiên hà xuống trần giới hay
đổ trận mưa đầy thực phẩm thiên giới cho
đời.
Quần chúng vô cùng hoan hỷ tán thưởng, lắng tai nghe Pháp. Các bậc trí
thường nhìn xa thấy rộng. Vào lúc ấy Bồ-tát mở
đôi mắt có đủ năm vẻ đẹp nhìn khắp Hội chúng, thấy vị Bà-la-môn, liền
nghĩ: "Cả Hội chúng đông đảo này tràn
ngập hân hoan nghe Pháp và tán thưởng, chỉ trừ một Bà-la-môn ủ rũ khóc lóc.
Chắc hẳn phải có nỗi sầu tư nào trong lòng khiến lão tuôn lệ. Cũng giống như
tẩy rỉ sét với chất chua, hay làm một giọt nước rơi khỏi lá sen, ta sẽ
thuyết Pháp cho lão giải sầu và an vui tâm trí". Vì thế ngài gọi lão:
- Này lão Bà-la-môn, ta là trí giả Senaka, nay ta muốn giải mối sầu cho
lão, hãy bạo dạn nói ra đi.
Ngài ngâm vần kệ đầu hỏi lão:
1. Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền,
Nước mắt chảy là cớ hiển nhiên,
Lão mất gì, vào đây muốn kiếm
Thứ gì? Hãy nói rõ ngay liền.
Sau đó, Bà-la-môn ngâm vần kệ bày tỏ
duyên cớ nỗi sầu:
2. Vợ chết, nếu tôi trở lại nhà,
Còn không, tôi sẽ hóa ra ma,
Ðiều này làm trái tim đau nhói,
Xin giải vấn đề, hỡi Sen-ka.
Nghe vị Bà-la-môn nói, Bồ-tát bủa giăng tấm
lưới tri kiến như ném lưới vào biển cả, và suy nghĩ: "Có nhiều nguyên
nhân gây tử vong ở đời này: một số chết
chìm ngoài biển, hoặc bị loài cá dữ ăn thịt,
một số rơi xuống sông Hằng, hay bị cá sấu vồ, một số khác rơi từ cây xuống
hay bị gai nhọn đâm, một số bị khí giới loại đánh vào người, một số
khác ăn nhằm chất độc, bị treo cổ hay rớt xuống
vực sâu, chết cóng vì giá buốt, hay các loại bệnh tấn công. Nay giữa
mọi duyên cớ ấy, lão Bà-la-môn này phải chết vì cớ nào nếu lão ở nán lại
trên đường đi hôm nay, hoặc vợ lão phải
chết nếu lão về nhà?".
Trong lúc suy xét, ngài thấy cái túi trên vai lão và nghĩ: "Chắc hẳn có
con rắn chui vào túi, có lẽ vì nó đã
nghe mùi bánh khi lão ăn sáng và
đi uống nước mà quên buộc miệng túi
xách. Sau khi uống nước xong, lão Bà-la-môn trở lại và có lẽ
đã tiếp tục lên
đường sau khi buộc túi và cầm túi lên mà
không thấy con rắn bò vào. Nếu lão ở nán lại trên
đường, đến tối lão sẽ tự nhủ lúc dừng
chân: "Ta muốn ăn bánh". Rồi mở túi ra, lão
sẽ đặt tay vào, con rắn sẽ cắn tay lão
gây tử vong. Ðây chính là nguyên nhân lão sẽ chết nếu ở lại trên
đường. Nhưng nếu lão về nhà, túi ấy sẽ
đến tay vợ lão, bà ta sẽ nói: "Ta muốn
xem đồ đạc bên trong", rồi bà ta mở túi
ra và đặt tay vào, con rắn sẽ cắn bà ta
bỏ mạng. Ðây chính là nguyên nhân vợ lão chết nếu lão về nhà hôm nay". Ngài
biết được điều này do trí của ngài tinh
xảo về mọi phương tiện.
Lúc ấy ngài lại suy nghĩ: "Ðây chắc hẳn là con rắn hổ
đen, táo bạo, không hề biết sợ, nên khi
cái túi da đập vào sườn lão Bà-la-môn,
nó chẳng nhúc nhích hay run rẩy gì cả. Nó cũng không tỏ dấu hiệu là nó
đang có mặt tại Hội chúng đông đảo này,
do đó nó phải là con rắn hổ
đen bạo dạn, không biết sợ".
Từ tri kiến tinh xảo các phương tiện, ngài biết
điều này như thể ngài chứng kiến với
thiên nhãn. Như vậy Ngài chẳng khác nào một người
đứng gần đó nhìn con rắn bò vào túi, rồi
quyết định sự việc bằng trí kiến tinh xảo của
ngài. Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba đáp câu
hỏi của vị Bà-la-môn ngay giữa hội chúng triều
đình:
3. Suy xét mọi nghi hoặc trước tiên,
Nay ta tuyên bố sự đương nhiên:
La-môn, trong túi đồ ăn ấy
Ðã lẻn chui vào rắn hổ đen!
Nói vậy xong, Ngài hỏi:
- Này lão Bà-la-môn, có thứ bánh nào trong túi xách của lão chăng?
- Thưa Trí giả, có.
- Thế lão có ăn bánh lúc điểm tâm sáng nay
chăng?
- Thưa Trí giả, có.
- Thế lão đã ngồi
đâu?
- Ở trong rừng, dưới một gốc cây.
- Thế khi lão ăn bánh xong và
đi uống nước, lão có buộc miệng túi lại
hay không?
- Thưa Trí giả, tôi không buộc.
- Khi lão đã uống nước và trở về, lão
có buộc miệng túi sau khi nhìn vào trong không?
- Thưa Trí giả, tôi buộc miệng túi mà không nhìn vào trong.
- Này lão Bà-la-môn, khi lão đi uống nước,
ta chắc là con rắn đã lẻn vào túi
do ngửi mùi bánh mà lão không biết: đấy là
trường hợp này. Vậy lão mau đặt túi xuống, để
ngay giữa Hội chúng và mở miệng túi ra. Lấy gậy
đập vào túi, rồi lão sẽ thấy con rắn hổ
đen bò ra với chiếc mào giương rộng và
rít lên. Lão sẽ hết hồ nghi. Ngài lại ngâm vần kệ thứ tư:
4. Cầm gậy đập lên chiếc túi dày,
Im hơi, hai lưỡi chính con này,
Trí ông hết rối vì nghi hoặc,
Mở túi, rồi ông thấy rắn ngay!
Vị Bà-la-môn làm theo lời Bồ-tát bảo, mặc dù lão hết sức kinh hoàng chấn
động. Con rắn bò ra khỏi túi khi
đầu nó bị chiếc gậy đánh trúng, và nó
dừng lại nhìn mọi người.
*
Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ năm giải thích
vấn đề:
5. Kinh hãi, lão ra giữa đám đông,
Mở dây chiếc túi đựng đồ ăn,
Một con rắn hổ bò hung dữ,
Kiêu hãnh giương cao cả chiếc mồng!
Khi con rắn bò ra với chiếc mồng giương cao,
đó là điềm báo hiệu Bồ-tát sẽ là
vị Phật Chánh Ðẳng Giác. Ðám đông bắt đầu vẫy
khăn và búng tay hàng ngàn người, bảy báu vật
được ném tung ra như thể mưa rào, hàng
ngàn tiếng hô: "Tốt lành thay!" vang dậy, ồn ào như
đất lỡ.
Lời giải đáp một câu hỏi như vậy do uy lực
của một bậc Giác Ngộ chứ không phải nhờ nguồn gốc sinh trưởng, cũng không
phải uy lực của người giàu sang danh vọng. Vậy
đó là uy lực gì?- Chính là uy lực của
tri kiến. Người có tri kiến làm trí tuệ tăng
trưởng, mở rộng cánh cửa đi vào các Thánh
đạo, chứng đắc Niết-bàn bất tử tối
thượng và thành tựu viên mãn các quả vị Thanh văn,
Ðộc giác và Chánh Ðẳng Giác: Tri kiến là
điều tối thắng giữa các đức tính đưa đến Niết-bàn bất tử tối thượng.
Mọi thành phần khác đều là phụ thuộc.
Do vậy có câu tục ngữ:
6. Người thiện bảo tri kiến tối ưu
Như trăng đi giữa các vì sao,
Tiền tài, đức hạnh, lòng công chánh,
Là các nô tỳ bậc trí cao.
*
Khi câu hỏi đã
được Bồ-tát giải đáp xong, một người nhử rắn làm
một chiếc khăn bịt miệng rắn rồi đến chụp lấy
nó và đem thả vào rừng.
Vị Bà-la-môn đi đến yết kiến vua, kính chào
xong, lại ngâm nửa vần kệ tán tụng vua:
7. Chúa thượng Jan-ka, lợi lạc thay,
Ðại vương có bậc trí nhân này.
Sau khi ca tụng vua, lão cầm bảy trăm đồng
tiền trong túi ra, vừa tán thán Bồ-tát, vừa ngâm một vần kệ rưởi bày
tỏ ước muốn bố thí trong niềm hoan hỷ:
Trí ngài đáng sợ, hồ nghi biến,
Trước mắt ngài nhìn thấu suốt ngay.
8. Này đây có cả bảy trăm đồng,
Xin nhận lấy ngay vật hiến dâng,
Vì chính nhờ ngài, tôi được sống
Cùng nguồn an lạc của thân nhân.
Nghe vầy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ chín:
9. Bậc trí không dùng vật cúng dâng
Chỉ vì các khúc kệ ca ngâm,
Tốt hơn, ta tặng luôn tiền ấy
Trước lúc lão về lại cố hương.
Nói vậy xong, Bồ-tát đưa trọn số tiền trả
lại vị Bà-la-môn và hỏi:
- Ai bảo lão đi kiếm số tiền này?
- Thưa Trí giả, chính tiện nội.
- Thế hiền nội già hay trẻ?
- Thưa Trí giả, tiện nội còn trẻ.
- Thế thì cô ả đang phạm tà hạnh với
kẻ khác, nên đã bảo lão
đi xa vì nghĩ cần phải hành
động như thế cho an toàn. Nếu lão
đem số tiền này về nhà, cô ả sẽ
đem cho tình nhân số tiền do lão khổ
công kiếm được. Vậy lão không nên về nhà
ngay, mà phải để số tiền ngoài thành
phố, dưới gốc cây đâu đó.
Nói xong ngài bảo lão ra đi.
Khi lão đến gần làng, lão chôn tiền
vào một gốc cây, và về đến nhà lúc chiều
tối. Lúc ấy vợ lão đang ngồi với tình
nhân. Vị Bà-la-môn đứng ở cửa gọi to:
- Nàng ôi!.
Cô ả nhận ra tiếng lão, vội tắt đèn
và ra mở cửa. Khi lão đã vào trong, cô ả
dẫn kẻ kia ra cửa, rồi trở vào nhà, chẳng thấy món gì trong túi, liền hỏi:
- Này chàng Bà-la-môn, chàng kiếm được của
bố thí gì trên đường đi thế?
- Một ngàn đồng tiền.
- Thế tiền đâu rồi?
- Nó được chôn ở chốn nọ, nhưng đừng lo, ngày
mai ta sẽ đi lấy nó.
Cô ả liền đi báo cho tình nhân biết.
Hắn đến đó lấy tiền ngay như thể tài sản
của hắn vậy. Hôm sau, vị Bà-la-môn đến nhưng
không thấy tiền đâu, liền đi tìm Bồ-tát, ngài hỏi:
- Này lão Bà-la-môn, có việc gì thế?
- Thưa Trí giả, tôi không thấy tiền đâu cả.
- Thế lão có nói cho vợ biết chăng?
- Thưa Trí giả, có.
Biết là cô vợ đã báo cho tình nhân
rõ, Bồ-tát bảo:
- Này lão Bà-la-môn, thế có vị Bà-la-môn nào là bạn của vợ lão không?
- Thưa Trí giả, có.
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ truyền người đem đến một
số tiền đủ chi phí trong bảy ngày để cho
lão và dặn:
- Hãy ra về, và hai vợ chồng lão hãy đãi
tiệc mời mười bốn vị Bà-la-môn đầu tiên,
gồm bảy người bạn lão và bảy người bạn của vợ lão. Rồi từ
đó về sau cứ mỗi ngày bớt một vị khách
cho đến ngày thứ bảy, lão chỉ mời một
Bà-la-môn và vợ lão mời một. Khi ấy nếu lão thấy vị Bà-la-môn
được vợ lão mời vào ngày thứ bảy ấy
đã đến các
lần trước, thì hãy báo cho ta.
Lão Bà-la-môn làm theo lời ngài, rồi đến trình
Bồ-tát:
- Thưa Trí giả, tôi đã nhận thấy vị
Bà-la-môn luôn luôn đến làm thực khách
của nhà tôi.
Bồ-tát sai người đi theo lão,
đem vị Bà-la-môn ấy
đến và hỏi:
- Có phải anh lấy một ngàn đồng tiền của lão
này dấu ở dưới gốc cây nọ chăng?
- Thưa Trí giả, tôi không lấy.
- Thế anh biết ta là Trí giả Senaka ư? Ta muốn bảo anh
đem số tiền ấy về đây.
Hắn sợ hãi thú nhận:
- Tôi đã lấy số tiền ấy.
- Thế anh đã làm gì?
- Thưa Trí giả, tôi cất ở chỗ nọ.
Bồ-tát lại hỏi vị Bà-la-môn già kia:
- Này lão Bà-la-môn, lão muốn giữ vợ lại hay lấy vợ khác?
- Thưa Trí giả, cho lão được phép giữ vợ
lại.
Bồ-tát sai người đi lấy số tiền và
đem cô vợ lão
đến, trao số tiền từ tay kẻ trộm ấy lại cho lão
Bà-la-môn, rồi ngài trừng phạt kẻ trộm, đuổi
hắn ra khỏi tỉnh và trừng phạt luôn cô vợ. Về sau ngài ban lão
Bà-la-môn đại vinh dự bằng cách cho phép lão
sống ở gần ngài.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết
thúc các Sự Thật, nhiều Tỷ-kheo đạt Sơ quả (Dự
Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy vị Bà-la-môn là Ànanda, vị Thần cây là Sàriputta, hội chúng là
Tăng chúng của đức Phật và Trí giả
Senaka chính là Ta.
-ooOoo-
403. Chuyện Trí Giả Atthisena (Tiền thân Atthisena)
At-thi, lắm kẻ đến mong cầu...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại
đền Aggàlava gần Àlavi, về các điều lệ
xây tịnh thất.
Hoàn cảnh đã
được nêu trong tiền thân Manikantha số
253. Bậc Ðạo Sư bảo Tăng chúng:
- Này các Tỷ-kheo, ngày xưa trước khi đức
Phật ra đời, các ẩn sĩ ngoại đạo dù được
vua ban đặc ân, cũng không bao giờ cầu xin điều gì cả, vì thấy rằng
cầu xin kẻ khác không đem lại an lạc thư thái.
Nói vậy xong Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh vào một gia
đình Bà-la-môn và
được đặt tên là Nam tử Atthisena. Khi
lớn lên, ngài học các nghệ thuật ở Takkasilà, và về sau, nhận thấy nỗi
đau khổ của tham dục, ngài xuất gia tu
tập và thành đạt các Thắng trí cùng các
Thiền chứng, ngài sống ở vùng Tuyết Sơn. Sau đó
xuống vùng dân cư tìm muối và dấm, ngài
đến Ba-la-nại. Sau khi ở trong một lâm viên, hôm sau ngài
đi khất thực tại cung đình.
Vua hài lòng trước phong cách oai nghi của ngài, liền cho người mời ngài
vào, đặt ngài ngồi lên sàng tọa trên sân
thượng và cúng dường thực phẩm. Khi ngài nói lời tùy hỷ công
đức, vua rất hân hoan, và nhận
được lời ngài hứa hẹn cư ngụ trong ngự
viên, vua đến tham kiến Bồ-tát mỗi ngày
hai ba lần. Một hôm vua hoan hỷ nghe ngài thuyết Pháp xong, liền ban cho
ngài một điều ước:
- Xin ngài hãy nói cho trẫm biết bất cứ điều
gì ngài ước nguyện, từ quốc độ của trẫm
trở xuống.
Bồ-tát không đáp: "Hãy cho ta vật này
vật nọ", nhiều kẻ khác đòi hỏi những vật
nào họ mong ước, thường bảo: "Cho tôi vật này", và vua ban vật
đó, nếu không ham thích nó nữa.
Một hôm vua suy nghĩ: "Nhiều người mong cầu
đặc ân hoặc các khất sĩ thường xin ta vật này vật nọ, nhưng Hiền giả
Atthisena cao quý này, từ khi ta ban điều ước,
vẫn không xin gì cả. Ngài thật là bậc có trí tuệ và thiện xảo các
phương tiện. Ta muốn hỏi ngài".
Thế rồi, một hôm sau buổi điểm tâm, nhà
vua ngồi một bên, hỏi ngài lý do vì sao nhiều người khác cầu xin ân huệ còn
ngài thì không, và vua ngâm vần kệ đầu:
1. At-thi, lắm kẻ đến mong cầu,
Cho dẫu họ xa lạ biết bao,
Lũ lượt xin ta ban thỉnh nguyện,
Còn ngài, không ước vọng, vì sao?
Nghe vầy, Bồ-tát ngâm vần kệ thứ hai:
2. Hai kẻ cầu ân, hoặc chối từ,
Thảy đều không đẹp ý bao giờ,
Ðấy là duyên cớ, xin đừng giận,
Khiến tiểu thần không thỉnh nguyện vua.
Nghe lời ngài, vua ngâm tiếp ba vần kệ nữa:
3. Người nào kiếm sống khẩn cầu hoài,
Chẳng đến cầu ân lúc hợp thời,
Làm kẻ khác suy tàn đức độ,
Chính mình chẳng có kế sinh nhai.
4. Người nào kiếm sống, khẩn cầu hoài,
Thường đến cầu ân lúc hợp thời,
Làm kẻ khác tăng dần đức độ,
Chính mình cũng được kế sinh nhai.
5. Bậc có trí không thấy hận sân,
Khi người lũ lượt đến cầu ân,
Nói đi, Thánh giả là thân hữu,
Ðiều ước ngài không thể lỗi lầm.
Như vậy, dù được ban tặng cả vương quốc,
Bồ-tát cũng không cầu mong gì. Khi nguyện vọng của nhà vua
đã được
phát biểu như vậy, Bồ-tát liền bày tỏ
đường lối của ẩn sĩ:
- Thưa Ðại vương, người thế tục và gia chủ thường thích thỉnh nguyện, chứ
không phải người xuất thế, vì từ khi phát nguyện xuất gia, ẩn sĩ phải sống
đời thanh tịnh khác với gia chủ. Rồi ngài
ngâm vần kệ thứ sáu bày tỏ nếp sống ẩn sĩ:
6. Bậc trí không hề thỉnh nguyện đâu,
Thế nhân phải biết rõ như sau:
Trí nhân thỉnh nguyện ngồi im lặng,
Như thế là người trí thỉnh cầu.
Vua nghe lời Bồ-tát liền nói:
- Bạch Tôn giả, nếu một người phục vụ có trí tự nguyện cống hiến thân hữu
mình những gì cần được cống hiến, thì
trẫm xin tặng Tôn giả những vật như vầy:
7. Ngàn bò trẫm tặng Bà-la-môn,
Bó đỏ, thêm người hướng dẫn
đường,
Nghe các nghiệp ngài đầy thánh thiện,
Trẫm nay phát khởi nghiệp hiền lương.
Khi vua nói vậy, Bồ-tát từ chối, bảo:
- Thưa Ðại vương, ta đã sống
đời tu tập xa lìa cấu uế, ta không cần
đàn bò.
Vua tuân thủ lời khuyến giáo của ngài, chuyên tâm bố thí và làm nhiều
thiện sự khác nên được sinh lên thiên
giới.
Còn Bồ-tát không hề gián đoạn Thiền định, nên
tái sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các
Sự Thật, nhiều Tỷ-kheo
được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, vua là Ánanda và Atthisena chính là Ta.
-ooOoo-
404. Chuyện Hầu Vương (Tiền thân Kapi)
Người trí không nên ở chốn nào...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta
(Ðề-bà-đạt-đa) bị quả đất nuốt sống.
Thấy Tăng chúng đang bàn luận việc
này tại Chánh pháp đường. Ngài bảo:
- Ðây không phải lần đầu Devadatta và
hội chúng của kẻ ấy bị tiêu diệt, mà xưa kia cũng vậy.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai vào loài
khỉ sống trong ngự viên cùng cả đàn tùy
tùng năm trăm con khỉ. Devadatta cũng được sinh
làm khỉ, cùng sống tại đó với một bầy
năm trăm khỉ khác.
Một hôm vị tế sư của nhà vua đi ra vườn tắm
rửa, trang hoàng thân thể xong, một con khỉ tinh nghịch leo lên ngồi
trên cổng vòng cung của ngự viên, thả cục phân rơi trên
đầu vị ấy lúc ông đi qua cổng. Khi tế sư nhìn
lên, nó lại thả thêm một cục phân vào miệng ông. Vị tế sư quay lại, hăm
dọa bầy khỉ:
- Ðược lắm, ta sẽ biết cách trừng trị bây.
Rồi ông lại tắm rửa và ra về.
Bầy khỉ trình lại với Bồ-tát rằng vị tế sư giận và hăm
dọa chúng như vậy.
Ngài thông báo cho cả bầy ngàn con khỉ:
- Ở gần nơi cư trú của kẻ sân hận là không an toàn, vậy cả
đàn khỉ nên chạy trốn
đi nơi khác.
Một con khỉ không vâng lệnh, giữ bầy khỉ của nó lại, không chạy trốn và
bảo:
- Ta sẽ xét lại việc ấy sau.
Bồ-tát đem bầy khỉ đi vào rừng.
Một hôm, có một nữ tỳ giã gạo và phơi nắng một ít gạo, một con dê
đến ăn gạo đã bị một cây
đuốc đập vào mình, nó chạy trốn, mình
cháy đỏ rực, vội chà mình vào vách lều
cỏ gần chuồng voi. Ngọn lửa bắt vào lều cỏ lan qua chuồng voi, làm các lưng
voi bị phỏng, các thú y được mời đến chăm sóc
bầy voi.
Vị tế sư hoàng gia vẫn luôn tìm cơ hội bắt bầy khỉ. Lúc vị tế sư
đang ngồi chầu nhà vua, nhà vua bảo:
- Này tế sư, nhiều con voi của ta bị thương và các thú y chuyên về voi
lại không biết cách chữa trị, vậy khanh có biết chữa không?
- Tâu Ðại vương, thần biết.
- Cách gì thế?
- Tâu Ðại vương, mỡ khỉ.
- Làm sao có được thứ ấy?
- Có rất nhiều khỉ trong ngự viên.
Vua phán:
- Giết bầy khỉ để lấy mỡ.
Các xạ thủ đem cung tên
đi giết cả năm trăm con khỉ. Một con khỉ già
trốn thoát được dù nó bị thương do mũi
tên, và chưa ngã ngay tại chỗ, nó chỉ ngã xuống khi
đến nơi ở của Bồ-tát. Bầy khỉ bảo nhau:
- Nó đã chết khi vừa
đến chỗ ở của ta.
Và chúng kể lại với Bồ-tát rằng con khỉ kia chết do vết thương ấy. Ngài
bước ra ngồi giữa bầy khỉ, ngâm các vần kệ này
để khuyến giáo chúng với lời khuyên của bậc trí,
đó là: "Người nào ở gần kẻ thù
đều phải chết như vậy".
1. Người trí không nên ở chốn nào
Cừu nhân cư trú, dẫu dài lâu,
Hay chỉ một, hai đêm cũng vậy,
Ðến gần sẽ gặp nỗi sầu đau.
2. Kẻ ngu là địch thủ cho ai
Vẫn trót tin lời nó nói sai:
Con khỉ ngu si đem đại họa
Cho bầy của nó thế mà thôi.
3. Một kẻ ngu si đứng trưởng đoàn,
Vì kiêu căng muốn tỏ khôn ngoan,
Sẽ không khác khỉ này gây họa,
Mãi mãi đưa đường đến bại vong.
4. Kẻ mạnh ngu si chẳng tốt lành,
Lãnh phần bảo vệ cả đàn mình,
Nó là tai họa cho đồng loại,
Chẳng khác chim mồi đáng hãi kinh.
5. Trưởng đoàn hùng dũng trí khôn
ngoan
Làm tốt để canh giữ cả đoàn,
Chẳng khác Ind-ra bên Hội chúng,
Là phần thưởng của các thân bằng.
6. Người nào đủ giới hạnh hoàn toàn,
Trí tuệ tinh thông, học tập luôn,
Hành động người này
đem phước lạc
Cho mình cùng với các tha nhân.
7. Vậy thì giới hạnh lẫn đa văn,
Tri kiến học hành, luyện bản thân,
Như thể vị hiền nhân độc trú,
Hoặc lo bảo vệ đám thân bằng.
Như vậy Bồ-tát trở thành Hầu vương, và giảng giải
đường lối học tập Giới luật.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Thời ấy con khỉ không tuân lệnh là Devadatta, bầy khỉ của nó là Hội
chúng của Devadatta, và Hầu vương có trí là Ta.
-ooOoo-
405. Chuyện Phạm Thiên Baka (Tiền thân Bakabrahma)
Chúng tôi tất cả bảy mươi hai...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này khi trú tại Kỳ Viên về Phạm thiên Baka.
Một tà kiến sinh khởi trong tâm vị Phạm thiên này,
đó là: "Cõi sinh hữu này là trường tồn,
thường hằng, vĩnh cửu, bất biến; ngoài nơi này ra không có sự cứu
độ hay giải thoát gì nữa...".
Trong một đời trước, vị Phạm thiên
này đã thực hành Thiền
định, vì thế
được tái sinh vào cõi trời Quảng Quả
(Vehapphala). Sau khi đã trải qua
đời sống ở đó trong năm trăm kiếp (Kappa), vị
ấy tái sinh vào cõi trời Biến Tịnh (Subhakinna). Sau khi
đã trải qua sáu mươi bốn kiếp tại
đó, vị ấy mạng chung và tái sinh vào cõi
trời Quang Âm (Àbhassara), nơi đời sống kéo dài
trong tám kiếp. Và chính tại đó, tà kiến
này khởi lên trong tâm vị ấy.
Vị Phạm thiên này quên rằng mình đã
từng sống ở các cõi Phạm thiên giới cao hơn và
đã tái sinh vào cảnh giới này. Do nhận thức các
điều trên, vị ấy chấp thủ tà kiến. Bậc
Ðạo Sư thấu hiểu các tư tưởng của vị ấy và thật dễ dàng như một lực sĩ duỗi
cánh tay cho thẳng ra hay cong cánh tay trở lại, Ngài biến mất ở Kỳ Viên và
xuất hiện ở Phạm thiên giới ấy. Vị Phạm thiên thấy ngài liền thưa:
- Thiện lai Thế Tôn, xin Thế Tôn đến đây.
Bạch Thế Tôn, thế giới này là trường tồn, thường hằng, vĩnh cửu,
tuyệt đối, bất biến; thế giới này không
sinh, không già, không chết, không biến hoại, không tái sinh. Ngoài thế giới
này, không có sự cứu độ nào cao hơn nữa.
Khi lời này được vị Phạm thiên Baka
nói ra, Thế Tôn bảo:
- Phạm thiên Baka đã si mê,
đã lầm lạc khi nói rằng một vật không
thường hằng là thường hằng, một vật không vĩnh cửu là vĩnh cửu, cùng những
điều tương tự, như ngoài thế giới này
không có sự cứu độ nào cao hơn nữa trong
khi vẫn có sự cứu độ khác.
Nghe lời này, vị Phạm thiên suy nghĩ: "Thế Tôn
đang khuyến giáo ta khi nhận ra chính xác những
lời ta nói".
Rồi như một kẻ trộm rụt rè sau khi bị đấm vài
cái, vị ấy đáp:
- Ðệ tử đâu phải là tên trộm duy
nhất? Còn nhiều vị này vị nọ cũng đều là
các tên trộm khác nữa.
Rồi vị ấy nêu tên các vị Thiên cùng một hội chúng; như vậy vị Phạm thiên
lo sợ đức Phật chất vấn, nên
đã ngâm vần kệ
đầu tiên nói lên các vị Thiên cùng hội
chúng của mình:
1. Chúng tôi tất cả bảy mươi hai,
Chân chánh và cao cả tuyệt vời,
Sanh, lão chúng tôi đà giải thoát,
Cõi này là trí tuệ nhà trời,
Không Thiên giới khác cao hơn nữa,
Nhiều kẻ tán đồng quan điểm tôi.
Nghe lời này, Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ hai:
2. Ðời ngài ngắn ngủi ở thiên đàng,
Tưởng đời trường thọ quả sai lầm,
Một trăm ngàn kiếp trôi qua mất,
Ta biết đời ngài quá rõ ràng.
Nghe vầy, Baka ngâm vần kệ thứ ba:
3. Thế Tôn, trí tuệ tử vô cùng,
Sanh, lão, sầu nằm ở dưới chân:
Xưa đã tạo nên bao thiện nghiệp,
Thế Tôn cho đệ tử hay chăng?
Sau đó đức Thế Tôn ngâm bốn vần kệ kể cho vị
ấy nghe những chuyện quá khứ:
4. Xưa lấy nước ban phát những người
Lúc đang cơn khát sắp tàn hơi,
Dưới trời hạn hán như thiêu đốt,
Thiện nghiệp ngài qua đã mấy
đời,
Ta biết là ta đều nhớ rõ,
Như vừa tỉnh giấc mộng mà thôi.
5. Sông E-ni, thuở nọ bên bờ,
Ngài thả nhiều người được tự do,
Trong lúc bị giam cầm chặt chẽ,
Việc lành ngài tạo dẫu xa xưa,
Song ta biết rõ ta còn nhớ
Như thể mới vừa tỉnh giấc mơ.
6. Ngày xưa trên bến nước sông Hằng,
Ngài cứu thuyền người nọ thoát thân,
Khi bị ác xà kia chụp lấy
Vì thèm thịt sống, khỏi tai ương,
Việc lành ngài tạo dầu xa lắc,
Ta nhớ rõ như tỉnh giấc nồng.
7. Ta chính Kap-pa, đệ tử ngài,
Trí đức ngài, ta biết rõ mười,
Thiện nghiệp ngài làm, ta nhớ kỹ.
Như là mới tỉnh giấc mơ thôi.
Khi nghe các nghiệp quá khứ của mình do Bậc Ðạo Sư thuyết giảng, Baka cảm
tạ và ngâm vần kệ cuối cùng:
8. Thế Tôn biết mọi kiếp xưa xa,
Tuệ giác toàn tri quả Phật-đà,
Uy lực hào quang vinh hiển thực,
Sáng ngời khắp cõi Phạm thiên ta.
*
Như vậy Bậc Ðạo Sư vừa tỏ bày uy lực của một
đức Phật, vừa thuyết Pháp khai thị các Sự thật. Lúc kết thúc Pháp thoại, tâm
của mười ngàn vị Phạm thiên được giải
thoát khỏi các ô nhiễm cấu uế. Do đó, đức Thế Tôn trở thành nơi an
trú của các vị Phạm thiên, rồi trở về Kỳ Viên từ cõi Phạm thiên, Ngài thuyết
Pháp như trên và nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy Phạm thiên Baka là nhà khổ hạnh Kesava và
đệ tử Kappa chính là Ta.
-ooOoo-
406. Chuyện Quốc Vương Gandhàra (Tiền thân Gandhàra)
Làng phố, vũ công mười sáu ngàn...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên hệ giới
điều về việc "tích trữ dược liệu". Tuy nhiên,
hoàn cảnh chuyện này đã xảy ra ở Vương
Xá.
Khi Tỷ-kheo Pilindiyavaccha đến cung vua để
giải thoát gia đình người giữ ngự viên, ông dùng thần thông lực biến
cung vua thành tòa nhà bằng vàng, quần chúng hoan hỷ
đến tặng ông năm thứ dược liệu. Ông đem phân
phát khắp Tăng chúng. Do đó Tăng chúng có nhiều dược liệu và khi nhận
được các dược liệu, họ chứa đầy các chai, hủ, bình,
túi... và cất để dành. Dân chúng thấy
vậy thì thầm bảo nhau: "Các Tỷ-kheo tham lam kia
đang tích trữ đồ đạc trong tinh xá".
Bậc Ðạo Sư nghe vậy liền công bố giới điều:
- Bất cứ dược liệu trị bệnh nào khi nhận
được, phải được dùng trong vòng bảy ngày.
Và bảo:
- Này các Tỷ-kheo, các bậc trí nhân thuở xưa, trước khi
đức Phật ra đời, dẫu xuất gia theo ngoại đạo và
chỉ giữ Ngũ giới, cũng đã khiển trách
những ai tích trữ muối và đường cho ngày
hôm sau; còn các ông ngày nay dẫu đã
được xuất gia theo Giáo pháp giải thoát, lại
tích trữ đồ đạc đến hai ba ngày ư?
Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa Bồ-tát là vương tử của xứ Gandhàra. Khi vua cha băng
hà, ngài lên ngôi vua trị nước chân chánh. Ðồng thời ở vùng Trung
thổ, tại vương quốc Videha, có vị vua mệnh danh Videha cai trị. Hai quốc
vương này chưa hề gặp nhau, nhưng lại là thân hữu và tin cậy lẫn nhau.
Thời ấy, loài người trường thọ: đời sống dài
ba mươi ngàn năm. Một hôm, vào ngày trai
giới trăng tròn, vua Gandhàra
đã phát nguyện giữ giới và ngự trên bảo
tọa giữa ngai vàng dành cho ngài, nhìn ra một cửa sổ rộng mở ở góc hướng
Ðông, ngài ngồi thuyết giảng cho quần thần về bản chất giáo lý. Lúc ấy, thần
Ràhu (La-hầu: Vua các Thần A-tu-la) đã
che hết mặt trăng tròn
đầy đang tỏa sáng cả bầu trời. Ánh trăng biến
mất. Triều thần không thấy ánh trăng, liền tâu vua rằng thần Ràhu
đã chụp lấy mặt trăng.
Vua quan sát mặt trăng, nghĩ thầm "Mặt trăng
đã mất ánh sáng vì bị một biến động bên
ngoài làm hỏng. Nay triều thần chính là mối phiền lụy của ta. Ta không nên
để mất ánh sáng như mặt trăng bị thần Ràhu
chụp lấy. Ta muốn rời quốc độ như mặt trăng
chiếu trên bầu trời trong sáng và trở thành ẩn sĩ. Tại sao ta lại
giáo giới người khác? Ta muốn ra đi, từ giã
thân quyến, thần dân và giáo giới bản thân ta mà thôi:
điều ấy mới thích hợp với ta". Vì vậy
ngài phán:
- Các khanh cứ làm gì tùy ý.
Rồi ngài trao quốc độ cho triều thần. Khi ngài
đã từ bỏ vương quốc ở hai xứ Kashmir và
Gandhàra, ngài sống đời tu hành. Khi
chứng đắc các Thắng trí, ngài an cư mùa
mưa ở vùng Tuyết Sơn, chuyên tâm vào sự an lạc của Thiền
định.
Khi hỏi thăm các thương nhân, vua Videha
bảo:
- Hiền hữu của ta có được khang an chăng?
Và được tin ngài
đã ra đi
đời sống tu hành, vua suy nghĩ: "Hiền hữu ta
đã xuất gia tu tập, ta còn phải làm gì
với quốc độ này?"
Vì thế ngài thoái vị ở kinh thành Mithilà dài bảy dặm, và vương quốc
Videha rộng ba trăm dặm gồm mười sáu ngàn
làng với các cửa hiệu đầy hàng hóa, mười
sáu ngàn nữ vũ công, rồi cũng không nghĩ đến
các hoàng tử và công chúa, vua lên vùng Tuyết Sơn sống
đời tu hành. Tại
đó ngài chỉ sống bằng quả rừng trong
đời độc cư thanh tịnh. Cả hai vị vua an tịnh
độc cư như vậy, sau đó gặp nhau; tuy thế hai vị vẫn sống cùng nhau
trong cảnh đời an tịnh với tình thân
hữu.
Ẩn sĩ xứ Videha phục vụ ẩn sĩ xứ Gandhàra. Vào một
đêm đầy
trăng, trong lúc hai vị ngồi dưới gốc cây đàm luận
đạo lý, thần Ràhu che khuất mặt trăng
đang sáng tỏa khắp bầu trời.
Ẩn sĩ xứ Videha nhìn lên, hỏi:
- Tại sao ánh trăng bị mất?
Và khi thấy trăng bị thần Ràhu chụp,
vị ấy hỏi:
- Bạch Tôn sư, tại sao nó che khuất mặt trăng
làm cho tối tăm vậy?
- Này đồ đệ, đó là do duyên quấy
nhiễu mặt trăng tên gọi là Ràhu, nó ngăn
cản mặt trăng chiếu sáng. Chính ta khi thấy mặt trăng bị thần Ràhu
che khuất, đã suy nghĩ: "Mặt trăng
sáng trở nên tối vì bị quấy nhiễu từ bên ngoài. Nay quốc
độ là mối phiến nhiễu
đối với ta, ta muốn theo đời tu hành
để quốc độ không làm ta
đen tối như thần Ràhu làm tối mặt trăng
kia. Như vậy, lấy chuyện mặt trăng bị thần Ràhu che khuất làm chủ
đề của ta, ta từ giã vương quốc và sống
đời tu hành".
- Bạch Tôn sư, thế ngài là cựu vương nước Gandhàra ư?
- Chính phải.
- Bạch Tôn sư chính đệ tử là cựu
vương Videha, trong quốc độ Videha và
kinh thành Mithila, dù chúng ta chưa từng thấy nhau, chúng ta chẳng phải
đã làm bạn với nhau
đó sao?
- Thế chủ đề của Hiền hữu là gì?
- Ðệ tử nghe Tôn sư đã xuất gia tu
tập nên suy nghĩ: "Chắc chắn ngài đã tìm
thấy lợi ích của nếp sống ấy, đệ tử xem ngài
là chủ đề của mình, nên từ giã quốc
độ và xuất gia".
Từ đấy trở đi, hai vị trở nên hết sức
thân thiết, quý mến nhau và chỉ sống bằng quả rừng. Sau một thời gian an trú
tại đó, hai vị từ Tuyết Sơn đi xuống tìm
muối và dấm, dần dần đến một làng ở biên
địa.
Dân chúng hoan hỷ vì phong cách hai vị, đã
cúng dường và khi nhận được lời hứa, họ dựng
thảo am để hai vị trú ban đêm và ở cả trong rừng nữa, rồi mời hai vị
ở lại đó; bên vệ
đường họ còn dựng một phòng
ăn ở một nơi đẹp có nước chảy.
Sau khi đi khất thực từ làng biên
địa, hai vị ngồi dùng món
ăn trong thảo am kia rồi trở về chỗ cư trú của
mình. Dân chúng cúng dường thực phẩm có hôm
để muối lên một lá rồi
đem đến cho hai vị, hôm khác lại đem thức ăn
không có muối.
Một hôm họ cúng dường hai vị rất nhiều muối trong một cái rỗ bằng lá. Ẩn sĩ xứ Videha lấy muối đem vừa đủ phần
Bồ-tát lúc dùng thức ăn, và cũng
lấy phần vừa đủ cho mình, sau
đó cất phần còn lại trong rổ lá
đặt vào một cuộn cỏ, tự nhủ: "Cái này sẽ
có ích cho ngày không có muối".
Rồi một hôm nhận được thức ăn không có muối,
ẩn sĩ xứ Videha đem món khất thực đến ẩn sĩ Gandhàra, lấy muối trong
cuộn cỏ ấy ra và bảo:
- Bạch Tôn sư, hãy lấy muối.
- Dân chúng hôm nay không cho ta muối, vậy
đồ đệ lấy đâu ra muối?
- Bạch Tôn sư, hôm kia dân chúng cho nhiều muối, nên
đệ tử cất phần dư và bảo: "Cái này sẽ có
ích cho ngày không muối".
Bồ-tát liền quở trách vị này, bảo:
- Này kẻ ngu si kia, ông đã từ bỏ
vương quốc Videha rộng ba trăm dặm, đã
xuất gia tu hành và chứng đạt tâm ly dục, nay
ông lại khởi lòng ham thích muối và đường!
Khuyến giáo như vậy xong, ngài ngâm vần kệ
đầu:
1. Phố xá, thôn trang mười sáu ngàn,
Ông từ bỏ hết mọi giàu sang,
Kho tàng của cải nhiều vô tận,
Nay tích trữ gì đấy phải chăng?
Ẩn sĩ Videha bị khiển trách như vậy, không kham nhẫn lời khiển trách mà
trở nên lạnh lùng bảo:
- Bạch Tôn sư, ngài không thấy lỗi của ngài, mặc dù ngài thấy lỗi của
tôi. Ngài đã chẳng rời bỏ vương quốc và
xuất gia, tự bảo: "Tại sao ta phải khuyến giáo kẻ khác? Ta muốn khuyến giáo
bản thân ta mà thôi" ư? Thế sao nay ngài lại
đang khuyến giáo tôi đấy?
Rồi vị ấy ngâm vần kệ thứ hai:
2. Ngài bỏ Gan-dha, mọi phố phường,
Biết bao châu báu ở kho tàng,
Không còn ban lệnh cho ai nữa,
Nay lại truyền tôi lệnh ấy chăng?
Nghe vậy Bồ-tát ngâm vần kệ thứ ba:
3. Chính vì chân chánh, ta khuyên răn,
Vì ghét những gì chẳng chánh chân,
Khi nói cho ông điều chánh hạnh,
Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.
Ẩn sĩ xứ Videha nghe Bồ-tát nói, đáp lại:
- Bạch Tôn sư, thuyết giảng cho người khác sau khi
đã làm kẻ ấy
đau buồn giận dỗi là
điều không thích hợp, dầu có thuyết giảng đúng
vấn đề đi nữa. Tôn sư đang nặng lời gay gắt với tôi như thể cạo đầu tôi với
con dao cùn!
Rồi vị ấy ngâm vần kệ thứ tư:
4. Bất cứ lời nào, nếu nói ra,
Sẽ gây thương tổn đến người ta,
Trí nhân không nói ra lời ấy,
Cho dẫu tạo nên quá lớn mà!
Bồ-tát liền đáp vần kệ thứ năm:
5. Người nghe ta rắc trấu hay không,
Hay dẫu người kia bị tổn thương,
Khi nói ra điều gì chánh hạnh,
Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.
Nói vậy xong, ngài tiếp tục bảo:
- Này Ànanda, ta không cư xử với ông như người thợ gốm cư xử với
đám nồi đất chưa nung đâu. Ta sẽ còn
khiển trách nhiều lần nữa, vì "Cái gì là cốt lõi, cái ấy sẽ tồn tại".
Do vậy, ngài cương quyết giữ cách xử sự phù hợp với lời giáo huấn của
đức Thế Tôn. Ví như người thợ gốm giữa đám đồ
gốm, sau một thời gian thường xuyên đập
gõ lên chúng, chỉ chọn cái nồi đã
nung kỹ, chứ không chọn cái nồi đất chưa nung,
ngài cũng chọn người tốt như chiếc nồi
được nung kỹ kia bằng cách khuyến giáo và khiển trách nhiều lần như
thế. Rồi muốn thuyết giảng để nêu rõ cho
vị ấy hiểu điều này, ngài ngâm vần kệ:
6. Nếu trí đức không được luyện rèn
Trong đời sống để mãi tăng
thêm,
Nhiều người phiêu bạt chân buông thả,
Như thể trâu mù cứ bước lên.
7. Song các trí nhân khéo luyện rèn
Ðể cho thiện hạnh mãi tăng thêm,
Chính nhờ đạo hạnh này thuần thục
Nên các tha nhân bước tiếp liền.
Nghe lời này, ẩn sĩ xứ Videha nói:
- Bạch Tôn sư, từ nay về sau xin cứ giáo huấn
đệ tử . Ðệ tử trót lỡ nói lời bất nhã
với ngài, xin tha thứ cho đệ tử.
Rồi cúi đầu đảnh lễ cung kính, vị ấy được
Bồ-tát thứ lỗi.
Như vậy hai vị đã sống hòa hợp với
nhau và trở về Tuyết Sơn. Sau đó Bồ-tát dạy ẩn
sĩ xứ Videha cách chứng đắc Thiền định. Vị ấy tuân thủ và thành tựu
các Thắng trí cùng các Thiền chứng. Hai vị không bao giờ gián
đoạn Thiền định nên về sau tái sinh lên
cõi Phạm thiên.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Vào thời ấy ẩn sĩ xứ Videha là Ànanda và quốc vương Gandhàra chính là
Ta.
-ooOoo-
407. Chuyện
Đại Hầu Vương (Tiền thân Mahàkapi)
Chính thân ngài đã bắt ngang cầu khỉ...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về các thiện nghiệp
đối với thân quyến. Hoàn cảnh chuyện này
sẽ xuất hiện trong tiền thân Bhaddasàla, số 444.
Tăng chúng bắt đầu bàn luận trong
Chánh pháp đường, bảo nhau:
- Ðức Phật Toàn Giác đã làm nhiều
thiện sự đối với thân quyến.
Khi Bậc Ðạo Sư hỏi Tăng chúng và
được trình bày
đề tài trên, Ngài
đáp:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu
Như Lai làm thiện nghiệp đối với thân
quyến.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai
loài khỉ. Khi lớn lên, ngài có vóc dáng oai nghi lực lưỡng và cường tráng,
cùng sống với một đàn tám mươi ngàn con
khỉ ở Tuyết Sơn.
Gần bờ sông Hằng có một cây xoài (nhiều người khác bảo là cây
đa) với nhánh chồi tỏa bóng mát và lá
rậm rạp như một đỉnh núi. Trái xoài ngọt
có mùi hương và vị tuyệt diệu, to bằng các bình nước. Trái từ một cành rơi
xuống đất, từ một nhánh khác rơi xuống sông
Hồng, từ hai nhánh khác rơi vào gốc cây.
Trong lúc ăn xoài cùng với loài khỉ,
Bồ-tát nghĩ thầm: "Một ngày kia tai họa sẽ xảy
đến cho ta do trái xoài rơi xuống nước".
Vì thế không để lại trái xoài nào
trên cành cây mọc trên bờ sông, ngài bảo bọn chúng
ăn hết hoặc ném bỏ hoa đúng mùa ngay từ
khi nụ hoa mới nhú bằng hột đậu.
Tuy thế, một xoài chín nằm kín trong một tổ kiến, nên cả tám mươi ngàn
con khỉ không trông thấy, rớt xuống dòng sông và mắc vào cái lưới ở phía
trên vua Ba-la-nại lúc ấy đang tắm sông vui đùa
với một tấm lưới ở trên và một tấm ở dưới.
Khi vua đã vui
đùa suốt ngày và sắp ra về lúc chiều
tối, bọn người đánh cá đang kéo lưới lên,
trông thấy trái cây, nhưng không biết loại gì, liền
đem dâng vua, vua hỏi:
- Trái gì thế?
- Tâu Ðại vương, chúng thần không biết.
- Thế ai biết?
- Tâu Ðại vương, các người kiểm lâm.
Vua truyền gọi bọn người kiểm lâm và khi nghe họ bảo
đó là trái xoài, vua lấy dao cắt nó ra,
rồi trước hết bảo bọn kiểm lâm ăn xoài,
sau đó chính nhà vua cũng
ăn xoài. Hương vị xoài chín thấm nhuần
khắp toàn thân vua. Do lòng ham muốn hương vị câu thúc, vua hỏi bọn kiểm lâm
cây ấy ở đâu, và khi nghe rằng cây ấy ở
trên bờ sông về hướng Tuyết Sơn, vua truyền ráp các chiếc bè lại và chèo
ngược lên thượng nguồn của sông theo lộ trình
được đám kiểm lâm hướng dẫn. Số ngày đi
đường chính xác là bao nhiêu không được
nêu ra.
Theo thời gian, họ đến nơi ấy, và bọn
kiểm lâm trình vua:
- Tâu Ðại vương đó là cây xoài.
Vua dừng bè lại và cùng đám quần thần đông
đảo đi bộ đến nơi, rồi truyền trải sàng tọa ngay dưới gốc cây, vua
nằm ngủ sau khi đã
ăn xoài và hưởng
đủ mọi thứ hương vị tuyệt hảo. Khắp mọi phía
quân lính canh gác cẩn thận và nhóm lửa lên. Khi mọi người
đã ngủ yên, Bồ-tát cùng bầy khỉ
đến đó lúc nửa đêm.
Tám mươi ngàn con khỉ chuyền từ cành nọ sang cành kia
ăn xoài. Vua tỉnh giấc thấy bầy khỉ,
liền đánh thức quân hầu và gọi
đám xạ thủ đến bảo:
- Hãy bao vây loài khỉ đang ăn xoài
để chúng không thoát được, rồi bắn cả đi. Ngày
mai ta muốn ăn xoài với thịt khỉ.
Ðám xạ thủ tuân lệnh, đồng đáp:
- Muôn tâu, được lắm.
Rồi họ bao vây cả cây với cung tên sẵn sàng.
Bầy khỉ thấy họ, sợ chết vì chúng không thể trốn
được, liền nhảy đến Bồ-tát và thưa:
- Tâu Ðại vương, các xạ thủ đang vây quanh
cây và bảo: "Ta sẽ bắn chết loài khỉ lang thang trộm cắp này". Chúng
con phải làm gì bây giờ?
Chúng vừa đứng vừa run rẩy.
Bồ-tát bảo:
- Ðừng sợ, ta sẽ cứu mạng các con.
Vừa an ủi bầy khỉ như vậy xong, ngài leo lên một cành mọc thẳng
đứng, rồi đi qua một cành khác dài về
phía sông Hằng, xong lại nhảy vọt về cuối cành ấy, vượt qua một trăm
tầm cung và hạ xuống một bụi cây trên bờ.
Khi xuống đến nơi, ngài
đánh dấu khoảng cách và nói: "Ðó là
khoảng cách ta đã vượt qua". Rồi cắt một
đọt tre sát gốc, lột vỏ và nói:
- Phần này sẽ được buộc vào cây ấy,
và phần kia sẽ ở trên không.
Khi tính hai chiều dài như vậy, ngài quên phần buộc vào thắt lưng mình.
Ngài cầm đọt tre buộc một đầu vào thân
cây trên bờ sông Hằng và phần kia vào thắt lưng, sau
đó nhảy vọt qua khoảng cách một trăm tầm cung
ấy với tốc độ của mây bay theo gió cuốn.
Do không tính phần tre buộc vào thân mình, ngài không tới tận cây ấy. Vì
vậy ngài lấy hai tay nắm chặt cành cây và ra hiệu cho cả
đàn khỉ:
- Cầu chúc các con may mắn, qua nhanh lên, bước trên lưng ta mà
đi dọc theo cây tre.
Cả tám mươi ngàn con khỉ trốn thoát được
theo cách ấy, sau khi cung kính đảnh lễ Bồ-tát, xin phép ngài ra
đi.
Thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là
một con khỉ trong đàn kia tự nhủ: "Ðây
là cơ hội để ta thanh toán kẻ thù".
Vì thế vừa trèo lên cây, nó nhảy vọt và ngã trên lưng Bồ-tát. Tim Bồ-tát
như muốn vỡ nát, vô cùng đau đớn. Sau khi gây ra nỗi đau
khổ thống thiết cho ngài như vậy, nó liền bỏ
đi, chỉ còn Bồ-tát một mình.
Lúc ấy vua tỉnh giấc thấy rõ mọi việc bầy khỉ
đã làm cùng Bồ-tát, vua lại nằm xuống
suy nghĩ: "Con vật này không kể đến tính mạng mình,
đã cứu thoát cho cả
đàn bình an".
Khi trời sáng, vua hoan hỷ về Bồ-tát, lại suy nghĩ: "Giết hại chúa khỉ
này thật không phải đạo, ta muốn đem nó xuống và
săn sóc nó". Vì vậy vua quay bè xuống
sông Hằng và dựng một cầu cao ở đó để Bồ-tát
nhảy xuống nhẹ nhàng, truyền đem tấm y vàng
phủ trên lưng ngài và tắm rửa ngài trên sông, cho ngài uống nước
đường, lau thân thể ngài thật sạch và
tẩm dầu thơm đã lọc kỹ cả ngàn lần, sau
đó trải một tấm da đã
được thoa dầu lên sàng tọa và
đặt ngài nằm ở
đó, còn vua ngồi ở một chỗ thấp hơn.
Và vua ngâm vần kệ đầu:
1. Chính thân ngài đã bắt ngang cầu
khỉ
Cho cả đàn trốn thoát
được bình an,
Này khỉ kia, ngài với chúng họ hàng,
Hay bọn chúng là gì ngài đó vậy?
Nghe lời này, Bồ-tát ngâm các vần kệ khuyến giáo vua:
2. Tâu Ðại vương, tôi trông nom bọn ấy,
Là Hầu vương, tôi làm chủ cả đàn,
Khi bọn kia đầy rẫy nỗi kinh hoàng
Vì các vị, lòng lo buồn đau đớn.
3. Tôi nhảy qua một trăm tầm cung lớn
Ðược trải dài trên vị trí nằm ngang,
Rồi khi tôi đã buộc khúc tre non
Thật vững chắc ở quanh sườn tôi đó,
4. Muốn đến cây như vầng mây bão tố
Ðược cuồng phong thổi bạt cực kỳ nhanh,
Song mất đà, tôi chỉ
đến đầu cành,
Cầm lấy nó, bàn tay tôi thật vững.
5. Khi tôi nằm trên cây treo lơ lửng
Buộc chặt vào cành với khúc tre non,
Bầy khỉ kia đã bước cả lưng còm,
Giờ đây chúng được an toàn thoát nạn.
6. Tôi không sợ nỗi đau vì thiệt mạng,
Dẫu giam cầm tôi cũng chẳng đau buồn.
Khi bình an hạnh phúc với cả đàn,
Xưa bọn chúng, tôi đã từng cai trị.
7. Một ví dụ dành cho ngài, Ðại đế,
Nếu ngài mong học Ðạo lý Chánh chân:
Niềm an vui hạnh phúc của toàn dân,
Cùng quân đội, và kinh thành, chiến
mã,
Ðối với ngài đều thiết thân tất cả,
Nếu ngài mong trị nước thật an bình.
Bồ-tát giáo huấn vua như thế xong liền từ trần. Vua gọi các
đại thần đến truyền lệnh cho Hầu vương được thọ
hưởng tang lễ như một quốc vương. Rồi vua truyền bảo đám phi tần:
- Các nàng hãy đưa Hầu vương ra tận nghĩa
địa với tư cách là đoàn tùy tùng
của Hầu vương, mặc y đỏ, xõa tóc xuống
và cầm đuốc trong tay.
Các đại thần làm dàn hỏa táng với một
trăm xe củi.
Sau khi đã chuẩn bị tang lễ của
Bồ-tát theo nghi thức vua chúa, họ đem xương sọ
của ngài đến trình vua. Vua
truyền xây một đền thờ ở tại địa điểm hỏa táng
Bồ-tát, làm lễ đốt đuốc và dâng
hương hoa cúng dường. Vua lại truyền khảm vàng vào xương sọ, nâng nó lên cao
trên đầu ngọn giáo và
đặt tại cổng thành rồi cúng dường hương
hoa khi vua đến Ba-la-nại. Sau đó truyền lệnh
cho cả kinh thành trang hoàng thật trang nghiêm, nhà vua làm lễ suy
tôn-xá lợi suốt bảy ngày.
Khi đã nhận phần xá-lợi và dựng
đền thờ trong thành, vua
đến đó cúng dường hương hoa suốt đời.
Ðược an trú vào lời dạy của Bồ-tát, vua chuyên tâm bố thí cùng làm nhiều
thiện sự khác và cai trị chân chánh nên về sau tái sinh thiên giới.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật và nhận diện
tiền thân:
- Thời ấy vua là Ànanda, đàn khỉ là
Hội chúng này và Hầu vương chính là Ta.
-ooOoo-
408. Chuyện Người Thợ Gốm (Tiền thân Kumbhakàra)
Cây xoài ta thấy ở rừng xanh...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khiển trách
lỗi lầm. Hoàn cảnh câu chuyện xuất hiện trong tiền thân Pàniya, số 459.
Thời ấy tại Xá-vệ có năm trăm người bạn cùng
xuất gia tụ tập, an trú tại Tinh xá trên con Ðường Lát Vàng (tức Kỳ Viên),
lại khởi lên dục tưởng lúc nửa đêm. Bậc
Ðạo Sư quan sát các đệ tử ba lần ban đêm
và ba lần ban ngày, tức sáu lần suốt ngày đêm,
như chim dẻ cùi ấp trứng, như bò yak gìn giữ cái
đuôi, như bà mẹ chăm
sóc đứa con yêu quý, như người chột canh chừng con mắt còn lại. Vì
vậy Ngài khiển trách ngay khi lỗi lầm vừa sinh khởi. Nửa
đêm hôm ấy Ngài quan sát Kỳ Viên và biết
tâm tư của chúng Tăng, Ngài suy nghĩ:
"Nếu lỗi lầm này tăng trưởng giữa Tăng chúng,
nó sẽ hủy hoại đời Phạm hạnh đưa đến Thánh quả. Ta muốn khiển trách lỗi lầm
này ngay bây giờ và nêu rõ đời Phạm
hạnh".
Thế rồi Ngài rời Hương Phòng và gọi Tôn giả Àanda, truyền Tôn giả triệu
tập chư Tăng tại đó đến họp lại và Ngài
ngồi xuống sàng tọa đã soạn sẵn cho
đức Phật. Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, sống dưới sức chi phối của các dục tưởng là không chân
chánh; nếu tham dục tăng trưởng sẽ gây họa lớn
như một địch thủ. Mỗi Tỷ-kheo phải khiển trách một lỗi lầm dù nhỏ
nhặt. Các trí nhân ngày xưa thấy rõ ngay cả mọi duyên cớ thật nhỏ, nên
đã khiển trách mọi dục tưởng khi vừa mới
khởi sinh, do vậy đã
đắc quả Ðộc Giác Phật.
Nói xong, ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh vào một gia
đình thợ gốm ở ngoại ô Ba-la-nại. Khi
lớn lên, ngài thành gia chủ có một con trai, một con gái và nuôi dưỡng vợ
con với nghề gốm của ngài.
Thời ấy tại vương quốc Kalinga, trong kinh thành Dantapura, quốc vương
mệnh danh Karandu đang dạo chơi với quần thần
đông đảo trong ngự viên, chợt thấy ở cổng vườn một cây xoài nặng trĩu
quả ngọt.
Từ trên lưng voi, vua đưa tay ra hái một chùm
xoài, sau đó vào ngự viên ngồi trên bảo
tọa ăn xoài và ban vài trái cho những kẻ
được ân sủng. Từ khi vua hái xoài,
đám triều thần, Bà-la-môn, gia chủ nghĩ
rằng người khác cũng nên làm như thế, họ hái xoài xuống và
ăn trái cây ấy. Sau đó họ đến nhiều lần trèo
cây lấy gậy đập vào làm gãy cành lá tả
tơi, họ ăn xoài và cũng không chừa lại
những trái chưa chín.
Vua vui chơi trong ngự viên suốt ngày mãi tận chiều,
đi ngang qua trên vương tượng, ngài bước
xuống khi thấy cây xoài và đến gốc cây nhìn
lên, suy nghĩ: "Sáng này cây tươi đẹp với cành
nặng trĩu quả, nhưng đám người ngắm cảnh không
thỏa mãn; nay, nó đứng kia không còn
tươi đẹp nữa vì trái cây
đã bị phá nát và rớt xuống hết rồi".
Vua lại nhìn sang một cây kia không có trái và suy nghĩ: "Cây xoài này
tươi tốt vì không sinh trái khác nào núi trọc chứa
đầy châu báu. Cây kia vì sinh trái nên
đã gặp tai họa: Ðời sống tại gia cũng
giống như cây có trái, đời xuất gia giống như
cây không trái, người giàu tiền hay sợ hãi, người nghèo khó chẳng sợ
gì. Ta cũng chỉ muốn như cây không trái kia".
Như vậy lấy cây sinh trái làm chủ đề, ngài
đứng dưới gốc cây, quan sát Ba đặc tính: Vô
thường, Khổ, Vô ngã và đạt Tuệ giác; ngài
đắc quả Ðộc Giác Phật, liền suy nghĩ:
"Từ nay thai tạng đã xa rời ta, tái sinh
trong Ba cõi đã
đoạn tận, các cấu uế của vòng luân hồi
sinh tử đã
được thanh tịnh, biển nước mắt đã khô cạn, thành xương khô
đã sụp đổ,
ta không còn tái sinh nữa". Ngài đứng uy
nghi như thể được trang điểm mọi thứ ngọc vàng.
Sau đó các đại thần bảo:
- Tâu Ðại vương, ngài đứng đã quá
lâu.
- Ta không phải Ðại vương, ta là Ðộc Giác Phật.
- Tâu Ðại vương, các Ðộc Giác Phật không giống ngài.
- Thế thì các vị ấy ra sao?
- Râu tóc các ngài được cạo sạch, các Ngài
khoác y vàng, không còn lưu luyến gia đình
bộ tộc, các ngài như mây trôi theo gió cuốn hay mặt trăng
thoát khỏi thần Ràhu, và các Ngài an trú trên Tuyết Sơn, ở
động Nandamùla. Tâu Ðại vương, các Ngài
Ðộc Giác Phật là như vậy.
Ngay lúc ấy vua đưa tay lên sờ
đầu lập tức các dấu hiệu của một gia chủ biến
mất, và các dấu hiệu của một Sa-môn xuất hiện:
Bộ ba y, bình bát, với kim may,
Lưỡi dao cạo, đồ lọc nước, dây đai
Là tám món một Sa-môn cần có.
Tám món cần thiết của một Sa-môn như chúng vẫn thường
được gọi, đã dính chặt vào thân Ngài.
Ðương trên không, Ngài thuyết Pháp cho quần thần rồi bay qua bầu trời
đến sơn động Nandamùla trên miền thượng
Tuyết Sơn.
Trong quốc độ Candahar ở kinh thành
Takkasilà, vị vua mệnh danh Naggaji ngự trên thượng lầu, giữa vương sàng,
thấy một nữ nhân đeo vòng ngọc trên một
tay, đang xay hương liệu gần đó, vua suy nghĩ:
"Các vòng ngọc này không cọ xát hoặc kêu leng keng khi rời nhau", và
cứ ngắm nghía nàng ấy mãi. Sau đó, nàng
ấy đặt chiếc vòng từ tay phải sang tay
trái và dùng tay phải thu góp hương liệu rồi bắt
đầu xay tiếp. Chiếc vòng trên tay trái
chạm vào chiếc vòng kia gây tiếng động.
Vua quan sát hai chiếc vòng cọ xát vào nhau, gây âm thanh, liền suy nghĩ:
"Vòng ấy khi để riêng không chạm vào vật
gì cả, nay đụng vào vòng thứ hai gây
tiếng động, khi hai ba chiếc vòng chạm
nhau tạo thành tiếng ồn lớn. Nay ta trị thần dân ở hai quốc
độ Cashmere và Candahar, ta cũng cần
phải ở riêng như chiếc vòng độc nhất để tự trị
chứ không trị kẻ khác nữa". Như vậy lấy việc cọ xát hai chiếc vòng
làm chủ đề, trong lúc ngồi đó, vua nhận thức Ba
đặc tính trên và đạt Tuệ giác, đắc quả
Ðộc Giác Phật. Phần cuối câu chuyện cũng như trên.
Trong quốc độ Videha, tại thành
Mithilà, quốc vương mệnh danh Nimi, sau buổi
điểm tâm, được các triều thần chầu quanh mình,
đứng nhìn xuống
đường phố qua cửa sổ hoàng cung mở rộng.
Một con diều hâu sau khi chụp được miếng thịt
từ chợ, đang bay vụt trên không. Một vài con kên kên và các thứ chim
khác, vây lấy diều hâu mọi phía, liên tiếp lấy mỏ mổ vào, lấy cánh
đập và lấy chân
đạp con kia để dành miếng thịt. Không
chịu để cho chúng giết, diều hâu đành
thả miếng thịt, một chim khác chụp ngay lấy, và bọn chúng lại mổ con kia như
trước. Vua thấy bầy chim, suy nghĩ: "Ai lấy miếng thịt, khổ
đau đến với kẻ ấy; ai bỏ miếng thịt, hạnh phúc
đến với kẻ ấy. Ai hưởng năm dục lạc, khổ đau đến với kẻ ấy; ai bỏ năm dục
lạc, hạnh phúc đến với kẻ ấy. Nay ta có mười sáu ngàn cung nữ, ta cần
phải sống trong hạnh phúc sau khi từ bỏ năm dục
lạc như diều hâu bỏ miếng thịt".
Quan sát việc này với trí tuệ, ngay khi đứng
tại đó, vua nhận thức ba đặc tính trên, chứng
đắc Tuệ giác và thành
đạt viên trí của quả Ðộc Giác Phật. Phần
cuối cũng như trên.
Trong vương quốc Uttarapãncàla, tại kinh thành Kampilla, vị vua mệnh danh
Dummukha, sau buổi điểm tâm, được trang điểm
các món châu báu và quần thần vây quanh,
đứng nhìn xuống sân chầu qua cửa sổ. Vào lúc ấy, có người mở cửa
chuồng bò. Các bò đực từ trong chuồng đang chạy
theo một con bò cái, một con bò đực lớn
với cái sừng nhọn chợt thấy một con đực khác chạy đến, liền ghen tức lấy
sừng nhọn đâm vào hông con kia. Do bị húc quá mạnh, nó
đổ ruột ra ngoài chết ngay tại chỗ. Vua
thấy cảnh này, suy nghĩ: "Mọi loài từ súc vật trở lên
đều chịu khổ đau vì lòng dục, con bò này
vì lòng dục phải chịu chết. Mọi loài khác đều
bị tham dục gây phiền lụy. Ta cần bỏ hết mọi tham dục làm phiền lụy
mọi loài".
Như vậy trong lúc đang đứng, vua nhận thức
Ba đặc tính trên, chứng đắc Tuệ giác và
thành đạt Viên trí của quả Ðộc Giác
Phật. Phần cuối cũng như trên.
Sau đó, một hôm, bốn vị Ðộc Giác
Phật, xét thấy đến thời đi khất thực liền rời
động Nandamùla, sau khi chùi sạch răng
bằng cách nhai cau tại hồ Anotatta, và sau khi
đã hoàn tất mọi nhu cầu vệ sinh xong,
các vị mang y bát dùng thần thông bay lên không, lướt qua các
đám mây ngũ sắc, rồi hạ xuống không xa một
ngoại ô của Ba-la-nại.
Tại một địa điểm tiện lợi, các vị khoác y,
cầm bình bát đi vào vùng ngoại ô
khất thực cho đến khi dừng lại trước cửa nhà
Bồ-tát. Bồ-tát thấy các vị lòng hoan hỷ mời vào nhà ngồi trên chỗ
đã soạn sẵn, ngài rót nước cung nghênh
và đãi các món thượng vị
đủ loại cứng và mềm. Sau
đó ngồi một bên, ngài kính chào vị
trưởng thượng và nói:
- Thưa Tôn giả, đời tu hành của ngài
quả thật tốt đẹp, các căn của Ngài thật
an tịnh, làn da của Ngài thật trong sáng. Chủ
đề suy tư gì đã khiến Ngài khởi
đầu đời sống tu hành và xuất gia?
Cả bốn vị liền đáp:
- Tôi trước kia có tên như vậy, làm vua ở tại kinh thành nọ trong quốc
độ kia...
Ðại khái như thế và theo cách này mỗi vị lần lượt ngâm vần kệ nêu nguyên
nhân giã từ thế tục của mình:
1. Cây xoài ta thấy ở rừng xanh,
Ðen rậm, cao to, trái trĩu cành,
Vì trái, con người đà phá gãy,
Lòng ta chính thế muốn cầm bình.
2. Vòng sáng nhờ tay thợ nổi danh,
Người đeo một chiếc chẳng âm thanh,
Chiếc kia va chạm gây huyên náo,
Vì thế lòng ta muốn chiếc bình.
3. Ðàn chim xâu xé vật cô thân,
Ðơn độc mang theo miếng thịt ăn,
Chim bị đánh đau vì miếng thịt,
Lòng ta chính thế muốn ly trần.
4. Bò đực kiêu căng
giữa đám bò
Vươn lưng, khỏe đẹp, bước chân ra,
Chết vì lòng dục: sườn đâm mạnh,
Do vậy lòng ta muốn xuất gia.
Bồ-tát nghe mỗi vần kệ đều nói:
- Tốt lành thay, thưa Tôn giả, chủ đề của Ngài
thật thích hợp.
Và như vậy ngài tán thán mỗi vị Ðộc Giác Phật. Sau khi nghe các vị thuyết
Pháp, ngài trở nên chán ngán đời sống tại gia.
Khi các vị ra đi, sau buổi điểm tâm, ngài
ngồi thư thái, gọi vợ lại bảo:
- Này hiền thê, bốn vị Ðộc Giác Phật rời bỏ vương quốc trở thành Sa-môn
nay sống không lỗi lầm, không chướng ngại, hưởng niềm cực lạc của
đời tu hành. Trong lúc ấy ta phải tìm kế
sinh nhai qua ngày. Ta còn phải làm gì với đời
gia chủ nữa? Xin nàng nuôi các con và ở lại nhà.
Rồi ngài ngâm hai vần kệ:
5. Vua Ka-ran-du xứ Ka-lin-ga,
Vua Nag-gà-ji xứ Gan-dhà-ra,
Vua Dum-mu-kha xứ Pan-cà-la,
Ðại đế Ni-mi xứ Vi-de-ha,
Tất cả các ngài rời bảo tọa,
Sống không lầm lỗi, giã từ nhà.
6. Các ngài trông dáng tựa Thiên thần,
Chẳng khác nào vầng lửa sáng bừng,
Ta cũng muốn ra đi tiến bước
Xa lìa mọi vật thế nhân mong.
Nghe lời ngài, bà vợ đáp:
- Này phu quân, từ khi thiếp nghe Giáo pháp của các vị Ðộc Giác Phật,
thiếp cũng không muốn ở trong nhà nữa.
Và bà ngâm kệ:
7. Thời cơ thiếp biết chính là đây,
Chẳng có Ðạo Sư hơn các ngài,
Chàng hỡi, thiếp mong xuất thế nữa,
Như con chim được thoát bàn tay.
Bồ-tát nghe lời bà nói liền yên lặng, Bà vợ nôn nóng xuất gia tu hành
trước ngài, và đang muốn đánh lừa ngài,
liền giả vờ nói:
- Này phu quân, thiếp sắp ra hồ nước, chàng hãy chăm
nom các con.
Rồi bà cầm chiếc bình như thể đi đến đó và
bà đi thẳng đến các vị ẩn sĩ ngoại thành
xin truyền giới xuất gia. Bồ-tát không thấy bà trở về,
đành phải tự tay chăm
sóc các con.
Về sau chúng lớn khôn hơn một chút và tự chúng có thể hiểu biết
đôi chút, ngài muốn dạy chúng nấu cơm,
nên ngài thường nấu một ngày cơm hơi cứng và sống, một ngày cơm hơi sống,
một ngày cơm chín, một ngày cơm nhão, một ngày không có muối, một ngày quá
nhiều muối. Bầy trẻ nói:
- Cha ơi, hôm nay cơm chưa chín, hôm nay cơm nhão, hôm nay không có muối,
hôm nay quá nhiều muối.
Bồ-tát đáp:
- Ðúng vậy, các con thân yêu.
Rồi Ngài suy nghĩ: "Các con nay đã
biết cơm nào sống, cơm nào chín, cơm nào có muối, cơm nào không: thế là
chúng có thể sống riêng đời chúng rồi. Ta cần
phải xuất gia". Sau đó, ngài đưa chúng
đến gặp đám thân quyến xong, ngài liền xuất gia tu hành, cư trú ở
ngoại thành. Một hôm vị nữ tu khổ hạnh đi khất
thực ở Ba-la-nại thấy ngài, liền kính chào và nói:
- Thưa Tôn giả, tôi chắc tôn giả đã
giết bầy trẻ rồi.
Bồ-tát đáp:
- Ta không giết bầy trẻ, khi chúng có thể tự mình biết việc, ta mới xuất
gia. Còn bà đã không quan tâm
đến chúng và vui lòng với việc xuất gia
trước ta.
Rồi ngài ngâm vần kệ cuối cùng:
8. Thấy con biết mặn, nhạt khi ăn,
Cơm sống, chín, ta đã bước chân,
Nay để yên ta, người một nẻo,
Ta cùng theo Giáo pháp chân nhân.
Khuyến giáo vị nữ tu khổ hạnh như vậy xong, ngài từ giã bà. Bà nhận lời
khuyến giáo ấy, kính bái Bồ-tát và đi đến một
nơi vừa ý.
Sau ngày ấy, hai vị không bao giờ gặp lại nhau. Bồ-tát chứng
đắc Thắng trí được tái sinh lên Phạm
thiên giới.
*
Sau Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Khi các Sự thật kết
thúc, năm trăm Tỷ-kheo đắc Thánh quả (A-la-hán.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy con gái là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), con trai là Ràhula
(La-hầu-la), nữ tu sĩ là mẫu thân Rahula và nhà khổ hạnh ấy chính là Ta.
-ooOoo-
409. Chuyện Vua Dalhadhamma (Tiền thân Dalhadhamma)
Chính con khuân vác tự ngày xanh...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại rừng Ghosita (Cù-sư-la) gần
Kosambi (Kiều-thưởng-di) về Bhaddavatika, con voi cái của vua Udena.
Bấy giờ cách con voi này được trang điểm vàng
ngọc và dòng họ vua Udena sẽ xuất hiện trong tiền thân Màtanga, số 497. Một
hôm con voi này ra ngoại thành sáng sớm gặp đức
Phật được Thánh chúng vây quanh, trong vẻ oai nghi tối thượng của một bậc
Giác Ngộ, đang vào thành khất thực, nó quỳ xuống chân
đức Như Lai, than khóc và cầu khẩn Ngài:
- Bạch Thế Tôn, bậc toàn tri kiến, vị cứu khổ toàn thế giới, khi con còn
trẻ và có khả năng làm việc, vua Udena,
một vị minh quân đã thương yêu con và
bảo: "Ðời sống của ta cùng vương quốc và Hoàng hậu
đều nhờ nó tất cả". Rồi ngài ban cho con
đại vinh hiển bằng cách trang điểm mọi thứ vàng
ngọc, ngài truyền trát chuồng voi với đất trộn
hương liệu, treo các đồ vật có màu sắc rực rỡ chung quanh, thắp
đèn với dầu thơm,
đặt dĩa trầm xông tại đó, ngài lại
truyền đặt một chậu bằng vàng tại chỗ
con đại tiện, cho con đứng trên thảm màu
và cho con ăn toàn cao lương thượng vị
của vua. Nay con đã già và không làm
việc được nữa, nên ngài tước bỏ mọi
đặc ân ấy, con sống bơ vơ khốn khổ không ai bảo
vệ chăm sóc, chỉ ăn toàn quả ketaka trong rừng, con chẳng có nơi
nương tựa nào nữa. Xin Thế Tôn nói cho vua Udena nghĩ lại các công
đức của con và phục hồi mọi vinh quang
cũ cho con".
Bậc Ðạo Sư bảo:
- Con hãy đi về, rồi ta sẽ nói với vua phục
hồi mọi vinh quang cũ cho con.
Sau đó ngài
đi đến cửa hoàng cung.
Vua mời đức Phật vào, thiết
đãi trọng thể tất cả hội chúng theo hầu
đức Phật.
Khi buổi thọ thực đã xong, Bậc Ðạo Sư
nói lời tùy hỷ công đức và hỏi:
- Thưa Ðại vương, con voi Bhaddavatikà đâu
rồi?
- Bạch Thế Tôn, trẫm không biết.
- Thưa Ðại vương, sau khi ban vinh hiển cho
đám nô tỳ, ngài tước bỏ mọi ân huệ lúc chúng già là không phải
đạo, vậy cần tỏ lòng biết ân chúng.
Bhaddavatikà nay đã già, mòn mỏi vì tuổi
tác và không được ai bảo vệ, chỉ sống bằng trái
cây ketaka trong rừng. Ðại vương để cho
nó bơ vơ như vậy lúc già yếu là không hợp lý.
Rồi kể các công đức của con voi Bhaddavatikà,
Ngài bảo:
- Ðại vương hãy phục hồi mọi vinh quang cũ của nó.
Xong Ngài ra đi. Vua làm theo lời
Ngài. Cả kinh thành truyền tin rằng vinh quang cũ của con
voi đã được
phục hồi nhờ đức Phật kể lại mọi công đức của nó.
Việc này được Tăng chúng biết và chư
vị bàn luận trong lúc hội họp. Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe
đây là đề tài
của các vị, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu
Như Lai làm cho nó được phục hồi mọi
vinh quang cũ bằng cách kể các công đức của nó.
Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa có một vị vua mệnh danh Dalhadhamma cai trị tại Ba-la-nại. Thời
ấy Bồ-tát thọ sanh vào gia đình một
đại thần, khi lớn lên, ngài phục vụ nhà
vua.
Ngài được vua ban nhiều vinh hiển và
đứng địa vị một đại thần quan trọng nhất trong
triều. Vua có một con voi cái rất dũng mãnh lực lưỡng. Nó
đi một trăm dặm một ngày, làm mọi phận
sự sứ thần của vua, khi ra trận nó chiến đấu
oanh liệt, dẫm nát quân thù. Vua bảo:
- Con voi này thật hữu ích đối với ta.
Rồi vua ban cho nó mọi thứ trang điểm và
vinh quang giống như vua Udena ban cho Bhaddavatikà ngày nay. Sau
đó khi nó già yếu, vua tước hết mọi
đặc ân trên.
Từ đó nó không được ai bảo vệ và chỉ
sống bằng các thứ cỏ lá trong rừng. Một hôm các loại
đồ gốm sứ trong cung vua không đủ dùng,
vua truyền thợ gốm lại và phán:
- Ðồ gốm không đủ dùng.
- Tâu Ðại vương, tiểu thần không có bò kéo xe
để mang phân bò về nung
đất sét.
Vua nghe chuyện, liền phán:
- Con voi cái của ta đâu rồi?
- Tâu Ðại vương, nó đang phiêu bạt
tùy ý.
Vua bảo đem nó cho người thợ gốm:
- Từ nay ngươi buộc nó vào xe rồi đưa đi chở
phân.
Người thợ gốm đáp:
- Tâu Ðại vương, tốt quá.
Rồi gã làm theo lời dặn. Một hôm ra ngoại thành, voi cái chợt thấy Bồ-tát
đi đến, liền quỳ xuống chân ngài vừa
than khóc vừa nói:
- Thưa Tể tướng, thời con còn trẻ, đức vua
xem con rất hữu dụng và ban con đại vinh
hiển, nay con già yếu, ngài tước bỏ mọi
đặc ân và không còn nghĩ đến con nữa,
con không được ai bảo vệ và chỉ sống bằng cỏ lá trong rừng, gặp cảnh
khốn cùng thế này ngài lại đem con cho người
thợ gốm buộc vào xe chở phân; trừ Tể tướng ra, con không còn nơi
nương tựa nào cả, chính Tể tướng đã biết
mọi công lao con phục vụ đức vua, xin ngài
cho con được phục hồi mọi vinh hiển đã
mất.
Rồi voi cái ngâm ba vần kệ:
1. Chính con khuân vác tự ngày xanh,
Như vậy đức vua đã thỏa tình?
Vũ khí con mang đầy trước ngực
Xông pha chiến trận, bước hùng anh.
2. Con đã lập nên lắm chiến công,
Ðức vua giờ hẳn có quên chăng
Bao lần phục vụ nhiều công trạng
Như đã định cho các sứ thần?
3. Nay con cô độc, quá bơ vơ,
Chắc chắn mạng chung đã đến giờ,
Phục vụ cho nhà người thợ gốm,
Con đành làm vật kéo phân dơ!
Bồ-tát nghe chuyện, liền an ủi nó và bảo:
- Thôi đừng buồn khổ nữa, ta sẽ đi trình
đức vua và phục hồi vinh dự cho con.
Vì thế khi vào thành, ngài đi đến chầu vua
sau buổi điểm tâm và bắt đầu câu chuyện,
ngài bảo:
- Tâu Ðại vương, có phải con voi cái mang tên kia
đã ra trận chiến tại những nơi nọ với
các vũ khí buộc đầy ngực; rồi ngày khác
nó lại mang quốc thư ở cổ đi cả trăm dặm làm
sứ giả cho Ðại vương, và Ðại vương ban cho nó nhiều vinh hiển chăng,
nay nó đâu rồi?
- Trẫm đã giao nó cho người thợ gốm
chở phân bò.
Bồ-tát liền đáp:
- Có hợp đạo lý chăng, tâu Ðại vương,
khi giao nó cho người thợ gốm buộc vào xe chở phân?
Rồi để khuyến giáo, ngài ngâm bốn vần
kệ:
4. Do ích kỷ tham vọng cá nhân,
Người ta ban phát mọi vinh quang,
Như ngài đối với con voi nọ,
Ném bỏ như nô lệ yếu tàn.
5. Khi người quên hết các huân công.
Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
Mọi việc mà lòng đang dự tính
Ngày sau chắc hẳn phải suy vong.
6. Khi người ghi nhớ các công ơn
Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
Mọi việc mà lòng đang dự tính
Ngày sau chắc hẳn sẽ thành công.
7. Ta nói điều chân lý trọn lành,
Cho thần dân tụ tập chung quanh:
Phải luôn ghi nhớ công ơn cũ,
Thiên giới dành phần sống hiển vinh.
Với lời khởi đầu này, Bồ-tát giáo hóa
toàn thể dân chúng đang tụ tập ở đó. Nghe vậy
vua ban cho con voi già mọi hiển vinh cũ, và về sau
được an trú vào lời dạy của Bồ-tát, vua
bố thí cùng thực hành nhiều thiện sự khác nên
được sinh lên cõi thiên.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, voi cái là Bhaddavatikà, vua là Ànanda, vị
đại thần chính là Ta.
-ooOoo-
410. Chuyện Voi Con Somadatta (Tiền thân Somadatta)
Bước sâu vào tận trong rừng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về một Trưởng lão già
cả.
Chuyện kể rằng vị Trưởng lão này truyền giới cho một Sa-di làm
đệ tử, phụng sự vị ấy nhưng chẳng bao lâu lâm
bệnh nặng qua đời. Trưởng lão đi quanh
quẩn khóc than kêu gào vì cái chết của
đệ tử.
Thấy vậy Tăng chúng bắt đầu bàn tán
trong Chánh pháp đường:
- Này các Hiền giả, vị Trưởng lão già cả này cứ lang thang kêu khóc vì
một Sa-di chết, chắc hẳn vị ấy đã quên
pháp môn quán tưởng về mạng chung.
Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đề tài
câu chuyện, Ngài bảo:
- Náy các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu
người này khóc người kia chết.
Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vị ở Ba-la-nại, Bồ-tát là Sakka Thiên
chủ. Một Bà-la-môn giàu tiền của, trước sống ở Ba-la-nại, sau giã từ thế tục
và trở thành ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, nhặt củ quả rừng
để ăn.
Một hôm đi tìm quả rừng, ông thấy một
chú voi con, liền đem về thảo am. Ông xem nó
như thể con mình gọi tên nó là Somadatta, nuôi nấng chăm
sóc nó và cho nó ăn cỏ lá. Con voi lớn
dần trở thành to lớn, song một hôm nó ăn
quá nhiều nên phát bệnh vì bội thực. Vị khổ hạnh
đem nó vào thảo am và
đi tìm quả rừng. Song trước khi ông trở
về, con voi đã chết. Khi
đem về mớ quả, vị khổ hạnh suy nghĩ: "Các ngày
khác con ta vẫn đón ta, sao không thấy hôm nay?
Con ta bị việc gì chăng?". Thế là
ông than khóc và ngâm vần kệ đầu:
1. Bước sâu vào tận trong rừng,
Nó thường vẫn đến đón mừng ta ngay,
Nhưng sao chẳng thấy hôm nay,
Voi con đi lạc chẳng hay lối về?
Cùng với lời than khóc này, ông thấy con voi nằm cuối lối
đi có mái che, liền ôm ngang cổ nó và
ngâm vần kệ thứ hai tiếc thương nó:
2. Chính voi vừa chết nằm kia
Như búp măng bị cắt lìa nát thân,
Voi nằm dưới đất ngã lăn,
Con voi ta đã lìa trần, than ôi!
Ngay lúc ấy Sakka Thiên chủ quan sát cõi trần, suy nghĩ: "Vị khổ hạnh này
từ giã vợ con để tu hành, nay lại than
khóc con voi mà ông gọi là con, ta muốn đến
thức tỉnh ông và làm cho ông suy nghĩ lại".
Vì thế ngài xuất hiện trước thảo am, đứng trên
không và ngâm vần kệ thứ ba:
3. Sầu thương vật đã chết rồi,
Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư,
Thoát dây tục lụy, xuất gia,
Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!
Nghe lời này, vị khổ hạnh ngâm vần kệ thứ tư:
4. Nếu người bầu bạn thú hiền,
Thưa ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
Buồn phiền vì mất bạn chơi,
Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu!
Thiên chủ Sakka liền ngâm vần kệ khuyến giáo ông.
5. Người đời lắm kẻ ước ao
Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương,
Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.
6. Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
Thì ta quyết phải hợp quần
Ðể mà cứu mọi vật thân nhất đời!
Nghe lời Thiên chủ nói, vị khổ hạnh nghĩ lại và
được an ủi, bèn lau nước mắt và ngâm các
vần kệ cuối cùng tán thán Thiên chủ:
7. Ví như ngọn lửa sáng ngời
Ðổ thêm bỏ sữa cháy hoài thật cao,
Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.
8. Lòng ta nhức nhối xót xa
Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng,
Ngài đà chữa trị vết thương,
Và ngài hồi phục đời thường cho ta.
9. Mũi tên vừa được nhổ ra,
Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi
Lắng nghe Thiên chủ nhủ lời,
Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.
Các vần kệ này đã
được ngâm ở tiền thân Migapotaka, số 372.
Sau khi khuyến giáo vị khổ hạnh, Sakka trở lại cõi của ngài.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, voi con là Sa-di, vị khổ hạnh là Trưởng lão già cả này và
Sakka Thiên chủ chính là Ta.
-ooOoo-
411. Chuyện Vua Susìma (Tiền thân Susìma)
Tóc ta đen nhánh từ ngày xưa...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế.
Tăng chúng lúc ấy đang ngồi trong Chánh pháp
đường tán thán Ðại sự Xuất thế của đức
Phật. Khi thấy đây là chủ đề của các vị,
Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, không lạ gì ngày nay ta lại làm Ðại sự Xuất thế và giã
từ thế tục, khi Ta đã thực hành các công
hạnh viên mãn (Ba-la-mật) trong hàng trăm ngàn
kiếp, mà ngày xưa Ta cũng từ bỏ ngai vàng tại quốc
độ Kàsi rộng ba trăm
dặm và làm Ðại sự Xuất thế.
Và vì vậy Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai của
bà vợ vị tế sư hoàng gia. Trong ngày sinh ra ngài, hoàng hậu cũng sinh một
con trai.
Vào ngày lễ đặt tên, bậc Ðại Sĩ
được gọi là Nam tử Susìma, và hoàng nam
được đặt tên Vương tử Brahmadatta.
Vua thấy đôi trẻ cùng sinh ra một
ngày nên truyền đưa Bồ-tát giao cho nhũ mẫu cùng
nuôi chung với vương tử. Cả hai trẻ lớn lên tươi
đẹp như các Thiên tử trên trời.
Cả hai đều học đủ mọi ngành nghệ
thuật ở Takkasilà và trở về nhà. Vương tử trở thành phó vương, cùng
ăn uống, sống chung với Bồ-tát. Lúc vua cha
băng hà, hoàng tử lên làm vua, ban cho Bồ-tát mọi vinh hiển và phong
chức tế sư hoàng gia.
Một hôm tân vương truyền trang hoàng cả kinh thành, rồi
được tô điểm rực rỡ như Sakka Thiên chủ,
vua tham dự đám rước quanh kinh thành,
ngự trên vai vương tượng chẳng khác nào bảo tượng Eràvana của Thiên chủ,
trong niềm tự hào cùng với Bồ-tát ngồi phía sau trên lưng voi. Mẫu hậu nhìn
ra từ cửa sổ trông thấy hoàng nam và chợt thấy vị tế sư sau lưng vua khi
ngài từ đám rước trở về. Bà
đâm ra si tình ngài, liền
đi vào hậu cung nghĩ thầm: "Nếu ta không
chiếm được chàng, ta sẽ chết tại
đây". Vì thế bà bỏ
ăn uống và cứ nằm tại
đó.
Vua không thấy mẹ liền hỏi thăm, khi nghe bà
bị bệnh, vua đến hỏi thăm và cung kính
hỏi bà bị bệnh gì. Bà không nói vì hổ thẹn. Vua liền ngự lên ngai, truyền
chánh cung hoàng hậu đi tìm hiểu xem
thái hậu bị bệnh gì.
Hoàng hậu đến, vừa hỏi thăm, vừa vuốt ve
lưng mẫu hậu. Nữ nhân thường không dấu nhau các chuyện bí mật, vì thế
chuyện bí mật kia được tiết lộ. Hoàng
hậu liền đi trình vua. Vua bảo:
- Ðược rồi, ái khanh đi an ủi mẫu hậu, ta sẽ
tôn vị tế sư lên làm vua và mẫu hậu lên làm chánh hậu của ngài.
Hoàng hậu liền đến an ủi thái hậu. Vua
truyền mời vị tế sư đến kể lại vấn đề:
- Này Hiền hữu, hãy cứu mạng mẹ ta, khanh sẽ làm vua và mẹ ta sẽ lên làm
chánh hậu, còn ta sẽ làm phó vương.
Vị tế sư đáp:
- Không thể được.
Song cứ bị khẩn cầu mãi, ngài bằng lòng và vua tôn ngài lên làm vua, mẫu
hậu làm chánh hậu và chính mình làm phó vương. Tất cả mọi người
đều sống hòa hợp, song Bồ-tát khô héo
dần giữa cuộc sống tại gia. Ngài từ bỏ mọi dục lạc và hướng về
đời tu hành.
Chẳng còn màng các lạc thú trần gian, ngài
đi đứng nằm ngồi như tù nhân bị giam lỏng hay con gà trống trong lòng
son. Chánh hậu suy nghĩ: "Hoàng thượng tránh mặt ta, ngài
đi đứng nằm ngồi một mình, giờ
đây ngài vẫn tươi trẻ, còn ta
đã già và có tóc bạc. Giả sử ta kể cho
ngài nghe chuyện ngài đã có tóc bạc,
khiến cho ngài tin chuyện ấy và đến bầu bạn với
ta chăng?"
Một hôm, làm như thể lau đầu vua, bà
nói:
- Hoàng thượng sắp già rồi đấy, có sợi tóc
bạc trên đầu hoàng thượng!
- Hãy nhổ nó ra và đặt vào tay trẫm.
Hoàng hậu nhổ một sợi tóc, nhưng lại ném nó
đi và đặt vào tay ngài một sợi
tóc bạc của bà. Khi thấy nó, nỗi sợ chết khiến mồ hôi
đổ ra chảy xuống trán ngài, dù vầng trán
bóng láng như một phiến vàng, ngài tự nhủ mình: "Này Susìma, ngươi
đã già cỗi ngay tuổi thanh xuân, suốt
bấy lâu nay ngươi chìm sâu vào vũng bùn dục lạc như thể con heo vùng quê lặn
lội trong đầm lầy dơ bẩn, ngươi không thể xa
rời bùn nhơ được. Hãy rời bỏ tham
dục, và sống đời khổ hạnh ở vùng Tuyết
Sơn. Nay đã
đến thời xuất gia rồi". Cùng với ý tưởng này, ngài ngâm vần kệ
đầu:
1. Tóc ta đen nhánh tự ngày xưa
Vẫn mọc quanh vần trán của ta,
Bạc trắng giờ đây, lưu ý nhé:
Ðến thời tu tập giã từ nhà.
Như thế Bồ-tát ca tụng đời tu hành,
nhưng hoàng hậu thấy bà đã làm cho ngài
rời bỏ bà chứ không phải yêu thương bà, nên lòng sợ hãi, bà muốn cản trở
ngài sống đời xuất gia, bằng cách ngâm hai vần
kệ ca tụng dung sắc ngài:
2. Tóc bạc thiếp đây, chẳng phải chàng,
Từ trên đầu thiếp mới đưa sang,
Vì chàng, thiếp nói điều hư vọng,
Xin lượng thứ cho lỗi thiếp làm.
3. Trông chàng tươi đẹp, dáng thanh tân
Như một cây non trẻ giữa xuân,
Hãy trị nước nhà, cười với thiếp,
Ðừng tìm việc của tuổi thu đông!
Nhưng Bồ-tát đáp:
- Này hoàng hậu, bà đang nói đến những việc
phải xảy đến: Khi tuổi tác chín muồi, tóc đen này phải ngã màu bạc
như vôi, ta thấy sự biến hoại của xác thân theo năm
tháng lúc đến tuổi lão thành, từ công nương cho
đến mọi người khác, dù có dịu mềm như
tràng hoa sen xanh, sáng đẹp như vàng
ròng, và say sưa với niềm kiêu hãnh về tuổi xuân rực rỡ của mình. Này hoàng
hậu, đó là kết thúc
đáng sợ của mọi loài hữu tình.
Hơn nữa, muốn trình bày chân lý với oai lực của một vị Phật, ngài ngâm
hai vần kệ:
4. Ta thường trông thiếu nữ xuân thì,
Uyển chuyển như cành lả lướt kia,
Kiêu mạn vì hình dung diễm lệ,
Mọi người say ngắm bước chân đi.
5. Cũng chính nàng kia, ta ngắm trông
(Trải qua đã tám, chín mươi năm)
Run run chân bước, tay cầm gậy,
Thân thể còng như ngọn liễu rung.
Trong vần kệ này bậc Ðại Sĩ nêu rõ nỗi khổ
đau của dung sắc và giờ đây ngài
tuyên bố nỗi bất mãn của ngài với đời tại gia:
6. Những ý tưởng này ta xét luôn,
Tư duy vẫn đến giữa đêm
đơn,
Ðời người thế tục ta không chuộng,
Ðúng lúc tu hành phải bước chân.
7. Dục lạc trong đời sống thế nhân
Là nơi hèn yếu để nương thân,
Trí nhân cắt đứt, theo đường khác,
Bỏ dục lạc đầy đủ lực hùng.
Như vậy trong khi tuyên bố các lạc thú lẫn khổ
đau của tham dục, ngài giảng bày chân lý
với vẻ kỳ diệu của bậc Giác Ngộ, rồi ngài truyền
đi mời thân hữu của ngài
đến nhận lại vương quốc: ngài từ giã
vinh quang và quyền lực giữa tiếng than khóc vang rền của thân bằng quyến
thuộc, rồi trở thành bậc hiền nhân khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, và về sau
chứng đắc Thiên
định, ngài
được tái sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật và
đem lại nguồn nước bất tử cho nhiều người, rồi
Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, chánh hậu là mẫu thân Ràhula, vua là Ánanda và vua Susìma
chính là Ta.
-ooOoo-
412. Chuyện Thần Cây Bông Vải (Tiền thân Kotisimbalì)
Ta mang thân xác của xà vương...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khiển trách
lỗi lầm. Hoàn cảnh đưa đến chuyện này sẽ
xuất hiện trong tiền thân Pannna (không tìm
được).
Vào dịp này Bậc Ðạo Sư nhận thấy năm trăm
Tỷ-kheo sống trong Tinh xá trên Con Ðường Lát Vàng (Kỳ Viên)
đang bị dục tưởng chi phối, liền tập hợp Tăng
chúng lại và bảo:
- Này các Tỷ-kheo, cần phải hoài nghi nơi nào
đáng hoài nghi, lỗi lầm vây phủ con
người như rễ cây đa hay những cây tương tự mọc
quanh các cây khác. Cũng vậy, ngày xưa một vị thần trú trên
đỉnh cây bông vải thấy một con chim thả phân có
các hột cây đa nằm giữa các cành cây bông vải, sinh lòng lo sợ rằng
nơi trú ẩn của mình sẽ bị tàn phá vì chúng.
Và do vậy Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát là Thần cây trú
trên ngọn cây bông vải. Một chúa chim thần cánh vàng, Kim sí
điểu vương, biến hình dài một trăm
năm mươi dặm, rồi rẽ nước đại dương bằng trận cuồng phong do đôi cánh đập
mạnh, nó chụp lấy đuôi một vua rắn thần Nàga dài một ngàn trượng,
khiến cho xà vương phải nhả hết mọi vật đã
ngậm trong miệng, xong nó liền bay lên theo các ngọn cây về phía cây bông
vải.
Xà vương suy nghĩ: "Ta sẽ làm cho nó thả ta ra
để ta đi". Vì vậy rắn thành dán sát
đầu vào cây
đa và quấn quanh cây thật chặt. Do sức mạnh của chú chim thần và thân
xác khổng lồ của xà vương, cây đa bị bật gốc.
Song xà vương vẫn không rời cây đa. Chúa
chim thần mang cả xà vương lẫn cây đa
đến cây bông vải kia, đặt rắn thần lên thân cây, mổ bụng ra
ăn thịt mỡ. Sau đó nó ném xác rắn xuống biển.
Bấy giờ trên cây đa có con chim nhỏ bay lên
khi cây đa bị ném bỏ, rồi đậu trên một
cành cây cao gần cây bông vải. Thấy con chim, Thần cây liền run rẩy toàn
thân vì sợ hãi, và suy nghĩ: "Con chim này sẽ thả phân nó rơi trên thân ta,
rồi một cây đa hay cây sung sẽ mọc lên
và lan tràn khắp thân cây, thế là nơi trú ẩn của ta sẽ bị phá hoại". Lúc ấy
cây bông vải rung chuyển tận gốc vì cơn kinh hãi của Thần cây. Kim sí
điểu vương thấy cây rung chuyển như vầy, liền
ngâm đôi vần kệ hỏi lý do:
1. Ta mang thân xác của xà vương
Cùng với thân ta lớn dị thường,
Thân rắn kia dài ngàn trượng chẵn,
Song cây không chuyển động kinh hoàng.
2. Nay mang chim nhỏ bé ti ti
So với ta đây chẳng sá chi,
Cây lại run hoài vì sợ hãi,
Hỡi cây bông vải, lý do gì?
Sau đó Thần cây ngâm bốn vần kệ giải thích
lý do:
3. Thịt mỡ ngài xơi, hỡi Ðiểu vương,
Trái cây là thức của chim muông,
Hạt đa, sung, với bồ-đề nữa,
Nếu mọc, toàn thân ta chết luôn!
4. Hạt ấy về sau sẽ mọc cây,
Rồi che phủ cả hết thân này,
Ta không còn có cây nào nữa
Vì bị chúng che kín phủ đầy.
5. Một khi cây đã lớn lên nhanh,
Rễ mạnh quanh thân, rậm rạp cành,
Chứng tỏ hạt do chim tích trữ
Mang mầm hủy hoại đến cho mình.
6. Loại cây mọc bám sẽ chôn thây
Ngay cả cây rừng vĩ đại này,
Vì vậy, Ðiểu vương, ta rúng động
Khi ta lo sợ thấy như vầy.
Nghe lời thần cây, điểu vương ngâm vần kệ
cuối cùng:
7. Phải kinh hãi việc đáng kinh hoàng,
Hiểm họa đến thân phải hộ phòng,
Bậc trí lặng nhìn hai thế giới,
Nếu gây kinh hãi, phải rời chân.
Nói vậy xong, điểu vương dùng sức
mạnh đẩy con chim nhỏ ra khỏi cây ấy.
*
Sau Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật bắt
đầu bằng những lời: "Cần phải hoài nghi
nơi nào đáng hoài nghi". Khi các Sự thật
kết thúc, năm trăm vị Tỷ-kheo được an trú vào
Thánh quả (A-la-hán).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, Sàriputta là Ðiểu vương và Ta chính là Thần cây.
-ooOoo-
413. Chuyện Người Chăn
Dê Dhùmakàri (Tiền thân Dhùmakàri)
Một hôm minh đế Yu-dhi-la...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về
đặc ân của Ðại vương Kosala
đối với một người khách lạ.
Chuyện kể rằng có thời vua không dành đặc ân
cho các võ tướng cũ vẫn đến chầu vua như
thường lệ, mà lại ban vinh dự và tỏ lòng hiếu khách
đối với những người mới yết kiến lần đầu. Thời
ấy vua đi chinh chiến ở một tỉnh biên
địa bị quấy phá. Nhưng các võ tướng cũ của vua không muốn giao chiến
vì nghĩ rằng những võ tướng mới được hưởng đặc
ân sẽ chiến đấu và đám người mới này
cũng không muốn chiến đấu vì nghĩ rằng
những vị tướng cũ sẽ làm việc ấy. Do vậy quân phiến loạn thắng trận.
Vua biết thất bại của mình là do sai lầm mình
đã mắc phải khi ban ân huệ cho bọn người
mới, liền trở về thành Xá-vệ. Vua quyết định
hỏi đức Thế Tôn Ðại Trí xem mình có phải là ông vua duy nhất chịu
thất bại vì lý do kia chăng. Bậc Ðạo Sư
đáp:
- Thưa Ðại vương, Ðại vương không phải là trường hợp duy nhất, vua chúa
ngày xưa cũng bị bại trận vì đã ban
đặc ân cho đám người mới.
Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa tại thành Indapattana, ở quốc độ
Kuru, có vị vua ngự trị mệnh danh là Dhananjaya, thuộc dòng họ
Yudhithila. Bồ-tát được sinh vào gia
đình vị tế sư của vua. Khi lớn lên, ngài
học tập mọi nghệ thuật ở Takkasilà. Sau ngài trở về Indapattana và khi thân
phụ từ trần, ngài trở thành vị tế sư hoàng gia kiêm cố vấn của vua về thế sự
cũng như thánh sự. Danh hiệu của ngài là bậc Trí nhân Vidhùra.
Vua Dhananjaya coi thường các võ tướng cũ của mình và ban
đặc ân cho các người mới. Sau đó vua đi chinh
chiến ở một tỉnh biên thùy có loạn; nhưng cả
đám võ tướng cũ lẫn võ tướng mới
đều không muốn giao chiến, mỗi phe đều nghĩ
rằng phe kia sẽ chăm lo việc ấy. Do đó vua bại trận.
Khi trở về Indàpattana, vua nhận xét rằng sự thất bại ấy là do
đặc ân mà mình
đã dành cho
đám người mới. Một hôm vua suy nghĩ: "Có phải ta là vị vua duy nhất
từng bại trận vì ban ân huệ cho đám người mới,
hay cũng có nhiều kẻ khác cùng chung số phận này trước kia? Ta muốn
hỏi bậc Trí nhân Vidhùra". Vì thế vua đưa lời
chất vấn Trí nhân Vidhùra khi ngài đến
yết kiến vua tại triều đình.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ nêu rõ lý do lới chất vấn của vua:
1. Một hôm minh đế Yu-dhi-la,
Hỏi bậc Trí nhân Vi-dhù-ra:
"Hiền hữu Bà-la-môn có biết
Tim ai sầu thống thiết hơn ta?"
*
Nghe vậy, Bồ-tát đáp:
- Tâu Ðại vương, nỗi sầu của ngài chỉ là
điều nhỏ nhặt. Ngày xưa, một Bà-la-môn chăn
dê tên gọi Dhùmakàri nuôi một đàn
dê lớn, và làm chuồng cho chúng ở trong rừng. Vị ấy
đốt lửa xông khói và sống bằng sữa dê
tại đó để chăm sóc đàn dê.
Khi thấy một bầy nai da vàng óng ả chợt đến,
ông lại sinh lòng thương mến chúng và xao lãng bầy dê, ông tỏ hết
lòng quý trọng bầy nai. Vào mùa thu, bầy nai lại di chuyển về vùng Tuyết
Sơn. Trong lúc bầy dê chết dần như thế, bầy nai cũng khuất dạng sau rặng
núi. Do quá khổ não, ông mắc bệnh xanh xao võ vàng và từ trần. Ông
đã bày tỏ
đặc ân với đám nai mới và phải chết vì chịu buồn khổ thống thiết hơn
Ðại vương cả trăm ngàn lần.
Ngài liền ngâm vần kệ nêu rõ trường hợp này:
2. Bà-la-môn có một bầy dê,
Dòng họ Va-si sang trọng kia,
Ðốt lửa ngày đêm luôn bốc khói,
Sống đời an lạc chốn sơn khê.
3. Ngửi mùi khói bốc, một bầy nai
Do bị nhặng đeo quấy rối hoài,
Tìm chỗ trú khi mưa gió đến,
Gần nhà mục tử Dhu-ma-kai.
4. Bầy nai giờ được mọi yêu thương,
Dê chẳng được ai thiết ngó ngàng,
Ði lại tự do không bảo hộ,
Cho nên chúng phải bị suy tàn.
5. Song nay nhặng đã bỏ khu rừng,
Thu đến, mùa mưa chấm dứt luôn,
Nai phải đi tìm bao
đỉnh núi,
Cùng khe suối chảy ở trên nguồn.
6. Mục tử thấy nai đã bỏ
đi,
Cả bầy dê cũng chết nằm kia,
Bệnh sầu não đến làm mòn mỏi
Da dẻ ngày thêm một tái tê.
7. Vậy người nào bỏ mặc thân bằng,
Lại gọi người xa lạ thân thiết
Như lão Dhu-ma-kai mục tử,
Một mình, dòng lệ đắng cay tuôn.
Ðấy là câu chuyện do bậc Ðại Sĩ kể lại để an
ủi vua. Vua được an ủi, lòng rất hoan hỷ liền ban tặng ngài nhiều
châu báu. Từ đó trở đi, vua bày tỏ ân
sủng đối với toàn dân, làm nhiều thiện
sự công đức nên
được sinh lên cõi Thiên.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, vua xứ Kuru là Ànanda, Bà-la-môn Dhùmakàri là vua Pasenadi
(Ba-tư-nặc), nước Kosala, và bậc Trí nhân Vidhùra là Ta.
-ooOoo-
414. Chuyện Người Tỉnh Thức (Tiền thân Jàgara)
Ai thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một cư sĩ. Ðó là
một đệ tử đã
đắc Nhập lưu Ðạo.
Một hôm ông khởi hành từ Xá-vệ cùng với một
đoàn xe đi theo đường rừng. Ðến
một nơi có cảnh đẹp và nước chảy, người
trưởng đoàn buộc xe ngựa lại, sửa soạn
thức ăn đủ loại cứng mềm và tạm ở lại
đó. Mọi người nằm xuống ngủ rải rác khắp nơi. Còn
vị cư sĩ cứ đi vòng quanh gốc thân cây
cạnh người trưởng đoàn. Lúc ấy năm
trăm tên cướp dự định cướp đoàn
xe. Cầm đủ mọi khí giới trong tay, chúng bao
vây đoàn xe và chờ đợi. Khi thấy người
cư sĩ đang đi dạo, chúng đứng đợi để bắt đầu đánh phá lúc ông đi ngủ. Nhưng
ông cứ đi lại suốt đêm. Ðến tảng sáng, bọn cướp ném vũ khí cùng gậy
đá chúng đã lượm, rồi bỏ
đi và bảo:
- Này ông trưởng đoàn lữ khách, ông
làm chủ tài sản này vì ông đã
được cứu mạng nhờ người kia tỉnh thức thật tinh
chuyên: Ông cần phải suy tôn ông ấy.
Mọi lữ khách thức dậy đúng giờ, thấy đám khí
giới gậy đá do bọn cướp ném bỏ, liền bày tỏ lòng cung kính, biết ơn
vị cư sĩ vì hiểu rằng họ sống được là
nhờ ông.
Vị cư sĩ ấy đến nơi đã
định, làm công việc xong, trở về Xá-vệ
và đến Kỳ Viên: tại
đó ông đến yết kiến và
đảnh lễ đức Như Lai cung kính và ngồi
dưới chân Ngài, rồi do lời Ngài yêu cầu, ông kể mọi chuyện cũ. Bậc Ðạo Sư
bảo:
- Này cư sĩ, không phải chỉ riêng ông tạo
được công đức đặc biệt lớn nhờ tỉnh thức và hộ phòng, mà các bậc trí
ngày xưa cũng đã làm như vậy.
Và theo lời thỉnh cầu của vị cư sĩ. Ngài kể một chuyện
đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh vào một gia
đình Bà-la-môn . Khi lớn lên ngài học
tập đủ mọi nghệ thuật ở Takkasilà và trở
về nhà sống đời gia chủ.
Sau một thời gian, ngài rời bỏ nhà và trở thành ẩn sĩ. Chẳng bao lâu ngài
đắc các Thiền chứng và sống tại vùng
Tuyết Sơn, ngài chuyên tâm đi và
đứng, ngài chỉ kinh hành suốt
đêm chứ không ngủ.
Một vị Thần cây ở cuối lối đi của ngài
hoan hỷ nhìn thấy ngài như vậy và ngâm vần kệ
đầu:
1. Ai thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ?
Ai ngủ khi bao người khác dậy rồi?
Ai là người hiểu câu đố của tôi?
Ai có thể giải đáp tôi điều đó?
Bồ-tát nghe lời vị Thần cây, liền ngâm vần kệ này:
2. Ta thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ,
Ta ngủ khi bao người khác dậy rồi,
Ta là người hiểu câu đố của ngài,
Ta có thể giải đáp ngài
điều đó.
Vị Thần cây ngâm vần kệ hỏi lại câu này:
3. Sao ngài thức khi nhiều người đang ngủ?
Và ngủ khi bao kẻ khác dậy rồi?
Làm sao ngài hiểu câu đố của tôi?
Và giải đáp điều này ngay lập
tức?
Bồ-tát giải thích vấn đề này:
4. Có nhiều kẻ vẫn quên rằng giới đức
Nằm ở trong sự tiết dục điều thân,
Vậy bao người đang ngủ giấc mơ màng,
Còn ta thức, hỡi Thần cây cổ thụ.
5. Tham, sân, si của số người nào đó
Ðã không còn hiện hữu ở trong lòng,
Vậy các người kia đã tỉnh giấc nồng,
Ta còn ngủ, hỡi Thần cây cổ thụ!
6. Vậy ta thức khi nhiều người đang ngủ,
Và ngủ khi bao kẻ khác tỉnh rồi,
Vậy là ta hiểu câu đố của ngài,
Và giải đáp lại lời ngài rồi
đó.
Khi Bậc Ðại Sĩ đã giải
đáp lời này, vị Thần rất hoan hỷ và ngâm
vần kệ tán thán:
7. Lành thay ngài tỉnh thức khi người ngủ,
Và ngủ khi bao người khác tỉnh rồi!
Lành thay ngài hiểu câu đố của tôi,
Lời giải đáp của ngài bao tốt đẹp!
Như vậy sau khi tán thán Bồ-tát, vị Thần cây trở vào nơi an trú của mình
trên cây.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, vị thần cây là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và nhà khổ hạnh
chính là Ta.
-ooOoo-
415. Chuyện Phần Cháo Cúng Dường (Tiền thân Kummasàpinda)
Cúng dường chư Phật quý cao thay...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về Hoàng hậu Mallikà
(Mạt-lợi).
Nàng nguyên là con gái của vị trưởng nghiệp
đoàn bán vòng hoa, cực kỳ diễm lệ và hiền thục. Khi nàng
được mười sáu tuổi, trong lúc đi đến vườn hoa cùng
các thiếu nữ khác, nàng mang theo ba phần cháo sữa chua trong giỏ hoa. Khi
nàng rời thành phố, nàng trông thấy đức Thế Tôn
vào thành, tỏa hào quang rực rỡ và được
Tăng chúng vây quanh, nàng đem cúng
dường Ngài ba phần cháo ấy.
Bậc Ðạo Sư đưa bát của ngài ra nhận
cháo. Nàng đảnh lễ chân đức Như Lai và
lấy niềm hoan hỷ ấy làm chủ đề Thiền quán, nàng
đứng sang một bên. Bậc Ðạo Sư mỉm cười,
nhìn nàng. Tôn giả Ànanda tự hỏi tại sao đức
Như Lai mỉm cười và hỏi Ngài vấn đề này.
Bậc Ðạo Sư nói lý do:
- Này Ànanda, cô gái này hôm nay sẽ trở thành chánh hậu của vua Kosala do
phước báo ba phần cháo này.
Còn cô gái tiếp tục bước đến vườn hoa. Ngay
chính hôm ấy vua Kosala giao chiến với vua Ajàtasattu (A-xà-thế) và
thất bại phải đào tẩu. Trong khi
đang đi ngựa, vua nghe tiếng nàng hát
rất hấp dẫn liền thúc ngựa vào khu vườn. Công
đức của cô gái đã đến thời chín muồi, vì
thế khi thấy vua, nàng không chạy trốn mà đi
đến cầm lấy dây cương nơi mũi ngựa. Vua ngồi trên lưng ngựa hỏi nàng
đã có chồng chưa. Khi nghe nàng
đáp chưa, ông xuống ngựa và
đang mệt mỏi vì nắng gió, ông nằm nghĩ
chốc lát trên đùi nàng. Sau
đó ông đưa nàng lên ngựa, cùng
đạo quân hùng hậu
đi vào thành,
đưa nàng
đến tận nhà riêng.
Chiều hôm ấy vua phái một vương xa trong cảnh vô cùng vinh quang lộng lẫy
đến rước nàng từ nhà nàng về
đặt lên một bảo tọa
đầy châu báu, làm lễ quán
đảnh (rảy nước thánh lên
đầu) cho nàng và phong nàng làm chánh
hậu. Từ đó trở đi, nàng trở thành hoàng
hậu thân thiết tận tụy được vua sủng ái, nàng
có đầy đủ năm vẻ yêu kiều của nữ nhi,
lại có đủ đám nô tỳ trung thành và nàng
lại là một tín nữ được nhiều hồng ân của chư
Phật. Cả kinh thành loan tin rằng nàng
được mọi vinh hoa ấy là vì nàng cúng dường Bậc Ðạo Sư ba phần cháo.
Một hôm Tăng chúng bắt đầu thảo luận trong
Chánh pháp đường:
- Này các Hiền giả, Hoàng hậu Mallikà cúng dường
đức Phật ba phần cháo, và do phước báo
này, ngay chính hôm ấy bà được làm lễ
quán đảnh phong ngôi hoàng hậu: Công
đức chư Phật thật vĩ đại dường nào.
Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi chuyện và khi được
biết đề tài thảo luận của Tăng chúng, Ngài
bảo:
- Này các Tỷ-kheo, không lạ gì nàng Mallikà trở thành chánh hậu của vua
Kosala nhờ cúng dường đức Phật Chánh
Ðẳng Giác ba phần cháo mà thôi, vì cớ sao? Ðó là nhờ
đại hồng ân của chư Phật: Các trí nhân ngày
xưa cúng dường các vị Ðộc Giác Phật cháo không có muối hay dầu nữa, song nhờ
thế trong đời sau đạt được vinh quang của đế
vương tại Kàsi rộng ba trăm dặm.
Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh vào một nhà nghèo. Khi lớn lên
ngài tìm kế sinh nhai bằng cách làm công cho một nhà giàu. Một hôm ngài mua
bốn phần cháo ở cửa tiệm và suy nghĩ: "Cái này vừa
đủ để ta ăn sáng". Rồi ngài ra làm việc
ngoài đồng. Khi thấy bốn vị Ðộc Giác
Phật đang vào Ba-la-nại khất thực, ngài
suy nghĩ: "Ta có bốn phần cháo này, giả sử ta
đem cúng dường các vị đang đến Ba-la-nại khất thực?". Vì thế ngài
đi đến đảnh lễ các vị và nói:
- Thưa các tôn giả, con hiện đang cầm bốn
phần cháo, con xin cúng dường các vị, mong các vị nhận lấy để cho con được
phước đức đem lại an lạc lâu dài về sau.
Thấy các vị nhận lời, ngài liền rải cát và sắp
đặt bốn chỗ ngồi, đặt các cành khô lên
đó và mời chư vị Ðộc Giác Phật ngồi theo
thứ tự. Ngài lấy rổ lá đem nước đến, rót nước
cúng dường, và đặt bốn phần cháo vào
bốn bình bát vừa đảnh lễ cung kính vừa thưa:
- Thưa các tôn giả, ước mong nhờ phước báo này con sẽ không sinh vào nhà
nghèo nữa, ước mong đây sẽ làm nhân
duyên cho con đắc quả vị Chánh Giác.
Các vị Ðộc Giác Phật dùng cháo xong, nói lời tùy hỷ công
đức và trở về
động Nandamùla. Khi kính chào các vị,
Bồ-tát cảm thấy niềm hoan hỷ được tiếp xúc các
Ðộc Giác Phật, và sau khi các vị đã
khuất dạng, ngài đã
đi làm công việc, ngài vẫn nhớ các vị
mãi cho đến lúc mạng chung. Nhờ phước báo này,
ngài tái sinh vào mẫu thai của chánh hậu thành Ba-la-nại. Ngài
được đặt tên Vương tử Brahmadatta.
Từ lúc mới biết đi chập chững, nhờ năng lực
nhớ lại những việc làm trong đời trước,
ngài thấy rõ như thể soi bóng mình vào tấm gương sáng, rằng ngài tái
sinh vào hoàn cảnh này do ngài đã cúng
dường bốn phần cháo lên các vị Ðộc Giác Phật khi ngài là một tôi tớ
đi làm thuê tại chính kinh thành này.
Khi lớn lên, ngài học tập mọi môn nghệ thuật ở Takkasilà. Khi ngài trở về
nhà, vua cha vô cùng hoan hỷ về các thành tựu của ngài nên phong ngài làm
phó vương. Sau đó khi vua cha băng hà,
ngài lên ngự trị quốc độ. Rồi kết hôn với công
chúa tuyệt sắc của vua Kosala và phong nàng ngôi chánh hậu.
Vào ngày đại hội giương chiếc Lọng trắng che
lên ngài, quần thần trang hoàng kinh thành như thể một kinh thành
thiên giới. Ngài dự đám rước quanh thành
phố rồi ngự lên thượng lầu được trang hoàng
lộng lẫy, sau đó bước đến đài cao an tọa
trên ngai vàng có lọng trắng giương phía trên.
Khi ngồi đó, ngài nhìn xuống nhìn
thần dân đang đứng chầu, một phía là
triều thần, phía kia là các Bà-la-môn và gia chủ sáng rực trong vẻ
đẹp muôn màu sắc, một phía khác nữa là
quần chúng cầm tặng vật đủ loại trong tay, kế
đến là đoàn nữ nhạc vũ công gồm
cả mười sáu ngàn nàng chẳng khác đoàn
tiên tụ tập đông đủ trên Thiên
đình.
Nhìn mọi vẻ huy hoàng làm say mê lòng người như thế, ngài nhớ lại
đời trước của mình và suy nghĩ: "Chiếc
lọng trắng kết tràng hoa bằng vàng và chân trụ bằng vàng khối này, bằng ngàn
con voi và cỗ xe này, và cả lãnh thổ rộng lớn của ta
đầy ngọc vàng châu báu, tài sản, mễ cốc
đủ loại, các nữ nhân như tiên nữ trên
trời, mọi cảnh vinh quang này đều thuộc riêng
về phần ta thôi, đó là do công
đức cúng dường bốn vị Ðộc Giác Phật bốn
phần cháo: Ta hưởng được tất cả mọi sự này
nhờ đó".
Như vậy trong khi nhớ lại hồng ân của chư Ðộc Giác Phật, rõ ràng ngài
đã tuyên dương công
đức của ngài trong
đời trước. Ý tưởng ấy làm toàn thân ngài
tràn ngập hoan lạc. Niềm hoan lạc thấm tận tâm can khiến ngài ngâm vang hai
vần kệ đầy cảm hứng ngay giữa quần thần:
1. Cúng dường chư Phật quý cao thay,
Người bảo đừng xem rẻ việc này,
Ðem tặng cháo dù không có muối
Cho ta phước báo lớn như vầy.
2. Ngựa, voi cùng với đám trâu bò,
Vàng, bạc, thóc ngô, cả nước nhà,
Ðám mỹ nữ hình dung yểu điệu,
Cúng dường đem quả đến tay ta.
Như vậy trong niềm hỷ lạc, Bồ-tát ngâm khúc hoan ca gồm hai vần kệ nhân
ngày lễ giương chiếc Lọng trắng. Từ đó về sau,
chúng được xem là khúc ca được quốc
vương ái mộ và mọi người đều hát điệu
ấy, từ các vũ nữ, vũ công, nhạc sĩ, cung nhân, thị vệ, cho đến dân chúng và
ngay cả đám quần thần trong triều.
Sau một thời gian, chánh hậu mong muốn biết ý nghĩa bài hát, song bà
không dám hỏi bậc Ðại Sĩ. Một hôm nhà vua đẹp ý
vì một đức tính của bà, liền
phán:
- Này ái hậu, ta muốn ban cho nàng một điều
ước, hãy nhận đặc ân ấy.
- Tâu hoàng thượng, tốt lành thay thiếp xin nhận
đặc ân ấy.
- Ái hậu muốn ta ban gì, voi ngựa hay thứ nào khác?
- Tâu hoàng thượng, nhờ ân sủng của hoàng thượng, thiếp không thiếu gì
cả, thiếp không cần các thứ ấy. Song nếu hoàng thương ban cho thiếp một
đặc ân, xin hãy nói cho thiếp biết ý
nghĩa khúc ca của ngài.
- Này ái hậu, nàng cần gì đặc ân ấy? Hãy
nhận thứ khác đi.
- Tâu hoàng thượng, thiếp không cần một thứ nào khác cả. Ðó là
đặc ân thiếp muốn nhận.
- Ðược rồi, này ái hậu, ta sẽ nói điều ấy,
nhưng không phải đó là điều bí mật nói
riêng với nàng, mà ta muốn gióng tiếng trống khắp kinh thành
Ba-la-nại rộng mười hai dặm này, ta muốn dựng ngôi
đình bằng ngọc ngay tại cung môn và
đặt một chiếc ngai bằng ngọc tại đó, rồi ta sẽ
ngồi đó giữa quần thần, Bà-la-môn, cùng mọi người khác gồm cả mười
sáu ngàn nữ nhân, và kể chuyện ấy.
Bà tuân lệnh. Vua truyền làm mọi việc như trên, rồi ngự lên ngai giữa
đại chúng như Sakka Thiên chủ giữa chư
Thiên. Hoàng hậu phục sức đủ mọi thứ nữ trang
ngọc vàng, đặt một kim đôn, ngồi bên
cạnh ở một vị trí thích hợp, rồi đưa mắt nhìn
vua, bà thưa:
- Tâu hoàng thượng, xin hãy giảng giải cho thiếp biết ý nghĩa khúc hoan
ca mà ngài thường hát trong niềm hỷ lạc, như thể làm cho mặt trăng
xuất hiện trên bầu trời.
Rồi bà ngâm vần kệ thứ ba:
3. Hoàng thượng đầy vinh hiển, chánh chân,
Khúc ca ngài hát đã bao lần,
Trong niềm hoan lạc đầy tâm trí,
Cho thiếp đặc ân biết ngọn nguồn.
Bậc Ðại Sĩ ngâm bốn vần kệ nêu rõ ý nghĩa khúc ca:
4. Chính tại thành này, kiếp trước đây,
Ở trong hoàn cảnh khác ngày nay,
Ta là tôi tớ cho người khác,
Làm mướn, song đức hạnh thẳng ngay.
5. Một hôm rời tỉnh để làm công,
Bốn Ðạo Sư kia, ta chợt trông
Dáng điệu ly tham và tĩnh lặng,
Thiện toàn trong Giới luật tu thân.
6. Tư tưởng ta quy ngưỡng Phật-đà,
Khi chư vị nghỉ dưới cây già,
Chấp tay đảnh lễ, ta đem đến
Thành kính cúng dường món cháo hoa.
7. Thiện nghiệp tạo nên phước đức dày,
Quả thành ta gặt được giờ đây:
Vinh hoa phú quý đời vương giả,
Quốc độ do ta cai trị này.
Khi hoàng hậu nghe bậc Ðại Sĩ giảng giải đầy
đủ thành quả của thiện nghiệp ngài, bà hân hoan
đáp:
- Tâu Ðại vương, nếu ngài nhận thấy rõ các thành quả của bố thí như vậy,
từ nay về sau xin ngài nhận một phần cơm và
đừng ăn cho đến khi nào chính ngài đã
cúng dường thực phẩm lên các vị Sa-môn Bà-la-môn chân chánh.
Rồi hoàng hậu ngâm vần kệ tán thán Bồ-tát:
8. Hãy ăn, khi nhớ cúng dường rồi,
Chuyển bánh xe chân chánh khắp nơi:
Hoàng thượng tránh xa điều bất chánh,
Cầm quyền chân chánh nước non ngài.
Bậc Ðạo Sĩ ngâm vần kệ chấp nhận lời hoàng hậu:
9. Ta vẫn tạo riêng một lối đường,
Bước theo đạo lộ chánh chân luôn,
Nơi người hiền thiện thường đi đến,
Ðẹp mắt ta nhìn các Thánh nhân.
Sau khi nói xong, ngài nhìn dung sắc Hoàng hậu và bảo:
- Này mỹ hậu, ta đã kẻ
đủ mọi thiện nghiệp ta làm
đời trước, song giữa đám nữ nhân này
không ai sánh kịp nàng về dung sắc và vẻ kiều diễm khả ái.
Rồi ngài ngâm vần kệ:
10. Ái hậu như tiên nữ cõi trời,
Trông nàng rực rỡ vượt bao người,
Vậy nhờ thiện nghiệp nào đưa đến
Phước báo dung quang quá tuyệt vời?
Sau đó hoàng hậu ngâm vần kệ nêu
phước nghiệp đã tạo trong kiếp quá khứ:
11. Thiếp vốn nô tỳ một quý nương
Ở hoàng cung của Am-ba-vương,
Thiếp chuyên tâm thực hành khiêm tốn,
Ðức hạnh và tu tập thiện ngôn.
12. Rồi một ngày kia thiếp cúng dường
Phần cơm vào bát một Sa-môn,
Tâm tư thiếp ngập tràn từ ái,
Nghiệp ấy quả này, tâu Ðại vương!
Theo đây, hoàng hậu cũng biết chính
xác và kể lại đời trước của mình.
Như vậy cả hai vị đã công bố các
nghiệp quá khứ xong, từ ngày ấy hai vị truyền lệnh xây sáu bố thí
đường tại bốn cổng thành, giữa kinh
thành và tại cung môn, rồi để khích lệ toàn
cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), hai vị thực
hành đại bố thí, giữ các giáo đức và các
ngày trai giới, nên lúc mạng chung được tái
sinh cõi thiên.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, hoàng hậu là mẫu thân Ràhula và vua chính là Ta.
-ooOoo-
416. Chuyện Cận Thần Parantapa (Tiền thân Parantapa)
Lo sợ kinh hoàng trong trí ta...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Trúc Lâm về âm mưu của Tỷ-kheo
Devadatta định giết Ngài.
Tăng chúng bàn luận tại Chánh pháp
đường:
- Này các Hiền giả, Tỷ-kheo Devadatta dự
định giết đức Như Lai, vị ấy đã thuê bọn xạ thủ, ném
đá trên núi xuống, thả voi say Nàgàgiri
và dùng nhiều phương tiện diệt đức Như Lai.
Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi đề tài thảo
luận của các vị lúc ngồi đây. Khi các vị trình
bày xong, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu
các kẻ ấy dự định mưu sát ta. Song kẻ ấy không đủ khả năng thậm chí làm
ta lo sợ, mà chỉ tạo khổ đau cho bản thân mình
thôi.
Và do vậy Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh làm vương tử của chánh hậu.
Khi lớn lên, ngài học tập đủ mọi nghệ thuật ở
Takkasilà và biết được thần chú hiểu
tiếng kêu của súa vật. Sau khi lời thầy dạy
đầy đủ, ngài trở về Ba-la-nại. Phụ vương
phong ngài chức phó vương, nhưng dù vua đã
làm như vậy, vua lại mong mỏi giết hại ngài và thậm chí không muốn nhìn thấy
ngài nữa.
Thời ấy, một chó rừng cái đem hai chó con vào
kinh thành theo một đường cống ban đêm,
lúc mọi người đều nghỉ ngơi. Trong cung của Bồ
Tát cạnh tư thất ngài, có căn phòng
dành cho một người khách, kẻ ấy đã cởi
giầy ra và đặt trên sàn nhà bên chân
mình rồi nằm trên tấm ván, nhưng chưa ngủ.
Bầy chó con đói và kêu khóc. Mẹ chúng
bảo theo giọng chó rừng:
- Này các con đừng làm ồn, có một
người trong phòng kia, có một người trong phòng kia
đã cởi giầy ra và
đặt trên sàn nhà. Ông ta
đang nằm trên tấm ván nhưng chưa ngủ.
Khi ông ta ngủ rồi, mẹ sẽ đến lấy đôi giầy cho
các con ăn.
Nhờ thần chú, Bồ-tát hiểu tiếng chó rừng và rời phòng mình, mở cửa sổ
gọi:
- Ai ở trên đó?
- Tâu Ðiện hạ, thần là một lữ khách.
- Thế giày của ông đâu?
- Tâu, ở trên sàn.
- Hãy lấy giày treo lên.
Nghe lời này, chó mẹ nổi giận với Bồ-tát. Một hôm nó lại vào thành theo
cách trên. Hôm ấy có kẻ say rượu bước xuống nước trong một hồ sen, rồi té
vào đó chết chìm. Kẻ ấy có hai chiếc áo
đang mặc trên người, một ngàn
đồng tiền để ở áo trong và một chiếc
nhẫn trên ngón tay.
Bầy chó con lại kêu khóc đòi
ăn. Mẹ chúng bảo:
- Im đi các con, có một người chết trong hồ
sen này, ông ta có nhiều của cải như vậy mà
đang nằm trong hồ sen, mẹ sẽ cho các con ăn
thịt ông ta.
Bồ-tát nghe tiếng chó, mở cửa sổ ra hỏi:
- Ai trong phòng kia?
Một người thức dậy thưa:
- Chính tiểu thần.
- Hãy đi lấy bộ áo, ngàn
đồng tiền và chiếc nhẫn trên người
đang nằm chết ở hồ sen đằng kia và làm
cho xác chìm xuống để nó khỏi nổi lên
mặt nước.
Người kia tuân lệnh làm theo. Chó rừng liền tức giận ngài:
- Hôm trước ngài cản trở các con tôi ăn đôi
giày, hôm nay ngài lại cản chúng tôi ăn
xác chết. Ðược lắm, vào ngày thứ ba kể từ
đây, một địch vương sẽ đến bao vây kinh thành,
phụ vương ngài sẽ truyền ngài ra trận, họ sẽ chặt
đầu ngài. Tôi sẽ uống máu từ cổ ngài cho
hả giận: ngài tự biến mình thành kẻ thù của tôi, vậy tôi quyết chí trả thù.
Như vậy chó cái vừa sủa vừa nhục mạ Bồ-tát. Rồi nó
đem các con đi.
Vào ngày thứ ba, vị địch vương đến bao vây
kinh thành. Vua bảo Bồ-tát:
- Này con thân yêu, hãy ra trận.
- Tâu phụ vương, con đã thấy trước
một điềm báo hiệu. Con không thể đi vì
sợ rằng con sẽ mất mạng.
- Ngươi sống chết có nghĩa gì đối với ta?
Ði ngay!
Bậc Ðại Sĩ tuân lệnh. Cùng đem đám gia nhân
theo, ngài tránh cổng thành nơi địch
vương đang đón quân và đi ra bằng một
cổng khác ngài đã mở sẵn. Khi
ngài ra đi, cả kinh thành như thể bị bỏ
trống vì mọi người cùng theo ngài. Ngài đóng
quân ở một khoảng đất rộng và chờ đợi.
Vua suy nghĩ: "Phó vương của ta đã bỏ
trống kinh thành và chạy trốn với tất cả quân sĩ của ta, còn kẻ thù
đang nằm quanh kinh thành. Ta chỉ là kẻ
chết rồi".
Nghe vua cha đã
đào tẩu, Bồ-tát vào thành,
đánh bại địch vương và chiếm lại quốc
độ. Vua cha lúc ấy dựng lều lá bên bờ
sông, sống bằng củ quả rừng. Vua và tế sư thường
đi tìm trái cây. Còn cận thần Parantapa
ở lại với hoàng hậu trong lều. Hoàng hậu lúc ấy
đang có thai với vua, nhưng vì thường sống chung với Parantapa nên bà
phạm tà hạnh với y.
Một hôm bà bảo với y:
- Nếu đức vua biết, chàng và thiếp
đều không sống được đâu. Vậy hãy giết
ngài đi.
- Bằng cách nào chứ?
- Ngài thường bảo chàng mang kiếm và áo tắm lúc ngài
đi tắm, vậy hãy
đem ngài đi
xa người hộ vệ tại nơi tắm, rồi chặt đầu ngài và lấy kiếm chặt thân
ngài thành nhiều khúc xong chôn xuống đất.
Y đồng ý. Một hôm vị tế sư đã
đi ra tìm quả rừng, ông
đã trèo lên một cây to gần nơi vua tắm
và đang hái trái. Còn vua muốn tắm nên
ra bờ suối cùng Parantapa mang thanh kiếm và áo tắm của vua.
Lúc vua sắp tắm, Parantapa muốn giết vua nhân dịp vua không có người hộ
vệ, liền nắm cổ vua và nhấc kiếm lên. Vua sợ chết thét lớn. Vị tế sư nghe
tiếng kêu và từ trên cây ông thấy rõ Parantapa
đang ám sát vua, nhưng ông cũng quá kinh hoàng vội từ cành cây trụt
xuống ẩn mình vào bụi rậm.
Parantapa nghe tiếng sột soạt lúc ông trụt xuống, nên sau khi giết vua và
chôn xác xong, y suy nghĩ: "Có tiếng gì sột soạt từ cành cây trụt xuống gần
đây, kẻ nào vậy?". Nhưng không thấy ai,
y tắm rửa và ra về.
Sau đó vị tế sư bước ra khỏi chỗ ẩn. Nay
biết vua đã bị chặt khúc và chôn trong cái hố, ông tắm rửa và vì lo
cho sinh mạng của mình, ông giả mù khi trở về lều.
Parantapa thấy ông, liền hỏi việc gì đã
xảy ra cho ông. Ông giả vờ không nhận biết y và nói:
- Tâu Ðại vương, tiểu thần trở về với đôi
mắt đã mù. Tiểu nhân đã
đứng cạnh một tổ kiến trong rừng đầy rắn và
hơi thở của một con rắn độc nào
đó đã xông vào người tiểu thần.
Parantapa nghĩ vị tế sư đang nói chuyện với
y như thể nói với vua vì ông không biết gì nữa, nên yên tâm bảo:
- Này vị Bà-la-môn, đừng lo, ta sẽ chăm sóc
ngài.
Rồi y vừa an ủi ông vừa cho ông nhiều quả rừng.
Từ đó chính Parantapa đi kiếm trái cây. Về
sau hoàng hậu sinh được một hoàng
tử. Khi hoàng tử lớn lên, một hôm bà nói chuyện với Parantapa vào lúc tảng
sáng nhân dịp ngồi nhàn nhã:
- Có ai thấy chàng lúc giết vua chăng?
- Không ai thấy ta cả, nhưng ta nghe tiếng
động của vật gì trụt xuống từ bụi cây nọ, ta không biết
đó là người hay vật. Tuy thế, bất cứ lúc
nào trong lòng ta nổi lên mối lo sợ cũng đều do
duyên cớ bụi cây sột soạt kia.
Rồi y ngâm vần kệ đầu nói chuyện với bà:
1. Lo sợ, kinh hoàng trong trí ta
Phát sinh ngay cả chính bây giờ
Ðều do thuở ấy người hay vật
Lay động bụi cây ở chốn kia.
Hai người ấy tưởng vị tế sư đã ngủ,
nhưng ông đang thức và nghe họ nói
chuyện.
Một hôm, khi Parantapa đã
đi vào rừng hái trái, vị tế sư nhớ
đến bà vợ Bà-la-môn của mình, lại ngâm
vần kệ thứ hai để than thân:
2. Nhà vợ thân yêu ở cạnh đây,
Nhớ thương làm dạ tái tê thay,
Như Pa-ran hiện đang gầy ốm
Vì sợ lá cành rung động cây.
Hoàng hậu hỏi ông đang nói gì thế.
Ông đáp:
- Thần chỉ suy nghĩ trong dạ mà thôi.
Nhưng một ngày khác, ông lại ngâm vần kệ thứ ba:
3. Nhà vợ ở Ba-la-nại thành,
Thiếu nàng, ta héo hắt thân mình,
Như Pa-ran hiện đang xanh tái
Vì sợ bụi cây rúng rẩy cành.
Một ngày khác nữa ông lại ngâm vần kệ thứ tư:
4. Mắt nàng đen nhánh sáng long lanh,
Giọng nói, nụ cười mỉm tuyệt xinh,
Hồi tưởng làm ta tê tái dạ
Như Pa-ran sợ động cây cành.
Theo thời gian, hoàng tử ấu thơ lớn dần đến
mười sáu tuổi. Lúc ấy vị Bà-la-môn làm một cây gậy, cùng
đi với cậu đến chỗ tắm và mở mắt ra
nhìn. Hoàng tử hỏi:
- Này vị Bà-la-môn, ông không mù à?
- Ta không mù, nhưng nhờ cách này ta đã
cứu mạng mình. Thế cậu có biết ai là thân phụ cậu không?
- Ta biết chứ.
- Người kia không phải là cha cậu đâu. Cha
cậu là vua ở Ba-la-nại, người kia chỉ là kẻ hầu cận của hoàng gia, y
đã thông gian với mẹ cậu và giết cha cậu
tại chỗ này, rồi chôn xác đây.
Nói vậy xong, ông kéo bộ xương lên chỉ cho hoàng tử thấy. Hoàng tử tức
giận hỏi:
- Thế ta phải làm gì bây giờ?
- Cứ đối xử với kẻ kia như cách y đối xử với
cha cậu.
Rồi ông trình bày mọi việc cho hoàng tử và trong vài ngày, dạy cho hoàng
tử cách dùng kiếm. Sau đó, một hôm hoàng
tử cầm kiếm và áo tắm, rồi bảo:
- Cha ơi, chúng ta đi tắm nhé.
Parantapa đồng ý ra đi với cậu. Khi y bước
xuống nước, hoàng tử cầm chỏm tóc y bằng tay trái và kiếm trong tay
phải, bảo:
- Ngay tại đây, ngươi đã nắm chỏm tóc
cha ta và giết ngài trong lúc ngài thét lên. Vậy ta cũng sẽ làm thế với
ngươi.
Parantapa sợ chết, gào thét lên và ngâm hai vần kệ:
5. Chắc tiếng động kia đến với ngươi
Kể cho ngươi những chuyện xưa rồi:
Chắc người thuở nọ rung cành lá
Ðã đến kể ngươi chuyện thiếu thời.
6. Ý tưởng điên rồ đến với ta
Ðã cho ngươi biết chuyện bây giờ:
Ngày xưa làm chứng, người hay vật,
Ở đó và rung cổ thụ mà.
Kế tiếp, hoàng tử ngâm vần kệ cuối cùng:
7. Chính ngươi đã giết phụ vương thân
Cùng với lời lừa phản dối gian,
Ngươi dấu thây ngài trong bụi ấy,
Giờ đây ngươi phải chịu kinh hoàng.
Nói vậy xong, cậu đâm y chết tại chỗ, vùi
thây vào đó và lấy cành cây phủ lên. Sau
đó rửa sạch kiếm và tắm xong, cậu trở
lại lều lá. Cậu kể cho vị tế sư nghe cách cậu đã
giết Parantapa và khiển trách mẹ cậu xong, cậu lại hỏi khi cả ba trở về
Ba-la-nại:
- Chúng ta sẽ phải làm gì bây giờ?
Bồ-tát phong hoàng đệ làm phó vương,
rồi thực hành bố thí và nhiều thiện sự khác, về sau mạng chung ngài tái sinh
lên Thiên giới.
*
Khi pháp thoại chấm dứt, Bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, Devadatta là vua cha và Ta chính là vua con.
-ooOoo-
Chương VIII
Phẩm Tám Bài Kệ
417. Chuyện Hiền Mẫu Kaccàni (Tiền thân Kaccàni)
Mặc áo trắng và tóc xõa vai...,
Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người phụng
dưỡng mẹ mình.
Chuyện kể rằng đó là một thiện gia
nam tử ở Savatthì (Xá-vệ). Khi cha mất, chàng chuyên tâm săn
sóc mẹ, hầu hạ mẹ các công việc súc miệng đánh răng, tắm rửa v.v... và
đem cháo cơm thức ăn cho mẹ. Bà mẹ bảo:
"Này con, có nhiều phận sự khác trong đời gia
chủ, con phải cưới một cô gái nhà đàng
hoàng, cô ấy sẽ săn sóc mẹ, để rồi con đi làm
công việc khác thích hợp hơn". - "Mẹ ơi, chính vì lợi ích và niềm vui của
con mà con hầu hạ mẹ, chứ ai khác có thể hầu để
tăng gia sản của ta chứ". - "Con không màng
đến đời sống gia đình. Con muốn phụng sự
mẹ, sau khi mẹ qua đời, con sẽ làm ẩn sĩ
khổ hạnh."
Bà mẹ cố nài ép con mãi, và cuối cùng không cần thuyết phục con hay
được con chấp thuận, bà cứ
đưa về một cô gái con nhà tử tế. Chàng
cưới vợ và sống với nàng vì chàng không muốn trái ý mẹ, nên muốn bắt chước,
nàng cũng chăm nom mẹ chồng chu đáo. Nhận thấy
lòng tận tụy của vợ, chàng đem về cho nàng
mọi thức ăn ngon lành mà vị ấy có thể
kiếm được.
Theo thời gian, nàng dâu suy nghĩ ngu xuẩn theo kiểu kiêu hãnh của nàng:
"Chàng cho ta mọi thức ăn ngon lành
chàng kiếm được, chắc hẳn chàng mong
muốn tống mẹ đi cho rảnh, vậy ta sẽ tìm
cách làm việc đó". Một hôm nàng bảo:
- Chàng ơi, mẹ mắng tôi lúc chàng đi vắng.
Người chồng không nói gì. Nàng suy nghĩ: "Ta sẽ chọc tức bà già và làm
cho con trai bà ấy không chịu nổi mẹ nữa".
Từ đó nàng
đem cháo cho bà hoặc quá nóng hoặc quá
lạnh, hoặc quá mặn hoặc quá nhạt. Khi bà lão than phiền cháo quá nóng hay
quá mặn, nàng đổ thêm nước lạnh
đầy dĩa, rồi khi nghe cháo quá lạnh hoặc quá
nhạt, nàng thường kêu to:
- Mới đây mẹ bảo quá nóng và quá mặn,
ai chiều chuộng bà cho được.
Lúc tắm rửa, nàng thường dội nước quá nóng lên lưng bà già, nghe bà bảo:
- Con ơi, lưng mẹ bỏng rồi đấy!
Nàng liền dội nước thật lạnh lên bà mẹ, rồi khi nghe bà than phiền, nàng
bịa chuyện với hàng xóm:
- Bà già này khi thì bảo nước quá nóng, khi thì bảo nước quá lạnh, ai còn
chịu đựng được sự trơ tráo của bà ấy
nữa?
Nếu bà già than phiền giường bà đầy rệp, nàng
sẽ đem giường ấy ra, và giũ mạnh vạt
giường của nàng lên đó rồi mang nó về chỗ cũ,
bảo bà:
- Tôi đã giũ nó rồi.
Bà già hiền lành lại bị rận rệp cắn nhiều gấp
đôi trước kia, nên phải ngồi suốt
đêm và than phiền bị rệp cắn suốt
đêm, nàng
đáp lại:
- Giường mẹ mới được giũ hôm qua và
hôm kia nữa, ai có thể chiều chuộng mọi yêu sách của bà già này chứ?
Muốn làm cho con trai bà phản đối mẹ, nàng
lại rải đờm dãi, tóc bạc khắp nơi, rồi
khi chàng hỏi ai làm cho nhà cửa bừa bãi dơ bẩn như vậy, nàng thường bảo:
- Mẹ chàng làm đấy, nhưng nếu tôi bảo mẹ
đừng làm vậy, thì mẹ lại la lối lên. Tôi không thể ở chung nhà với
một bà chằn như vậy, chàng phải quyết định hoặc
mẹ hoặc tôi ở lại đây thôi.
Chàng nghe nàng nói vậy liền bảo vợ:
- Nàng ơi, nàng còn trẻ và có thể ở nơi nào tùy ý, muốn
đi đâu thì
đi nhưng mẹ tôi già yếu, tôi là chỗ tựa của bà. Vậy nàng hãy
đi về với người thân thuộc.
Khi nghe vậy nàng sợ hãi nghĩ thầm: "Chàng không thể xa cách người mẹ rất
thân yêu đối với chàng. Còn nếu ta về
nhà cũ, ta sẽ sống cuộc đời cô đơn khổ sở. Vậy
ta muốn hòa giải với chồng và chăm sóc bà
như xưa". Từ đó nàng làm
đúng như thời trước.
Một hôm vị cư sĩ này đến Kỳ Viên nghe
Pháp, đảnh lễ bậc Ðạo Sư xong, chàng
đứng một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi xem có phải
chàng vẫn không xao nhãng bổn phận cũ, và vẫn tận tụy chăm
sóc mẹ già chăng.
Chàng đáp:
- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Mẹ con đem về cho
con một cô gái để làm vợ trái ý con, nàng ấy
đã làm nhiều việc không xứng
đáng như vậy.
Rồi chàng kể hết mọi việc cho Ngài nghe:
- Song nàng ấy không thể ly gián mẹ con với con
được, nên bây giờ nàng ấy lại chăm
sóc bà hết sức cung kính.
Bậc Ðạo Sư nghe chuyện và bảo:
- Ngày nay ông không nghe theo lời vợ, nhưng ngày xưa ông
đã bỏ mẹ vì nghe lời vợ xúi giục và nhờ
ta đưa bà ấy về lại cho ông chăm
nom.
Rồi theo lời thỉnh cầu của chàng, Ngài kể câu chuyện
đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một thanh niên trong
gia đình nọ hết lòng chăm
sóc mẹ già khi cha cậu từ trần, giống như phần duyên khởi chuyện này,
các chi tiết cũng được nêu ra
đầy đủ như trên. Nhưng trong trường hợp
này, khi người vợ bảo nàng không thể sống với bà chằn kia và chàng phải
quyết định một trong hai người phải ra đi, thì
chàng theo lời vợ cho rằng mẹ mình có lỗi và bảo:
- Mẹ ơi, mẹ luôn gây chiến trong nhà này, từ nay mẹ
đi sống nơi khác tùy ý mẹ.
Bà mẹ nghe vậy, vừa khóc vừa đi đến nhà
bạn đâu đó, làm thuê chật vật
để sống qua ngày. Sau khi bà ra
đi, con dâu bà mang thai sinh con trai,
nên thường rêu rao với chồng và hàng xóm rằng việc sinh con ấy chưa hề xảy
ra trước kia, khi còn có bà chằn ở trong nhà.
Sau khi sinh con, nàng bảo chồng:
- Tôi chưa bao giờ sinh con lúc mẹ chàng còn ở trong nhà, nay tôi
đã có con: như thế chàng có thể thấy rõ
bà ấy đúng là bà già chằn thuở trước rồi
đó.
Bà già nghe chuyện sinh con trai được dâu bà
xem là do bà ra khỏi nhà, liền suy nghĩ: "Chắc chắn thần Công chánh
đã chết trên
đời này, vì nếu không phải như vậy,
những kẻ này đã không sinh con trai và
sống sung sướng sau khi đánh đuổi mẹ mình:
Ta muốn làm lễ cúng tế thần Công chánh đã
chết".
Vì vậy một ngày kia, bà đem mè xay,
gạo cùng một cái nồi và muỗng nhỏ, bà ra nghĩa
địa đốt lửa trong cái lò làm bằng ba sọ người, rồi bà xuống suối tắm
rửa đầu mình, giặt áo quần xong trở lại
nơi lò lửa, xõa tóc ra và bắt đầu vo gạo.
Thuở ấy Bồ-tát là Thiên chủ Sakka, và các Bồ-tát luôn chú tâm cảnh giác.
Ngay lúc ấy ngài nhìn xuống trần gian và thấy bà già khốn khổ kia
đang làm lễ tống táng thần Công chánh
như thể thần Công chánh đã chết. Muốn
chứng tỏ uy lực của ngài trong sự cứu giúp bà, ngài giáng trần giả dạng một
Bà-la-môn du hành trên đường, khi nhìn
thấy bà, ngài rời đường cái đến đứng bên
bà, bắt đầu câu chuyện bằng cách hỏi:
- Mẹ ơi, người ta thường không nấu cơm trong nghĩa
địa. Mẹ định làm gì với cơm và mè này
khi nấu xong?
Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Mặc áo trắng và tóc xõa vai,
Kac-cà-ni lại nấu nồi sôi,
Gạo mè bà rửa đằng kia đó,
Bà có dùng không lúc chín rồi?
Bà ngâm vần kệ thứ hai nói cho ngài biết:
2. Ðạo sĩ ơi, tôi chẳng muốn ăn
Mè xay và cả món cơm hầm:
Giờ đây đã chết thần Công chánh,
Tôi muốn cúng dâng lễ tế thần.
Thiên chủ, hiện thân của thần Công chánh,
đáp vần kệ thứ ba:
3. Khi quyết định, bà phải nghĩ
suy:
Bà nghe ai nói vọng ngôn kia?
Ngài ngàn mắt ấy đầy uy lực,
Công chánh Thần không thể chết đi.
Nghe ngài nói, bà già ngâm đôi vần kệ tiếp
theo:
4. La-môn, tôi chứng kiến rành rành,
"Công lý chết rồi." Tôi phải tin:
Tất cả kẻ nào theo ác hạnh
Hiện giờ hưởng đại phồn vinh.
5. Dâu của tôi ngày trước hiếm hoi,
Ðánh tôi, rồi lại đẻ con trai,
Nó thành bà chủ trong nhà ấy,
Tôi bị lãng quên, bị bỏ rơi.
Thiên chủ Sakka liền ngâm vần kệ thứ sáu:
6. Không phải đâu, ta sống mãi mà,
Nay ta giáng thế, chính vì bà,
Dâu bà đánh mẹ, song dâu cháu,
Sẽ hóa tro trong lửa của ta.
Nghe thể bà lão kêu to:
- Than ôi, ngài vừa nói gì thế? Tôi sẽ cố sức giúp cháu tôi khỏi chết.
Rồi bà ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Thiên chủ, mong sao hợp ý ngài,
Vì tôi, ngài đến tự trên trời,
Ước mong đôi trẻ và thằng cháu
Ðược sống đời hòa thuận với tôi.
Sau đó Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ
thứ tám:
8. Ka-ti sẽ mãn nguyện, vì bà
Bị đánh, song bà tin tưởng ta
Công chánh, vậy cùng con, cháu nội
Sống đời hòa thuận ở trong nhà.
Bấy giờ sau khi nói xong, Sakka Thiên chủ hiện ra
đủ mọi vẻ uy nghi của ngài, dùng thần
lực đứng trên không và nói:
- Kaccàni, bà đừng sợ, thần lực của ta, con
và dâu bà sẽ đến đây đem bà về
nhà, hãy sống hòa thuận với chúng.
Rồi ngài trở về cõi của ngài.
Nhờ uy lực của Thiên chủ, con và dâu bà nghĩ
đến mọi tính tốt của bà trước kia và đi
tìm khắp thôn làng, họ thấy bà đã
đi về phía nghĩa địa. Họ theo con đường ấy và
gọi bà, khi gặp lại bà, họ quỳ xuống chân bà xin lỗi và
được bà tha thứ lỗi lầm cũ.
Bà vui mừng chào đón cháu nội. Vì vậy
cả bọn họ cũng hoan hỷ trở về nhà và từ đó sống
chung với nhau.
9. Với con dâu thảo lại vui mừng
Bà lão Ka-ti đã sống chung,
Thiên chủ giải hòa xung đột cũ,
Cháu con săn sóc thật ân cần.
Vần kệ này được cảm tác do Trí tuệ Tối thắng
của đức Phật.
*
Sau pháp thoại, bậc Đạo Sư tuyên
thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ
được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, người cư sĩ phụng dưỡng mẹ mình là người
đang phụng dưỡng mẹ ngày nay, người vợ
thời ấy là người vợ thời nay và Sakka Thiên chủ chính là Ta.
-ooOoo-
418. Chuyện Tám Tiếng Kêu (Tiền thân Atthasadda)
Ngày xưa thường gọi chốn này...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một tiếng
động kinh hoàng không phân biệt
được mà vua xứ Kosala
đã nghe lúc nửa
đêm. Hoàn cảnh này
đã được tả
trong Tiền Thân Lohakumbhi, số 314.
Tuy nhiên lần này, khi vua hỏi:
- Bạch Thế Tôn, việc trẫm nghe tám tiếng kêu ấy có mang lại
điều gì chăng?
Bậc Ðạo Sư đáp:
- Thưa Ðại vương đừng sợ hãi: không
có mối nguy gì xảy ra cho Ðại vương do các tiếng kêu ấy. Những âm thanh kinh
hoàng khó phân biệt như thế không chỉ một mình Ðại vương nghe
được, mà các
đế vương ngày xưa cũng
đã từng nghe những âm thanh tương tự và
dự định theo lời khuyên của các
Bà-la-môn dâng tế lễ bốn loại sinh vật, nhưng sau khi nghe các bậc hiền trí
khuyên nhủ, các vua ấy đã thả tự do cho
bầy súc vật được thâu góp để tế đàn và
truyền đánh trống ra lệnh cấm mọi việc sát
sinh.
Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể câu chuyện
đời xưa
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh vào một gia
đình Bà-la-môn có gia sản
đến tám trăm triệu đồng tiền.
Khi lớn lên, ngài học mọi ngành nghệ thuật tại Takkasilà. Sau khi cha mẹ
qua đời, ngài xem xét tất cả các kho
tàng, rồi từ bỏ mọi của cải bằng cách bố thí,
đoạn trừ tham dục và đến vùng
Tuyết Sơn trở thành một vị khổ hạnh chuyên tâm nhập
định.
Sau một thời gian, ngài trở về chốn cư trú của quần chúng
để tìm muối và dấm,
đến tận Ba-la-nại, nghĩ ngơi trong ngự viên.
Thời ấy vua Ba-la-nại nghe tám tiếng kêu lớn trong lúc
đang ngủ trên vương sàng khoảng nửa
đêm: đầu tiên,
một con Hạc kêu trong vườn gần hoàng cung ; thứ hai, ngay sau khi Hạc kêu,
một con quạ cái kêu từ cổng chuồng voi ; thứ ba, một con mọt kêu ở nóc hoàng
cung ; thứ tư, chim Sơn ca thuần dưỡng kêu trong hoàng cung ; thứ năm,
một con Nai thuần dưỡng cũng kêu tại chỗ ấy; thứ sáu, một con Khỉ
thuần dưỡng cũng kêu tại đó ; thứ bảy, một vị
tiểu Thần sống trong hoàng cung cất tiếng kêu than ; và thứ tám, ngay
sau khi tiếng kêu cuối cùng ấy, một vị Ðộc Giác Phật thốt ra một âm thanh
đầy hoan lạc khi bay qua mái hoàng cung
tiến về phía ngự viên.
Vua rất kinh hãi khi nghe tám tiếng kêu trên, hôm sau liền tham vấn các
Bà-la-môn. Họ đồng đáp:
- Tâu Ðại vương, tai họa sắp xảy ra với Ðại vương, hãy cho phép chúng
thần dâng lễ tế đàng ngoài hoàng cung.
Rồi khi được vua cho phép họ làm
điều sở thích, họ hoan hỷ đến và bắt
đầu chuẩn bị tế đàn. Bầy giờ, một
đệ tử trẻ tuổi của vị tế sư Bà-la-môn
trưởng thượng rất thông thái đa văn, chàng
thưa với thầy:
- Bạch Tôn sư, không nên gây nhiều việc sát hại sinh vật
độc ác và thô bạo như vậy.
- Này đệ tử, con biết gì về việc này
chứ? Cho dẫu chẳng có gì khác xảy ra, chúng ta cũng
được ăn một mẻ cá thịt no nê thỏa thích!
- Bạch Tôn sư, đừng vì cái bụng mà
tạo ác nghiệp đưa đến tái sinh trong địa ngục.
Nghe vậy, các Bà-la-môn kia tức giận vị đệ
tử muốn làm hỏng các mối lợi của họ.
Vị đệ tử sợ hãi
đáp:
- Thôi được, xin cứ tìm cách lấy thật
nhiều cá thịt để ăn.
Rồi chàng rời kinh thành đi tìm một
vị khổ hạnh thuần thành có khả năng ngăn cản
vua việc tế đàn kia. Chàng vào ngự viên và thấy Bồ-tát, liền kính
chào ngài và hỏi:
- Tôn giả không có lòng bi mẫn các sinh vật sao? Vua
đã ra lệnh làm tế
đàn gây chết chóc cho nhiều sinh vật,
Tôn giả không muốn giải thoát cho cả đám sinh
linh ấy sao?
Này thanh niên Bà-la-môn, ta không biết vua nước này, vua cũng không biết
ta.
- Bạch Tôn giả, Tôn giả có biết hậu quả của các âm thanh mà nhà vua
đã nghe sẽ ra sao chăng?
- Ta biết chứ.
- Nếu Tôn giả biết, tại sao Tôn giả không bảo cho vua?
- Này thanh niên Bà-la-môn, làm sao ta có thể kiêu hãnh
đến bảo vua: "Ta biết!" đã chứ? Nếu vua
đến hỏi ta, ta sẽ báo cho ngài.
Vị Bà-la-môn trẻ tuổi vội vàng đến cung đình,
và khi được hỏi có việc gì, chàng bảo:
- Tâu Ðại vương, có một vị khổ hạnh biết nguyên nhân các âm thanh mà Ðại
vương đã nghe. Vị ấy
đang ngồi trên vương tọa trong ngự viên
và bảo vị ấy sẽ trình bày với Ðại vương nếu Ðại vương hỏi. Xin Ðại vương hãy
làm như vậy.
Vua vội vàng đến kính lễ vị khổ hạnh và
sau khi ân cần chào nhau, vua ngồi xuống và hỏi:
- Có thật Tôn giả biết nguyên nhân tám tiếng kêu mà trẫm
đã nghe chăng?
- Tâu Ðại vương, phải.
- Vậy xin Tôn giả nói cho trẫm.
- Tâu Ðại vương, không có gì nguy hiểm liên hệ
đến các âm thanh kia. Trước hết, có một con Hạc
trong ngự viên cũ của Ðại vương thiếu thức
ăn nên đói
lả gần chết và thốt tiếng kêu ấy.
Như thế, do tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng kêu của con
Hạc, vừa ngâm vần kệ đầu:
Tiếng Hạc:
1. Ngày xưa thường gọi chốn này
Ao sâu, tôm cá lội đầy tung tăng,
Là nơi cư trú Hạc vương,
Tổ tiên ta cũng sống thường trước kia.
Dẫu ăn ếch nhái bây giờ,
Chúng ta không thể xa bờ ao xưa.
- Tâu Ðại vương, đó là tiếng kêu của
con Hạc trong cơn đói lả, nếu Ðại vương
muốn nó khỏi đói, xin hãy ra lệnh dọn
vườn sạch sẽ và đổ nước đầy ao.
Vua liền bảo một vị triều thần sai người làm việc này.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:
Tiếng Quạ:
2. Anh chàng một mắt Ban-ra
Là ai mà cứ phá nhà của tôi?
Bầy chim mới nở, than ôi!
Ai người thân thiện cứu tôi khốn cùng?
Rồi ngài hỏi vua về tên của người trưởng đám
quản tượng ở chuồng voi.
- Thưa Tôn giả, tên y là Bandhura.
- Tâu Ðại vương, y chỉ có một mắt ư?
- Thưa Tôn giả, phải.
- Tâu Ðại vương, có một con Quạ làm tổ trên cổng chuồng voi, nó
đẻ trứng tại đó và
đúng kỳ hạn trứng đã nở thành chim non.
Mỗi khi người quản tượng ra vào chuồng voi để
chăm sóc voi, y hay lấy cái móc đập vào con Quạ và tổ chim non
để phá tổ. Con Quạ trong lúc nguy khốn chỉ muốn
mổ mắt y nên thốt ra tiếng kêu ấy. Nếu Ðại vương có thiện ý với nó,
xin hãy truyền Bandhura vào chầu và cấm y phá tổ quạ.
Vua truyền gọi Bandhura vào, khiển trách y và giao chuồng voi cho kẻ
khác.
- Tâu Ðại vương, trên nóc hoàng cung có một con Mọt gỗ, nó
đã ăn hết
gỗ sung tại đó và không thể ăn thứ gỗ
cứng hơn. Vì thiếu thức ăn và
không thể bò ra ngoài, nên nó thốt tiếng kêu thứ ba
để than vãn. Ðại vương không cần sợ nó.
Rồi nhờ tri kiến của ngài, ngài vừa nêu rõ ý nghĩa tiếng Mọt gỗ kêu vừa
ngâm vần kệ thứ ba:
- Tiếng Mọt gỗ:
3. Ta vừa ăn hết gỗ sung,
Mọi nơi ta đã đi vòng quanh co,
Gỗ nào cứng, mọt khó ưa,
Còn thức ăn khác ở xa dưới mình!
Vua bảo một cung nhân tìm cách giải thoát con mọt.
- Tâu Ðại vương, trong cung thất có con chim Sơn ca thuần dưỡng nào chăng?
- Thưa Tôn giả, có chứ.
Tâu Ðại vương, con Sơn ca ấy héo mòn vì mong mỏi về rừng mỗi khi nó nhớ
lại quãng đời cũ:
"Làm sao rời khỏi lồng này,
Làm sao trở lại rừng ấy thân tình?"
Vì thế nó thốt lên tiếng kêu thứ tư, xin Ðại vương chớ lo sợ việc ấy.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tư:
Tiếng Sơn ca:
4. Ước gì rời chốn cung đình!
Ước gì giải thoát thân mình tự do!
Hân hoan bay lượn rừng già,
Rồi ta xây tổ của ta trên cành.
Ngâm kệ xong, ngài thêm:
- Tâu Ðại vương, chim Sơn ca ấy đang mòn
mỏi đợi chờ, xin Ðại vương thả nó ra.
Vua nghe theo lời ngài.
- Tâu Ðại vương, trong cung thất có con Nai thuần dưỡng nào chăng?
- Thưa Tôn giả, có chứ.
- Tâu Ðại vương, con Nai ấy là trưởng đoàn,
nó nhớ nai cái và mòn mỏi vì nặng tình thương nai cái nên nó thốt tiếng kêu
thứ năm. Ðại vương không nên sợ hãi
chuyện ấy.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ năm:
Tiếng Nai:
5. Ước gì rời chốn cung đình!
Ước gì giải thoát thân mình vui sao!
Uống dòng nước suối trong veo,
Dẫn đàn nai vẫn bước theo sau mình!
Bậc Ðại Sĩ làm cho con Nai được giải thoát và
nói tiếp:
- Tâu Ðại vương, có con Khỉ thuần dưỡng nào ở trong cung chăng?
- Thưa Tôn giả, có chứ.
Con Khỉ ấy là chúa đàn khi ở vùng
Tuyết Sơn, nó thích thú bầu bạn với đám khỉ
cái. Trước kia nó được một thợ săn tên Bharata
đem về đây. Nay nó đang mòn mỏi mong ước
trở về chốn cư ngụ xưa nên nó thốt tiếng kêu ấy. Xin Ðại vương
đừng sợ chuyện này.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ sáu:
Tiếng Khỉ:
6. Lòng ta nặng trĩu dục tình,
Với bao ước vọng thân mình nhiễm ô,
Bha-ta, lạp hộ bắt ta,
Ước mong phước phận lão gia tràn trề!
Bậc Ðại Sĩ bảo thả con Khỉ ra và tiếp tục nói:
- Tâu Ðại vương, có vị tiểu Thần nào giữ kho báu ở trong cung chăng?
- Thưa Tôn giả, có chứ.
- Tâu Ðại vương, vị ấy nhớ lại đời sống cũ
với một nữ thần, vợ vị ấy, nên trong lúc
đau khổ vì dục vọng đã thốt lên
tiếng kêu thứ bảy. Một hôm vị ấy cùng vợ trèo lên
đỉnh non cao. Hai vị lượm hoa và tô
điểm cho nhau nhiều loại hoa đủ màu sắc
hương vị đặc biệt, nên không hề lưu ý
rằng mặt trời đang lặn và bóng
đêm bao trùm trong khi họ leo xuống. Nữ
thần bảo: "Này chàng, trời tối rồi, chàng hãy xuống cẩn thận kẻo ngã". Và
vừa nắm tay chồng, nàng vừa đưa chồng xuống.
Chính vì nhớ lại các lời nói của vợ mà vị Thần này thốt tiếng kêu,
Ðại vương không cần phải sợ chuyện ấy.
Do tri kiến của ngài, ngài vừa giải thích trường hợp này một cách chính
xác vừa ngâm vần kệ thứ bảy:
Tiếng vị Thần:
7. Bóng đêm dày
đặc kéo về
Trên non cao nọ tứ bề cô đơn,
"Xin chàng đừng ngã trượt
chơn",
Nàng khe khẽ nhắc bên sườn đá xưa.
Như vậy Bậc Ðại Sĩ giải thích tại sao vị Thần thốt tiếng kêu và ngài bảo
thả vị ấy ra, rồi nói tiếp:
- Tâu Ðại vương, còn âm thanh thứ tám là tiếng reo cực lạc. Một vị Ðộc
Giác Phật ở động Nandamùla biết rằng các
hành (các điều kiện tái sinh) sắp đoạn tận đốc
với vị ấy, liền đến nơi cư trú của quần chúng, và suy nghĩ: "Ta muốn
chứng đắc Niết-bàn vô dư y trong ngự
viên của Ba-la-nại. Quân hầu của vua sẽ chôn cất ta, làm lễ cúng dường và
cung kính xá lợi của ta, nhờ vậy sẽ sinh lên cõi thiên".
Vị ấy dùng thần lực bay đến đây và
ngay khi chạm mái hoàng cung, vị ấy liền buông xả gánh nặng sinh tử và ca
khúc hoan lạc làm chói sáng lối vào cảnh giới Niết-bàn.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám do vị Ðộc Giác Phật cảm tác:
Tiếng vị Ðộc Giác:
8. Tái sinh đã tận với ta,
Không vào thai mẹ từ giờ về sau,
Ðây đời cuối ở địa cầu
Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm
trần.
Cùng với những lời cực lạc này, vị ấy đến
ngự viên và đắc Niết-bàn vô dư y
dưới gốc cây Sàla đang nở rộ hoa.
Rồi Bậc Ðại Sĩ đưa vua đến nơi vị Ðộc
Giác Phật đắc Niết-bàn và chỉ cho vua
phần nhục thân của Ngài. Thấy vậy, vua cùng đoàn
quân đông đảo đem hương hoa đến cung kính làm
lễ cúng dường.
Theo lời khuyên của Bồ-tát, vua đình
chỉ việc tế đàn, cho mọi sinh vật
được sống, truyền rao trống lệnh khắp kinh thành
cấm sát sinh, cử hành đại lễ suốt bảy ngày,
rồi làm lễ hỏa táng thân vị Ðộc Giác Phật rất trọng thể trên hỏa
đài chất
đầy hương liệu và xây tháp ở ngã tư
đường.
Bồ-tát thuyết giảng Chánh pháp cho vua và khuyên nhủ vua tinh cần. Sau
đó ngài trở về Tuyết Sơn, thực hành Tứ
vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) và không hề gián
đoạn Thiền định nên được sinh vào
cõi Phạm thiên.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:
- Thưa Ðại vương, không có gì nguy hiểm cho Ðại vương do các tiếng kêu
ấy, vậy hãy đình chỉ tế
đàn và ban sự sống cho các sinh vật này.
Rồi vua bảo truyền trống lệnh đi khắp kinh
thành tha mạng các súc vật.
Xong, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy nhà vua là Ànanda, vị đệ tử Bà-la-môn
là Sàriputta và nhà khổ hạnh chính là Ta.
-ooOoo-
419. Chuyện Kiều Nữ Sulasà (Tiền thân Sulasà)
Này đây là chiếc vòng vàng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một nữ tỳ của ông
Cấp Cô Ðộc.
Chuyện kể rằng vào một ngày lễ hội, khi nàng sắp
đi cùng đám
gia nhân đến một lạc viên, nàng xin nữ chủ nhân Punnalakkhanadevì
(Phước Tướng) cho nàng một món nữ trang để đeo.
Bà chủ cho nàng một món tư trang của bà trị giá một trăm
ngàn đồng tiền. Nàng
đeo vào cổ và cùng
đám gia nhân đi đến chỗ vui chơi. Một tên
trộm thèm món nữ trang kia, với dự định giết nàng
để đoạt của, hắn lân la đến nói chuyện với nàng
và tại khu vườn kia, hắn cho nàng ăn cá thịt và
uống rượu mạnh. Nàng suy nghĩ: "Ta chắc chàng làm vậy vì chàng thích ta".
Vào buổi chiều tối khi mọi người nằm xuống nghỉ ngơi sau các cuộc chơi, nàng
đứng dậy đi tìm hắn. Hắn bảo:
- Này cô nương, chỗ này không kín đáo, ta hãy
đi xa hơn một chút.
Nàng suy nghĩ: "Bất cứ việc gì thầm kín đều
có thể xảy ra tại nơi này. Chắc chắn anh chàng muốn giết ta và
đoạt món nữ trang ta đang đeo. Vậy ta sẽ dạy
anh chàng một bài học". Vì thế nàng bảo:
- Thưa Tôn ông, em đang khát nước khô cổ họng
vì uống rượu mạnh. Xin hãy kiếm cho em một ít nước.
Rồi đưa hắn đến giếng, nàng vừa bảo
hắn kéo nước vừa chỉ cho hắn sợi dây thừng và chiếc gàu. Tên trộm thả gàu
xuống. Rồi ngay khi hắn cúi mình để kéo nước lên,
cô nữ tỳ, vốn rất lực lưỡng, liền đẩy mạnh hắn
với đôi bàn tay và hất hắn xuống giếng. Nàng bảo:
- Mi chẳng chết vì cách này đâu.
Rồi ném một cục gạch lớn trên đầu hắn. Hắn
chết liền tại chỗ. Khi nàng trở về thành và trả lại bà chủ món nữ
trang, nàng bảo:
- Con suýt bị giết hôm nay vì món nữ trang ấy,
Rồi nàng kể toàn thể câu chuyện. Bà chủ kể chuyện với ông Cấp Cô Ðộc và
ông trình với đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư
bảo:
- Này gia chủ, đây không phải là lần
đầu người nữ tỳ có trí thông minh phát xuất kịp
thời, mà ngày xưa cũng vậy. Ðây không phải lần
đầu giết kẻ ấy, mà trước kia cũng có lần
giết nó.
Và theo lời của ông Cấp Cô Ðộc, ngài kể một chuyện
đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, có một kiều nữ của
kinh thành tên gọi là Sulasà, làm chủ một đoàn
năm trăm kỹ nữ sang trọng, giá mỗi đêm
hưởng lạc với nàng là một ngàn đồng tiền.
Cũng trong kinh thành này có một tướng cướp tên Sattuka, khỏe mạnh như
voi, vẫn thường đột nhập các nhà giàu
vào ban đêm
để cướp của thỏa thích. Dân trong thành tụ tập lại lập cáo trạng tâu
với vua.
Vua ra lệnh quân lính canh đóng rải rác khắp
nơi để bắt tướng cướp và xử trảm. Họ trói tay hắn ra
đằng sau và vừa dẫn hắn ra pháp trường,
vừa đánh roi khắp mình mẩy. Lúc ấy nàng
Sulasà đứng bên cửa sổ nhìn xuống
đường, thấy tướng cướp bỗng nhiên
đâm ra si tình hắn và suy nghĩ: "Nếu ta
có thể giải nguy cho chàng chiến sĩ lực lưỡng này, ta sẽ từ bỏ cuộc
đời xấu xa hiện nay của ta và sống chân
chánh với chàng".
Theo cách được tả trong Tiền thân Kanavera,
số 318, nàng lấy lại tự do cho hắn bằng cách gởi một ngàn
đồng tiền vàng và
đến tặng viên thị trưởng rồi sau
đó sống hạnh phúc hòa hợp với hắn. Sau
chừng ba bốn tháng, tướng cướp suy nghĩ: "Ta sẽ chẳng bao giờ có thể ở một
nơi như vầy, nhưng ta không thể ra đi tay
không. Nữ trang của Sulasà trị giá một trăm
ngàn đồng tiền. Ta muốn giết nàng
và lấy của".
Vì vậy một hôm hắn bảo nàng:
- Ái nương ơi, khi ta đang bị quân lính nhà
vua kéo đi, ta hứa cúng lễ vật cho một vị thần
cây trên đỉnh núi, nay vị ấy đang đe dọa
ta vì ta không trả lễ. Vậy chúng ta hãy
đi dâng lễ thần.
- Thưa lang quân, tốt lắm, chúng ta hãy chuẩn bị lễ vật gửi
đi cúng thần.
- Này ái nương, gửi lễ vật cúng thần không công hiệu gì
đâu. Chúng ta hãy cùng
đi dâng lễ mang theo một món tư trang và
đám hầu cận.
- Thưa lang quân, được rồi, chúng ta cùng
làm vậy.
Hắn bảo nàng chuẩn bị lễ vật và khi họ đến
chân núi, hắn bảo:
- Này ái nương, vị thần này thấy đông người
sẽ không nhận lễ vật, vậy hai ta cùng đi
lên núi dâng lễ.
Nàng thỏa thuận và hắn bảo nàng mang chiếc bình. Phần hắn
đã chuẩn bị hết sức chu
đáo. Khi cả hai đến đỉnh núi, hắn đặt lễ vật
xuống gốc cây mọc cạnh bờ vực cao gấp trăm lần một người thuờng, và
bảo:
- Này ái nương, ta không đến đây để dâng lễ
vật, mà ta đến với ý định giết nàng
rồi trốn đi với mọi tư trang của nàng,
vậy hãy cởi ra hết và góp thành một bó trong áo khoác của nàng kia.
- Này lang quân tại sao chàng muốn giết thiếp?
- Vì tiền của nàng đấy.
- Lang quân ơi, hãy nhớ lại mọi việc tốt lành mà thiếp
đã làm cho chàng. Khi chàng bị xiềng tay
chân và kéo đi xử trảm, thiếp đã bỏ một
anh chàng nhà giàu chỉ vì chàng và trả một số tiền lớn
để cứu chuộc chàng. Dù thiếp có kiếm
được một ngàn
đồng tiền mỗi ngày, thiếp cũng không
nhìn đến một nam nhân nào khác. Thiếp
đã làm ân nhân của chàng như vậy. Xin
chàng đừng giết thiếp. Thiếp nguyện trao cho chàng
thật nhiều tiền và làm nô tỳ cho chàng.
Cùng với lời khẩn cầu này, nàng ngâm vần kệ
đầu:
1. Này đây là chiếc vòng vàng,
Này đây ngọc bích cùng tràng hạt trai,
Lấy đi tất cả chàng ôi,
Xin chàng cho thiếp làm tôi tớ chàng!
Khi ấy Sattuka ngâm vần kệ thứ hai phù hợp với mục
đích của hắn, đó là:
2. Ðể vàng ngọc xuống, kiều nương,
Và nàng đừng có khóc thương buồn phiền,
Ta nay muốn giết nàng liền
Vì ta không chắc hưởng tiền hồi môn!
Trí khôn của Sulasà xuất hiện kịp thời, nàng suy nghĩ: "Tên cướp này
không muốn cho ta sống, vậy ta sẽ đoạt mạng hắn
trước bằng cách ném hắn xuống vực sâu", và nàng ngâm hai vần kệ tiếp:
3. Suốt bao năm tháng lớn khôn,
Với bao hồi tưởng trong hồn thật chân,
Thiếp thề giữa cõi phàm trần
Không người nào đã thiết thân hơn
chàng.
4. Ðến đây lần nữa cuối cùng,
Thiếp xin kính lễ trong vòng bàn tay,
Chẳng bao giờ ở đời này
Ðôi ta gặp mặt từ đây hỡi chàng!
Sattuka không thể hiểu được mục đích của nàng,
liền nói:
- Tốt lắm, này ái nương, hãy đến ôm ta trong
tay nàng.
Salasà đi vòng quanh hắn cung kính
cuối chào ba lần, vừa hôn hắn vừa bảo:
- Này lang quân, bây giờ thiếp sắp đảnh lễ
chàng tứ phía.
Nàng đặt đầu nàng lên chân hắn, vái
chào hai bên, xong đi vòng ra phía sau
hắn như thể sắp vái chào hắn tại đó, rồi với
sức mạnh như voi, nàng nắm hai cẳng hắn ném hắn lộn ngược
đầu xuống dưới vực thẳm của tử thần cao gấp
trăm ngàn lần một người thường. Hắn tan thân và chết tại chỗ.
Thấy việc này, vị thần trên đỉnh núi ngâm
các vền kệ sau:
5. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi có thể nhiều minh trí
Xuất hiện trong tình thế hiểm nguy.
6. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi nhanh trí nhiều mưu kế
Dự định làm công việc kịp thì.
7. Cô nàng bày tỏ trí khôn ngoan
Hiểu biết tinh thông mọi lối đường,
Ðã giết anh chàng này chẳng khác
Giết con nai với chiếc cung giương.
8. Người nào khi gặp cảnh cùng đường,
Không thể vươn lên để thoát thân
Sẽ ngã nhào như tên trộm ngốc
Ngã vào trong vực thẳm tan xương.
9. Còn kẻ tinh nhanh ấy sự tình
Hiểm nguy đến với số phần mình,
Như nàng được thoát thân ra khỏi
Cừu địch bên mình đáng hãi
kinh.
Như vậy Sulasà đã giết tên cướp nọ.
Khi nàng xuống núi và đứng giữa đám hầu cận, họ
hỏi chồng nàng đâu. Nàng bảo:
- Ðừng hỏi ta nữa!
Rồi leo lên xe, nàng đi thẳng về kinh thành.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy hai kẻ ấy chính là hai người bây giờ, và vị Thần núi ấy chính
là Ta.
-ooOoo-
420. Chuyện Người Giữ Ngự Viên Sumangala (Tiền thân Sumangala)
Ý thức giận hờn, nét mặt cau...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc khuyến giáo
một vị vua. Trong dịp này, theo lời yêu cầu của vua, Bậc Ðạo Sư kể câu
chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bố-tát
được sinh làm hoàng tử của một chánh
hậu. Khi lớn lên, vua cha băng hà, ngài
lên làm vua và thực hành đại bố thí. Ngài
có một người giữ ngự viên tên là Sumangala.
Thuở ấy một vị Ðộc Giáo Phật rời động Nandamùla
để du hành khất thực, và khi
đến Ba-la-nại, Ngài ở lại trong ngự
viên. Hôm sau Ngài vào thành Khất thực. Vua đón
Ngài với vẻ ân cần đặc biệt, mời Ngài
vào cung ngồi trên bảo tọa, thiết đãi
đủ món ăn thượng vị, loại cứng loại mềm, và
nhận lời tùy hỷ công đức của Ngài xong,
liền khẩn cầu Ngài hứa một lời rồi truyền đưa
Ngài trở lại ngự viên.
Sau bữa điểm tâm, vua thân hành
đền sắp đặt nơi cư trú để Ngài ở suốt
ngày đêm và cho người giữ ngự viên
Sumangala đến hầu cận Ngài xong, mới thở
về thành. Sau đó vị Ðộc Giác Phật thường
ăn uống tại cung vua và ở lại ngự viên
một thời gian dài, còn Sumangala vẫn cung kính hầu hạ Ngài.
Một hôm Ngài ra đi, bảo Sumangala:
- Ta sắp đi đến làng kia vài ngày,
song ta sẽ trở lại đây. Hãy trình với
đức vua.
Sumangala liền trình lên vua việc này. Sau vài ngày ở tại làng kia,vị Ðộc
Giác Phật trở lại ngự viên vào buổi chiều tối.
Sumangala không biết Ngài trở lại, nên cũng
đã đi về nhà. Vị Ðộc Giác Phật
cất y bát, và sau khi dạo chơi giây lát, Ngài ngồi xuống một phiến
đá.
Hôm ấy có vài người khách lạ đến nhà
người giữ ngự viên. Muốn nấu món súp và cà-ri đãi
khách, y cầm cung đi giết một con nai nuôi
trong ngự viên. Y đang tìm nai
thì chợt thấy vị Ðộc Giác Phật, tưởng đó là
một con nai lớn, y nhắm một mũi tên và bắn Ngài. Vị Ðộc Giác Phật mở khăn
trùm đầu ra và gọi:
- Sumangala!
Vô cùng xúc động, Sumangala đáp:
- Thưa Tôn giả, con không biết Tôn giả đã
về nên bắn Tôn giả vì tưởng là nai. Xin Tôn giả tha thứ cho con.
- Ðược lắm, nhưng ông sẽ làm gì bây giờ? Này, hãy rút mũi tên ra mau!
Y đảnh lễ rồi rút mũi tên ra. Vị Ðộc
Giác Phật cảm thấy vô cùng đau đớn và
đắc Niết-bàn vô dư y ngay tại
đó. Người giữ vườn nghĩ rằng vua sẽ không tha
thứ nếu biết chuyện này, y liền đem vợ
con trốn đi.
Nhờ thần lực, cả kinh thành đều biết tin vị
Ðộc Giác Phật đã
đắc Niết-bàn và mọi người vô cùng xúc
động. Hôm sau một số người vào ngự viên,
thấy di hài của Ngài liền tâu trình vua rằng người giữ ngự viên
đã chạy trốn sau khi giết vị Ðộc Giác
Phật.
Vua cùng đông đảo tùy tùng
đến lễ bái di hài ấy suốt bảy ngày, rồi
hỏa táng trọng thể xong, lấy xá-lợi và xây tháp thờ. Sau
đó vua vẫn thường cúng dường tháp xá-lợi và
cai trị đúng Pháp.
Năm sau, Sumangala quyết đi tìm hiểu
xem vua nghĩ về việc này ra sao, y đến yết kiến
và hỏi một vị triều thần để xem vua nghĩ
gì về y. Vị triều thần ca ngợi Sumangala trước mặt vua, nhưng vua làm
như thể không nghe gì cả. Ông không nói thêm nữa, nhưng sau báo cho
Sumangala biết vua không hài lòng về y.
Một năm sau nữa, y lại đến và năm
thứ ba, y đem vợ con đến. Vị triều thần biết vua đã nguôi giận nên
bảo Sumangala ở cung môn và tâu vua rằng Sumangala
đã đến
chầu. Vua truyền y vào, sau nghi thức chào mừng, vua hỏi:
- Này Sumangala, tại sao ngươi giết vị Ðộc Giác Phật là người mà ta
đang cúng dường để tạo công đức?
- Tâu Ðại vương, tiểu thần không cố ý giết Ngài, nhưng chỉ vì duyên cớ
này mà tiểu thần phạm tội.
Rồi y kể lại chuyện cũ. Vua bảo y đừng sợ, và
vừa trấn an y vừa cho y giữ chức ngự viên như cũ.
Sau đó triều thần hỏi:
- Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương không trả lời khi nghe những lời ca
ngợi Sumangala hai lần trước và lần thứ ba nghe chuyện, Ðại vương lại truyền
y vào chầu và tha thứ cho y?
Vua phán:
- Này Hiền khanh, một vị vua hành động vội vã
lúc nóng giận là điều sai lầm, vì vậy
trẫm im lặng lần đầu, và lần thứ ba khi
trẫm hiểu mình đã nguôi giận, mới truyền
gọi Sumangala.
Về việc này ngài ngâm các vần kệ nêu rõ phận quân vương:
1. Ý thức giận hờn, nét mặt cau,
Quân vương đừng giáng trận đòn
đau,
Những điều bất xứng ngôi Thiên tử
Sẽ tiếp theo sau cái gật đầu.
2. Ý thức tính tình bớt khắt khe,
Quân vương ban pháp lệnh ra uy,
Khi nào vụ án đà thông hiểu,
Hãy xác định các hình phạt thích nghi.
3. Không giận mình và chẳng giận ai,
Biết phân biệt rõ đúng và sai,
Dù vua ngự trị trên quần chúng,
Ðức hạnh khiến vua vĩ đại hoài.
4. Vua chúa buông lung các việc công,
Thực hành roi trượng chẳng bao dung,
Ô danh dưới thế phần vua hưởng,
Ðịa ngục đợi chờ lúc mạng chung.
5. Người nào yêu đạo đức hiền nhân,
Trong sạch vẹn toàn khẩu, ý, thân,
Ðầy đủ từ tâm, an tịnh quý,
Vượt qua hai thế giới phàm trần.
6. Trẫm là vua chúa của thần dân,
Sân hận không ngăn cản ý tâm,
Khi trẫm cầm gương đi trị tội,
Từ tâm thúc đẩy phạt công bằng.
Như vậy vua đã nêu rõ mọi
đức tính của mình qua sáu vần kệ, tất cả
triều thần đều hoan hỷ và tán thán các
công hạnh vua qua lời tung hô:
- Các pháp thực hành đức hạnh ưu thắng như
vậy thật xứng với Ðại vương!
Sau khi cả triều đình tán thán xong,
Sumangala cung kính đảnh lễ vua và sau
đó ngâm ba vần kệ ca ngợi ngài:
7. Uy lực vinh quang của Ðại vương,
Ðừng bao giờ bỏ đạo luân thường,
Thoát ly sân hận và kinh hãi,
Trị nước trăm năm mãi lạc an.
8. Vương tử có đầy đức tính trên
Nhân từ, song đạo hạnh trung kiên,
Trị toàn dân với lòng công chánh,
Khi bỏ cõi đời, đến cõi thiên.
9. Lời nói thật chân với thiện hành,
Dùng phương tiện tốt đạt công thành,
Trấn an quần chúng còn dao động,
Như đám mây mưa thật mát lành.
*
Sau bài Pháp thoại liên hệ việc giáo hóa vua Kosala, bậc Ðạo Sư nhận diện
Tiền thân:
- Thời ấy vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn
vô dư y, Sumangala là Ànanda và vua chính là Ta.
-ooOoo-
421. Chuyện Người Hớt Tóc Gangamàla (Tiền thân Gangamàla)
Ðịa cầu nòng rực như than..,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc thực hành các
ngày trai giới.
Một hôm bậc Ðạo Sư dạy các cư sĩ đang giữ ngày
trai giới và bảo:
Này các cư sĩ, giới hạnh của các ông thật tốt lành, khi giữ ngày trai
giới, các vị phải bố thí, trì giới không sân hận, khởi tâm từ và thực hành
mọi phận sự trong ngày ấy. Các bậc trí nhân ngày xưa
đạt đại vinh hiển dầu chỉ nhờ giữ được một
phần các ngày trai giới.
Và theo lời thỉnh cầu của họ, Ngài kể câu chuyện
đời xưa
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, có một phú thương trong
kinh thành tên là Suciparivàra, gia sản lên tới tám trăm
triệu đồng, chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự khác. Vợ con, toàn
thể gia nhân của ông cho đến bọn chăn trâu bò
đều giữ sáu ngày trai giới mỗi tháng.
Thời ấy Bồ-tát được sinh vào một nhà
nghèo kiếm kế sinh nhai chật vật bằng cách làm thuê. Vì mong có việc làm,
ngài đến nhà phú thương Suciparivàra,
khi chào chủ xong, ngồi xuống một bên, và được
hỏi đến đây có việc gì, ngài đáp:
- Tôi đến để xin việc làm công trong
nhà ông.
Thời ấy, khi những người làm công đến, vị
phú thương thường bảo họ:
- Trong nhà này mọi công nhân đều giữ ngày
trai giới, nếu chú có thể giữ giới thì chú mới có thể làm việc cho ta.
Song đối với Bồ-tát, vị ấy không tỏ vẻ muốn
nói đến chuyện giữ giới mà chỉ bảo:
- Tốt lắm, này thiện nam, chú có thể làm việc cho ta và trù liệu tiền
lương của chú.
Từ đó Bồ-tát làm mọi công việc của
phú thương một cách nhẫn nại nhiệt tình, không hề nghĩ
đến nỗi mệt nhọc riêng mình, ngài
đi làm từ sáng sớm
đến chiều tối trở về.
Một hôm dân chúng làm lễ hội ở kinh thành, vị phú thương bảo người tỳ nữ:
- Hôm nay là ngày hội, cô phải nấu cơm cho công nhân thật sớm. Họ sẽ
ăn sớm và giữ giới kiêng
ăn từ đó đến hết ngày.
Bồ-tát dậy sớm và đi làm việc. Trước
đó không ai bảo ngài phải giữ giới kiêng
ăn hôm ấy. Các công nhân kia ăn từ sớm và
kiêng ăn. Vị phú thương cùng vợ con, gia
nhân đều giữ giới kiêng
ăn, mọi người đều trở về nhà riêng ngồi
suy tư về các giới điều. Bồ-tát làm việc
suốt ngày xong trở về nhà lúc trời tối. Người nữ tỳ
đầu bếp đưa cho ngài nước rửa tay và một
dĩa cơm lấy từ trong nồi. Bồ-tát bảo:
- Vào giờ này ngày thường rất ồn ào, thế mọi người
đi đâu cả hôm nay?
- Họ đang giữ giới kiêng
ăn và mỗi người
đều về nhà riêng rồi.
Ngài suy nghĩ: "Ta không muốn làm người duy nhất phạm giới giữa nhiều
người giữ giới như vậy". Vì thế ngài đi hỏi vị
phú thương xem có thể giữ giới kiêng ăn
bằng cách thi hành mọi phận sự vào giờ
đó không. Ông bảo ngài không thể thực hành mọi phận sự, bởi vì việc
đó đã không
được làm từ sáng sớm nhưng một nửa phận sự thì có thể làm
được. Ngài
đáp:
- Mong được như vậy.
Và thực hành phận sự ngay trước mặt chủ nhân, ngài bắt
đầu giữ giới kiêng
ăn, rồi về nhà nằm suy nghĩ về các giới
điều. Vì ngài không
ăn gì suốt ngày, nên vào canh cuối ngài
cảm thấy đau nhói như dao đâm.
Vị phú thương mang cho ngài một số thuốc giảm
đói và bảo ngài dùng chúng, nhưng ngài
bảo:
- Tôi sẽ quyết không phá giới kiêng ăn, tôi
đã nguyện trì giới dù phải thiệt mạng.
Cơn đau đớn trở nên mãnh liệt và
đến tảng sáng ngài bất tỉnh. Họ bảo ngài
sắp chết nên đem ngài ra ngoài,
đặt vào một nơi an nghỉ. Ngay lúc lấy,
vua Ba-la-nại trên chiếc vương xa cùng đoàn
hộ tống đông đảo đến nơi ấy trong lúc diễu
quanh kinh thành. Bồ-tát thấy vẻ huy hoàng của vua, sinh lòng ao ước
làm vua và cầu nguyện điều ấy. Khi mạng chung,
do kết quả việc giữ nửa ngày trai giới trên, ngài
được nhập mẫu thai vị chánh hậu.
Bà trải qua đủ mọi nghi lễ của thời kỳ thụ
thai rồi sinh một hoàng nam sau mười tháng. Hài nhi
được đặt tên là Udaya. Khi lớn lên,
vương tử trở nên hoàn hảo trong mọi ngành học thuật, nhờ trí hồi tưởng các
đời trước, ngài nhớ lại các công hạnh
thuở xưa và nghĩ rằng chính nhờ một thiện nghiệp nhỏ tạo nên một phước báo
lớn, ngài thường hát khúc ca hoan lạc nhiều lần. Khi vua cha băng
hà, ngài được trao cả vương quốc và
nhận thấy cảnh đại vinh quang của mình,
ngài lại hát khúc ca hoan lạc cũ.
Một hôm dân chúng chuẩn bị lễ hội trong kinh thành. Một
đám đông định tụ tập nhau định bày trò
vui chơi giải trí. Một người gánh nước sống gần cổng Bắc thành Ba-la-nại
đã dấu nửa
đồng xu trong viên gạch ở bức tường bao quanh thành. Y sống chung với
một người đàn bà nghèo khổ cũng làm nghề
gánh nước. Vợ y bảo:
- Chàng ơi, hôm nay có lễ hội trong thành phố, nếu chàng có tiền, ta hãy
đi vui chơi nhé.
- Nàng ơi, ta có tiền đấy.
- Bao nhiêu?
- Nửa xu.
- Ở đâu?
- Trong viên gạch bên cổng Bắc, cách đây
mười hai do-tuần (dặm), ta chôn tiền tại đó. Song nàng có gì trong
tay chăng?
- Thiếp có đấy.
- Bao nhiêu?
- Nửa xu.
- Vậy nửa xu của nàng và của ta hợp thành một xu. Ta sẽ
đi mua một tràng hoa với một phần ba số
tiền ấy, hương liệu với một phần ba và rượu nồng với một phần ba. Nàng hãy
đi tìm nửa xu ở nơi cất tiền
đem đến đây.
Y thích thú với ý tưởng do lời vợ gợi lên, liền bảo:
- Nàng ơi, đừng lo gì, ta sẽ
đi tìm nửa xu về
đây.
Rồi y ra đi. Y mạnh như voi, vừa đi khoảng
hơn sáu dặm, và mặc dù trời giữa trưa, y vẫn rảo bước trên cát nóng
như thể được rải than vừa tắt lửa vì y
rất thích thú với nỗi ham muốn được bạc. Trong
bộ y phục cũ màu vàng điểm thêm
lá thốt nốt giắt bên tai, y vừa đi ngang sân
chầu để theo đuổi mục đích của mình vừa ca hát.
Vua Udaya đứng bên cửa sổ mở, thấy y
đi đến, không biết y là ai mà lại coi
thường nắng gió như vầy, vừa đi vừa hát, liền
bảo nô tỳ đi gọi y vào.
Y được lệnh:
- Hoàng thượng truyền gọi chú vào.
Nhưng y đáp:
- Hoàng thượng có nghĩa gì với ta chứ? Ta không biết hoàng thượng!
Y liền bị lôi vào và đứng chầu một bên.
Sau đó, vua ngâm hai vần kệ hỏi y:
1. Ðịa cầu nóng rực như than,
Ðất đai như đống tro than nóng bừng,
Song ngươi ca hát vang lừng,
Khí trời gay gắt chẳng nung ngươi nào!
2. Mặt trời kia ở trên cao,
Dưới này cát nóng khác nào lò than,
Song ngươi ca hát lừng vang,
Khí trời nắng gắt chẳng làm cháy ngươi.
Nghe lời vua, y liền ngâm vần kệ thứ ba:
3. Chính vì tham dục đốt tôi,
Chứ không phải ánh mặt trời nấu nung,
Chính vì phận sự trong lòng
Thúc tôi vội vã làm xong mọi phần.
Vua hỏi y có việc gì. Y đáp:
- Tâu Ðại vương, hạ thần sống gần cổng Nam với một người vợ nghèo. Vợ
thần tỏ ý muốn chúng thần cùng vui chơi lễ hội nên hỏi thử thần có gì trong
tay không. Thần bảo thần có tiền của chôn dấu trong bức tường cạnh cổng Bắc.
Vợ thần bảo thần đi lầy tiền về để vui chơi .
Những lời nói của vợ thần không rời tâm hồn thần và trong khi thần
suy nghĩ mãi về chúng, tham dục cứ đốt cháy lòng
thần. Công việc của thần là thế đấy.
- Vậy điều gì khiến ngươi thích thú
nhiều đến độ ngươi xem thường nắng gió và
vừa đi vừa hát?
- Tâu Ðại vương, thần hát vì nghĩ rằng khi tìm
được của chôn dấu, thần sẽ vui chơi thích thú
với vợ.
- Này thiện nam, thế của ngươi chôn dấu bên cổng Bắc
được một trăm ngàn
đồng tiền chăng?
- Tâu Ðại vương, không phải.
Sau đó vua hỏi liên tiếp có phải năm
mươi ngàn, bốn mươi, ba mươi, hai mươi, mười, năm,
bốn ba, hai, một đồng tiền, nửa đồng tiền, bốn xu, ba xu, hai xu, một xu. Chàng
trai đều đáp: "Không" trước các câu hỏi
trên và nói:
- Chỉ nửa xu. Quả thực, tâu Ðại vương, đó là
tất cả gia sản của thần. Nhưng thần đang hy
vọng tìm ra nó rồi đi vui chơi với vợ, và
trong niềm ước vọng thích thú kia, nắng gió không làm thần khó chịu.
Vua bảo:
- Này thiện nam, thôi đừng đi đến đó dưới
nắng gắt này nữa. Ta sẽ cho ngươi nửa xu.
- Tâu Ðại vương, thần sẽ nhận lời hứa của Ðại vương và lấy tiền, nhưng
thần sẽ không bỏ nửa xu kia đâu. Thần không bỏ
việc đi đến đó đem nó về đâu.
- Này thiện nam, hãy ở lại đây. Trẫm sẽ cho
ngươi một xu, hai xu.
Rồi cứ đề nghị thêm nữa, vua tiếp tục
nói mười triệu, một ngàn triệu, vô số vàng bạc, nếu chàng trai chịu ở lại.
Nhưng y vẫn đáp:
- Tâu Ðại vương, thần sẽ nhận tiền của, nhưng thần vẫn
đi kiếm nửa xu kia!
Sau đó y được chiêu dụ bằng những lời
vua hứa ban chức thủ kho, và nhiều chức vụ khác nữa, và cả chức vị phó
vương. Cuối cùng y được đề nghị chia nửa vương
quốc nếu y chịu ở lại. Khi ấy y mới chấp thuận! Vua bảo các Ðại thần:
- Này các khanh, hãy đưa hiền hữu của trẫm
đi cạo râu, tắm rửa và trang điểm rồi
đem người trở lại đây.
Họ tuân lệnh. Vua chia đôi giang sơn và
tặng chàng trai một nửa. Song chuyện kể rằng y chọn phần nửa ở phía Bắc do
lòng yêu thích nửa đồng xu cũ! Y được gọi là
vua Nửa Xu. Hai vị vua đồng cai trị đất nước
trong tình thân hữu hòa hợp.
Một hôm, hai vị cùng đi đến ngự viên.
Sau khi vui chơi, vua Udaya nằm xuống kề đầu vào
lòng vua Nửa Xu. Ngài ngủ thiếp, trong lúc đám
hầu cận đi quanh quẩn vui chơi. Vua Nửa Xu suy nghĩ: "Tại sao ta chỉ được
nửa vương quốc mãi thôi? Ta muốn giết vua này và làm vị vua
độc nhất."
Vì thế Vua Nửa Xu rút kiếm ra, nhưng khi nghĩ
đến việc đâm vua này, vua Nửa Xu nhớ lại
ngài đã đưa
bạn mình từ chỗ nghèo hèn thành người
đồng trị nước với ngài và ban cho bạn
đại quyền lực. Nhận thức tư tưởng vừa khởi lên trong trí dự
định giết một ân nhân như thế là vô cùng
độc ác, vua Nửa Xu liền tra kiếm vào
bao.
Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, ý tưởng lại khởi lên. Cảm thấy tư tưởng này
khởi lên mãi sẽ đưa mình
đến cái ác nghiệp, vua Nửa Xu vứt kiếm xuống
đất và thức vua kia dậy, vừa nói vừa quỳ xuống chân ngài:
- Tâu Ðại vương, xin hãy tha tội cho tôi.
- Này Hiền hữu, bạn có làm gì sai trái với ta
đâu.
- Tâu Ðại vương, tôi đã làm một việc
như vậy.
- Này Hiền hữu, thế thì ta tha thứ cho bạn. Nếu như bạn muốn thì cứ làm
vua một mình và ta sẽ làm phó vương phụng sự bạn.
Vua Nửa Xu đáp:
- Tâu Ðại vương, tôi không cần vương quốc, tham vọng ấy sẽ khiến tôi tái
sinh vào cõi dữ. Quốc độ này của Ðại
vương, xin nhận lấy nó, tôi muốn trở thành người khổ hạnh. Tôi
đã lấy gốc rễ của dục tham, nó phát xuất
từ ước vọng của con người. Vậy từ nay tôi không còn ước vọng như thế nữa.
Rồi ông ngâm vần kệ thứ tư trong niềm hoan lạc:
4. Nhận ra tham dục, nguồn căn
Ở trong ước vọng tiềm tàng khắp nơi,
Ta không muốn nữa vì ngươi,
Vậy ngươi, Tham dục, phải rời xa đi!
Nói vậy xong, ông ngâm vần kệ thứ năm thuyết
Pháp cho quần chúng đang đắm say tham dục:
5. Dục tham ít ỏi chẳng vừa,
Dục tham nhiều chỉ mang ta khổ buồn.
Này, luôn thiếu, ngu nhân,
Nếu ngươi muốn đắc trí thông, bạn hiền!
Thuyết Pháp như vậy với quần chúng xong, ông giao quốc
độ cho vua Udaya. Rời bỏ quần chúng đang khóc
than với nước mắt đầm đìa, ông đến vùng
Tuyết Sơn, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh và đạt
Thắng trí. Trong thời gian vị ấy làm nhà khổ hạnh, vua Udaya ngâm vần
kệ thứ sáu bày tỏ nỗi hoan lạc trọn vẹn:
6. Thiểu dục đem ta mọi quả thành,
U-da-ya đạt đại quang vinh,
Người tinh cần được nhiều an lạc,
Làm ẩn sĩ, buông bỏ dục tình.
Không ai biết ý nghĩa vần kệ này. Một hôm, chánh hậu hỏi ngài ý nghĩa
trên. Vua không muốn nói. Thời ấy có người thợ hớt tóc trong triều tên là
Gangamàla mỗi khi vào chầu vua thường dùng dao cạo trước, rồi sau kẹp tóc
vua bằng cái nhíp. Vua thích việc trước, nhưng việc thứ hai làm vua
đau. Về việc đầu, vua muốn thưởng cho y một đặc
ân. Còn việc thứ hai, vua chỉ muốn chém
đầu y thôi!
Một hôm vua nói chuyện với hoàng hậu, ngài bảo rằng người thợ hớt tóc
trong triều là một tên ngu xuẩn. Khi hoàng hậu hỏi y phải làm gì trước, ngài
bảo:
- Hãy dùng nhíp trước, rồi dùng dao cạo sau.
Hoàng hậu truyền gọi thợ hớt tóc vào và bảo:
- Này thiện nam, khi người tỉa râu đức vua,
ngươi nên dùng cái nhíp kẹp râu tóc ngài trước, rồi dùng dao cạo sau.
Nếu đức vua ban cho ngươi một điều ước, ngươi
phải tâu rằng ngươi không cần gì cả, mà ngươi chỉ muốn biết ý nghĩa
khúc ca của ngài thôi. Nếu ngươi làm vậy, ta sẽ cho ngươi nhiều tiền.
Y đồng ý ngay.
Hôm sau, khi y tỉa râu vua, y cầm cái nhíp trước. Vua hỏi:
- Gangamàla, đây là kiểu mới của
ngươi ư?
- Tâu Ðại vương, phải - y đáp - thợ hớt tóc
thường có kiểu mới.
Rồi y kẹp tóc vua với cái nhíp trước và dùng dao cạo sau. Vua liền ban
cho y một điều ước.
- Tâu Ðại vương, thần không muốn gì cả. Xin Ðại vương cho thần biết ý
nghĩ khúc ca ấy.
Vua hổ thẹn khi phải nói đến nghề nghiệp của
mình trong thuở hàn vi đời trước, liền
bảo:
- Này thiện nam, điều ước kia có ích lợi gì
cho ngươi đâu? Hãy chọn
điều khác.
Nhưng người hớt tóc cứ van xin điều ấy. Vua
sợ thất hứa nên đồng ý. Như đã tả
trong Tiền thân Kummàsapinda, số 415, vua truyền chuẩn bị mọi sự rất trọng
thể rồi ngồi trên bảo tọa bằng ngọc, kể tất cả chuyện công
đức trong đời vừa qua tại kinh thành
này. Rồi ngài bảo:
- Ðiều ấy giải thích nửa vần kệ, còn nửa vần kia kể chuyện hiền hữu ta trở
thành nhà khổ hạnh trong lúc ta làm vị vua độc
nhất trong niềm tự hào, điều ấy giải
thích phần thứ hai của ca khúc hoan lạc ấy.
Nghe vậy, người hớt tóc suy nghĩ: "Như vậy,
đức vua được hưởng cả vinh quang này vì
đã giữ nửa ngày trai gới. Ðức hạnh quả thật là chánh
đạo. Giả sử ta cũng trở thành nhà khổ
hạnh và tìm đường giải thoát cho ta được
chăng?"
Người hớt tóc liền từ giã đám thân thuộc, tài
vật thế gian, rồi xin phép vua trở thành nhà tu hành
đi về vùng Tuyết Sơn làm vị khổ hạnh.
Khi nhận thức được ba đặc tính của các pháp hữu
hình (vô thường, khổ, vô ngã), vị ấy đạt
Thắng trí và trở thành vị Ðộc Giác Phật. Vị ấy có
đủ các y bát nhờ thần lực.
Sau độ năm sáu năm ở trên núi
Gandhamàdana (Hương Sơn), vị ấy muốn về thăm
vua Ba-la-nại, liền bay qua không trung đến ngự viên, rồi ngồi trên
vương tọa. Người giữ vườn trình nhà vua rằng Gangamàla nay là vị Ðộc Giác
Phật, đã phi hành trên không và
đang ngồi trong ngự viên.
Vua lập tức đến chào vị Ðộc Giác Phật
và hoàng thái hậu cũng ra đi với con. Vua vào
ngự viên, kính chào vị ấy và ngồi xuống một bên cùng
đoàn tùy tùng. Vị Ðộc Giác Phật thân mật
đàm đạo với
vua và gọi ngài bằng tộc tánh:
- Này Brahmadatta, Hiền hữu có chuyên tâm tinh cầu, cai trị nước nhà
đúng Pháp, thực hành bố thí cùng các
thiện sự khác chăng?
Hoàng thái hậu liền nổi giận:
- Ðứa con nhà hớt tóc hạ tiện này không biết phận mình. Nó dám gọi hoàng
nhi quý tộc của ta là "Brahmadatta".
Rồi bà ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Khổ hạnh xả ly hết lỗi lầm,
Thợ ghè, hớt tóc, mọi phàm nhân,
Gan-ga nhờ đó thành vinh hiển,
Liền gọi "Brah-ma" đấng quốc vương!
Vua vội ngăn cản mẫu hậu và tuyên bố
mọi đặc tính của vị Ðộc Giác Phật, ngài
ngâm vần kệ thứ tám:
8. Nhìn xem! Vào lúc phải vong thân,
Khổ hạnh cho ta hưởng phước phần,
Người lễ bái ta trong kiếp trước,
Giờ đây vua chúa phải chào mừng.
Mặc dù vua đã ngăn
cản thái hậu, cả đám quần thần đều đứng lên bảo:
Một người hạ tiện thế này dám xưng hô với Hoàng thượng bằng tên tộc như
vậy là không đúng phép tắc.
Vua lại quở trách quần thần và ngâm vần kệ cuối tuyên bố các
đức tính cuả vị Ðộc Giác Phật:
9. Chớ trách Gan-ga nói thế này
Bước đường đạo hạnh thiện toàn thay!
Ngài đà vượt
đại dương phiền não,
Giải thoát khổ sầu chính tại đây.
Nói vậy xong, vua vái chào vị Ðộc Giác Phật và xin ngài tha lỗi cho thái
hậu. Vị Ðộc Giác Phật đồng ý và
đám quần thần của vua cũng được tha thứ luôn.
Vua ước mong Ngài hứa về sau sẽ ở lại trong vùng lân cận, nhưng Ngài
từ chối, rồi đứng trên không trước mắt đám
triều thần, Ngài khuyến giáo vua xong trở về Hương Sơn.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các cư sĩ, các vị ấy giữ trai giới là việc cần phải làm.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn
vô dư y, vua Nửa Xu là Ànanda, chánh hậu là mẫu thân Ràhula và vua Udaya
chính là Ta.
-ooOoo-
422. Chuyện Quốc Vương Ceti (Tiền thân Cetiya)
Công lý tổn thương gây hiểm họa...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Tỷ-keo
Devadatta (Đề-bà-đạt-đa)
bị quả đất nuốt sống.
Một ngày kia, Tăng chúng bàn luận
trong Chánh Pháp đường về cách Devadatta nói
dối như thế nào rồi bị chìm sâu vào lòng
đất và đọa vào ngục Avìci (Vô
gián). Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe đề tài
thảo luận ấy, Ngài bảo:
- Ðây không phải lần đầu kẻ ấy chìm
sâu vào lòng đất.
Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi trong thời tối sơ khai, có vị vua mệnh danh Mahàsamata với
thọ mạng kéo dài một a-tăng-kỳ (asnkheyya)
kiếp. Vị vương tử tên Roja, vị này lại sinh con trai là Vararoja và
kế tiếp đó là Kalyàna, Varakalyàna,
Uposatha, Mandhàtà, Varamandhàtà, Cara, Upacara, còn
được gọi là Apacara.
Vua này trị vì quốc độ Ceti, ở kinh đô
Sotthivati, có đấy đủ tứ thần thông: vua có thể đi trên trời, hoặc
bay qua không gain, có bốn Thiên thần ở bốn phương bảo vệ vua với kiếm tuốt
trần, thân hình vua tỏa mùi hương chiên-đàn,
và miệng vua tỏa mùi hương sen.
Thời ấy vị tế sư hoàng gia tên là Kapila. Em trai của vị Bà-la-môn này là
Korakalamba, được học chung thầy với vua. Thời
Apacara còn là vương tử, đã hứa
sẽ phong Korakalamba làm tế sư hoàng gia khi nào mình lên ngôi.
Khi vua cha băng hà, vương tử lên
ngôi song không thể đưa Kapila ra khỏi chức vụ
tế sư hoàng gia được, và khi tế
sư Kapila đến chầu vua, vua vẫn bày tỏ
nhiều đặc ân đối với vị ấy. Vị Bà-la-môn
ấy quan sát điều này và nhận xét rằng
một vị vua thường trị nước hoàn hảo nhất cùng với các quần thần
đồng tuổi tác, còn chính ông có thể xin
cáo quan về làm ẩn sĩ, nên đã trình:
- Tâu Ðại vương, nay lão thần đã già
cả, lão thần có một con trai ở nhà, xin Ðại vương phong cho nó làm tế sư
hoàng gia và lão thần sẽ trở thành ẩn sĩ.
Ông được vua chấp thuận phong con trai mình
làm tế sư hoàng gia, sau đó ông đến ngự viên
sống đời ẩn sĩ, đạt được các Thắng trí và
ở gần con trai.
Còn Koralambaka cảm thấy căm hận anh mình
vì ông đã không trao cho mình chức vị tế
sư khi trở thành ẩn sĩ. Một hôm, vua nói chuyện thân mật với Koralambaka:
- Này Koralambaka, Hiền hữu không làm tế sư hoàng gia ư?
- Tâu Ðại vương không, huynh trưởng của thần xếp
đặt việc ấy.
- Thế lệnh huynh chẳng trở thành ẩn sĩ rồi sao?
- Tâu vâng, song gia huynh đã
để chức vụ ấy cho con mình.
- Thế thì hiền hữu hãy lo sắp xếp việc ấy.
- Tâu Ðại vương, thần không thể đặt gia
huynh qua một bên rồi nhận lấy chức vụ do cha truyền con nối ấy.
- Nếu vậy, ta sẽ làm hiền hữu thành vị trưởng tế sư và vị kia làm phụ tá
cho hiền hữu.
- Tâu Ðại vương, bằng cách nào?
- Bằng cách nói dối.
- Tâu Ðại vương, thế Ðại vương không biết gia huynh là pháp thuật sư cao
cường có đại thần lực ư? Gia huynh sẽ dùng
huyễn thuật đánh lừa Ðại vương, làm cho
bốn vị Thiên thần biến mất, rồi làm cho một mùi hôi thối xông ra từ thân thể
và miệng Ðại vương, lại làm cho Ðại vương rơi từ trời xuống
đất và Ðại vương sẽ bị quả
đất nuốt sống, vì thế Ðại vương không
thể hành động theo lời nói dối kia được đâu.
- Ðừng lo gì, ta sẽ sắp xếp việc này.
- Tâu Ðại vương, khi nào Ðại vương thực hiện
điều này?
- Vào thứ bảy kể từ đây.
Chuyện này lan truyền khắp kinh thành:
- Hoàng thượng sắp nói dối để làm vị
trưởng thành phó và sẽ giao chức vụ cho vị phó. Lời nói dối là vật gì nhỉ,
nó màu xanh, vàng hay màu khác nữa?
Quần chúng suy nghĩ rất nhiều về việc này. Tương truyền
đó là thời mọi người thế gian
đều nói thật, người ta không biết từ "nói dối"
nghĩa là gì cả.
Con trai vị tế sư nghe chuyện này liền nói với cha:
- Thưa cha, dân chúng bảo đức vua sắp nói
dối để làm cha thành con thứ rồi giao chức vụ của cha cho chú con.
- Này con, đức vua sẽ không thể nói dối để
tước đoạt địa vị này của ta đâu.
Ðức vua sắp thực hiện điều này vào ngày
nào?
Họ bảo ngày thứ bảy kể từ đây.
Hãy báo cho cha biết khi đến thời điểm
ấy.
Vào ngày thứ bảy, một đám đông tụ tập trong
sân chầu ngồi theo hàng hàng lớp lớp hy vọng thấy lời nói dối. Vị tế
sư trẻ đi báo tin cho cha. Vua chuẩn bị lễ phục
đầy đủ xong, xuất hiện ở khoảng không trên sân chầu giữa
đám đông.
Vị ẫn sĩ bay qua không gian, trải tọa cụ bằng da trước mặt vua, ngồi trên
đó giữa không gian và hỏi:
- Tâu Ðại vương, có thật là Ðại vương muốn nói dối làm người em thứ thành
anh trưởng và giao chức vụ cho người ấy?
- Thưa Tôn sư, trẫm đã làm như vậy.
Sau đó, vị ẩn sĩ khuyến giáo vua:
- Tâu Ðại vương, lời nói dối là một cách phá hoại tàn khốc các
đức tính tốt đẹp, nó tạo tái sinh vào
bốn ác đạo, một vị vua nói dối sẽ tiêu
diệt công lý, và vì phá hủy công lý, chính vua ấy cũng bị tiêu diệt.
Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Công lý tổn thương gây hiểm họa,
Sẽ đền bù với giá tai ương,
Vậy đừng làm tổn thương công lý,
Sợ hiểm nguy ào đến Ðại vương.
Ngài lại khuyến giáo vua nhiều hơn nữa:
- Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương nói dối, bốn pháp thần thông sẽ biến mất.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:
2. Thần lực xa lìa kẻ vọng ngôn,
Miệng mồm hôi thối đáng kinh hồn,
Bước chân không vững trong trời đất,
Bất cứ kẻ nào đáp dối gian.
Nghe vầy, vua lo sợ nhìn Korakalambaka. Vị ấy bảo:
- Tâu Ðại vương đừng sợ, thần đã
chẳng tâu Ðại vương như vậy từ đầu sao?
Và tiếp theo những lời lẽ tương tự như vây. Mặc dù
đã nghe Kapila nói như vậy, vua vẫn
tuyên bố câu xác định:
- Thưa Tôn sư, ngài là em thứ, còn Korakalambaka là anh trưởng.
Ngay lúc vua vừa thốt ra lời nói dối này, bốn Thiên thần bảo các vị không
muốn hộ trì một người dối trá như vậy nữa, liền ném kiếm dưới chân vua và
biến mất.
Miệng vua bốc mùi thối như trứng hư vỡ tung tóe và thân thể vua như ống
cống mở nắp. Rồi từ trên không rớt xuống, vua
đứng trên đất, như thế cả bốn thần lực
đều biến mất. Vị tế sư bảo:
- Tâu Ðại vương, đừng sợ, nếu Ðại
vương nói thật, thần sẽ phục hồi mọi sự cho Ðại vương.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ ba:
3. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối giam ngài mãi
Tại đất Ce-ti, đến tận cùng.
Ngài lại nói:
- Tâu Ðại vương, hãy xem: Bốn thần lực của Ðại vương biến mất vì nói dối
lần đầu, xin Ðại vương suy xét lại, vì
bây giờ vẫn còn có thể phục hồi chúng.
Nhưng vua đáp:
- Ðại sư muốn đánh lừa trẫm về việc này.
Vừa nói dối lần thứ hai như vậy, vua liền bị lún ngay xuống
đất đến mắt cá chân.
Vị Bà-la-môn một lần nữa lại nói:
- Xin Ðại vương hãy suy nghĩ kỹ.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ tư:
4. Hạn hán vào thời phải đổ mưa,
Và mưa trút xuống lúc mùa khô,
Khi người nào cố tình gian dối,
Ðối đáp vọng ngôn để hại ta.
Rồi ngài lài nói thêm một lần nữa:
- Do Ðại vương nói dối, Ðại vương bị lún vào mặt
đất đến tận mắt cá chân, vậy xin đại vương suy
xét kỹ.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ năm:
5. Lời thật cùng bao Pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi tới cùng.
Nhưng lần thứ ba, vua nói:
- Tôn giả là em thứ và Korakalambaka là anh trưởng.
Vừa nói lời dối trá này, vua lại bị lún dần vào mặt
đất đến tận đầu gối. Một lần nữa, vị Bà-la-môn
nói:
- Xin Ðại vương suy xét lại.
Rồi Ngài ngâm vần kệ:
6. Người lưỡng thiệt này, hỡi Ðại vương,
Cũng như con rắn lắm mưu gian,
Người nào vẫn cố tình lừa dối
Ðối đáp những lời chẳng thật chân.
7. Lời thật cũng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục đươc toàn
phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
Rồi Ngài còn nói thêm:
Ngay bây giờ mọi sự vẫn có thể được phục
hồi.
Vua chẳng quan tâm đến lời ngài, vẫn
lặp lại lời nói dối lần thứ tư:
- Thưa Tôn giả, ngài là em thứ, và Korakalambaka là anh trưởng.
Vừa thốt lời này, vua bị chìm ngập đến tận
hông. Vị Bà-la-môn lại bảo:
- Xin Ðại vương hãy suy nghĩ kỹ.
Rồi Ngài ngâm vần kệ:
8. Kẻ ấy như con cá, Ðại vương,
Sẽ không có lưỡi ở trong mồm,
Người nào vẫn cố tình gian dối,
Ðối đáp những lời lẽ vọng ngôn.
9. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
Lần thứ năm vua lặp lại lời nói dối, và
ngay đó bị chìm sâu xuống tận rốn. Vị
Bà-la-môn một lần nữa kêu gọi vua xét kỹ và ngâm hai vần kệ:
10. Kẻ ấy chỉ sinh được gái thôi,
Sẽ không sinh được một con trai,
Kẻ nào vẫn cố tình gian dối
Ðối đáp vọng ngôn ở giữa đời.
11. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
Vua cũng không quan tâm, cứ lặp lại lời nói dối lần thứ sáu và chìm xuống
tận ngực. Vị Bà-la-môn kêu gọi khẩn thiết một lần nữa và ngâm hai vần kệ:
12. Bầy con không ở với người kia,
Ở khắp mọi nơi chúng chạy xa,
Người vẫn cố tình ưa nói dối,
Ðáp lời hỏi với dạ gian tà.
13. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
Do thận cận ác bằng hữu, vua xem thường các lời trên và nói dối lần thứ
bảy. Sau đó mặt đất há miệng ra và lửa
địa ngục Avìci bùng lên kéo vua xuống.
14. Chuyện kể bị truyền bởi trí nhân,
Vị vua từng bước giữa không trung,
Chìm thân, bị nuốt vào lòng đất
Ngay đúng ngày quy định số phần.
15. Vậy trí nhân không thể tán đồng
Dục tham xuất hiện ở trong lòng,
Người nào ly dục, tâm thanh tịnh,
Lời nói sẽ luôn giữ vững vàng.
Ðây là hai vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của
đức Phật.
Quần chúng kinh hãi bảo nhau:
- Quốc vương Ceti phỉ báng bậc hiền nhân và nói dối nên
đã bị đọa vào
ngục Avìci.
Năm vị vương tử của vua đến gặp vị Bà-la-môn
và nói:
- Xin Tôn sư giúp chúng đệ tử.
Vị Bà-la-môn đáp:
- Phụ vương của các vị đã hủy diệt
Chân lý, nói dối và phỉ báng hiền nhân: do vậy ngài
đã vào hỏa ngục Avìci. Nếu công lý bị
hủy diệt, nó sẽ hủy diệt lại ta. Các vị không
được cư trú tại đây nữa.
Ngài lại bảo vị thái tử:
- Này Ðiện hạ thân yêu, Hãy rời kinh thành bằng cổng Ðông và tiếp tục
đi thẳng, chàng sẽ thấy một vương tượng
toàn trắng nằm phủ phục, thân chạm vào mặt đất
ở bảy chỗ: hai ngà, vòi, và bốn chân. Ðó là dấu hiệu
để chàng dựng kinh và cư trú tại nơi ấy.
Tên kinh đô ấy sẽ là Hatthipura (Tượng
Thành)
Ngài bảo vương tử thứ hai:
- Ðiện hạ rời đây bằng cổng Nam và
đi thẳng đến khi thấy một vương mã thuần
bạch, đó là dấu hiệu
để chàng dựng kinh
đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh
đô ấy sẽ được gọi là Assapura (Mã
Thành).
Ngài bảo vương tử thứ ba:
- Ðiện hạ rời đây bằng cổng Tây và
đi thẳng tới khi thấy một sư tử có bờm, đó là
dấu hiệu để chàng dựng kinh
đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh
đô ấy sẽ được gọi là Sìhapura (Sư
Thành).
Ngài bảo vị vương tử thứ tư:
- Ðiện hạ rời đây bằng cổng Bắc và
đi thẳng cho đến khi thấy một bánh xe làm
toàn bằng ngọc, đó là dấu hiệu
để chàng dựng kinh
đô và cư trú tại nơi ấy. Kinh thành ấy
sẽ được gọi là Uttarapancàla (Thượng
Luân Thành).
Ngài bảo vị vương tử thứ năm:
- Ðiện hạ không thể ở đây. Vậy hãy
xây một đền thờ lớn trong kinh thành
này, rồi đi về phía Tây bắc, và
đi thẳng cho đến khi thấy hai ngọn núi đập vào
nhau gây tiếng động "daddara", đó sẽ là
dấu hiệu để chàng dựng kinh
đô và cư trú nơi ấy. Thành ấy sẽ
được gọi là Daddarapura (Thành Daddara).
Cả năm vương tử đều ra đi, theo các dấu hiệu
kia dựng kinh đô và an trú ở đó.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải là
lần đầu Devadatta nói dối và bị chìm vào
lòng đất.
Rồi ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vua Ceti là Devadatta và Bà-la-môn Kapila là Ta.
-ooOoo-
423. Chuyện Uy Lực Dục Tham (Tiền thân Indriya)
Người nào tuân lệnh dục tham...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự quyến rủ của
người vợ cũ đối với một Tỷ-kheo.
Chuyện kể rằng một thiện gia nam tử ở Sàvatthi (Xá-vệ) nghe giáo pháp của
bậc Ðạo Sư và nghĩ rằng thật khó cho một người tại gia có thể sống
đời Phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ và thanh tịnh, nên ông quyết
định xuất gia tu hành theo giáo lý cứu
độ để diệt tận khổ ưu. Vì thế ông
để lại tài sản, nhà cửa cho vợ con, và
thỉnh cầu bậc Ðại Sư truyền giới xuất gia cho mình. Bậc Ðạo Sư chấp thuận.
Vì ông chỉ là Sa-di trẻ tuổi lúc khất thực cùng các vị giáo thọ, sư trưởng
và Tăng chúng lại đông, nên ông không có
được ghế ngồi trong nhà cư sĩ hoặc trong
trai đường, mà chỉ có một ghế thấp nhỏ
hoặc ngồi ở dãy ghế dài cuối chỗ các Sa-di.
Thức ăn chỉ được múc vội vã cho ông
bằng cái muỗng lớn: ông nhận món cháo tấm, các món cứng thì hôi hám hoặc hư
nát, hoặc các cọng rau đã khô héo, cháy
sém và phần ăn này không
đủ nuôi sống ông.
Ông liền đem các món ăn nhận được về cho
người vợ cũ mà ông đã rời bỏ.
Nàng cầm lấy bình bát, kính chào ông, đổ hết
các thứ ấy ra và thay vào món cháo nấu thật ngon và cơm trộn sốt
cà-ri. Vị Tỷ kheo bị lòng ham thích các huơng vị ấy lôi cuốn nên không thể
rời vợ.
Nàng suy nghĩ rằng nàng sẽ thử thách tình cảm của ông. Một hôm, nàng bảo
một trai làng chải chuốt sạch sẽ và đến nhà
nàng ngồi cùng một đám người nhà của y
mà nàng đã mời, và nàng cho cả bọn
ăn uống vài thứ . Cả bọn ngồi
ăn chơi thỏa thích. Nàng lại bảo buộc
đôi bò vào xe và chiếc xe
đợi sẵn sàng ở cửa nhà. Còn chính nàng
ngồi ở nhà sau nấu nướng bánh mứt.
Chồng nàng đi đến đứng ở cửa. Thấy vậy, một
lão bộc trình bà chủ rằng có một Tỷ-kheo ở cửa. Nàng bảo:
- Hãy ra chào vị ấy và bảo vị ấy qua nhà khác.
Nhưng dù y đã làm vậy nhiều lần, y
thấy vị Tỷ-kheo vẫn đứng yên nên y lại
trình bà chủ. Nàng bước ra, vén tấm rèm lên nhìn và kêu lớn:
- Ðây là cha bầy trẻ con tôi.
Nàng bước ra chào ông, vừa cầm lấy bình bát vừa mời ông bước vào, nàng
đem thực phẩm cúng dường. Khi ông đã
ăn xong, nàng lại kính lễ và nói:
- Thưa Tôn giả, nay Tôn giả là một bậc Thánh, trước kia chúng ta
đã luôn chung sống cùng nhau trong ngôi
nhà này. Song giờ đây, cuộc sống tại gia lại
không thể thiếu người chủ nhà, vì vậy chúng ta sắp dời qua nhà khác
và đi xa về vùng quê. Xin Tôn giả hãy
nhiệt tâm làm thiện sự và tha thứ cho thiếp nếu thiếp làm
điều sai trái.
Trong một lúc, chồng cũ của nàng cảm thấy như thể trái tim tan vỡ! Rồi
ông đáp:
- Ta không thể rời nàng, xin nàng đừng đi. Ta
sẽ trở lại đời thế tục. Hãy đưa cho ta y
phục của người cư sĩ tại chỗ nọ, ta sẽ bỏ y bát và trở về với nàng.
Nàng đồng ý ngay. Khi vị Tỷ-kheo về tinh xá,
trả bộ y bát lại cho vị giám hộ và giáo thọ, và khi
được hỏi lý do, ông giải thích là ông
không thể rời vợ và sắp trở lại đời thế tục. Dù
ông không muốn, các vị ấy vẫn dẫn ông đến bậc
Ðạo Sư và kể cho ngài nghe rằng ông thối thất và muốn trở về
đời thế tục. Bậc Ðạo Sư hỏi:
- Chuyện này có thật chăng?
-
Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-
Ai làm cho ông thối thất?
-
Vợ cũ của con.
Này Tỷ-kheo, nữ nhân ấy là nguyên nhân gây tác nghiệp của ông. Chính vì
kẻ ấy mà ngày xưa ông đã sa
đọa khỏi bốn cảnh giới Thiền định, và
rất khốn khổ. Sau nhờ ta, ông được giải thoát
cảnh khổ và tái tạo công năng Thiền định
mà ông đã mất.
Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh làm con trai vị tế sư hoàng
gia và bà vợ vị ấy cũng là nữ nhân Bà-la-môn. Vào ngày ngài ra
đời, có làn ánh sáng của binh khí lóe
sáng khắp kinh thành vì thế ngài được đặt tên
Jotipàla (người hộ trì ánh sáng hay Hộ Minh).
Khi lớn lên, ngài học đủ mọi ngành
nghề nghệ thuật tại Takkasilà và chứng tỏ tài năng
trước vua. Nhưng ngài lại từ giã địa vị
của ngài không báo cho ai biết, ngài ra
đi bằng cổng sau, vào rừng trở thành vị khổ hạnh ở thảo am
Kavitthaka, được gọi là Sakkadatiya.
Ngài chứng đắc Thiền định viên mãn.
Trong khi trú tại đó, hàng trăm
vị trí giả đến tham kiến hầu cận ngài. Ngài
được một hội chúng đông đảo theo học và
bảy đệ tử. Trong số ấy, trí giả Sàlissara
rời thảo am Kavitthaka để đến xứ Surrattha và
trú bên bờ sông Sàtodikà cùng hội chúng vài ngàn trí giả khác.
Mendissara cùng vài ngàn trí giả sống gần thị trấn Lambacùlaka trong quốc
độ của vua Pajaka.
Pabbata cùng vài ngàn trí giả sống trong một xứ ở miền rừng núi.
Kàladevala cùng vài ngàn trí giả sống trong núi rừng ở Avanti và Decan.
Kisavaccha sống độc cư ở gần kinh thành
Kumbhavati, trong ngự viên của vua Dandaki.
Anusissa là thị giả của Bồ-tát ở chung với ngài.
Nàrada, em của Kàladevala độc cư trong thạch
thất giữa quốc độ Aranjara có nhiều núi non ở vùng Trung thổ.
Bấy giờ không xa nước Aranjara có một thị trấn rất trù phú. Thị trấn này
có con sông cả, nơi nhiều đàn ông
đến tắm. Dọc theo bờ, các kỹ nữ xinh đẹp thường
ngồi quyến rủ đám mày râu.
Vị khổ hạnh Nàrada thấy một nàng kỹ nữ, đâm
ra si tình, mất hết Thiền lực và héo mòn vì không
ăn uống gì cả, cứ nằm dài trong lưới
tình trói buộc suốt bảy ngày liền. Vị huynh trưởng Kàladevata nhờ quan sát
biết nguyên nhân việc kia, liền phi hành qua không gian, vào biến
động. Nàrada thấy vị ấy liền hỏi tại sao
đến đây. Vị ấy đáp:
- Ta biết Hiền đệ bị bệnh nên
đến chăm sóc đệ đây.
Nàrada giả dối bảo vị ấy đi về:
- Ðại huynh chỉ nói chuyện không đâu, toàn
là hư vọng, hão huyền.
Nhưng vị kia từ chối ra đi và còn
đem theo ba vị Sàlissara, Mendissara và
Pabbatissara đến đó nữa. Nàrada lại bảo
tất cả ra về theo cách trên.
Kàladevala liền bay đi tìm Ðạo Sư
Sarabhanga và dẫn thầy đến đó. Khi bậc
Ðạo sư đến, ngài thấy Nàrada
đã rơi vào lưới kềm tỏa của tham dục và
hỏi có đúng vậy không. Nàrada
đứng lên nghe lời ngài, kính lễ thầy và
thú nhận sự việc. Bậc Ðạo Sư bảo:
- Này Nàrada, ai rơi vào lưới tham dục sẽ suy tàn trong khổ
đau ở đời này và
đời kế bị tái sinh vào
địa ngục.
Rồi Ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Người nào tuân lệnh dục tham,
Mất hai thế giới, đời tàn về sau.
Nghe vậy, Nàrada đáp:
- Bạch Tôn sư, mưu cầu tham dục là hạnh phúc. Tại sao Tôn sư lại gọi hạnh
phúc ấy là khổ đau?
Ðạo Sư Sarabhanya đáp:
- Vậy hãy nghe đây.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:
2. Hân hoan cùng với khổ đau
Vẫn thường dẫm bước lên nhau chẳng ngừng,
Con từng thấy chúng chuyển luân,
Hãy tìm hạnh phúc thật chân nhiệm mầu.
Nàrada đáp:
- Bạch Tôn sư, khổ đau này thật khó
chịu đựng. Con không thể kham nhẫn nó được.
Bậc Ðại sĩ bảo:
- Này Nàrada, khi khổ đau đến cần phải chịu
đựng.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ ba:
3. Người nào kham nhẫn đối đầu
Gian lao nhiếp phục khổ sầu bao phen,
Là người vững mạnh tiến lên
Niết-bàn, cực lạc, dứt phiền não xưa.
Song Nàrada vẫn đáp:
- Bạch Tôn sư, hạnh phúc của dục tình là hạnh phúc tối cao, con không thể
nào rời bỏ nó được.
Bậc Ðạo Sĩ bảo:
- Không thể vì bất cứ lý do gì mà ta từ bỏ Giới hạnh.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tư:
4. Con đừng phá hủy tiêu ma
Quãng đời Thanh hạnh, sa đà công năng,
Chỉ vì dục vọng tham sân
Cầu mong lợi dưỡng, đau buồn nhỏ, to.
Sau khi Ðạo Sư Sarabhanga đã tuyên
thuyết Chánh pháp qua bốn vần kệ, trí giả Làladevala muốn khuyến giáo tiểu
đệ liền ngâm vần kệ thứ năm:
5. Biết đời phiền lụy lo âu,
Thức ăn uống phải phát cho nhiều người.
Chẳng ham tích trữ tiền tài,
Chẳng sầu khi chúng hết thời tiêu tan.
Vần kệ thứ sáu do bậc Ðạo Sư ngâm phát xuất từ Trí tuệ Tối Thắng của Ngài
liên hệ đến lời khuyến giáo của Devala đối với
Nàrada:
6. De-va Trí giả Hắc nhan
Giờ đây khuyên nhủ khôn ngoan nhất
đời:
Ta không hề thấy có người
Kém hơn kẻ chịu vâng lời dục tham.
Sau đó Thánh giả Sarabhanga cảnh báo:
Này Nàrada hãy nghe đấy: kẻ nào trước
tiên không muốn làm những gì đáng làm,
về sau sẽ kêu khóc than van như chàng trai đi vào
rừng thuở xưa.
Rồi Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
Ngày xưa trong một thị trấn ở thành Kàsi có một thanh niên Bà-la-môn,
đẹp trai, mạnh khỏe, lực lưỡng như voi. Chàng
suy nghĩ: "Tại sao ta phải nuôi cha mẹ bằng cách làm ruộng, hoặc phải lấy vợ
sinh con, hoặc làm các thiện sự nọ kia? Ta chẳng muốn nuôi ai hoặc làm thiện
sự gì cả, mà ta chỉ muốn vào rừng nuôi bản thân bằng cách săn
nai".
Thề rồi với năm thứ vũ khí, chàng vào
Tuyết Sơn giết nai ăn thịt rất nhiều. Ở vùng
Tuyết Sơn chàng thấy một thung lũng rộng lớn tứ bề có núi bao bọc, bên cạnh
bờ sông Vidhavà, chàng liền sống ở đó với thịt
thú săn được và nấu trên than hồng. Chàng lại suy nghĩ: "Ta sẽ không
được khỏe mạnh mãi
đâu, khi ta già yếu, ta sẽ không phiêu
bạc trong rừng. Nay ta muốn bắt nhiều loại thú hoang vào trong thung lũng
này, làm cổng rào lại và chẳng cần phải lang thang trong rừng nữa, ta cũng
sẽ giết chúng và ăn thỏa thích". Và
chàng đã làm như vậy.
Thời gian trôi qua, chính điều ấy phải xảy
ra, mọi thực tế của cuộc đời xuất hiện, chàng không còn sức
điều khiển nổi tay chân, chàng không thể
đi lại tự do đây đó, chàng không thể tìm
được thức ăn uống, thân thể gầy gò khô
héo như một bóng ma, lộ rõ mọi nếp nhăn nheo
khắp mình như mặt đất mùa nắng.
Chàng trở nên dị tướng, nhăn nheo, rã
rời và vô cùng khổ sở.
Cũng như chàng kia, theo thời gian, vua nước Sìvi, mệnh danh là Sìvi, ước
mong hưởng món thịt rừng nướng trên than hồng trong rừng già, liền giao phó
quốc độ cho các đại thần, đem theo năm món vũ
khí, đi vào rừng săn thịt nai để ăn. Vừa
lúc vua đến chỗ ấy liền thấy người kia. Dù sợ hãi, vua cũng cố thu
hết can đảm hỏi người kia là ai. Chàng
đáp:
- Tâu Chúa công, tôi là một bóng ma đang
hưởng nghiệp quả do tôi đã tạo. Thế Chúa công là ai?
- Ta là vua nước Sìvi.
- Tại sao Chúa công đến đây?
- Ðể ăn thịt nai.
- Tâu Ðại vương, tôi đã trở thành con
ma trên đất vì tôi
đã đến đây
với mục đích ấy.
Rồi chàng kể đầy đủ chi tiết câu chuyện của
chàng và để giải thích nỗi bất hạnh của
mình, chàng ngâm các vần kệ cuối cùng:
7. Chính tôi đây, hỡi Quân vương,
Khác nào giữa chốn đấu trường địch
quân,
Công lao, nghề nghiệp, tài năng,
Vợ con, nhà ở bình an một thời,
Ðã tiêu tan hết cả rồi,
Tôi mang nghiệp quả ngay đời thế gian.
8. Giờ tôi tồi tệ muôn vàn
Không người quyến thuuộc, lang thang không nhà.
Từ đời chân chánh lạc xa,
Tôi như một cái bóng ma đọa đày.
9. Nay tôi phải sống cảnh này
Vì tôi tạo khổ não thay vui mừng.
Quanh tôi như đám lửa bừng,
Tôi không cảm thấy trong lòng hân hoan.
Cùng với các vần kệ ấy, chàng nói thêm:
- Tâu Ðại vương, do ham muốn dục lạc tôi đã
tạo khổ đau cho nhiều loài khác và trở
thành bóng ma ngay tại đời này. Xin Ðại
vương đừng gây ác nghiệp, xin hãy trở về
kinh đô của Ðại vương và thực hành thiện
sự, bố thí cùng các phước nghiệp khác.
Nhà vua làm theo lời ấy và hoàn thành con
đường lên Thiên giới.
Vị khổ hạnh xúc động vì lời tường
thuật của Ðạo Sư Sarabhanga về câu chuyện trên. Vị ấy
được cảm hóa, rồi sau khi kính lễ Tôn sư và
được ngài tha thứ, nhờ các pháp môn chân
chánh, vị ấy tái tạo năng lực Thiền định đã
mất. Ðạo sư Sarabhanga không cho phép đệ tử ở
lại đó nữa và đưa vị ấy cùng ngài
về thảo am xưa.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự
Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã
được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy Nàrada là Tỷ-kheo thối thất này, Sàlissara là Sàriputta
(Xá-lợi-phất), Mendissara là Kassapa (Ca-diếp), Kaccàna (Ca-chiên-diên),
Anusissa là Ànanda (A-nan), Kisavaccha là Moggallàna (Mục-kiền-liên) và Đạo
Sư Sarabhanga chính là Ta.
-ooOoo-
424. Chuyện Ngọn Lửa
Đốt Cháy (Tiền thân Àditta)
Thứ gì ta cứu thoát ra...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về lễ vật cúng dường
vô thượng. Lễ vật cúng dường tối thắng này được
miêu tả đầy đủ trong tập Sớ giải Kinh
Mahàgovindasutta (số 19, Trường bộ II)
Ngày hôm sau lễ cúng dường ấy, Tăng chúng bàn
luận trong Chánh Pháp Ðường:
- Này các Hiền giả, vua Kosala sau khi xem xét kỹ,
đã tìm được
phước điền chính đáng và cúng dường lễ vật cao trọng lên Hội chúng do
đức Phât đứng đầu.
Bậc Ðạo Sư đến và
được kể lại đề tài câu chuyện trong lúc
các vị ngồi đây, Ngài bảo:
- Này Tỷ-kheo, không lạ gì việc nhà vua, sau khi quan sát kỹ,
đã cúng dường
đại lễ vật vào phước
điền vô thượng ở đời, các trí nhân ngày
xưa cũng đã cúng dâng lễ vật như thế sau
khi quan sát kỹ.
Rồi Ngài kể một câu chuyện ngày xưa.
*
Ngày xưa vua Bharata trị vì tại Roruva trong quốc
độ Sovìra. Vua thực hành Thập phương
pháp, thu phục nhân tâm bằng Tứ nhiếp pháp, đối
xử với quần chúng như cha mẹ đối với con, ban phát rộng rãi cho người
nghèo, lữ hành, khất thực và những người đến
cầu xin. Chánh hậu của ngài là Samuddavijayà
đầy trí tuệ thông thái.
Một hôm ngài nhìn quanh các bố thí đường và suy nghĩ: "Tặng vật của ta
đều bị đám tham lam vô dụng ngốn ngấu cả. Ta
không thích như vậy. Ta muốn cúng dường những vị Ðộc Giác Phật
đức hạnh xứng đáng lễ vật tối thượng. Các vị
hiện sống ở vùng Tuyết Sơn. Ai sẽ đem
các vị ấy về đây theo lời thỉnh cầu của ta và ta sẽ nhờ ai lãnh sứ
mạng này?"
Ngài nói chuyện với hoàng hậu, bà đáp:
- Tâu Chúa thượng, không nên quan tâm lo lắng. Cứ gửi hoa
đi, nhờ uy lực lễ vật cúng dường xứng đáng của
ta, nhờ đức độ và lòng thành tín của ta, ta sẽ thỉnh cầu vị Ðộc Giác
Phật, và khi các vị đến, chính ta sẽ cúng dường
lễ vật cùng các món cần thiết.
Vua đồng ý. Ngài ra lệnh
đánh trống khắp kinh thành rằng tất cả
dân chúng trong thành phải giữ giới, còn chính ngài và toàn thể hoàng gia
đều giữ mọi phận sự của ngày trai giới,
thực hành đại bố thí.
Ngài truyền đem đến một chiếc hộp bằng vàng
đựng đầy hoa lài, từ hoàng cung bước
xuống và đứng giữa triều đình. Tại
đó ngài phủ phục với năm
phần chạm xuống đất, đảnh lễ về phương Ðông và tung vãi nắm hoa cùng
những lời nguyện:
- Ðệ tử đảnh lễ các Thánh giả ở phương
Ðông, Nếu đệ tử có chút công đức nào,
xin các vị tỏ lòng từ bi thâu nhận các lễ vật này.
Vì không có các vị Ðộc Giác ở phương Ðông, nên hôm sau không vị nào
đến.
Ngày thứ hai, ngài lại đảnh lễ phương Tây,
nhưng cũng không ai đến.
Ngày thứ ba, ngài lại đảnh lễ phương Bắc, và
sau khi đảnh lễ, ngài tung bảy nắm hoa
cùng lời nguyện:
- Ước mong các vị Ðộc Giác ở vùng Tuyết Sơn thâu nhận các lễ vật cúng
dường này.
Các hoa ấy bay đi xa rơi trên mình năm
vị Ðộc Giác Phật ở động Nandamùla.
Sau khi quan sát, các vị hiểu rằng quốc vương đã
thỉnh cầu các vị, vì thế các vị gọi bảy vị trong số
đó lại bảo:
- Này các Tôn giả, vua thỉnh cầu các vị, xin hãy bày tỏ
đặc ân cho ngài.
Các vị Ðộc Giác Phật này du hành qua không gian và hạ xuống hoàng môn.
Khi thấy các vị, vua hân hoan đảnh lễ, mời các
vị thượng lầu, tỏ lòng tôn kính trọng thể và cúng dường các lễ vật.
Sau buổi thọ thực, ngài lại mời các vị hôm sau và cứ thế
đến ngày thứ năm,
vua thiết đãi suốt sáu ngày. Vào ngày thứ bảy, ngài chuẩn bị cúng
dường mọi vật dụng cần thiết, sắp đặt bảo tọa và
cẩm đôn chạm vàng rồi
đặt trước bảy vị Ðộc Giác các bộ ba y
cùng các món ăn cần thiết của đời Thánh nhân.
Quốc vương cùng hoàng hậu trân trọng cúng dường các thứ này sau buổi thọ
thực và đứng cung kính đảnh lễ. Ðể phát
biểu lời tùy hỷ công đức, vị Trưởng lão
của hội chúng ngâm hai vần kệ:
1. Thứ gì ta cứu thoát ra
Lửa đang đốt cháy nhà ta rụi dần,
Những gì sót lại sau cùng
Sẽ còn đó mãi riêng phần ta thôi.
2. Thế gian bừng cháy khắp nơi
Sanh, già, bệnh, chết làm mồi lửa nhanh,
Cứu mình bằng các thiện hành,
Cúng dường bố thí để dành thật chân.
Như vậy, bằng cách bày tỏ niềm hoan hỷ, vị Trưởng lão khuyến giáo vua
tinh cần giữ đức hạnh. Sau đó vị ấy bay lên
không gian, xuyên thủng qua góc nhọn của cung
điện và hạ xuống động Nandamùla.
Các vật dụng cần thiết đã
được cúng dường đều bay lên theo vị ấy
và hạ xuống động. Còn toàn thân quốc
vương và hoàng hậu tràn đầy niềm hoan hỷ.
Sau khi vị ấy ra đi, sáu vị kia lần lượt nói
lời tùy hỷ công đức qua mỗi vần kệ:
3. Người nào bố thí chánh nhân
Kiên cường dõng lực, tinh cần tịnh tâm,
Vượt dòng nước lũ Ma vương,
Ðạt nơi an trú kim đường cõi thiên.
Vị thứ ba:
4. Thiện hành nào khác trận tiền
Trước vài địch thủ, chạy liền ba quân.
Cúng dường với cả tín tâm
Ðời sau hưởng lạc là phần ngài thôi.
Vị thứ tư:
5. Người cho làm đẹp ý trời,
Khôn ngoan xứng đáng làm vơi nhọc nhằn
Cúng dường mang quả hưng long,
Cũng như hạt giống gieo vùng phì nhiêu.
Vị thứ năm:
6. Ai không hề nói lắm điều,
Tránh làm ác nghiệp hại nhiều chúng sinh,
Người đời gọi yếu, chê khinh,
Chính vì sợ hãi giữ mình thanh lương.
Vị thứ sáu:
7. Tạo nên phước nghiệp thông thường
Tái sinh nhân thế, quân vương oai quyền.
Phước nhiều đạt đến cõi thiên,
Công năng tối thượng đắc miền Tịnh Cư.
Vị thứ bảy:
8. Phước là bố thí đem cho,
Tuy nhiên Giáo pháp lợi to muôn phần,
Xưa nay chứng tỏ bao lần,
Nhờ đây bậc trí đạt toàn Lạc an.
Sau đó các vị ra đi cùng với các vật
dụng cần thiết đã
được cúng dường .
Còn vị Ðộc Giác Phật thứ bảy, trong lời tùy hỷ công
đức ấy, tán thán Niết-bàn bất diệt với
vua và giáo hóa ngài một cách cẩn trọng xong, liền trở về cảnh cũ như
đã nói trên. Quốc vương và hoàng hậu
thực hành bố thí suốt đời nên
đã hoàn thành con
đường lên thiên giới.
*
Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:
- Như vậy các bậc trí thời xưa bố thí cúng dường có phân biệt.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn,
Samuddavijayà là mẫu thân Ràhula (La-hầu-la) và vua Bharata chính là Ta.
-ooOoo-
425. Chuyện Những Sự Kiện Không Thể Xảy Ra (Tiền thân Atthàna)
Làm sao lặng sóng Hằng Hà...,
Bậc Ðạo sư kể lại chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo
thối thất.
Bậc Ðạo sư hỏi vị ấy:
- Này Tỷ-kheo, có thật là ông đang thối
thất?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Vì duyên cớ gì?
- Vì uy lực của dục tham.
- Này Tỷ-kheo, nữ nhân thật vô ơn, phản bội, không
đáng tin cậy. Ngày xưa, các bậc trí
không làm thỏa mãn một nữ nhân thậm chí đã
cho kẻ ấy một ngàn đồng tiền mỗi ngày.
Một hôm không nhận được ngàn
đồng tiền, kẻ ấy đã sai người lôi cổ họ
quẳng ra ngoài. Nữ nhân là loài bạc nghĩa thế
đấy. Ông đừng rơi mình vào uy lực của dục tham vì duyên cớ ấy nữa.
Rồi Ngài kể một câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, vương tử Brahmadatta và
công tử Mahàdhana, con của một phú thương ở Ba-la-nại, là bạn thân thiết
cùng chơi với nhau và được giáo dục trong nhà
một vị thầy. Vương tử lên ngôi khi vua cha băng
hà và con vị phú thương vẫn ở gần vua mới.
Tại Ba-la-nại có một kỹ nữ sang trọng kiều diễm
đang thời hưng thịnh. Con trai vị phú tặng nàng
một ngàn đồng tiền mỗi ngày, và thường
xuyên hưởng lạc với nàng. Khi cha mất, chàng thừa kế tài sản và
địa vị của cha, nhưng cũng không rời bỏ nàng
mà vẫn tiếp tục cho nàng một ngàn đồng tiền mỗi
ngày.
Một hôm chàng đi chầu vua vào buổi
chiều. Trong lúc chàng đàm
đạo với vua, mặt trời lặn và tối dần.
Khi rời cung, chàng nghĩ: "Không còn thời giờ
để về nhà rồi trở lại nữa, ta cứ đi
thẳng đến nhà kỹ nữ ấy". Vì thế chàng bảo
đám hầu cận ra về và
đi thẳng vào nhà một mình.
Khi thấy chàng đến, nàng hỏi xem
chàng có đem ngàn đồng tiền không.
- Này ái nương, hôm nay ta ra trễ quá nên ta chỉ bảo
đám hầu cận đi hết, chứ ta không về nhà,
ta chỉ đến đây một mình, nhưng ngày mai
ta sẽ trao tặng nàng hai ngàn đồng tiền.
Nàng suy nghĩ: "Nếu ta tiếp đón chàng
hôm nay, chàng sẽ đến tay không các ngày
khác nữa và thế là ta mất dần của cải. Vậy ta không muốn tiếp chàng hôm nay
nữa."
Vì thế nàng bảo:
- Thưa công tử, thiếp chỉ là một kỹ nữ, thiếp không ban
đặc ân cho ai mà không có một ngàn
đồng, vậy công tử hãy
đem tiền lại đây.
- Ái nương ơi, ta sẽ tặng nàng gấp đôi số
tiền ấy ngày mai đây.
Và chàng cứ van xin nàng như vậy mãi.
Nàng kỹ nữ ra lệnh cho các nữ tỳ:
- Ðừng để người ấy đứng đó mà nhìn
ta. Hãy lôi cổ y kéo ra ngoài và đóng cửa lại.
Họ làm theo lời nàng. Chàng suy nghĩ: "Ta đã
cho nàng tám trăm triệu đồng tiền, tuy thế chỉ
một ngày ta đến tay không, nàng
đã bảo chúng nắm cổ ta tống ra ngoài. Ôi
nữ nhân thật là độc ác, vô sĩ, vong ân, phản
bội!"
Do vậy chàng quan sát mãi về ác hạnh của nữ nhân cho
đến khi chàng thấy chán ngán, ly tham và
bất mãn với cuộc đời thế tục. Chàng suy
nghĩ: "Tại sao ta phải sống đời thế tục? Ta
muốn xuất gia hôm nay và thành người khổ hạnh".
Do vậy chàng không trở về nhà nữa cũng không yết kiến vua nữa, chàng rời
kinh thành đi vào rừng. Chàng dựng thảo
am bên bờ sông Hằng, cư trú tại đó như một ẩn
sĩ khổ hạnh, đắc Thiền định viên mãn và sống bằng củ quả rừng.
Vua nhớ bạn vắng mặt lâu ngày và đòi
bạn vào chầu. Khắp kinh thành ai cũng biết rõ cách nàng kỹ nữ
đối xử với chàng nên họ tâu vua vấn
đề ấy và thêm:
- Tâu Ðại vương, người ta bảo thân hữu của Ðại vương vì tủi nhục
đã không trở về nhà, mà
đã trở thành vị khổ hạnh sống trong
rừng.
Vua truyền đưa nàng kỹ nữ vào, và hỏi
nàng xem chuyện nàng đối xử với thân hữu ngài
có thật như vậy chăng. Nàng thú nhận.
- Này nữ nhân bạc ác kia, hãy mau đến nơi
Hiền hữu ta ở và đưa chàng về
đây. Nếu không làm
được việc ấy, ngươi phải bị mất mạng đấy.
Nghe lệnh vua, nàng sợ hãi, vội lên xe ra khỏi kinh thành cùng
đoàn tùy tùng
đông đảo. Nàng
đi tìm nơi an trú và nghe lời
đồn, nàng
đến đó kính lễ và cầu xin:
- Bạch Tôn giả, xin hãy tha thứ lỗi lầm thiếp
đã phạm trong lúc mù quáng ngu si. Thiếp
quyết không tái phạm nữa.
- Ðược lắm, ta tha thứ cho nàng, ta không giận nàng
đâu.
- Nếu Tôn giả tha thứ cho thiếp, xin hãy lên xe cùng thiếp. Chúng ta cùng
trở về kinh thành và ngay khi vào thành, thiếp xin dâng ngài mọi tiền tài
trong nhà thiếp.
Khi nghe vậy, ngài đáp:
- Này cô nương, ta không thể đi với cô nương
bây giờ đâu, nhưng khi nào những chuyện chưa từng xảy ra trên
đời này sẽ xảy ra thì có lẽ ta sẽ
đi.
Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Làm sao lặng sóng Hằng hà
Như hồ sen nọ, sơn ca trắng ngần,
Cây đào sinh trái cau vân,
Thì điều như thế họa chăng có là!
Nhưng nàng lại nói:
- Mau lên, thiếp sắp đi rồi.
Ngài đáp:
- Ta sẽ đi.
- Khi nào?
- Vào thời như vầy như vầy.
Ngài đáp và ngâm các vần kệ còn lại:
2. Bao giờ có đủ lông rùa
Kết thành ba tấm áo đưa ta dùng
Vào thời đông giá lạnh lùng,
Thì điều như thế họa chăng có là!
3. Bao giờ răng muỗi nhô ra
Nàng xây cái tháp thật là khéo thay,
Tháp kia không thể chuyển lay,
Ðiều này chắc có cơ may, họa là!
4. Bao giờ sừng thỏ mọc ra,
Nàng làm thang đứng thật là khéo thay,
Bậc thang trèo đến tận mây,
Thì điều này có cơ may, hỡi
nàng!
5. Bao giờ chuột nhắt leo thang
Cùng nhau ăn hết mặt trăng sáng ngời.
Ðem La-hầu xuống mặt trời,
Thì điều này hẳn có thời xảy ra!
6. Khi đàn ruồi uống từng vò
Rượu nồng đầy đủ, tự do reo mừng
Ẩn mình trong đám than bừng,
Thì điều như thế họa hoằn xảy ra!
7. Khi bầy lừa khéo điểm tô
Môi hồng, mặt trắng làm trò khéo thay
Trổ tài múa hát thật hay,
Ðiều này hẳn có cơ may, hỡi nàng!
8. Bao giờ quạ, cú từng đàn
Cùng nhau tụ họp luận bàn riêng tư,
Tỏ tình âu yếm chuyện trò,
Ðiều này có thể xảy ra, hỡi nàng!
9. Bao giờ nhặt lá trên ngàn
Từng cây rừng xuống kết làm dù che
Chống mưa ồ ạt tứ bề,
Có cơ xảy đến điều kia, hỡi nàng!
10. Khi đàn chim sẻ cố mang
Tuyết Sơn đủ vẻ huy hoàng hùng anh,
Ngậm trong chiếc mỏ xinh xinh,
Họa may có thể sự tình xảy ra!
11. Khi chàng trai nhẹ đẩy đưa
Chiếc thuyền buồm vượt biển xa ngàn trùng
Với lòng can đảm anh hùng,
Ðiều này chắc hẳn mới mong, hỡi nàng!
Như thế bậc Ðại Sĩ ngâm mười một vần kệ nêu rõ những sự kiện không thể
xảy ra. Nàng kỹ nữ nghe xong, xin được ngài
tha thứ và trở về Ba-la-nại. Nàng trình bày mọi việc với vua và xin tha
mạng, vua liền ân xá cho nàng.
*
Sau pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, nữ nhân thật là vô ơn, phản bội như thế.
Rồi ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Khi kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo
thối thất đã
được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vua là Ànanda và vị khổ hạnh chính là Ta.
-ooOoo-
426. Chuyện Con Báo (Tiền thân Dìpi)
Bác ơi, bác có được khang an...,
Bậc Ðạo sư kể lại chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một con dê cái.
Một thời Trưởng lão Moggallàna ở trong một am thất có một cửa, trong một
vùng đất được rào và núi
đồi bao bọc. Lối đi có mái che của nhà
gần cửa ấy. Một vài mục tử nghĩ rằng hàng rào ấy là chỗ tốt cho
đàn dê, nên họ lùa dê vào
đó và sống thoải mái.
Một hôm họ đến vào buổi chiều
đem cả bầy dê
đi. Nhưng có một con dê cái
đã lang thang quá xa không thấy bầy dê
ra đi, và bị bỏ lại một mình. Sau
đó khi nó ra đi, một con báo thấy nó, muốn ăn
thịt bèn đứng bên cửa của hàng
rào. Dê cái nhìn quanh và thấy con báo. "Báo
đứng đó vì muốn giết ta và ăn thịt", Dê
suy nghĩ: "Nếu ta quay đầu bỏ chạy, ta sẽ mất
mạng. Vậy ta phải can đảm lên". Rồi dê giương
đôi sừng, vùng chạy thẳng trước mặt báo
với tất cả dũng lực. Dê thoát được móng vuốt
báo, dù con báo rung mình vì nó tưởng sẽ chụp
được dê. Rồi chạy hết tốc lực, con dê
bắt kịp cả đàn.
Vị Trưởng lão quan sát cách các súc vật ấy
đối xử với nhau. Hôm sau vị ấy đi trình
đức Như Lai:
- Bạch Thế Tôn, con dê cái đã
đạt được một kỳ công nhờ có sẵn mưu lược và
thoát được con báo.
Bậc Ðạo sư đáp:
- Này Moggallàna, lần này con báo không bắt
được dê, nhưng ngày xưa báo đã
giết dê dù dê kêu lớn, rồi ăn thịt nó.
Và theo lời thỉnh cầu của Tôn giả Moggallàna, Ngài kể một chuyện
đời xưa.
*
Ngày xưa có thời Bồ-tát được sinh vào
một làng ở quốc độ Magadha (Ma-kiệt-đà),
trong một gia đình giàu. Khi lớn lên,
Ngài từ bỏ tham dục và sống đời tu hành,
đạt được Thiền
định viên mãn. Sau khi sống rất lâu ở
Tuyết Sơn, ngài đến Rajagàha (Vương Xá)
để tìm muối và dấm, rồi về cư trú trong
thảo am ngài đã dựng trong một thung
lũng có rào chắn.
Giống như phần duyên khởi, các mục tử lùa bầy dê ra
đi và cũng như trên, một hôm, khi một dê
cái đi ra chậm hơn bầy kia, một con báo đợi sẵn
ở cửa, nghĩ cách ăn thịt nó. Khi con Dê thấy con Báo, nó suy nghĩ:
"Ðời ta tàn rồi, bằng một mưu kế nào đó ta phải
dụ nó vào cuộc chuyện trò vui vẻ ân cần
để làm dịu lòng nó và cứu mạng ta". Vừa
đứng từ xa bắt đầu nói chuyện thân thiện với con báo, Dê ngâm vần kệ
đầu:
1. Bác ơi, bác có được khang an,
Và bác lâu nay mạnh khỏe chăng?
Mẹ cháu nhắn đưa lời kính hỏi,
Cháu mong cùng bác kết thân bằng!
Nghe vầy, Báo suy nghĩ: "Con bé này muốn
đánh lừa ta bằng cách gọi ta là 'bác', nó không biết ta hung dữ ra
sao cả". Vì thế Báo ngâm vần kệ thứ hai:
2. Cô dẫm đuôi ta đấy, bé Dê,
Và làm ta phải bị đau ghê,
Tưởng rằng nhờ gọi ta là "bác"
Cô được tự do để trở về!
Khi nói vậy, Dê đáp:
- Thưa bác, xin đừng nói như vậy.
Và nó ngâm vần kệ thứ ba:
3. Tôi đi phía trước mặt, thưa ngài,
Ngài vẫn ngồi kia đối diện tôi,
Ðuôi của ngài nằm sau phía ấy,
Làm sao tôi lại dẫm lên đuôi?
Báo đáp:
- Này Dê cái, cô nói gì vậy? Có nơi nào lại không có
đuôi của ta trải ra chứ?
Và nó ngâm vần kệ thứ tư:
4. Suốt cả trong toàn bốn đại châu,
Với sông hồ biển núi non cao,
Ðuôi ta trải rộng ra cùng khắp,
Sao cẳng Dê không dẫm nó nào?
Khi nghe vầy, Dê cài nghĩ: "Con ác thú này không bị lời ngon ngọt quyến
rủ. Vậy ta sẽ đáp lại nó như một kẻ thù".
Rồi Dê ngâm vần kệ thứ năm:
5. Ta biết đuôi ông ác thật dài,
Vì ta đã
được báo tin rồi,
Anh em cha mẹ đều khuyên bảo
Lúc trước ta bay bổng giữa trời!
Báo lại nói ;
- Ta biết cô đã bay giữa trời. Nhưng
khi cô đến, cô đã làm hỏng miếng mồi của
ta bằng cách đáp xuống ấy!
Rồi Báo ngâm vần kệ thứ sáu:
6. Bóng dáng cô Dê ở giữa trời
Bay qua không khí ấy mà thôi,
Ðã làm kinh sợ đàn nai nọ,
Vì thế mồi ta bị hỏng rồi!
Nghe vầy, Dê sợ chết không còn có thể tìm cớ nào khác nữa, liền kêu lớn:
- Bác ơi, xin đừng phạm một việc ác độc như
thế, xin tha mạng cháu đi.
Nhưng dù Dê kêu lớn, Báo vẫn chụp vai nó, giết chết và
ăn thịt Dê.
7. Chính Dê kêu lớn để cầu ân,
Song máu thịt kia mới thoả lòng,
Dã thú chụp Dê vào cổ họng;
Ác nhân không tỏ chút ân cần.
8. Kẻ ác không sao biết tỏ ra
Ân cần, chánh hạnh, tránh đường tà,
Nó thù ghét những người lương thiện,
Thượng sách là nên xáp lá cà!
Ðây là hai vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của
đức Phật.
Một vị Thánh nhân khổ hạnh chứng kiến tất cả câu chuyện của hai con thú
này.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, con Dê cái và con Báo là con Dê cái và con báo bây giờ, và vị
Thánh nhân khổ hạnh chính là Ta.
-ooOoo-
Chương IX
Phẩm Chín Bài Kệ
427. Chuyện Chim Thứu (Tiền thân Gijjha)
Ðược làm bằng đám gỗ chênh vênh...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất
tuân Giới luật.
Chuyện kể rằng vị ấy là thiện gia nam tử, và
được truyền giới vào Giáo pháp đưa đến
giải thoát được các vị Pháp sư, giáo sư đầy thiện chí cùng các
đồng Phạm hạnh giáo giới như vầy:
- Hiền giả phải đi tới hay đi lui như vầy,
phải nhìn thẳng hay nhìn nghiêng như vầy, cánh tay phải duỗi ra hay
co lại như vầy, các y trong và y ngoài phải
được mang như vầy, bình bát phải được cầm
như vầy. Khi Hiền giả nhận đủ các thứ ăn để nuôi thân, sau khi tự quán sát,
Hiền giả phải thọ dụng nó như vầy, hộ phòng các căn
như vầy.
Hiền giả phải tiết độ trong ăn uống và
tỉnh giác. Hiền giả phải nhận thấy các bổn phận như vầy
đối với chư Tăng đến và
đi khỏi tinh xá. Ðầy là mười bốn qui tắc
về phận sự của Tỷ-kheo và tám mươi trọng giới phải hoàn thành
đúng đắn, và
đây là mười ba pháp thực hành Dhuta về
nếp sống cẩn trọng. Tất cả các giới điều này
phải được hoàn thành một cách nghiêm
túc.
Tuy thế, vị ấy bất tuân Giới luật và thiếu kham nhẫn, không chịu thọ giáo
một cách kính cẩn, và không tuân lời thầy, lại bảo:
- Tôi không chỉ trích các vị. Tại sao các vị nói với tôi như vậy? Tôi
biết điều gì ích lợi cho tôi và
điều gì không có lợi.
Tăng chúng nghe được sự bất tuân Giới luật
của ông liền kể lại các lỗi lầm của ông trong lúc các vị ngồi tại Chánh
pháp đường.
Bậc Ðạo Sư bước vào, hỏi các vị đang bàn
luận đề tài gì và truyền gọi Tỷ-kheo ấy
đến hỏi:
- Này Tỷ-kheo, tại sao khi đã
được truyền giới vào Giáo pháp
đưa đến giải thoát, ông lại không nghe lời dạy
của các vị giáo thọ có thiện ý kia? Ngày xưa ông cũng
đã bất tuân lời dạy của các trí giả và
gặp cuồng phong Verambha thổi thành tro bụi.
Sau đó Ngài kể lại chuyện
đời xưa.
*
Một thuở nọ Bồ-tát được sinh làm chim
Thứu (kên kên) trên núi Linh thứu. Bấy giờ con của ngài là Supatta, vua kên
kên, cường tráng, đầy dũng lực và có
đám tuỳ tùng nhiều ngàn kên kên. Thứu
vương phụng dưỡng song thân. Do có sức mạnh, Thứu vương thường bay rất xa.
Chim thứu cha vẫn thường khuyên nhủ:
- Này con thân, con đừng bay xa quá những
điểm này.
Thứu vương đáp:
- Ðược lắm, thưa cha.
Nhưng một hôm trời mưa, Thứu vương bay cùng các kên kên khác, rồi rời
đàn phía sau, một mình vượt giới hạn
đã được
khuyên bảo, nên thứu vương bay vào cuồng phong Veramba và bị thổi tan
thành tro bụi.
Với Tối Thắng Trí, Đức Phật ngâm các vần kệ
này minh hoạ các sự kiện trên:
1. Ðược làm bằng đám gỗ chênh vênh,
Một lối đi xưa cũ dẫn lên
Những đỉnh núi non cao chót vót,
Thứu con nuôi dưỡng các thân sinh.
2. Ðôi cánh hùng cường đầy dũng lực,
Thứu đem mỡ rắn tặng song thân,
Khi cha nhìn Thứu bay cao quá,
Liều lĩnh du hành, vẫy dạy răn:
3. "Khi con quan sát, hỡi con thân,
Quả địa cầu tròn với đại dương
Bao bọc chung quanh, đừng tiến nữa,
Trở về ngay nhé, khẩn cầu con!"
4 - 5. Thứu vương thường cất cánh lên mau,
Bay lượn vòng quanh cõi địa cầu
Với nhãn quan tinh tường thấu suốt,
Thứu con thấy rõ các rừng sâu,
Núi non phía dưới cao vời vợi,
Quả đất giống cha tả biết bao:
6- 7. Một quả cầu tròn giữa đại dương,
Nhưng khi vượt quá giới hạn thông thường,
Dẫu là chim thứu đầy oai lực,
Một trận đại phong thật nộ cuồng
Ðã thổi Thứu tan tành bỏ mạng,
Bất tài không địch nổi cuồng phong.
8 -9. Như vậy Thứu con bởi bất tuân
Tử vong bỏ mặc cả song thân.
Kẻ nào khinh bỉ kẻ già cả
Chế nhạo lời khuyên của trí nhân,
Cũng chết như chim khinh bậc trí,
Xem thường giới hạn bởi kiêu căng.
- Vì vậy, này Tỷ-kheo, đừng giống như chim
Thứu này, mà phải tuân theo lời dạy của những người
đầy thiện ý.
Khi được bậc Ðạo Sư giáo huấn như
trên, từ đó về sau vị ấy biết vâng lời thầy.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Chim kên kên bất tuân lệnh ngày xưa là vị Tỷ-kheo không vâng lời ngày
nay. Và chim cha chính là Ta.
-ooOoo-
428. Chuyện Giáo Hội Ở Kosambi (Tiền thân Kosambi)
Khi giáo hội bị chia hai, ly tán...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Lâm Viên Ghosita (Cù-sư-la)
gần Kosambi (Kiều-thưởng-di) về một đám người
tranh chấp nhau ở Kosambi.
Sự kiện dẫn đến chuyện này có thể tìm
được trong phần Luật tạng liên hệ
đến Kosambi. Sau đây là tóm tắt câu
chuyện. Tương truyền thời ấy có hai Tỳ- kheo sống cùng một tịnh xá, một vị
thông hiểu Giới luật và vị kia thông hiểu Kinh
điển. Một hôm, vị thứ hai có dịp đến chỗ rửa mặt xong, đi ra và bỏ
sót một ít nước thừa để súc miệng trong cái ghè.
Sau đó vị thông Giới luật đi vào và thấy
nước, liền đi ra hỏi bạn xem có phải vị ấy đã
để nước lại đó chăng. Ông đáp:
- Thưa Hiền giả, vâng.
- Sao, thế Hiền giả không biết đó là
lỗi lầm ư?
- Không, tôi không biết.
- Này hiền giả, đó là lỗi lầm.
- Thế thì tôi sẽ sám hối việc ấy.
- Song nếu Hiền giả không có ý làm việc ấy thì
đó không phải lỗi lầm.
Như vậy vị ấy là người không thấy lỗi lầm trong một việc có lỗi lầm. Vị
tinh thông Giới luật bảo các đệ tử mình:
- Vị tinh thông Kinh điển này, dù
đã phạm lỗi lầm, lại không biết việc ấy.
Khi gặp các đệ tử của vị Tỷ-kheo kia, họ
bảo:
- Thầy của các vị dù phạm lỗi lầm, lại không nhận ra lỗi lầm.
Ðám này đi về thưa lại với thầy. Vị ấy bảo:
- Vị thông Giới luật này trước kia bảo đó
không phải lỗi lầm, nay lại bảo đó là
lỗi lầm. Vị này là kẻ nói dối.
Ðám đệ tử này
đi nói với đám kia:
- Thầy của các vị là kẻ nói dối.
Do đó hai nhóm gây sự tranh cãi lẫn nhau. Về
sau vị thông hiểu Giới luật, tìm được cơ
hội đưa ra một hình thức tẩn xuất vị Tỷ-kheo
đã không chịu nhận thấy sự vi phạm Giới
luật của mình.
Từ đó về sau, các cư sĩ cung cấp bốn vật
dụng cần thiết cho Tăng chúng cũng chia ra hai phe. Các Tỷ-kheo -ni nhận sự
giáo huấn của các Tỷ-kheo, các vị Thần hộ pháp, cùng các thân hữu
quyến thuộc của họ, cùng chư Thiên lên đến tận
cõi Phạm thiên, thậm chí cả đám người
ngoại đạo, cũng họp thành hai phái và tiếng huyên náo vang lên
đến toàn cõi Phạm thiên.
Sau đó một Tỷ-kheo đến gần đức Như Lai, và
thông báo quan điểm của phe tấn xuất
là: "người kia bị tẩn xuất theo đúng Chánh
pháp". Và quan điểm của những kẻ theo
phe người bị tẩn xuất là; "người ấy bị tẩn xuất một cách phi pháp",
cùng sự kiện một số người, dù bị phe tẩn xuất cấm
đoán, vẫn tụ họp lại để ủng hộ vị ấy.
Ðức Thế Tổn bảo:
- Có sự chia rẽ, quả thật, có sự chia rẽ trong giáo hội.
Ngài đến gặp hai phe, nêu rõ sự tai
hại trong vấn đề tẩn xuất đối với những người tẩn xuất, cùng sự nguy hại
theo sau sự che dấu lỗi lầm đối với phe kia,
rồi Ngài ra đi.
Lần khác, khi Hội chúng thực hành lễ Bồ-tát cùng các Tăng
sự khác trong cùng một nơi, trong một khu vực, và lại tranh cãi ở
trai đường cùng nhiều nơi khác, Ngài
liền đưa ra điều luật rằng họ phải ngồi lại với
nhau thảo luận lần lượt từng người một từ mỗi phe.
Khi nghe họ vẫn tranh cãi trong tinh xá, Ngài
đến bảo:
- Thôi đủ rồi, này các Tỷ-kheo, chúng
ta không được tranh cãi.
Một vị trong phe phi chính thống không muốn phiền nhiễu
đức Thế Tôn, liền thưa:
- Xin đức Thế Tôn hãy tinh xá. Mong
đức Thế Tôn được an tịnh độc cư, thọ hưởng cực
lạc đã chứng đắc ngay tại đời này.
Chúng con sẽ tự làm cho chính bản thân ô danh vì cuộc khẩu tranh, luận
tranh, đấu tranh, giao tranh này.
Nhưng bậc Ðạo Sư bảo họ:
- Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vua Brahmadatta, quốc vương ở Kàsi, trị vì
tại Ba-la-nại, đã chiếm
đoạt vương quốc của vua Dighati ở Kosala, và
giết vua ấy, trong lúc sống ẩn tích mai danh. Ðến khi vương tử Dighavu tha
mạng vua Brahmadatta, hai vị trở thành thân hữu trở về sau. Và như vậy chắc
hẳn có nhiều khổ đau và thân ái giữa hai
vị vua mang kiếm trượng ấy; quả thật, này các Tỷ-kheo, các ông cần hiểu rõ
rằng các ông đang sống đời tu tập theo Pháp và
luật được khéo giảng, thì các ông có thể
tha thứ và tỏ từ tâm đối với nhau.
Giáo huấn Tăng chúng đến lần thứ ba, Ngài
bảo:
- Thôi đủ rồi, này các Tỷ-kheo, không
được tranh chấp nữa.
Và khi Ngài không thấy họ không ngừng lại trước lệnh của Ngài, Ngài ra
đi và bảo:
- Quả thật đám người ngu si này giống
như bị quỷ ám, chúng không dễ được thuyết phục.
Hôm sau đi khất thực về, Ngài nghỉ
trong Hương Phòng và sắp đặt phòng cho
thứ tự, rồi cầm y bát, Ngài đứng trên
không và ngâm các vần kệ này giữa Hội chúng:
1. Khi Giáo hội bị phân chia hai nhóm,
Dân chúng thường mở miệng kêu vang:
"Mỗi người đều tự tin tưởng khôn ngoan,
Và nhìn kẻ láng giềng đầy khinh bỉ".
2. Tâm mê muội, chứa đầy niềm tự thị,
Chúng mở mồm phạm thượng thật si cuồng,
Vậy là do khẩu nghiệp, chúng sai
đường,
Chúng không biết ai dẫn đầu ra lệnh.
3. "Người này nhục mạ tôi, người kia
đánh
Người thứ ba chiến thắng, cướp bóc tôi!"
Những ai mang tư tưởng ấy trong người
Không hề muốn giảm dần niềm sân hận.
4. "Xưa nó nhục mạ tôi và đánh đấm,
Nó thắng tôi và đàn áp tôi
hoài!"
Ai chẳng mang ý tưởng đó trong người,
Sẽ xoa dịu hận thù, đem hoà
hợp.
5. Không hận thù, chỉ tình thương đơn độc
Làm hận thù tiêu diệt, luật ngàn năm,
Một số người khinh bỉ pháp điều thân.
Song kẻ biết giải hoà là trí thiện.
6. Nếu những kẻ bị thương trong tử chiến
Cùng những người cướp của, đoạt mạng dân,
Và những ai tàn phá nước lân bang,
Nay có thể cùng cựu thù thân thiết,
7. Thế tại sao chúng Tăng không hoà
hiệp,
Các ông nên tìm đồng bạn trí hiền,
Kẻ đồng tâm để chung sống bình yên,
Hiểm hoạ hết, bên người đồng tâm tính,
Ông suốt ngày hân hoan trong Thiền
định!
8. Song nếu ông không gặp bạn thân tình,
Thượng sách là ông phải sống một mình,
Như hoàng tử bỏ ngai vàng điện ngọc,
Hay voi già bước lang thang cô độc.
9. Vậy ưu tiên chấp nhận sống độc
thân,
Bầu bạn ngu chỉ dẫn đến tranh phân,
Hay đeo đuổi đường đời trong phóng dật,
Như voi nọ trong rừng hoang đi lạc.
*
Khi bậc Ðạo Sư đã nói như vậy xong,
và Ngài vẫn không giải hoà được hội chúng này,
Ngài liền đi đến làng Bàlaka, nơi làm
muối, và thảo luận với Tôn giả Bhagu về sự an lạc của
độc cư. Sau đó Ngài lại
đến nơi cư trú của ba thiện gia nam tử và
nói chuyện với họ về hạnh phúc hoà hợp.
Rồi Ngài du hành đến rừng Pàrileyyaka,
cư trú tại đó ba tháng, và
đi về thẳng Sàvatthi, chứ không trở lại
Kosambi.
Quần chúng cư sĩ ở Kosambi thảo luận với nhau và bảo nhau:
- Hiển nhiên các Tôn Gỉa Tỷ-kheo ở Kosambi đã
làm hại chúng ta rất nhiều, bậc Ðạo Sư bị các vị ấy quấy nhiễu nên ra
đi. Chúng ta quyết không trân trọng kính chào
các vị ấy, cũng không cúng dường vật và thực khi họ
đến nhà, để
rồi họ sẽ ra đi, hoặc hoàn tục, hoặc cầu hoà với bậc Ðạo Sư.
Và họ làm đúng như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy bị túng quẩn vì hình thức xử phạt này, liền
đến Sàvatthi thỉnh cầu
đức Thế Tôn tha thứ.
*
Bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
- Thời ấy vua cha là Ðại vương Suddhodana (Tịnh Phạn), mẫu hậu là
Mahàmàya (Mai-gia) và vương tử Dighàvu chính là Ta.
-ooOoo-
429. Chuyện Ðại Anh Vũ (Tiền thân Mahàsuka)
Bất cứ khi nào cây trái sinh...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo.
Chuyện kể rằng vị ấy sống trong rừng gần một làng biên
địa ở Kosabbi và nhận
được lời giáo huấn từ bậc Ðạo Sư theo
các đề tài Thiền quán. Dân chúng làm cho
ông một an thất trong một nơi họ thường lui tới, cung cấp nơi cư trú cả ngày
lẫn đêm và phụng sự ông rất tận tâm chu
đáo. Ngay tháng đầu tiên ông an cư mùa
mưa, làng ấy bị đốt sạch và dân chúng
không còn một hạt thóc nên không thể cúng dường thực phẩm thơm ngon vào bình
bát ông, cho nên mặc dù ông ở trong một nơi thoải mái, ông lại buồn khổ vì
thiếu thực phẩm đến độ không thể nhập vào
Thánh đạo hay Thánh quả được.
Vì vậy khi hết ba tháng mưa, ông đến yết
kiến bậc Ðạo Sư, sau những lời ân cần chào hỏi, bậc Ðạo Sư bày tỏ huy
vọng là mặc dù khó khăn về thực phẩm cúng
dường, ông cũng có được một nơi an trú dễ chịu. Vị Tỳ- kheo trình
Ngài về tình hình đã diễn tiến ra sao.
Khi nghe ông có được một trú xứ an lạc, bậc
Ðạo Sư bảo:
- Này Tỷ-kheo, nếu sự tình là như vậy, một vị tu khổ hạnh nên dẹp bỏ các
thói tham đắm, và tri túc với những thức
ăn gì mình nhận
được để hoàn thành phận sự của người
xuất gia. Các bậc trí ngày xưa khi được sinh vào
loài súc vật, dù chỉ sống bằng bụi bặm trong cây hư mục mà mình cư trú, cũng
đã bỏ mọi tham dục, tự biết sống
đủ để ở lại nơi kia và hoàn thành
đạo lý về ân tình. Thế thì tại sao ông
lại bỏ một nơi cư trú đầy an lạc chỉ vì
thức ăn nhận được quá ít ỏi thô sơ?
Và theo lời thỉnh cầu của vị này, Ngài kể câu chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa có vô số chim anh vũ (két) sống ở vùng Tuyết Sơn trên bờ sông
Hằng trong một rừng sung. Vua Anh vũ ấy gặp lúc trái cây nơi mình cư trú
đã hết màu, phải
ăn bất cứ cái gì còn sót lại, dù là mầm,
lá, vỏ cây hoặc giác cây và uống nước sông Hằng, vẫn thấy an lạc và tri túc
nơi mình sống.
Do tâm trạng an lạc tri túc này, chiếc ngai của Thiên chủ Sakka rung
động. Sakka tìm hiểu nguyên nhân và thấy
Anh vũ này, rồi muốn thử thách công hạnh của chim, ngài dùng thần lực làm
cho cây héo tàn, trở thành khúc thân cây mục
đầy lỗ hỏng đứng trơ vơ bị mưa gió vùi dập, và bụi bặm bay từ các lỗ
ấy!
Anh vũ vương vẫn ăn bụi cây và uống
nước sông Hằng, không đi đâu khác và vẫn
đậu trên ngọn cây, chẳng quan tâm gì
đến nắng gió.
Thiên chủ Sakka nhận thấy Anh vũ sống rất tri túc, liền tự bảo: "Sau khi
nghe chim nói về đức tính của tình bằng
hữu, ta sẽ đến ban cho chim một đặc ân và
làm phép cho cây sung sinh bất tử".
Vì thế ngài giả dạng một Thiên nga cùng với hoàng hậu của ngài là Sujà
đi trước biến hình thành một nữ thần
A-tu-la, ngài đến rừng sung kia, đậu trên
một khóm cây gần đó và ngâm kệ bắt
đầu đàm thoại với Anh vũ:
1. Bất cứ khi nào cây trái sinh,
Bầy chim đói lại đến đầy cành,
Song khi cây đã thành khô héo,
Lập tức bầy chim bỏ chạy nhanh.
Sau lời này, ngài lại ngâm vần kệ thúc giục chim
đi chỗ khác:
2. Này ông mỏ đỏ, hãy
đi mau,
Ông vẫn ngồi mơ mộng, cớ sao?
Hãy nói ta nghe, xuân điểu hỡi,
Sao ông bám khúc gỗ khô nào?
Chim Anh vũ đáp:
- Này Thiên nga, do ân nghĩa, ta không rời bỏ cây này.
Rồi chim ngâm hai vần kệ:
3. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
Biết rõ mọi điều kiện, chánh chân
Dầu sống, chết hay khi khổ lạc,
Ðều không hề bỏ mặc thân bằng
4. Ta muốn ân cần, giữ thiện tâm
Với cây kết bạn đã lâu năm,
Ta mong sống, dẫu lòng không nỡ
Rời bỏ cây khô đã chết dần.
Sakka nghe chim nói, rất hoan hỷ, vừa ca ngợi chim vừa muốn ban cho chim
một điều ước, liền ngâm hai vần kệ:
5. Ta biết chim giao hữu thật tình
Trí nhân chắc chắn phải hoan nghênh,
Ta ban chim thứ gì chim mong muốn,
Anh vũ, ước cho thoả ý mình
Nghe vầy, Anh vũ ngâm vần kệ thứ bảy nói lên
điều mình ước:
6. Thiên nga, nếu bạn muốn ban ân
Mong ước cho cây sống lại dần
Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
Quả ngon tươi mát mọc đầy thân.
Rồi Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ thứ tam ban
đặc ân này:
7. Bạn nhìn! Cây quý quả sai đầy,
Thích hợp cho chim ở chốn này,
Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
Quả ngon ngọt mát tươi thay!
Cùng với các lời này, Sakka bỏ lốt ngỗng, thị hiện phép thần thông cùng
Hoàng hậu Sujà, lấy tay múc nước sông Hằng rảy vào thân cây sung. Lập tức
cây mọc lên cành lá sum suê, đầy trái ngọt như
mật, tạo thành một cảnh tượng kỳ diệu như
đỉnh núi Ngọc Bích lồ lộ.
Anh vũ thấy vậy, vô cùng hoan hỷ, ngâm vần kệ thứ chín tán thán Thiên chủ
Sakka:
8. Ước mong Thiên chủ, mọi Thiên thân,
Ðều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
Khi nhìn cảnh tượng đẹp huy hoàng.
Sau khi ban điều ước cho Anh vũ, và
làm phép để cây sung mọc trái bất tử, ngài
cùng Hoàng hậu Sujà trở về cõi của ngài.
Ðể minh hoạ chuyện này, các vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng
được thêm vào
đoạn cuối:
9. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
Lần nữa cây kia trổ trái dần,
Ðế Thích cùng bà hoàng biến mất
Về vườn Thiên lạc cõi Thiên thần.
*
Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:
- Như vậy, này Tỷ-kheo, các bậc trí này xưa dù sinh làm súc vật cũng dứt
bỏ tham ái. Thế tại sao nay ông đã
được thọ giới trong Giáo pháp tối thượng này,
lại còn theo các thói xan tham? Hãy về ở lại chỗ ấy.
Rồi Ngài trao cho vị này một đề tài
Thiền quán, và nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy Sakka là Anurudda (À-na-luật-đà)
và Anh vũ chính là Ta.
Vị Tỷ-kheo trở về và nhờ Thiền quán đã
đắc Thánh quả (A-la-hán).
-ooOoo-
430. Chuyện Tiểu Anh Vũ (Tiền thân Cullasuka)
Nhìn cây vô số ở quanh đây...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên liên hệ phẩm Verãnjà của Luật Tạng.
Sau thời an cư mùa mưa tại Verãnjà, khi bậc Ðạo Sư lên
đường dẫn đến Sàvatthi, Tăng
chúng ngồi tại Chánh pháp đường thảo luận và bảo nhau:
- Này các Hiến giả, đức Như Lai vốn là
một vị quý tộc Sát-đế-lỵ được bảo dưỡng tế nhị,
dầu đã thành Phật có đủ thần thông lực,
vẫn theo lời thỉnh câu của một Bà-la-môn ở Verãnjà an cư ba tháng với
vị ấy. Rồi do áp lực của Ác Ma, Ngài không nhận
được thực phẩm cúng dường từ tay vị Bà-la-môn
ấy, thậm chí một ngày thôi, Ngài liền từ bỏ mọi tham dục và cứ ở lại nơi ấy
suốt ba tháng sống bằng nước lã và một ít cám xay. Kỳ diệu thay là hạnh tri
túc của các đức Như Lai!
Khi bậc Ðạo Sư đến hỏi đề tài thảo
luận của các vị, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, không lạ gì ngày nay Như Lai
đã bỏ hết mọi tham dục, vì ngày xưa khi
được sinh làm súc vật, Ngài cũng xả ly
tham dục.
Và sau đó, Ngài kể một chuyện quá
khứ. Bấy giờ toàn thể câu chuyện cũng được kể
lại với đầy đủ chi tiết giống hệt như chuyện trước.
*
Sakka:
1. Nhìn cây vô số ở quanh đây
Toàn thể xanh tươi, trái mọc đầy,
Cớ sao Anh vũ còn đeo đẳng
Cây đã héo khô tội nghiệp này?
Anh vũ:
2. Chúng ta hưởng thọ đã lâu năm
Trái ngọt ngon mà cây đã mang
Vậy dẫu trái nay không còn nữa,
Cây cần phải được sự quan tâm.
Sakka:
3. Cây chẳng còn sinh trái, lá nào
Than ôi! Cây đã chết, vì sao?
Nay chim còn trách bầy chim bạn
Rằng chúng ta bay đi hết đã lâu?
Anh vũ:
4. Chúng yêu cây bởi trái cây thôi,
Nay trái cây không còn nữa rồi,
Bọn ích kỷ ngu si tội nghiệp,
Thân tình ân nghĩa tếch mù khơi!
Sakka:
5. Ta đây công nhận mối ân tình,
Chim có lòng chung thuỷ tốt lành,
Ðức hạnh như là Anh vũ chúa,
Trí nhân mãi mãi sẽ hoan nghênh.
6. Ta muốn giờ đây ta tặng chim
Ðiều gì chim ước nguyện trong tim,
Ta cầu chim nói cho ta biết,
Ðiều ước làm tâm được phỉ nguyền?
Anh vũ:
7. Mong cây này lại có cơ may
Sinh sản lá tươi, trái trĩu đầy,
Ta sẽ vô cùng hoan hỷ thấy
Bầy chim tìm được bảo toàn này!
8. Thế rồi cây ấy được Sak-ka
Rảy nước hồi sinh để mọc ra
Cành lá sum suê đầy bóng mát,
Xinh tươi khả ái vẫn như xưa.
9. Ước mong Thiên chủ, các Thiên thần
Ðều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
Khi nhìn cảnh tượng đáng hân hoan!
10. Như vậy cây trái được sinh
Nhờ lời Anh vũ nguyện ân tình,
Sak-ka trở lại cùng hoàng hậu
An hưởng vườn Thiên lạc hiển vinh
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy Sakka là Anuruddha và Anh vũ vương chính là Ta.
-ooOoo-
431. Chuyện Nam Tử Hàrita (Tiền thân Hàrita)
Hà-ri Hiền hữu, trẫm nghe rằng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo bất
mãn.
Bấy giờ Tỷ-kheo này trở nên bất mãn sau khi nhìn thấy một nữ nhân phục
sức lộng lẫy nên cứ để cho lông tóc, móng tay
chân dài ra, và muốn hoàn tục. Khi ông miễn cưỡng bị các vị giáo thọ
và giám hộ đưa đi yết kiến bậc Ðạo Sư,
và được Ngài hỏi xem có
đúng là ông thối thất chăng,
và tại sao như vậy, ông đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn, chính vì uy lực của dục tham, sau khi nhìn
thấy một nữ nhân xinh đẹp.
Bậc Ðạo Sư bảo:
- Này Tỷ-kheo, tham dục huỷ hoại công đức,
hơn nữa, rất đáng nhàm chán, nó làm cho con người tái sinh vào
địa ngục; thế thì sao tham dục này lại
không đưa đến sự suy tàn của ông? Bởi vì
trận cuồng phong vùi dập đỉnh núi Sineru
(Tu-di) vẫn không ngần ngại cuốn đi một ngọn lá khô héo. Chính vì
tham dục này, những người thực hành theo trí thức và trí tuệ,
đã đắc năm
Thắng trí và tám Thiền chứng, dẫu là Thánh nhân vĩ
đại, vẫn không đủ khả năng ổn định tâm tư nên
sa đoạ đánh mất Thiền lực vi diệu.
Rồi ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh ở một làng trong một gia
đình Bà-la-môn có tài sản
đến tám triệu đồng, và do màu vàng ánh
của ngài, cha mẹ đặt tên ngài là
Harittacakumàra (Nam tử Kim sắc). Khi lớn khôn, và
đã được
giáo dục tại Takkasilà, ngài trở thành người gia chủ. Vừa khi cha mẹ
từ trần, ngài đi thanh tra đủ các kho báu của mình
và suy nghĩ: "Tài sản kho báu tiếp tục tồn tại, còn những người tạo ra nó
lại mất cả rồi. Ta cũng tan thành tro bụi khi chết".
Như vậy do nỗi sợ chết báo động, ngài
thực hành đại bố thí, rồi vào vùng Tuyết
Sơn sống đời tu hành,
đến ngày thứ bảy ngài thành tựu các
Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài sống ở đó
một thời gian bằng củ quả rừng, rồi xuống núi tìm muối và dấm, dần
dần ngài đến tận Ba-la-nại.
Ngài sống trong ngự viên và ngày hôm sau, khi khất thực ngài
đến cửa cung vua. Vua rất hoan hỷ khi thấy ngài
nên đã truyền mời ngài vào ngồi trên
vương toạ dưới bóng mát của chiếc Lọng trắng và cúng dường ngài
đủ thứ cao lương mỹ vị.
Khi lời nói lời tuỳ hỷ công đức, vua vô cùng
đẹp ý hỏi:
- Bạch Tôn giả, ngài sắp đi đâu?
- Tâu Ðại vương, chúng tôi tìm một nơi an cư mùa mưa.
- Thế thì tốt lắm, bạch tôn giả. Vua bảo.
Rồi sau buổi điểm tâm, vua cùng
đi với ngài
đến ngự viên, truyền dựng am thất ban ngày lẫn ban
đêm cho ngài ở, chỉ
định người giữ ngự viên làm hầu cận của
ngài, rồi vua kính chào ngài ra về. Từ đó bậc
Ðại Sĩ thường xuyên ăn uống ở cung vua và
sống tại nơi ấy suốt mười hai năm liền.
Một hôm, vua đi dẹp loạn ở biên giới,
nên đã giao phó hoàng hậu chăm
sóc Bồ-tát, và bảo bà:
- Ðừng xao lãng việc phụng sự "Phước điền"
của chúng ta.
Từ đó trở về sau, hoàng hậu tự tay
phục vụ bậc Ðại Sĩ rất chu đáo.
Một hôm, hoàng hậu đã chuẩn bị thực
phẩm của ngài xong, và vì ngài đến muộn, nên
bà đi tắm nước hương thơm ngát, choàng
chiếc y bằng lụa mỏng manh mềm mại, rồi mở cửa thượng lầu nằm xuống một
vương sàng nhỏ để cho gió lùa trên thân
thể bà.
Sau đó, Bồ-tát đắp hạ y và thượng y,
cầm bình bát, du hành qua không gian đi vào
cửa sổ ấy. Khi hoàng hậu vội vàng đứng dậy vì
nghe tiếng sột soạt của các tấm y bằng vỏ cây trên thân ngài, chiếc y bằng
lụa mỏng rơi khỏi người bà. Một đối tượng lạ
thường đập vào mắt bậc Ðại Sĩ. Rồi một dục tưởng
đã ẩn trong tâm ngài từ vô lượng kiếp,
chợt bừng dậy như một con rắn nằm trong hộp, xua tan thiền lực của ngài.
Rồi không đủ khả năng ổn định tư tưởng, ngài
đến chụp lấy hoàng hậu bằng
đôi tay và hai vị lập tức kéo màn che
phủ quanh người. Sau khi đã phạm tà dục
với bà, ngài thọ thực và trở về ngự viên. Từ đó
về sau, ngày nào ngài cũng đến làm
như vậy.
Tà hạnh của ngài vang dậy khắp kinh thành. Các cận thần của vua dâng sớ
tâu trình vua: "Nhà khổ hạnh Hàrita đang hành
động như vậy như vậy".
Vua suy nghĩ: "Họ nói như vậy để ly gián
chúng ta" và vua không tin chuyện ấy.
Khi vua đã bình
định vùng biên
địa xong, liền trở về Ba-la-nại và sau
buổi diễn binh oai nghi khắp kinh thành, vua
đến gặp hoàng hậu và hỏi:
- Có thật Thánh nhân khổ hạnh Hàrita đã
phạm tà dục với ái hậu chăng?
- Tâu Chúa thượng, quả đúng vậy.
Vua vẫn không tin lời bà và suy nghĩ. "Ta sẽ hỏi chính vị ấy". Rồi
đi đến ngự viên, vua vái chào ngài, ngồi
kính cẩn một bên và ngâm vần kệ đầu để hỏi
chuyện:
1. Hà-ri Hiền hữu, trẫm nghe rằng
Tôn giả nay đang sống lỗi lầm,
Trẫm chẳng tin lời đồn đại ấy,
Ngài không phạm tội ý, thân chăng?
Ngài suy nghĩ: "Nếu ta nói ta không phạm tội lỗi, vị vua này sẽ tin ta,
nhưng trên thế gian này, không có một căn cứ nào
vững chắc bằng nói sự thật. Người nào từ bỏ sự thật, dù ngồi trong Bồ-đề
đạo tràng linh thiêng cũng không để đạt
quả Phật. Vậy ta cần nói sự thật".
Trong vài trường hợp, một vị Bồ-tát có thể sát sinh, lấy của không cho,
phạm tà dục và uống rượu nồng, nhưng vị ấy không
được nói dối đi kèm với sự lừa phỉnh vi
phạm chân lý của vạn vật. Vì thế ngài ngâm vần kệ thứ hai chỉ nói lên sự
thật:
2. Ta phạm ác hành, hỡi Ðại vương,
Ðúng như Ngài đã
được nghe rằng
Mắc vào tà thuật trong trần thế,
Ta đã đi
sai lạc bước đường.
Nghe vậy, vua ngâm vần kệ thứ ba:
3. Trí tuệ uyên thâm của thế nhân
Hoài công vô ích, chẳng xua tan
Dục tham bùng dậy trong lòng dạ
Của bậc trí nhân đã lạc
đường.
Sau đó Hàrita nêu rõ cho vua thấy uy
lực của dục tham qua vần kệ thứ tư:
4. Bốn ác dục này ở thế gian
Uy quyền lấn áp cứ lan tràn:
Tham, sân, vô độ và si ám,
Tri kiến không sao đứng vững vàng.
Vua nghe liền ngâm vần kệ thứ năm:
5. Thánh hạnh tràn đầy với trí minh
Hà-ri Hiền giả đáng tôn vinh!
Hiền giả Hàrita ngâm tiếp vần kệ thứ sáu:
6. Ác tâm, tham dục, do liên kết,
Huỷ hoại trí nhân hướng Thánh hành.
Sau đó vua ngâm vần kệ thứ bảy khuyến nhủ vị
ấy quẳng bỏ mọi tham dục:
7. Vẻ đẹp trong tâm tịnh sáng ngời
Bị hư vì ác dục sinh sôi,
Quẳng ngay, hạnh phúc đang chờ đón,
Quần chúng tuyên dương trí tuệ ngài.
Khi ấy Bồ -tát đã phục hồi năng
lực Thiền định và quán sát sự đau khổ
của tham dục, ngài ngâm vần kệ thứ tám:
8. Vì tham dục trói buộc thân này,
Sinh sản cho ta quả đắng cay,
Ta quyết cắt sâu cho tận gốc
Mọi mầm tham dục khởi lên đây.
Nói vậy xong, ngài xin phép vua, rồi sau khi
được chấp nhận, ngài về tham am tập trung nhãn lực vào
đề tài và nhận
định, sau đó bước ra khỏi am, ngồi bắt chéo
chân trên không và giảng Chánh pháp cho vua, ngài bảo:
- Tâu Ðại vương, ta đã tạo nên sự chỉ
trích của quần chúng vì ta cư trú một nơi mà ta không nên cư trú. Nhưng giờ
đây xin Ðại vương hãy tỉnh giác hộ
phòng. Còn ta sẽ trở về núi rừng thoát ly mọi ô nhiễm của nữ sắc.
Rồi giữa những giọt nước mắt và tiếng than khóc của vua, ngài trở về
Tuyết Sơn, rồi không gián đoạn Thiền định, ngài
lên cõi Phạm thiên.
Bậc Ðạo Sư biết toàn thể câu chuyện và bảo:
9. Như vậy, Hà-ri bậc trí nhân
Ðấu tranh vì Chánh pháp kiên cường,
Vừa khi rời bỏ niềm tham dục,
Hướng đến Phạm thiên tiến thẳng
đường.
*
Sau khi ngâm vần kệ do Trí tuệ tối thắng, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật.
Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo có tâm thế tục ấy
đã đắc
Thánh quả.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời bấy giờ vua là Ànanda, và Hàrita chính là Ta.
-ooOoo-
432. Chuyện Cậu Bé Có Tài Nhận Dấu Chân (Tiền thân Padakusalamànava)
Pà- ta bị cuốn bởi sông Hằng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong khi trú tại Kỳ Viên về một cậu bé.
Người ta đồn cậu bé ấy là con của một
gia chủ tại Sàvatthi, chỉ có bảy tuổi đã
có tài nhận ra dấu chân. Bấy giờ cha cậu bé có ý
định thử tài con, liền
đi đến nhà người bạn mà không cho cậu
biết. Cậu bé chẳng cần hỏi cha đã
đi đâu, cứ theo vết chân của cha cậu, đến đứng
trước mặt cha. Vì thế một hôm cha cậu hỏi:
- Khi cha ra đi mà không nói với con,
làm thế nào mà con biết cha đi đâu?
- Thưa cha, con nhận ra dấu chân của cha. Con có tài về chuyện này.
Sau đó, cha cậu lại muốn thử cậu, liền ra
khỏi nhà sau khi ăn sáng, đi vào
nhà kế cận, từ đó qua một nhà khác, từ
nhà thứ ba ông lại quay về nhà mình, rồi sau đó
đi ra cổng Bắc, xong đi một vòng quanh thành phố từ phải sang trái.
Khi đến Kỳ Viên, ông
đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi xuống nghe
Pháp. Cậu bé hỏi cha ở đâu, và người nhà
bảo:
- Ta không biết.
Cậu lần theo dấu chân cha bắt đầu từ nhà
bên cạnh đi theo đúng con đường cha cậu đã
đi qua. Sau khi đánh lễ bậc Ðạo Sư, cậu
đứng trước mặt cha. Và cha hỏi làm sao
con đến đây được, cậu đáp:
- Con nhận ra dấu chân cha và lần theo dấu ấy
đến đây.
Người cha nói:
- Bạch Thế Tôn, thằng bé này có tài nhận ra dấu chân. Muốn thử nó, con
đã đến đây
theo cách như vầy như vầy. Nó không thấy con ở nhà, cứ lần theo dấu
chân đến đây.
Bậc Ðạo Sư bảo:
- Không lạ gì việc nhận ra dấu chân dưới
đất. Các bậc trí nhân ngày xưa nhận ra dấu chân trên không gian.
Và theo lời thỉnh cầu, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Thời xưa dưới triều vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, vị chánh hậu bị vua chất
vấn sau khi phạm tội tà dục, liền tuyên thệ:
- Nếu thần thiếp phạm tội với Chúa thượng, thần thiếp sẽ trở thành một
con quỷ cái Dạ-xoa có mặt ngựa.
Sau khi chết, bà trở thành con quỷ cái có mặt ngựa sống trong hang
đá ở một khi rừng rậm dưới chân núi và
thường bắt những người qua lại trên con đường
từ biên giới Ðông sang Tây để ăn thịt.
Chuyện kể rằng sau khi phục vụ Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) suốt
ba năm, quỷ cái này
được phép ăn thịt người trong một khu vực dài
ba mươi dặm, rộng năm dặm.
Một hôm, một vị Bà-la-môn giàu sang, đẹp
trai được một đoàn tuỳ tùng đông đảo hộ
tống đi lên con đường ấy. Dạ-xoa liền
thấy chàng liền cười lớn chạy xuống chụp chàng, còn
đám tùy tùng chạy trốn cả.
Với tốc lực nhanh như gió, quỷ cái bắt được
chàng Bà-la-môn ném lên lưng nó và đưa vào
hang. Do xúc chạm với chàng trai, quỷ cái bị lòng dục chi phối và cảm thấy
yêu mến chàng, nên thay vì ăn thịt chàng,
nó lại lấy chàng làm chồng và cả hai sống hoà hợp với nhau.
Từ đó mỗi khi quỷ cái bắt được đàn
ông, nó lấy áo quần, lúa gạo, dầu mỡ cùng với mọi thứ khác phục vụ chàng
đủ món cao lương mỹ vị, còn nó vẫn
ăn thịt người.
Khi nào nó đi xa, nó sợ chàng trốn
thoát, nên vẫn lấy hòn đá lớn đậy miệng hoang
trước khi đi. Trong thời gian họ sống an vui như vậy, thì Bồ-tát vừa
từ giã từ đời trước và nhập vào mẫu thai
của quỹ cái với vị Bà-la-môn. Sau mười tháng, quỷ cái sinh một con trai, nó
vô cùng thương yêu cả vị Bà-la-môn lẫn hài nhi, nên nuôi nấng họ chu
đáo. Dần dần khi cậu bé lớn lên, quỷ cái
đặt con vào trong hang với cha, rồi
đóng cửa lại.
Một hôm Bồ-tát biết mẹ đã
đi xa liền giở hòn
đá lên và
đưa cha ra ngoài. Khi quỷ cái trở về, hỏi ai
đã giở hòn
đá, cậu bé đáp:
- Thưa mẹ, chính con, vì cha và con không thể ngồi trong tối mãi.
Do thương con, quỷ cái không nói lời nào nữa. Một hôm Bồ-tát hỏi cha:
- Thưa cha, miệng cha khác với miệng mẹ, vì sao vậy?
- Con ơi, mẹ con là quỷ Dạ-xoa sống bằng thịt người, còn cha là con
người.
- Nếu vậy, tại sao ta sống ở đây? Mau lên,
chúng ta quyết trở về nơi chốn loài người.
- Con ơi, nếu ta cố chạy trốn, mẹ con sẽ giết chết cả hai ta
đấy.
Bồ-tát an ủi cha và bảo:
- Cha đừng sợ, việc đem cha trở về chốn loài
người là phận sự của con.
Hôm sau, khi mẹ cậu đã ra
đi, cậu đem cha chạy trốn.
Khi quỷ cái trở về thấy thiếu họ, nó liền chạy như gió bắt họ lại và nói:
- Này chàng Bà-la-môn, tại sao chàng bỏ chạy, chàng có thiếu gì ở
đây chăng?
- Nàng ơi, xin đừng giận ta. Con nàng
đem ta đi theo nó đấy.
Quỷ cái không nói gì thêm, do lòng thương con, nó an ủi hai cha con và
mang họ trở về hang sau vài ngày bay vùn vụt.
Bồ-tát suy nghĩ: "Mẹ ta chắn hẳn phải có một ranh giới hoạt
động. Giả sử ta hỏi mẹ về ranh giới mà
mẹ có quyền hạn, rồi ta sẽ đi trốn bằng cách
vượt qua ranh giới đó".
Vì vậy, hôm ngồi kính cẩn bên mẹ, ngài hỏi:
- Mẹ ơi, những gì thuộc về mẹ đều truyền cho
con; vậy mẹ nói cho con biết ranh giới vùng
đất của ta.
Quỷ cái liền cho biết mọi phạm vi đất đai
núi rừng ở mọi hướng và chỉ rõ khu vực dài ba mươi dặm rộng năm
dặm ấy, xong lại bảo:
- Hãy xem nó nhiều như vậy đấy con à.
Sau hai ba ngày, khi mẹ đã vào rừng,
ngài cõng cha lên vai và chạy nhanh như gió theo dấu hiệu mẹ ngài
đã cho biết, ngài
đến bờ sông làm ranh giới. Quỷ cái trở
về thấy thiếu họ liền đuổi theo.
Bồ-tát mang cha ra giữa sông, còn quỷ cái
đứng bên bờ thấy họ đã vượt phạm
vi của nó, đành phải
đứng lại và kêu:
- Con yêu quý ơi, hãy đến đây cùng
với cha con. Mẹ có lỗi lầm gì nào? Có việc già không vừa lòng con về phương
diện nào? Xin chàng hãy trở về mau!
Quỷ cái van xin chồng con như vậy.
Vị Bà-la-môn đã qua bên kia sông. Quỷ
cái lại khẩn cầu con:
- Con yêu quý ơi, đừng làm như vậy.
Hãy trở lại mau!
- Mẹ ơi, cha và con là người, còn mẹ là quỷ Dạ-xoa. Cha và con không thể
ở mãi với mẹ được.
- Thế con không muốn trở lại à?
- Không mẹ ơi!
- Vậy nếu con không muốn trở lại mà sống trên thế giới loài người khổ lắm
con ạ, những người không biết nghề gì thì không thể sống
được. Mẹ có phép thuật cao cường, nhờ thần lực
đó, ta có theo dõi dấu chân của người đã
đi qua sau mười hai năm. Ðiều này sẽ làm
kế sinh nhai của con. Này con, hãy nhận lấy phép thuật cao giá này.
Mặc dù lòng nặng trĩu đau buồn, do lòng
thương con, quỷ cái cũng trao thần chú cho con. Bồ-tát
đứng giữa sông chắp hai tay lại kính cẩn nhận
thần chú và vái chào mẹ ngài:
- Mẹ ơi, con xin từ giã mẹ.
Quỷ cái bảo:
- Con ơi, nếu con không trở lại, mẹ không thể sống
được.
Nó liền đấm vào ngực và ngay lập tức
do sầu não vì con, tim nó tan nát ra nên nó chết tại chỗ.
Bồ- tát biết mẹ đã chết, liền gọi cha
và đi làm giàn hoả thiêu xác mẹ. Sau khi
dập tắt lửa, ngài cúng nhiều loại hoa đủ màu
sắc, vừa than khóc, vừa cùng cha trở về Ba-la-nại.
Quân hầu tâu trình vua:
- Một cậu thanh niên có tài nhận ra dấu chân
đang đứng chờ ở cửa.
Khi vua ra lệnh ngài vào chầu, ngài bước vào cung kính vái chào vua. Vua
hỏi:
- Này Hiền hữu, khanh biết nghề gì?
- Tâu Chúa thượng, tiểu thần biết theo dõi dấu chân của người
đã trộm cắp tài vật cách mười hai năm
trước và bắt lấy họ.
- Thế thì vào đây hầu hạ trẫm. Vua bảo.
- Tiểu thần muốn phục vụ Chúa thượng với tiền công mỗi ngày một ngàn
đồng.
- Tốt lắm, này Hiền hữu, nhất định khanh sẽ
phục vụ trẫm.
Rồi vua ban cho ngài một ngàn đồng tiền mỗi
ngày.
Một hôm, vị tế sư hoàng gia trình vua:
- Tâu Chúa thượng, chàng thanh niên chưa sử dụng xảo thuật
để làm gì cả nên ta không biết chàng có
tài hay không, vậy bây giờ ta quyết thử tài chàng.
Vua sẵn sàng chấp nhận. Hai vị thông báo cho các vị thủ kho và lấy các
châu báu có giá trị nhất từ lầu thượng xuống, rồi sau khi
đi lẩn quẩn ba vòng quanh cung
điện, họ đặt cái thang trên nóc tường và
theo đó đi ra ngoài.
Sau đó họ vào Pháp
đình, ngồi xuống rồi trở ra
đặt cái thang trên tường và leo xuống và
đi vào thành. Khi
đến bờ hồ nước, họ đi vòng quanh ba vòng
rào trang nghiêm rồi thả các báu vật vào hồ và trèo lên lầu thượng như cũ.
Hôm sau có tiếng huyên náo và nhiều người kêu:
- Các báu vật đã bị mất khỏi cung
rồi.
Vua giả vờ không biết gì, triệu Bồ-tát đến
bảo:
- Này Hiền hữu, nhiều báu vật vừa bị mất trộm khỏi cung, ta phải tìm ra
dấu vết.
- Tâu Chúa thượng, đối với một người có khả
năng theo dấu vết bọn trộm cắp và thu hồi bảo vật cách mười hai năm
trước, thì chẳng có gì thần kỳ khi tìm
được tài vật chỉ mất sau một ngày đêm.
Tiểu thần quyết đem lại đủ, xin Chúa thượng yên
tâm.
- Vậy Hiền hữu hãy thu hồi báu vật.
- Tâu Chúa thượng, được lắm.
Ngài nói xong đi đảnh lễ hương hồn mẹ, rồi
vừa niệm thần chú vừa đứng yên trên thượng lầu, rồi trình vua:
- Tâu Chúa thượng, dấu chân của bọn trộm sẽ
được tìm ra.
Sau đó theo dấu chân vua và vị tế sư,
ngài vào cung thất, từ đó ra đi, ngài
bước xuống khỏi thượng lầu và sau ba vòng đi
quanh hoàng cung, ngài đến gần cái hồ.
Ðứng bên hồ, ngài bảo:
- Tâu Chúa thượng, bắt đầu ở nơi này
từ bức tường, tiểu thân thấy dấu chân trên không. Xin
đem cho tiểu thần một cái thang.
Sau khi nhờ đặt cái thang sát tường, ngài
leo xuống và tiếp tục theo dõi dấu vết, ngài
đến Pháp đình. Rồi trở vào cung, ngài bảo
đặt cái thang sát tường và từ
đó ngài leo xuống
đi đến hồ nước. Sau khi đi quanh hồ nước ba
lần, ngài bảo:
- Tâu Chúa thượng, bọn trộm đã vào hồ
này.
Và vừa lấy báu vật ra như thể chính ngài đặt
chúng vào đó, ngài dâng vua và
trình:
- Tâu Chúa thượng, hai đạo tặc này là
người đặc biệt, chúng đã vào cung bằng
cách này.
Quần thần búng ngón tay biểu lộ hân hoan cực
độ và rất nhiều khăn quàng tung
vẫy lên. Vua suy nghĩ:
"Có lẽ chàng trai này theo dõi dấu chân nên biết nơi bọn trộm cất báu
vật, nhưng chàng không bắt được chúng". Sau đó
vua phán:
- Hiền hữu đã mang lại ngay báu vật
được bọn trộm mang đi, nhưng khanh có thể bắt
bọn trộm và đưa chúng cho trẫm chăng?
- Tâu Chúa thượng, bọn trộm ở đây, chúng
không ở đâu xa.
- Chúng là ai thế?
- Tâu Ðại vương, bất cứ ai thích đều có thể
làm kẻ trộm cả. Ðại Vương đã thu
hồi báu vật rồi, sao Ðại Vương còn muốn bắt trộm làm gì nữa? Xin Ðại Vương
hỏi chuyện ấy.
- Này Hiền hữu, trẫm ban cho khanh mỗi ngày một ngàn
đồng tiền, vậy hãy
đem bọn trộm đến cho trẫm.
- Tâu Chúa thượng, khi đã thu hồi báu
vật, thì cần gì bắt bọn trộm nữa?
- Này Hiền hữu, đối với mọi người, bắt bọn
trộm còn quan trọng hơn thu hồi báu vật.
- Thế thì, tâu Chúa thượng, tiểu thần sẽ không tâu với Chúa thượng: "Bọn
trộm là những người này, người nọ", nhưng tiểu thần sẽ kẻ một chuyện xảy ra
đã lâu. Nếu Chúa thượng thông thái, Chúa
thượng sẽ biết ý nghĩa của nó.
Rồi sau đó ngài kể một chuyện cổ.
* Chuyện vũ công Pàtala
- Tâu Ðại vương, ngày xưa có một vũ công tên là Pàtala sống không xa
thành Ba-la-nại, trong một ngôi làng bên bờ sông. Một hôm y vào Ba-la-nại
cùng với vợ, và sau khi kiếm tiền được nhờ múa
hát, y ăn cơm uống rượu no say vào dịp lễ hội chấm dứt.
Trên đường về làng cũ, y
đến bờ sông ngồi ngắm dòng nước chảy vừa
uống rượu nồng. Trong lúc đang say không biết mình
sức yếu, y bảo: "Ta sẽ buộc ống sáo lớn vào cổ và
đi xuống sông". Y dắt vợ trong tay bước dần
xuống sông. Nước vào trong các lỗ ống sáo, rồi sức nặng của ống sáo
làm y bắt đầu chìm xuống.
Nhưng khi vợ thấy y chìm dần, nàng bỏ mặc y, bước lên khỏi sông và
đứng trên bờ.
Vũ công Pàtala lúc chìm lúc nổi và bụng trướng lên vì uống nước. Vì vậy
vợ y suy nghĩ: "Chồng ta sắp chết, ta muốn xin chàng một bài hát và sẽ kiếm
sống nhờ hát giữa đám đông", và nói:
- Chàng ơi, chàng sắp chìm xuống nước, xin hãy cho thiếp một bài hát nhờ
đó thiếp tìm ra cách nuôi thân.
Rồi nàng ngâm vần kệ:
1. Pà-ta bị cuốn bởi sông Hằng,
Ca vũ tài hoa tiếng lẫy lừng,
Chàng hởi! Chàng trôi theo sóng nước,
Xin chàng cho thiếp khúc ca ngâm.
Lúc ấy vũ công Pàtala nói:
- Nàng ơi, làm sao cho nàng một khúc ca bây giờ
đây? Nước vốn là nguồn cứu khổ cho con
người nay đang giết ta.
Và y ngâm một vần kệ:
2. Những người đang bất tử mê man,
Nhờ nước vào để cứu thương,
Ta bị chết ngay trong sóng nước,
Nơi nương tựa đã hoá tai ương!
Bồ -tát muốn giải thích vần kệ này, bảo:
- Tâu Ðại vương, giống như nước là nơi nương tựa của mỗi con người, cũng
vậy là vua chúa đối với dân. Nếu hiểm hoạ phát
sinh từ vua chúa, thì còn ai đề phòng
được hiểm hoạ ấy nữa? Tâu Ðại vương,
đây là một vấn
đề bí mật. Tiểu thần vừa kể một câu chuyện mà
người hiền trí có thể hiểu được. Xin Ðại
vương có thể hiểu nó.
- Này Hiền hữu, trẫm không hiểu chuyện bí mật như thế này
đâu. Hãy bắt bọn trộm
đến cho trẫm.
Sau đó Bồ-tát nói:
- Tâu Ðại vương, thế thì xin hãy nghe chuyện này và sẽ hiểu.
Rồi ngài lại kể một chuyện khác.
* Chuyện người thợ gốm.
- Tâu Ðại vương, ngày xưa trong ngôi làng ngoài cổng thành Ba-la-nại, có
một người thợ gốm thường tìm đất sét đem về làm
đồ gốm, và bao giờ cũng lấy
đất sét ở một nơi mà y
đào thành một cái hố sâu vào một hang
núi.
Bấy giờ, một hôm y đang đào
đất sét, một cơn giông bão trái mùa bùng
lên làm mưa rơi tầm tã, gây ngập lụt và làm sụp một bên hố khiến y bị vỡ
đầu. Y liền ngâm vần kệ, khóc than rên
rĩ:
3. Cái vật nhờ hạt nẩy mầm
Ðể nuôi sống tất cả người trần,
Ðã làm ta vỡ đầu ra đấy,
Chỗ dựa thành tai hoạ bản thân.
- Tâu Ðại vương, giống như đại địa cầu vốn là
nơi nương tựa của loài người, lại làm vỡ đầu
chú thợ gốm, cũng vậy, khi vua vốn như là nơi nương tựa của toàn dân,
lại đứng lên
đóng vai kẻ trộm, thì còn ai có thể
đề phòng hiểm hoạ ấy? Tâu Ðại vương, thế
Ðại vương có nhận ra tên trộm giả dạng trong câu chuyện này chăng?
- Này Hiền hữu, chúng ta không cần ý nghĩa ẩn kín trong
đó. Hãy nói rõ: "Ðây là tên trộm" và bắt
nó dẫn đến giao cho trẫm.
Vẫn bảo vệ nhà vua và không nói thành lời: "Chính Ðại vương là tên trộm",
ngài lại kể một chuyện khác.
* Chuyện ngọn lửa.
Tâu Ðại vương, ngay chính kinh thành này, có một nhà người kia bị cháy. Y
ra lệnh một người khác vào nhà đem tài
sản của y ra. Ðến khi chính chủ nhà này vào nhà và
đem đồ vật ra thì cánh cửa chợt
đóng lại. Y bị khói toả mù mịt không thể
tìm đường thoát ra và bị ngọn lửa lên
cao hành hạ đau đớn, y ở trong nhà khóc
vừa than vừa ngâm vần kệ này:
4. Cái vật làm tan vỡ giá băng
Và thiêu đốt hạt giống khô cằn,
Ðang thiêu huỷ tứ chi ta đó,
Chỗ dựa thành tai hoạ khổ thân.
- Tâu Ðại vương, có một người cũng giống như ngọn lửa, vốn là nơi nương
tựa của quần chúng, lại đi ăn trộm một số lớn
châu báu. Xin Ðại vương đừng hỏi tiểu
thần về tên trộm này nữa.
- Này Hiền hữu, cứ đưa tên trộm
đến cho trẫm.
Vẫn không nói rõ cho vua chính vua là kẻ trộm, ngài lại kể một chuyện
nữa.
* Chuyện bội thực.
- Tâu Ðại vương, ngày xưa chính tại kinh thành này có một người
ăn thái quá nên không thể tiêu hoá thức
ăn. Ðau đớn
điên cuồng, y ngầm vần kệ than khóc:
5. Thức ăn nuôi sống biết bao người
Ðạo sĩ, La-môn giữa đời,
Ðã giết chết ta đây trọn vẹn,
Nơi nương tựa hoá khổ đau rồi.
- Tâu Ðại vương, có một người vốn như lúa gạo, là nơi nương tựa của toàn
dân, lại ăn trộm tài vật. Khi tài vật
đã được thu
hồi, tại sao còn hỏi về tên trộm làm gì?
- Này Hiền hữu, nếu khanh có tài thì cố đem
tên trộm đến cho trẫm.
Ngài kể một chuyện khác để làm cho
vua hiểu.
* Chuyện gió thổi.
- Tâu Ðại vương, ngày xưa ngay chính kinh thành này có ngọn gió thổi lên
làm gãy tay chân một người. Y ngâm vần kệ than khóc:
6. Những bậc trí nhân vẫn nguyện cầu
Gió lành tháng sáu thổi lên mau.
Gió nay làm tứ chi ta gãy,
Chỗ dựa thành tai hoạ khổ đau!
- Tâu Ðại vương, như vậy quả thật hiểm nguy phát xuất từ nơi nương tựa
của thần. Xin hãy hiểu chuyện này.
- Hiền hữu, hãy đem tên trộm cho
trẫm.
Ðể làm cho vua hiểu, ngài lại kể một chuyện khác.
* Chuyện cành cây.
- Tâu Ðại vương, ngày xưa trên triền núi Tuyết Sơn có một cây mọc lên
chĩa ra nhiều nhánh làm nơi trú ẩn vô số chim muông. Một hôm hai cành cọ xát
vào nhau. Khói bốc ra rừ đó và các
đốm lửa rơi xuống. Thấy vậy, chim chúa ngâm vần
kệ này:
7. Lửa phát sinh ra ở ngọn cây
Chúng ta an trú bấy lâu nay,
Mau lên, giải tán bầy chim nhé,
Chỗ dựa thành nơi hiểm hoạ đầy.
- Tâu Ðại vương, giống như cây kia là nơi nương tựa của chim muông, cũng
vậy, vua là nơi nương tựa của thần dân. Nếu vua
đóng vai kẻ trộm, thì ai còn đề phòng
hiểm hoạ ấy nữa? Xin Ðại vương lưu ý điều này.
- Này Hiền hữu, cứ đem tên trộm
đến cho trẫm.
Sau đó ngài lại kể một chuyện khác
nữa:
* Chuyện giết mẹ già.
- Tâu Ðại vương, trong một làng ở Ba-la-nại, về phía tây một nhà quý tộc,
có con sông đầy cá sấu hung dữ, gia
đình ấy chỉ có một trai. Lúc cha mất,
cậu con chăm sóc mẹ già chu
đáo.
Dù con trai không muốn, bà mẹ vẫn đem một cô
gái quý tộc về làm vợ chàng. Ban đầu, nàng
tỏ ra yêu thương mẹ chồng, nhưng về sau dần dần nàng có
đủ con trai con gái đông đúc, nàng muốn
trừ khử bà đi.
Mẹ của nàng cũng ở nhà này. Trước mặt chồng, nàng tìm ra
đủ mọi lỗi lầm của mẹ chồng để làm cho
chồng có ác cảm với bà, và bảo:
- Thiếp không thể nuôi mẹ chàng được nữa. Chàng
phải giết mẹ đi.
Khi chàng bảo:
- Sát nhân là chuyện hệ trọng, làm sao ta có thể giết mẹ
được?
Nàng đáp:
- Khi nào mẹ chàng ngủ rồi, chúng ta sẽ đem
bà đi, luôn cả giường chiếu đồ đạc, rồi
ném bà vào sông cá sấu. Cá sấu sẽ kết liễu
đời bà.
- Thế mẹ nàng ở đâu?
- Mẹ thiếp ngủ cùng phòng với mẹ chàng.
- Thế thì nàng đi đánh dấu vào chiếc
giường mẹ ta nằm bằng cách buộc sợi dây thừng vào
đó.
Nàng làm như vậy rồi bảo:
- Thiếp đã
đánh dấu lên
đó rồi.
Người chồng đáp:
- Hãy đợi ta một lát, để mọi người đi ngủ
trước đã.
Rồi chàng nằm xuống giả vờ ngủ, sau đó, đi
buộc sợi dây thừng vào giường mẹ vợ. Sau
đó chàng đánh thức vợ dậy, cả hai cùng
đi khiêng bà mẹ lẫn tất cả giường chiếu
đồ đạc ném xuống sông. Bầy cá sấu giết chết bà
ăn thịt ngay tại chỗ.
Hôm sau nàng khám phá mọi việc đã xảy
ra cho chính mẹ mình, liền nói:
- Chàng ơi, mẹ thiếp đã chết rồi, nay
ta hãy giết mẹ chàng.
Chàng bảo:
- Ðược lắm. Chúng ta làm một giàn hoả tại nghĩa
địa, rồi thả bà vào
đó để giết bà.
Thế là hai vợ chồng khiêng bà ra nghĩa địa
trong lúc bà ngủ và đặt bà tại
đó. Rồi người chồng hỏi vợ.
- Nàng có đem lửa theo không?
- Chàng ơi, thiếp đã quên rồi.
- Vậy đi tìm lửa
đem về đây.
- Chàng ơi, thiếp không dám đi, còn
nếu chàng đi, thiếp không dám ở lại đây. Vậy
chúng ta cùng đi nhé.
Khi họ đi rồi, bà già tỉnh giấc vì
gió lạnh, thấy đấy là nghĩa
địa, bà suy nghĩ: "Chúng nó muốn giết
ta, chúng đã
đi tìm lửa. Chúng không biết ta mạnh dạn
ra sao đâu".
Bà liền lấy một tử thi đặt lên giường
và lấy khăn phủ kín, rồi chạy đi trốn trong
hang núi ở nơi ấy. Hai vợ chồng đem lửa về, tưởng tử thi ấy là bà
già, họ đốt xác rồi ra về.
Có một kẻ trộm kia dấu một gói đồ vật trong
hang núi ấy, lúc trở về thấy bà già, y suy nghĩ: "Ðây chắc là quỷ
Dạ-xoa. Gói đồ đạt của ta bị quỷ ám". Thế là
y đi tìm thầy bùa trừ tà.
Thầy bùa đọc thần chú và
đi vào hang. Bà già bảo:
- Ta không phải là quỷ Dạ-xoa, nào chúng ta cùng hưởng số báu vật này.
- Làm sao tin được chuyện này?
- Cứ đặt lưỡi ông trên lưỡi ta
đây.
Thầy bùa làm theo, bà già cắn một khúc lưỡi của thầy và nhả xuống
đất. Thầy bùa suy nghĩ: "Chắc chắn
đây là quỷ Dạ-xoa". Thầy bùa vừa chạy
vừa la to, với cái lưỡi chảy máu ròng ròng. Hôm sau bà già mặc y phục sạch
sẽ và đi lấy gói báu vật đem về. Nàng
dâu thấy bà vội hỏi:
- Mẹ ơi mẹ tìm gói này ở đâu thế?
- Con yêu quí ơi, hễ ai bị đốt cháy trên
giàn hoả trong nghĩa địa này
đều tìm
được một gói như vậy.
- Mẹ yêu quí ơi, thế con có thể tìm được gói
này chăng?
- Nếu con cũng làm như ta thì con cũng có
được.
Thế rồi nàng không nói gì với chồng, và trong lòng ước muốn có
được số châu báu để đeo, nàng
đi đến đó tự thiêu sống. Hôm sau, chồng
nàng thấy vợ vắng, liền hỏi:
- Mẹ yêu quí ơi, giờ này sao con dâu mẹ chưa
đến?
- Này đồ bất nhân kia, người chết làm
sao trở về được?
Rồi bà già ngâm vần kệ:
8. Một gái xuân xanh đẹp biết bao
Với vòng hoa trắng đội trên
đầu
Dầu thơm sực nức chiên-đàn toả,
Ðã được ta ngày trước
đón dâu;
Nương tử hân hoan mong ngự trị
Trong nhà ta ở tự bao lâu;
Con dâu đuổi mẹ đi nơi khác,
Chỗ dựa thành tai hoạ thảm sâu!
- Tâu đại vương, giống như con dâu đối với
mẹ chồng, cũng vậy, vua là nơi tựa của toàn dân. Nếu hiểm hoạ xuất
phát từ đó, thì ta có thể làm gì
được nữa? Xin đại vương hãy chú ý
điều này.
- Này hiền hữu, trẫm không hiểu những việc khanh nói với trẫm. Cứ
đem tên trộm lại
đây cho trẫm.
Ngài suy nghĩ: "Ta muốn che chở vua", rồi ngài lại kể một chuyện khác.
* Chuyện đuổi cha già
- Tâu Ðại vương, ngày xưa nay trong kinh thành này, một người kia sinh
con trai đúng như lời nguyện cầu. Khi đứa con
ra đời, người cha vui mừng hớn hở vì ý tưởng có
được con trai, nên yêu quí nó lắm.
Khi đứa trẻ lớn lên, người cha cưới
vợ cho con rồi dần dần ông già yếu không làm
được việc nữa. Vì thế con ông bảo:
- Cha không làm việc được nữa, cha phải ra
khỏi đây.
Rồi nó đuổi cha ra khỏi nhà.
Ông cha hết sức chật vật kiếm sống bằng nghề hành khất, vừa ngâm vần kệ
vừa khóc than:
9. Kẻ mà ta ước muốn sinh ra,
Cũng chẳng hoài công mong đợi kia
Lại đuổi ta đi: Nơi trú ẩn
Hoá thành tai hoạ khổ thân ta.
- Tâu đại vương, giống như người cha già
phải được đứa con khoẻ mạnh chăm sóc, cũng vậy,
là toàn dân phải được vua bảo vệ, giờ
đây mối hiểm hoạ lại xuất phát từ vua, người bảo vệ toàn dân. Tâu Ðại
vương, xin hãy hiểu từ việc này rằng kẻ trộm là người như vậy như vậy.
- Trẫm không hiểu việc này, dù đó là
sự thực hay không phải sự thực. Hoặc là ngươi phải mang kẻ trộm
đến đây cho trẫm, hoặc chính ngươi là kẻ
trộm ấy.
Vua cứ bảo chàng thanh niên như vậy mãi. Vì thế ngài hỏi vua:
- Tâu Ðại vương, Ðại vương thực sự muốn kẻ trộm bị bắt chăng?
-Ðúng vậy, Hiền hữu.
- Thế thì tiểu thần sẽ công bố giữa quần chúng rằng kẻ trộm là người như
vầy như vầy.
- Hãy làm như vậy, này Hiền hữu.
Khi nghe vua nói, ngài suy nghĩ: "Vua này không cho phép ta che chở nữa.
Ta sẽ bắt tên trộm bây giờ".
Khi quần chúng đã tụ tập
đầy đủ, ngài vần kệ với họ:
10. Này dân thành thị đến nông làng
Tề tựu lắng nghe tất cả rằng:
Kìa! Nước lạnh nay đang đang bốc cháy
Chốn bình an phát xuất kinh hoàng.
Ðại vương, Ðạo sĩ cùng than vãn
Quốc độ bị cường đạo phá tan.
Vậy mọi người dân lo tự vệ,
Nơi nương tựa bỗng hoá tai nàn.
Khi quần chúng nghe nói vậy, họ suy nghĩ: "Vị vua này, mặc dù phải bảo vệ
thần dân, lại đổ lỗi cho người khác. Sau khi
chính tay vua bỏ báu vật vào hồ, vua lại
bảo đi tìm kẻ trộm! Ðể cho vua khỏi
đóng vai kẻ trộm trong tương lai, chúng ta phải giết hôn quân vô đạo này".
Vì thế họ đứng lên với trượng, chùy
trong tay đánh vua và vị tế sư cho
đến chết tại chỗ. Rồi họ làm lễ quán
đảnh (rảy nước thánh phong vương) Bồ-tát và
đưa ngài lên ngôi.
*
Sau khi kể chuyện này để làm sáng tỏ
các Sự Thật, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này cư sĩ, không kỳ diệu gì khi nhận ra dấu chân trên mặt
đất, vì các bậc trí ngày xưa còn nhận ra
chúng trên không nữa.
Lúc kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ cùng con trai
đắc Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, người cha là Kassapa (Ca-diếp) và chàng thanh niên có tài nhận dấu
chân chính là Ta.
-ooOoo-
433. Chuyện Vị Khổ Hạnh Ca- Diếp Nhiều Lông Tóc
(Tiền thân Lomasa Kassapa)
Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra...,
Bậc Ðại Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm
thế tục.
Bậc Ðạo Sư hỏi vị ấy có thật ông đang mơ
tưởng chuyện thế tục chăng, và khi ông công nhận là
đúng như vậy, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này Tỷ-kheo, ngay cả người đạt danh vọng
tối cao đôi khi cũng phạm vào một việc ô danh. Những tội lỗi như thế
làm ô uế những vị thanh tịnh, huống nữa là một kẻ như ông.
Rồi Ngài một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa vương tử Brahmadatta, con vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, và con
trai vị tế sư hoàng gia tên là Kassapa là đôi
bạn đồng học mọi nghệ thuật tại nhà một giáo sư. Dần dần khi vua cha
băng hà, thái tử lên trị vì quốc
độ. Kassapa nghĩ: "Hiền hữu ta đã lên
làm vua và sẽ ban đại quyền lực cho ta. Song ta
có cần gì quyền lực? Ta muốn giã từ đức
vua cùng song thân và trở thành vị khổ hạnh".
Vì vậy ngài vào vùng Tuyết Sơn sống đời tu hành,
vào ngày thứ bảy ngài thành đạt các Thắng trí và
các Thiền chứng và tự kiếm sống bằng những thứ nhặt
được giữa đồng hoang. Quần chúng đặt cho ngài
biệt danh nhà khổ hạnh Lomasa Kassapa (Ca-diếp có nhiều lông tóc).
Vì hành hạ thân xác, và trở thành vị khổ hạnh khắc nghiệt cao
độ. Do công năng khổ hạnh này, cung của
Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) rúng động. Sakka suy
xét duyên cớ, quan sát ngài và suy nghĩ: "Vị khổ hạnh này nhờ công năng
toả nhiệt độ mãnh liệt như thế, có thể khiến ta rớt khỏi ngai Ðế
Thích. Ta sẽ phá huỷ khổ hạnh của vị ấy sau khi bí mật hội kiến với vua
Ba-la-nại".
Nhờ thần lực của một vị Thiên chủ, Ðế Thích vào cung của vua Ba-la-nại
lúc nửa đêm và chiếu sáng toàn thể cung
thất với hào quang trên thân, vừa đứng trên
không trước mặt vua, Thiên chủ vừa thức vua dậy và nói:
- Thưa Ðại vương, dậy đi.
Vua hỏi:
- Ngài là ai? Vua hỏi.
- Ta là Sakka. Thiên chủ đáp
- Ngài đến đây vì duyên cớ gì?
- Thưa Ðại vương, Ðại vương có muốn quyền ngự trị duy nhất toàn cõi
Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) này chăng?
-
Dĩ nhiên trẫm muốn.
Nghe thế thiên chủ bảo:
- Vậy hãy đưa Lomasa Kassapa về đây và
ra lệnh cho vị ấy làm lễ tế đàn bằng
cách giết thú vật, rồi Ðại vương sẽ trở thành vĩ
đại như Thiên chủ Sakka (tức Indra),
thoát khỏi già chết, và cầm quyền khắp cõi Diêm- phù-đề.
Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra,
Sẽ chẳng chết đi, cũng chẳng già,
Ví thử Kas-sa-pa nhận lệnh
Tế đàn sinh vật tại cung vua.
Nghe lời ngài, vua sẵn sàng chấp thuận. Sakka bảo:
- Thế thì đừng chậm trễ.
Rồi ngài biến mất.
Hôm sau, vua triệu vị quốc sư tên Sayha đến
bảo:
- Này Tôn giả, xin đến gặp thân hữu Lomasa
Kasaspa của trẫm và nhân danh trẫm nói với người như vầy: "Nếu Ðại
vương khuyến dụ được ngài làm lễ hiến tế
sinh vật, đại vương sẽ trở thành vị chúa
độc nhất ở toàn cõi Diêm-phù-đề
và sau đó ban ngài nhiều vùng
lãnh thổ như ý ngài muốn. Vậy xin ngài cùng đi
với tôi về làm lễ tế đàn".
Vị ấy đáp:
- Tâu Ðại vương, xin vâng.
Sau đó dùng trống lệnh truyền tìm chỗ
vị khổ hạnh cư trú, và khi có người kiểm lâm bảo: "Tiểu thần biết", Sayha
liền đi theo sự hướng dẫn của y cùng một
đoàn tuỳ tùng
đông đảo, đến kính lễ vị hiền nhân và
vừa cung kính ngồi một bên, vừa trình thông
điệp của vua. Vị hiền nhân liền bảo:
- Này Sayha, Tôn giả nói gì vậy?
Rồi Ngài ngâm bốn vần kệ từ chối vị này:
2. Không hải đảo nào giữa
đại dương
Ðược người canh giữ thật an toàn
Hòng mong lôi cuốn ta, Tôn giả,
Vào việc bạo tàn đại bất lương.
3. Lòng tham lợi dưỡng với vinh danh,
Tội ác từ đây vẫn phát sinh,
Ðưa đến khổ ưu không gián đoạn
Ác hành tai hại đáng chê khinh!
4. Thà làm kẻ khốn khó ly gia,
Khất thực kiếm ăn khắp mọi nhà
Hơn phải tạo nên điều tội lỗi
Sẽ mang ô nhục trút đầu ta.
5. Thà cầm bình bát ở trong tay
Ðể tránh thật xa tội lỗi này,
Hơn chiếm được toàn quyền quốc
độ
Nhờ hành động ác độc như vầy.
Sau khi nghe ngài nói, vị quốc sư ra về trình vua. Vua suy nghĩ: "Nếu vị
ấy không chịu đến đây thì ta làm gì
được?", rồi ngồi im lặng. Nhưng nửa đêm,
Thiên chủ Sakka lại đến đứng trên không
và bảo:
- Thưa Ðại vương, tại sao Ðại vương không truyền gọi ẩn sĩ Lomasa Kassapa
về và ra lệnh vị ấy làm lễ hiến tế súc vật?
- Khi được lệnh truyền gọi, vị ấy đã
từ chối về đây.
- Thưa Ðại vương, hãy trang điểm cho công
chúa Candavatì (Nguyệt Nương), ái nữ của Ðại vương, và nhờ chính tay
Sayha đưa nàng
đi và bảo vị ấy: "Nếu Tôn giả muốn về
dâng tế lễ, Chúa thượng sẽ ban thưởng công nương này làm vợ ngài". Rõ ràng
vị ấy sẽ sinh lòng say mê công chúa và về đây.
Vua sẵn sàng chấp thuận và hôm sau nhờ chính tay Sayha
đưa công chúa đi. Sayha đem công chúa đến đó, và
sau lời chào hỏi thông thường cùng ca ngợi vị hiền giả, vị quốc sư bảo
đưa đến trình diện với ngài nàng công
chúa diễm lệ khả ái như tiên nữ cung kính đứng
xa xa.
Vị khổ hạnh mất ngay trí đức khi nhìn
thấy nàng và chỉ nhìn thế thôi, ngài đã
tiêu tan hết Thiền lực. Vị quốc sư thấy ngài đã
đắm say luyến ái nàng, liền bảo:
- Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả muốn hiến tế, Chúa thượng sẽ ban công chúa
này về làm vợ ngài.
Ngài rung động vì mãnh lực của tham
dục liền hỏi:
- Chắc chắn Chúa thượng sẽ ban nàng cho ta chứ?
- Ðúng vậy, nếu ngài làm tế lễ, Chúa thượng sẽ ban nàng cho ngài.
- Tốt lắm. Nếu ta được nàng, ta sẽ
làm lễ hiến tế.
Rồi đem nàng
đi cùng ngài ngay lúc ấy với các chòm
tóc bện của một vị khổ hạnh và mọi thứ khác, ngài leo lên chiếc vương xa
lộng lẫy đi về Ba-la-nại. Còn vua, ngay
khi nghe tin đang chắc chắn đến đó, liền chuẩn
bị lễ đàn ở hố hiến tế sinh vật.
Khi thấy ngài đã
đến, vua bảo:
- Nếu Hiền hữu dâng lễ hiến tế, trẫm sẽ sánh ngang với Thiên chủ Indra,
và khi tế lễ hoàn tất, trẫm sẽ ban công chúa cho Hiền hữu.
Vị khổ hạnh Kasapa sẵn sàng chấp thuận.
Vì thế hôm sau vua cùng công chúa Candavatì
đi đến hố hiến tế sinh vật. Tại đó có đủ loại súc vật bốn chân như voi,
ngựa, bò đực và các loài khác
đặt thành một dãy. Ẩn sĩ Kasapa lãnh
việc hiến tế bằng cách giết chết tất cả bọn chúng.
Lúc ấy thần dân tụ tập quanh đó bảo:
- Hỡi Tôn giả Lomasa Kasapa, việc này không thích hợp cũng không xứng
đáng với ngài, tại sao ngài làm như vậy?
Và vừa than vừa khóc, họ vừa ngâm hai vần kệ:
6. Nhật, nguyệt đều mang đại lực thân,
Thuỷ triều không nhượng lực phàm trần,
La-môn, Ðạo sĩ đầy oai lực,
Song vẫn kém xa lực nữ nhân.
7. Nguyệt Nương cũng vậy, đã làm cho
Ca-diếp Hiền nhân mắc tội to,
Thúc giục ngài theo lời Chúa thượng
Tế đàn sinh vật tại cung vua.
Vào lúc này để bắt đầu tế lễ, Kasapa nhấc
bảo kiếm lên để đánh vào cổ vương
tượng. Con voi thấy thanh kiếm, kinh hoàng sợ chết, liền rống thật lớn. Khi
nghe tiếng voi rống, các súc vật kia, cả bầy voi ngựa, bò
đực vì sợ chết,
đồng rống lên thật lớn và quần chúng
cũng kêu thét lên.
Kasapa nghe các tiếng rống kia, lòng xúc
động và nghĩ lại các chòm tóc bện của mình. Lúc ấy ngài nhờ
đến các chòm tóc, râu và lông phủ khắp
ngực và toàn thân. Ðầy hối hận, ngài kêu lớn:
- Than ôi, ta đã phạm ác nghiệp không
xứng đáng với tính cách của ta.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám bày tỏ xúc động
của mình:
8. Ác nghiệp này ta đã muốn làm,
Chính là kết quả của lòng tham,
Cái mầm dục vọng đang tăng trưởng,
Gốc rễ nó, ta quyết cắt ngang.
Sau đó vua phán:
- Này Hiền hữu, đừng sợ, hãy dâng tế
lễ và ngay bây giờ trẫm sẽ ban cho Hiền hữu công chúa Candavatì, cùng với
vương quốc của trẫm và cả một đống châu báu cao
ngất nữa.
Nghe thế, ẩn sĩ Kassapa đáp:
-Tâu Ðại vương, ta không muốn tội ác này tràn ngập tâm ta.
Rồi ngâm vần kệ kết thúc:
9. Ðáng ghét bao tham dục thế thường
Thà theo khổ hạnh tốt lành hơn,
Ta làm ẩn sĩ nguyền ly dục,
Ngài giữ nước nhà với Nguyệt Nương.
Cùng với những lời này, ngài tập trung vào một
đối tượng Thiền quán. Khi phục hồi được định
lực đã mất, ngài ngồi bắt chéo chân trên không, thuyết Pháp cho vua,
khuyên nhủ vua tinh cần làm thiện sự và bảo vua huỷ bỏ tế
đàn cùng ban lệnh ân xá cho quần chúng.
Rồi thể theo lời thỉnh cầu của vua, ngài bay lên không trở về nơi an trú của
mình. Trong thời gian ngài còn sống, ngài tu tập các Phạm trú Viên mãn (Tứ
Vô lượng tâm ) và được sinh lên Phạm
thiên giới.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự
Thật, vị Tỷ-kheo có tâm thế tục đã
đắc Thánh quả (A-la-hán).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thuở ấy vị đại quốc sư là Sàriputta
và vị khổ hạnh Lomassa Kasapa chính là Ta.
-ooOoo-
434. Chuyện Chim Hồng Nga (Tiền thân Cakkavàka)
Ðôi chim lông óng ả, màu vàng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham
lam.
Người ta bảo vị ấy tham muốn các vật dụng cần thiết trong
đời sống xuất gia và bỏ quên mọi phận sự
của một sư trưởng và giáo thọ hướng dẫn đệ tử,
thường vào thành Sàvatthi thật sớm. Sau khi
ăn cháo gạo tuyệt hảo với nhiều loại thực phẩm
loại cứng tại nhà nữ cư sĩ Visàkha, lại
ăn thêm suốt ngày nhiều loại cao lương mỹ vị với cơm thịt, và vẫn
chưa thoả mãn, ông đi từ đó đến nhà ông
Tiểu Cấp Cô Ðộc, cung vua Kosala và nhiều nơi khác nữa. Vì thế một hôm có
cuộc thảo luận tại Chánh pháp đường liên
hệ đến tính tham lam của ông.
Khi bậc Ðạo Sư biết đề tài Tăng
chúng đang thảo luận, Ngài truyền đưa vị
Tỷ-kheo đến và hỏi có thật ông tham lam chăng.
Và khi ông đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn,
Bậc Ðạo Sư hỏi:
- Này Tỷ-kheo, tại sao ông tham lam? Ngày xưa cũng vì tham
ăn, không thỏa mãn với những xác voi
chết, ông đã rời Ba-la-nại và lang thang
quanh quẩn bờ sông Hằng, vào tận vùng Tuyết Sơn.
Và sau đó ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một con Quạ tham lam
đi quanh quẩn ăn xác voi chết, và không
thoả mãn, nó nghĩ: "Ta muốn ăn mỡ cá trên
bờ sông Hằng". Rồi sau vài ngày ở tại đó ăn cá
chết, nó vào vùng Tuyết Sơn sống bằng các loại quả rừng.
Khi đến một hồ sen rộng nhiều rùa cá,
nó thấy hai con chim Thiên nga với bộ lông vàng óng ả sống bằng cây rong
Sevàla, nó nghĩ: "Ðôi chim này thật mỹ lệ, đầy
hảo tướng. Thức ăn của chúng chắc phải thích thú lắm. Ta muốn hỏi chúng đó là
thức gì, rồi cũng ăn như thế và ta sẽ có
màu lông óng ả kia".
Vì vậy Quạ đến gần, sau lời chào hỏi
ân cần theo thông lệ với đôi chim khi chúng
đang đậu trên ngọn cây, quạ ngâm vần kệ ca ngợi chúng:
1. Ðôi chim lông óng ả màu vàng
Quanh quẩn đó đây, lạc thú tràn
Chim loại gì người yêu mến nhất
Là điều ta mong muốn biết cho tường.
Nghe vậy, Hồng nga ngâm vần kệ thứ hai:
2. Này Quạ, vượt lên mọi dã cầm,
Hồng nga được hạnh phúc ban ân
Mọi miền vang dậy tình thân ái
Người lẫn chim đều vẫn tán dương
Hãy biết Hồng nga là Ngỗng đỏ
Bạo gan vùng vẫy nước sông Hằng
Nghe vầy, Quạ ngâm vần kệ thứ ba:
3. Trái gì sung mãn ở trên sông
Tìm thấy "thịt" cho bạn Ngỗng hồng?
Hãy nói món trời cho Ngỗng hưởng
Ðể sinh sắc đẹp, lực tăng cường?
Hồng nga liền ngâm vần kệ thứ tư:
4. Chẳng trái gì ăn ở giữa sông,
Và đâu có: "thịt" với chim Hồng
Sè-và-la ấy đem chà vỏ
Làm thức ăn không có lỗi lầm.
Sau đó Quạ ngâm hai vần kệ:
5. Ta chẳng thích lời ấy, Ngỗng hồng,
Trước kia ta thưởng thức cần dùng
Ðể nuôi ta sống, cần phù hợp
Với dáng bề ngoài ta ước mong.
6. Nay ta nghi hoặc, bởi ta ăn
Gạo, muối, dầu, bơ, thịt, quả ngon
Như các anh hùng say yến tiệc
Khi vừa trở lại khải hoàn môn
Vậy ta thưởng thức đầy hương vị,
Song dẫu ta đang sống thật là sang,
Hình dáng bề ngoài ta vẫn thế
Bên Hồng nga chẳng thể ngang bằng!
Sau đó Hồng nga bảo cho Quạ biết lý do tại
sao Quạ không đạt được dung sắc mỹ lệ trong khi chính Hồng Nga đã
đạt được qua các vần kệ còn lại:
7. Không thoả vì hoa quả rớt rơi
Trong vùng nghĩa địa hoả thiêu người,
Tham lam, Qua vẫn bay lơ lững
Săn đuổi mồi ngon cám dỗ hoài.
8. Song những ai mong phạm ác hành,
Chỉ vì dục lạc, giết sinh linh,
Lương tâm giày xéo thân mòn mỏi,
Vẻ đẹp, tráng cường huỷ hoại nhanh.
9. Vậy cái thiện nhân chẳng hại ai,
Hình dung cường tráng, vẻ xinh tươi,
Bởi vì mỹ sắc, ta cần biết,
Chẳng phải thuộc vào thực phẩm thôi.
Như vậy Hồng nga dùng nhiều phương tiện chỉ trích Quạ. Sau khi Quạ bị
khiển trách như vậy, nó bảo:
- Ta chẳng muốn có sắc đẹp cuả Thiên
nga nữa.
Và nó bay đi xa với tiếng kêu quác
quác.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự
Thật, vị Tỷ-kheo tham lam đã
đắc Nhị quả (Nhất Lai).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham lam này, Hồng nga mái là mẫu thân
Ràhula và Hồng nga trống chính là Ta.
-ooOoo-
435. Chuyện Ước Mơ Chóng Phai Tàn (Tiền thân Halidaràga)
Trong chốn rừng hoang vắng một mình...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một chàng thanh
niên bị một thiếu nữ thô tục cám dỗ. Phần duyên khởi chuyện này sẽ xuất hiện
trong Chương Mười ba, Tiền thân Cullàrada, số 477, tập IV.
*
Bấy giờ theo cổ tích này, cô thiếu nữ biết rằng nếu chàng thanh niên khổ
hạnh phá huỷ giới đức, chàng sẽ rơi vào
uy lực của nàng. Rồi nghĩ cách dụ dỗ chàng và
đưa chàng trở lại cõi trần tục, nàng bảo:
- Giới đức được hộ phòng cẩn mật ở
rừng sâu, nơi các đặc tính của dục lạc như sắc
đẹp, tiếng hay và các thứ tương tự như thế không có mặt, nên giới
đức ấy không mang lại nhiều kết quả; song nó sẽ
mang kết quả sung mãn trong cõi đời thế
tục khi đối diện trực tiếp với sắc đẹp, cùng các thứ kia. Vậy chàng
hãy đi cùng thiếp về hộ phòng giới
đức tại đó.
Và nàng ngâm vần kệ đầu:
1. Trong chốn rừng hoang vắng một mình
Con người có thể giữ tâm lành,
Dễ dàng chịu đựng trò lôi cuốn,
Song ở thôn quê hoặc thị thành
Ðầy rẫy biết bao mùi cám dỗ
Người vươn đến hạnh phúc tối cao minh.
Khi nghe vậy, chàng khổ hạnh trẻ tuổi đáp:
- Cha ta đã vào rừng. Khi người trở
lại, ta sẽ xin phép người và đi theo nàng.
Nàng suy nghĩ: "Có lẽ chàng còn thân phụ. Nếu vị ấy thấy ta ở
đây, vị ấy sẽ lấy đầu mũi đòn gánh
đánh chết ta. Ta phải chạy trốn trước". Vì
thế nàng bảo chàng trai:
- Thiếp sẽ ra đi lên
đường về trước chàng và
để lại dấu chân sau đó, chàng cần phải
đi theo thiếp.
Khi nàng đã
đi rồi, chàng không
đem củi về, cũng không lấy nước uống, mà
chỉ ngồi thừ người suy nghĩ miên man, đến khi
cha về, chàng cũng không ra đón.
Vì thế cha chàng hiểu con ngài đã rơi
vào uy lực của nữ nhân, liền bảo:
- Này con, sao con chẳng tìm củi hay mang nước về uống, cũng chẳng có gì
ăn, sao con chẳng làm gì cả mà chỉ ngồi
người ra suy nghĩ?
Chàng trai khổ hạnh đáp:
- Thưa cha, người ta nói rằng giới đức được
hộ phòng trong rừng hoang không đem lại
kết quả mấy, nhưng nó sẽ phát sinh nhiều kết quả giữa của đời. Con muốn đi hộ
phòng giới đức tại đó. Bạn đồng hành
của con đã
đi trước và bảo con theo sau. Vậy con muốn
đi cùng bạn con. Nhưng khi sống tại
đó, con phải cư xử theo cách nào?
Vừa hỏi câu này, chàng vừa ngâm vần kệ thứ hai:
2. Thưa cha, xin giải toả nghi nan:
Ví lỡ con đi lạc bước đường,
Từ chốn rừng này vào xóm nọ,
Người nào giữ đức độ hiền lương,
Hay là môn phái nào tu tập
Con phải noi theo thật chánh chơn?
Sau đó thân phụ chàng ngâm các vần kệ
còn lại:
3-4. Một kẻ nào con tín nhiệm luôn,
Và con tạo được mối yêu thương,
Người này tin cậy lời con nói,
Tỏ với con kiên nhẫn nhịn nhường,
Người ấy chẳng bao giờ phạm lỗi
Về lời nói, ý tưởng hay thân,
Hãy đem người ấy vào lòng dạ
Theo sát người kia tựa bạn vàng
5-6. Với hạng người thay đổi lạ lùng
Như lời loài khỉ vượn nhảy lung tung,
Tính tình bất định, thì con nhớ
Ðừng hướng tâm giao kết bạn cùng,
Dù số phần con quanh quẩn mãi
Một mình trơ trọi ở trong rừng.
7. Hãy tránh xa đường hướng ác hành,
Như con tránh rắn dữ cho nhanh,
Hay như người lái xe xa lánh
Một lối đi gai gốc gập ghềnh.
8-9. Các nỗi khổ đau vẫn ngập tràn
Khi người hầu cận hạng si cuồng,
Ðừng giao kết bọn người ngu xuẩn,
Lời nói của cha phải phục tuân,
Làm bạn với phường vô trí ấy
Chỉ làm mồi khổ não đau buồn.
Khi được cha khuyến giáo như vậy, chàng
trai đáp:
- Nếu con đi đến chỗ người đời, con không
thể tìm được các bậc hiền trí như cha.
Con sợ đến đó lắm rồi. Con muốn ở lại đây hầu cận bên cha.
Sau đó phụ thân chàng lại khuyến giáo
nhiều hơn nữa và dạy chàng các nghi thức tu tập
đưa đến Thiền định vi diệu. Rồi chẳng bao lâu, chàng trai phát triển
các Thắng Trí và các Thiền chứng và về sau chàng cùng cha
đều được sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự
Thật, vị Tỷ-kheo mơ tưởng thế tục đã
đắc Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vị khổ hạnh trẻ tuổi là Tỷ-kheo có tâm hướng về thế tục này, cô
gái thuở ấy là cô gái ngày nay và cha chàng chính là Ta.
-ooOoo-
436. Chuyện Cái Hộp (Tiền thân Samuggu)
Kìa đến từ đâu, các bạn ta?...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm
hướng đến thế tục.
Chuyện kể rằng bậc Ðạo Sư hỏi có thật vị ấy
đang tham đắm thế tục chăng, và khi ông thú nhận
đúng như vậy. Ngài bảo:
- Này Tỷ-kheo, tại sao ông ham muốn nữ nhân? Nữ nhân thật là
độc ác, vô ơn. Ngày xưa các ác quỷ Asura
(A-tu-la) nuốt nữ nhân vào bụng và dù canh giữ nữ nhân trong bụng, chúng
cũng không thể làm cho nữ nhân trung thành với một nam nhân
được. Vậy thì bằng cách nào ông sẽ có
khả năng làm chuyện ấy.
Rồi sau đó Ngài kể một chuyện
đời xưa.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát từ bỏ tham dục
lạc thế gian, vào vùng Tuyết Sơn theo đời tu
tập, ngài ở đó sống bằng quả rừng và
phát triển các Thắng trí cùng các Thiền chứng.
Không xa thảo am của ngài, có một ác quỷ Asura (A-tu-la). Thỉnh thoảng nó
đến gần bậc Ðại Sĩ và nghe Pháp, nhưng
vẫn đứng trong rừng trên xa lộ, nơi có
nhiều người tu tập, nó bắt họ và ăn thịt.
Thời ấy có một nữ nhân quý tộc ở quốc độ Kàsi,
cực kỳ diễm lệ, sống ở một làng biên địa. Một
hôm nàng đi thăm cha mẹ và khi
trở về, ác quỷ này thấy bọn người theo hộ tống nàng liền hoá hình khủng
khiếp nhảy vào họ. Bọn người này đánh rơi khí
giới cầm trong tay và chạy trốn. Ác quỷ thấy giai nhân ngồi trên xe
ngựa, đâm ra say mê nàng, liền
đem nàng về làm vợ.
Từ đó ác quỷ đem cho nàng bơ sữa,
gạo, cá, thịt và các món ăn khác, cùng
trái cây để ăn và
điểm trang nàng với
đủ thứ y phục châu báu. Ðể canh giữ nàng
cho an toàn, nó đặt nàng vào một cái
hộp, rồi nuốt vào bụng và giữ nàng trong bụng.
Một hôm nó muốn tắm, liền đến hồ nước kéo
hộp ra và đem nàng ra ngoài, nó
tắm rửa, xoa dầu thơm cho nàng và khi đã
mặc xiêm y cho nàng xong, nó bảo:
- Nàng hãy vui chơi giây lát ngoài trời.
Rồi không nghi ngờ có sự nghi hại nào, ác quỷ
đi hơi xa để tắm.
Vừa lúc ấy chàng con trai của Vàyu, một tà thuật sư,
đeo kiếm bên lưng,
đang du hành trên không. Khi nàng thấy
y, nàng đưa tay theo kiểu làm dấu hiệu
cho y đến gần.
Tà thuật sư liền đáp xuống đất. Sau đó nàng
đặt y vào hộp rồi ngồi lên
đó, đợi ác quỷ Asura đến, trước khi nó bước lại
gần chiếc hộp, nàng mở hộp ra và bước vào, nằm trên vị tà thuật sư,
lấy xiêm áo của nàng phủ lên người y. Ác quỷ Asura
đến nơi, không quan sát kỹ chiếc hộp cứ tưởng
chỉ có cô nàng, nên lại nuốt hộp vào bụng và trở về hang.
Trong khi đi đường, nó suy nghĩ: "Ðã
lâu lắm từ khi ta thăm vị ẩn sĩ khổ hạnh. Hôm
nay ta muốn đi đảnh lễ ngài". Còn ngài
đã thấy nó từ đằng xa, biết rằng có hai
người trong bụng ác quỷ, nên ngài ngâm vần kệ
đầu bảo nó:
1. Kìa đến từ đâu, các bạn ta?
Chào mừng ba vị đến thăm nhà,
Vui lòng ở với ta giây lát,
Ta chắc các ngươi sống thuận hoà,
Hạnh phúc, vì lâu ngày chẳng thấy
Vị nào qua lại chốn đường xa.
Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy nghĩ: "Ta đã
đến đây một mình
để thăm vị khổ hạnh này, và ngài lại nói
có ba người; ý ngài muốn ám chỉ gì vậy? Ngài nói vì biết rõ hiện trạng mọi
việc, hay ngài hoá điên và nói nhảm
nhí?" Sau đó nó đến gần ngài kính cẩn
ngồi một bên và ngâm vần kệ thứ hai đàm
đạo với ngài:
2. Tôi đến thăm ngài chỉ một thân
Chứ không người, vật khác đi cùng,
Cớ sao ngài nói, thưa Tôn giả,
"Kìa đến từ đâu, các bạn vàng,
Tất cả ba người cùng đủ mặt
Hôm nay quả thật đáng chào mừng!"
Vị khổ hạnh này đáp:
- Ngươi có thật sự muốn nghe lý do chăng?
- Thưa vâng, bạch Thánh giả.
- Vậy hãy nghe đây.
Ngài đáp và ngâm vần kệ thứ ba:
3. Hãy biết rằng ngươi với vợ ngươi,
Nằm yên trong hộp ấy là hai
Ðược canh phòng kỹ trong lòng kín,
Chơi với Và-yu Tứ thật vui!
Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy nghĩ: "Các tà thuật sư chắc chắn phải
đầy các trò xảo quyệt, giả sử hắn cầm
kiếm trong tay và rạch bụng ta ra để trốn thoát
thì sao?"
Và vô cùng hốt hoảng, ác quỷ nhả chiếc hộp ra,
đặt trước mặt nó.
Bậc Ðạo Sư muốn làm sáng tỏ vấn đề với Trí
tuệ tối thắng của ngài, liền ngâm vần kệ thứ tư:
4. Ác quỷ vì gươm, thấy hãi kinh,
Nhả ra chiếc hộp tự trong mình,
Ðặt ngay xuống đất nhìn cô vợ
Trang điểm vòng hoa thật
đẹp xinh
Như thế cô dâu cùng chú rể
Và- yu Tử nọ hưởng men tình!
Chiếc hộp vừa được mở ra thì vị tà
thuật sư niệm thần chú, vừa chụp thanh kiếm vừa vụt lên không. Khi thấy vậy,
ác quỷ Asura hài lòng vì bậc Ðại Sĩ đến độ nó
ngâm các vần kệ được gợi cảm hứng cốt để ca tụng ngài:
5. Thánh giả nhãn quang thấy rõ ràng
Ðắm chìm hạ liệt bọn nam nhân,
Làm thân nô lệ cho nhi nữ,
Tôi giữ nó vào trong bụng luôn
Như chính đời tôi song khốn nạn,
Nó chơi trò mất nết hư thân.
6. Ngày đêm săn
sóc nó, canh chừng
Như ẩn sĩ chăm chút lửa rừng,
Song nó vẫn sa vào tội lỗi
Vượt ngoài vòng đạo lý công bằng.
Dính vào nữ giới tất nhiên phải
Gánh chịu bao ô nhục cuối cùng.
7. Tưởng dấu trong mình, chẳng thấy ai,
Nó là sở hữu của riêng tôi,
Song tên nó chính là "dâm phụ",
Nó phạm tội kia trái đạo trời.
Liên luỵ nữ nhân ắt phải chịu
Nhận bao ô nhục đến tàn
đời.
8. Bọn nam nhi thật chỉ hoài công
Ðịch với ngàn mưu chước nữ nhân.
Tin tưởng hộ phòng là chắc chắn
Cứ như vực thẳm cứ xuôi dần
Xuống miền địa ngục bao chàng ngốc
Nó đã lôi vào chỗ liệt vong.
9. Người tránh lối đường của nữ nhi
Sống đầy hạnh phúc thoát sầu bi,
Thấy niềm cực lạc trong cô tịch,
Xa lánh hồng nhan phản bội kia!
Cùng với những lời này, ác quỷ quì xuống chân bậc Ðại Sĩ, vừa tán thán
ngài, vừa nói:
- Bạch Thánh giả, con đã
được ngài cứu mạng. Vì nữ nhân
độc ác kia, con suýt bị tà thuật sư giết
chết.
Sau đó Bồ Tát thuyết Pháp cho nó và
bảo:
- Ðừng làm hại nàng ấy. Hãy giữ giới hạnh.
Rồi ngài an trú nó vào Ngũ giới.
Ác quỷ nói:
- Dù con đã giữ nó trong bụng, con
vẫn không thể giữ nó an toàn được. Vậy còn ai
giữ được nó nữa?
Vì thế nó thả cho nàng đi, rồi trở về hang
cũ trong rừng.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự
Thật, vị Tỳ kheo có tâm thế tục đã
đắc Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vị khổ hạnh có thần thông chính là Ta.
-ooOoo-
437. Chuyện Chó Rừng Pùtimunsa (Tiền thân Pùtimunsa)
Sao Pù -ti lại ngó trừng trừng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc ngụ tại Kỳ Viên về việc chế ngự dục
tham.
Có một thời nhiều tỳ kheo không hộ phòng các căn
môn. Bậc đạo sư báo trưởng lão Ànanda:
- Ta phải giáo huấn các tỳ kheo này.
Và do tăng chúng thiếu sự điều phục thân
tâm, Ngài triệu tập các tỳ kheo lại rồi ngồi trên bảo toạ
được trang hoàng lộng lẫy, Ngài bảo các
vị:
- Này các tỳ kheo, thật không chính đáng khi
một tỳ kheo chịu sự chi phối của sắc đẹp cá nhân (tịnh tướng) khiến vị ấy
sinh lòng luyến ái các đặc điểm thể chất
hoặc tinh thần của con người, vì giả sử vị ấy chết ngay lúc ấy, vị ấy
sẽ bị tái sinh vào địa ngục, ác thú, đoạ sứ;
vậy các ông đừng sinh tâm luyến ái các đặc điểm thể chất cùng các thứ
tương tự như thế. Một tỳ kheo nên để tâm đến
các đặc điểm tinh thần hay thể chất. Những ai làm như vậy ngay trong
cảnh đời hiện tại này
đều bị hoàn toàn huỷ hoại. Vì thế, này
các tỳ kheo, con mắt tham dục cần phải được
tiếp xúc với cái đinh sắt nóng đỏ mới có ích lợi.
Ðến đây Ngài nói thêm chi tiết:
- Có lúc các ông cần quán sát tịnh tướng, và có lúc các ông
đừng quan tâm đến nó. Vào lúc quán sát
tịnh tướng, đừng quán sát nó dưới ảnh hưởng của
vật khả ái, nhưng hãy quán sát nó dưới ảnh hưởng của vật bất khả ái.
Như vậy các ông sẽ không bị đoạ lạc khỏi trú xứ
chân chánh của mình. Và trú xứ này của các ông là gì? Ðó chính là Bốn
Thiền quán chân chánh, Thánh đạo Tám ngành
và Chín trú xứ siêu việt. Nếu các ông đi đúng
trong lĩnh vực chân chánh này của mình, Ác Ma sẽ không tìm
được lối vào; song nếu các ông bị tham
dục chi phối và quán sát sự vật dưới ảnh hưởng của tịnh tướng cá nhân như
con chó rừng Pùtimansa, thì các ông sẽ bị đoạ
lác khỏi trú xứ chân chánh của mình.
Và cùng với các lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa dưới triều đại Brahmadatta, quốc
vương ở Ba-la-nại, hàng trăm dê
rừng trú trong một hang núi tại vùng rừng rậm trên sườn dãy Tuyết Sơn.
Không xa chỗ ở của chúng, có con chó rừng tên là Pùtimansa sống trong
hang với vợ nó là Venì.
Một hôm nó quanh quẩn cùng vợ, rình rập bầy dê và suy nghĩ: "Ta phải tìm
cách ăn thịt mấy con dê này". Rồi nhờ
mưu mẹo nó giết được một con dê. Cả hai
vợ chồng nó nhờ ăn thịt dê trở thành lực
lưỡng đẫy đà. Dần dần số dê giảm xuống.
Trong số đó có con dê cái khôn ngoan
tên là Melamàtà. Dù nhiều mưu kế tài giỏi, chó rừng cũng không thể giết dê
được, nên lúc bàn luận với vợ, nó bảo:
- Nàng ơi tất cả bầy dê đã chết hết.
Chúng ta phải bày mưu ăn thịt dê cái
này, giờ đây là kế hoạch của ta. Nàng
phải đi một mình, làm thân với dê cái,
rồi khi niềm tin tưởng đã phát sinh giữa
nàng và nó, ta sẽ nằm xuống giả vờ chết. Sau
đó, nàng đến gần dê cái, bảo:
"Bạn ơi, chồng tôi đã chết, tôi
đang khốn khổ, trừ bạn tôi không có ai cả. Vậy
hãy đến đây cùng tôi than khóc và
chôn xác chồng tôi". Và cùng với những lời này, nàng hãy
đến đưa dê lại
đây với nàng. Sau
đó ta sẽ nhảy lên cắn cổ nó giết
đi.
Chó cái sẵn sàng đồng ý. Sau cuộc kết giao
bằng hữu với dê cái, khi lòng tin tưởng
đã vững chắc, nó nói với dê cái những lời do chồng nó
đưa ra. Dê cái
đáp:
- Bạn ơi, cả họ hàng nhà tôi bị chồng nàng
ăn thịt. Tôi sợ lắm. Tôi không dám đi.
- Ðừng sợ gì cả, chó chết rồi làm sao hại bạn
được nữa?
- Chồng chị có ác ý lắm nên tôi sợ.
Nhưng sau khi bị nài nỉ van xin mãi, dê cái suy nghĩ: "Chắc có lẽ nó chết
thật rồi", nên đồng ý đi với chó cái. Nhưng trên
đường đi nó suy nghĩ: "Ai biết chuyện gì
sẽ xảy ra?", nên sinh lòng nghi ngờ, nó bảo chó cái
đi trước và
đề phòng chó đực rất tinh tế.
Chó đực nghe tiếng chân của chúng liền suy
nghĩ: "Con dê đến rồi", nên ngẩng
đầu lên và
đảo mắt nhìn quanh. Dê cái thấy nó làm vậy liền nói: "Con chó khốn
nạn độc ác này muốn dụ ta vào
để giết ta, nó nằm kia giả vờ chết". Dê
cái quay đi và chạy trốn.
Khi chó cái hỏi tại sao nó chạy trốn, dê cái ngâm vần kệ
đầu nêu lý do:
1. Sao Pù-ti lại ngó trừng trừng
Vẻ chó nhìn dê thật ghét căm,
Với bạn thế, ta cần thận trọng,
Và nên chạy trốn thật nhanh chân.
Cùng với các lời này, dê quay đi và
chạy thẳng về chỗ ở của nó. Chó cái không thể ngăn
dê được, rất tức giận con dê và
trở về bên chồng, ngồi than khóc. Lúc ấy chó rừng trách mắng vợ qua vần kệ
thứ hai:
2. Ve-ni, vợ dại, kém thông minh
Lại khoe đã kết bạn thân tình,
Bơ vơ trong bụi, ngồi than khóc,
Vì bị Mê-la phỉnh gạt mình.
Nghe vậy, chó cái ngâm vần kệ thứ ba:
3. Chàng cũng chẳng khôn khéo tý nào!
Ngu si, chàng đã ngẩng
đầu cao,
Trừng trừng, chàng mở to hai mắt,
Dù giả vờ nằm chết đó sao?
4. Người nào khôn khéo đúng thời cơ
Biết nhắm mắt và mở mắt to,
Ai mở mắt nhìn không đúng lúc
Như Pù-ti nọ, phải buồn lo!
Ðây là vần kệ xuất phát từ Trí Tuệ Tối thắng của
đức Phật.
Nhưng chó cái lại an ủi Pùtimansa và bảo:
- Chàng ơi, đừng bực mình nữa, thiếp
sẽ tìm cách mang dê lại đây, và khi nó
đến chàng hãy canh chừng và chụp lấy nó.
Sau đó nó đi tìm dê cái và bảo:
- Bạn ơi, bạn đến thăm thật ích lợi cho
chúng tôi, vì ngay khi bạn vừa xuất hiện, chồng tôi
đã hồi tỉnh và nay
đã sống lại rồi, xin hãy
đến nơi nói chuyện thân tình với chàng.
Nói xong nó ngâm vần kệ thứ năm:
5. Tình bạn, trước đây hãy phục
hồi,
Xin đem bát cháo đến nhà tôi,
Chồng tôi tưởng chết nay hồi tỉnh,
Hãy viếng chàng, thăm hỏi thật vui.
Dê suy nghĩ: "Con chó cái khốn nạn độc ác này
lại muốn dụ dỗ ta. Ta không nên hành động như
một kẻ thù lộ diện mà ta sẽ tìm cách
đánh lừa nó". Dê liền ngâm vần kệ thứ sáu:
6. Tình bạn cũ, nay muốn phục hồi
Ta đem bát cháo, dạ mừng vui
Với đoàn hộ tống ta đi đến
Ăn tiệc tưng bừng, nhanh bước thôi.
Sau đó chó cái hỏi thăm đoàn hộ tống
của dê và ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Những ai hộ tống bạn bên mình
Ðể đãi bạn, tôi phải nhiệt tình,
Danh tánh những ai thăm hỏi đó,
Xin cho tôi biết thật chân thành.
Dê ngâm kệ thứ tám đáp lời:
8. Chó săn nâu xám, bốn mắt lồi,
Hình quỷ Jam-buk, hộ tống tôi,
Thôi hãy về nhà, mau sửa soạn
Dồi dào yến tiệc để chào mời.
Nó còn nói thêm:
- Mỗi chó hình quỷ này được năm trăm chó
khác hộ tống, do vậy ta sẽ có một đoàn tuỳ tùng cả hai ngàn con chó
canh giữ. Nếu chúng không thấy thức ăn, chúng
sẽ giết luôn bạn và chồng bạn để ăn thịt
đấy.
Nghe vậy chó cái kinh sợ đến độ suy nghĩ:
"Ta đã chán ngán việc nó đến thăm nhà
ta rồi. Ta sẽ tìm cách ngăn nó đến". Rồi chó
cái ngâm kệ:
9. Ðừng rời nhà bạn, kẻo ta e
Ðồ đạc sẽ nhanh chóng mất đi.
Ta sẽ đem lời dê nhắn gửi,
Ðứng yên! Ðừng nói nữa, ta về!
Cùng với những lời này, chó cái ra sức chạy vội vàng
để tự cứu mạng và
đem luôn cả chồng nó chạy theo. Rồi từ đó chúng
không bao giờ dám trở lại chỗ ấy nữa.
*
Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy Ta là vị Thần sống tại rừng ấy trên một cây cổ thụ.
-ooOoo-
438. Chuyện Con Gà Gô (Tiền thân Tittira)
Nó đã ăn
tươi bọn trẻ thơ ...,
Bậc đạo sư kể chuyện này trong lúc
trú ngụ tại núi Linh Thứu, về dự định của
Devadatta mưu sát Ngài.
Chính vào thời ấy Tăng chúng bắt đầu thảo
luận tại Chánh pháp đường:
- Này các Hiền giả, than ôi! Devadatta thật là hạ liệt và vô liêm sỉ biết
bao! Vị ấy kết hợp với Thái tử Ajàtasattu lập mưu sát hại
đức Phật Chánh Ðẳng Giác bằng cách mua
chuộc bọn xạ thủ, lăn đá xuống đồi, và
thả lỏng con voi Nalàgiri.
Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn
luận việc gì lúc hội họp, và khi nghe kể đề tài
câu chuyện, Ngài bảo:
- Không phải chỉ bây giờ, mà xưa kia nữa, Devadatta cũng mưu giết ta,
song cũng không thể làm gì cho ta kinh hãi
được.
Rồi Ngài kể câu chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một giáo sư danh tiếng
lừng lẫy thế giới tại Ba-la-nại dạy các học thuật cho năm
thanh niên Bà-la-môn.
Một hôm vị ấy suy nghĩ: "Bao lâu ta còn ở
đây, ta sẽ gặp trở ngại cho đời tu hành và các
đồ đệ ta cũng không hoàn thành việc học
của họ. Ta muốn về ẩn dật trong thảo am trên sườn núi Tuyết Sơn và dạy học ở
đó."
Vị ấy báo tin cho các đồ đệ, bảo họ đem mè,
gạo xay, dầu, y phục đại loại như thế, rồi đi vào
rừng dựng thảo am ở cạnh xa lộ. Mỗi vị đệ tử
đến tự xây một thảo am cho mình. Thân quyến họ gửi gạo và các thứ
kia, còn dân làng bảo nhau: "Người ta đồn một
vị danh sư đang sống nơi kia trong rừng và thuyết giảng kiến thức học
thuật", liền đem quà lúa gạo
đến tặng, các người kiểm lâm cũng tặng quà, lại
có một người tặng bò cái và bê con để chư vị
lấy sữa.
Bấy giờ, có một con tắc kè cùng hai con nó
đến ở trong lều vị giáo sĩ, và một con Sư tử cùng một con cọp hầu hạ
vị ấy. Một con gà gô cũng thường xuyên ở tại đó
và do nghe giáo sư dạy thánh kinh cho đệ
tử, con Gà dần dần hiểu ba tập Vệ-đà.
Các Bà-la-môn trở nên thân thiện với Gà gô. Về sau, trước khi các thanh niên
này đạt tinh thông các học thuật, thì vị
giáo sư mất. Các đệ tử đem thi hài thầy
hỏa thiêu, dựng một mô cát lên chỗ để tro, vừa
than khóc vừa trang hoàng nơi ấy đầy đủ
các loại hoa. Thấy vậy Gà gô hỏi tại sao họ khóc. Họ
đáp:
- Thầy chúng ta đã mất trong khi việc
học của chúng ta chưa hoàn mãn.
- Nếu chuyện là thế thì các vị đừng lo buồn
nữa. Tôi sẽ dạy các vị kiến thức ấy.
- Làm sao Gà biết được?
- Tôi thường nghe giáo sư của các vị trong lúc giảng dạy các vị, nên
đã học thuộc lòng ba tập Vệ-đà
rồi.
- Thế Gà hãy truyền cho chúng tôi những gì Gà
đã học thuộc lòng nhé.
Gà đáp:
- Nào lắng nghe đây.
Rồi Gà thuyết giảng mọi điểm khúc mắc cho
họ, dễ dàng như người đưa nước suối từ
núi cao xuống. Các thanh niên Bà-la-môn vô cùng hân hoan và thu thập
kiến thức từ con Gà gô thông thái này. Con Gà gô
đậu trên chỗ giáo sư danh tiếng ấy
thường ngồi, và thuyết giảng về tri kiến Vệ-đà.
Các thanh niên làm cho Gà đủ mật ong, hạt ngũ
cốc rang trong chiếc đĩa vàng, lại còn tặng
đủ thứ hoa có màu sắc rực rỡ và tỏ vẻ vô
cùng tôn kính Gà gô.
Tiếng đồn vang dậy khắp Diêm-phù-dề
(Ấn Ðộ) rằng một con Gà gô rừng đang dạy Thánh
kinh cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Vào lúc ấy, dân chúng mở lễ
hội lớn, tụ tập cùng nhau trên đỉnh núi. Cha mẹ
các thanh niên này gửi lời nhắn các con
đến xem lễ hội. Họ liền kể chuyện con Gà gô, rồi ủy thác Gà gô cùng
thảo am của họ cho Tắc kè chăm nom, và
họ ra đi đến nhiều kinh thành.
Lúc ấy một vị khổ hạnh lõa thể độc ác du hành
đây đó bước tới chốn này. Khi thấy vị
ấy, con Tắc kè đến nói chuyện thân thiện và
bảo:
- Ở chỗ này chỗ kia, ngài sẽ thấy gạo, dầu và các món khác. Hãy nấu cơm
và ăn uống no nê!
Nói xong nó ra đi kiếm mồi.
Sáng sớm kẻ ác kia nấu cơm và giết luôn hai tắc kè con
ăn thịt làm một món ngon lành. Ðến
trưa, y giết và ăn thịt luôn con gà gô
thông thái, và con bê, đến chiều tối, y vừa
thấy con bò về nhà liền giết nó luôn để
ăn thịt. Rồi y nằm ngủ ngáy vang dưới gốc cây. Xế chiều tắc kè trở về
thấy vắng hai con liền đi quanh tìm
chúng. Một vị thần cây quan sát Tắc kè đang run
rẩy toàn thân vì không tìm được các con
thơ, liền dùng thần lực đứng trong bộng
cây và nói:
- Này Tắc kè, đừng run nữa, các con nhỏ ấy cùng
Gà gô, bê con và bò cái đều bị kẻ độc ác này
ăn thịt rồi. Hãy cắn vào cổ cho nó chết
đi.
Vị thần vừa nói chuyện như vậy với Tắc kè, vừa ngâm vần kệ
đầu:
1. Nó đã
ăn tươi bọn trẻ thơ
Dù con cho nó thật nhiều quà
Răng con hãy cắn sâu vào cổ
Ðứng để ác nhân trốn thoát ra
Sau đó Tắc kè ngâm hai vần kệ:
2. Thâm tâm của nó tạo bùn nhơ
Chẳng khác áo người giữ trẻ thơ
Tôi e toàn thể thân mình nó
Chống đỡ răng tôi mạnh lắm mà!
3. Lỗi lầm kẻ hạ liệt vong ân
Ðều thấy khắp nơi rõ ràng,
Tâm nó chẳng bao giờ thỏa mãn
Với bao tặng vật của trần gian
Tắc kè nói xong, suy nghĩ: "Kẻ này sẽ thức
dậy và ăn thịt ta". Nó liền trốn đi để
cứu mạng mình.
Bấy giờ Sư tử và Cọp rất thân thiết với Gà gô, và
đôi khi Gà gô cũng bay
đi thuyết Pháp cho nó. Hôm ấy, Sư tử bảo Cọp:
- Chúng ta đi thăm Gà gô
đã lâu rồi, chắc cũng
đã bảy tám ngày. Vậy bạn hãy
đi đen tin tức của Gà về
đây.
Con Cọp thỏa thuận và đi đến nơi đúng lúc
con Tắc kè đã chạy trốn, nó thấy
kẻ gian ác ấy đang ngủ. Trên các bện tóc
của y thấy có vài cái lông gà, và gần đó lại có
đống xương bò cái và bê con. Cọp chúa trông thấy cảnh ấy, lại thiếu
Gà gô trong lồng vàng, liền suy nghĩ: "Các con vật này chắc
đã bị kẻ ác nhân này giết hết rồi". Nó
đá mạnh thức y dậy. Khi thấy Cọp, y vô cùng
sợ hãi. Rồi con Cọp hỏi:
- Có phải ngươi giết và ăn thịt các con vật
này chăng?
- Tôi chẳng giết cũng chẳng ăn thịt chúng.
- Kẻ khốn nạn ác độc kia, nếu anh không giết
chúng thì hãy nói cho ta biết ai khác giết? Nếu anh không nói, anh
phải chết đấy.
Sợ nguy đến tính mạng, y đáp:
- Vâng thưa ngài, tôi đã giết và
ăn thịt các con tắc kè con, bò cái và bê
con, song tôi không giết con Gà gô.
Mặc dù y cứ phản đối mãi. Cọp cũng
không tin y và bảo:
- Anh từ đâu đến đây?
- Tâu ngài, trước đây tôi bán hàng
rong để kiếm sống ở xứ Kàlinga và sau
khi thử bán vài món xong thì tôi đến đây.
Nhưng sau khi người ấy đã kể hết mọi
việc y làm, con Cọp bảo:
- Này ác nhân kia, nếu anh không giết Gà gô, thì còn ai khác làm việc
đó? Này, ta sẽ mang anh
đến trước Sư tử, chúa sơn lâm đấy.
Thế là Cọp ra đi dẫn theo kẻ ấy trước mặt.
Khi Sử tử thấy Cọp mang y đến, nó liền ngâm vần kệ thứ tư để đặt câu hỏi:
4. Ði đâu vội vã thế Su-bà,
Sao kéo chàng trai trẻ thế ư?
Có việc gì cần, đây muốn biết,
Nói mau thành thật chớ chần chừ?
Nghe vậy Cọp ngâm vần kệ thứ năm:
5. Bạn quý Gà gô của chúng ta
Hôm nay, tôi đoán, hóa thành ma
Chuyện xưa kẻ ấy làm tôi sợ
Nghe được hung tin của bạn Gà.
Sau đó Sư tử ngâm vần kệ thứ sáu:
6. Chuyện xưa của kẻ ấy ra sao,
Tội lỗi gì y thú nhận mau
Ðã khiến Cọp nghi ngờ đại họa
Xảy ra cho bạn quý ta nào?
Ðể trả lời Sư tử, Cọp chúa ngâm các vần kệ còn lại
7. Trong nước Kà-ling nó bán rong
Ði đường lởm chởm, gậy tay cầm,
Ở cùng bọn đánh đu nhào lộn,
Ðánh bẫy bao súc vật buộc chùm,
Nó cũng thường chơi trò súc sắc,
Lưới giăng bắt sống lũ chim muông,
Ðánh nhau từng đám dùng
đao trượng,
Nó kiếm lời nhờ việc đếm đong.
8. Phản bội lời thề, đánh nữa khuya,
Bị thương, nó chảy máu dầm dề;
Bàn tay nó cháy vì gan góc,
Chụp lấy thức ăn nóng vụng về
Nghe nó sống đời tồi tệ vậy,
Ðó là tội ác chất đầu kia.
9. Vì ta đều biết con bò chết,
Giữa tóc người kia mấy sợi lông
Xuất hiện, nên tôi đầy khủng khiếp
Lo Gà gô bạn ắt vong thân.
Sư tử chúa hỏi người kia:
- Thế anh đã giết Gà gô thông thái
rồi ư?
- Tâu chúa công, vâng, tôi đã giết.
Chúa Sư tử nghe y nói thật, nên muốn thả cho y ra
đi, nhưng Cọp chúa bảo:
- Tên gian ác này đáng chết.
Và ngay tại chỗ, Cọp dùng răng xé y tan xác.
Rồi Cọp đào hố quẳng thây vào đó.
Khi các thanh niên Bà-la-môn trở về, không thấy Gà gô, họ than khóc và bỏ
nơi ấy ra đi.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:
- Như vậy, này các Tỷ-kheo, ngày xưa Devadatta cũng
đã lập mưu giết Ta.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vị khổ hạnh là Devadatta, con Tắc kè là Kisàgotamì, con Cọp là
Moggallàna, Sư tử là Sàriputta, vị giáo sư lừng danh thế giới là Kassapa và
Gà gô thông thái chính là Ta.
-ooOoo-
Chương X
Phẩm Mười Bài Kệ
439. Chuyện Bốn Cổng Thành (Tiền thân Catu-Dvàra)
Thành sắt này xây bốn cổng cao...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phóng dật.
Các chi tiết câu chuyện đã
được nêu ra trong số 427, chuyện Tiền
thân đầu tiên của Chương IX. Ở
đây, một lần nữa bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo
này:
Có đúng như Tăng chúng nói rằng ông bất tuân
giới luật?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Ngài bảo:
- Ngày xưa, cũng vì bất tuân lời dạy bảo của các bậc trí nhân, mà ông
phải nhận lấy một bánh xe sắc như dao cạo.
Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa vào thời đức Phật Kassapa
(Ca-diếp), tại thành Ba-la-Nại có một thương gia làm chủ tài sản
đến tám trăm triệu đồng, nhưng chỉ sinh được
một trai tên là Mittavindaka. Cha mẹ cậu này
đã đi vào
hướng Dự Lưu, song cậu vẫn là một kẻ theo ác hạnh, không có lòng tin vào
Ðạo.
Về sau, khi cha cậu mất, mẹ cậu thay thế
điều hành sản nghiệp ấy, bà bảo con như vầy:
- Này con, thân người khó được, vậy con hãy
bố thí, tu tập công đức, giữ ngày trai
giới và lắng tai nghe Pháp.
Cậu đáp lại:
- Này mẹ, không có chuyện bố thí, tu tập gì cả với con
đâu, đừng bao giờ nhắc chúng với con nữa, con
sống thế nào thì ngày sau con theo nghiệp
đó.
Vào một ngày rằm trăng tròn, khi cậu
cũng nói như trên, mẹ cậu đáp:
- Con ơi, hôm nay được dành làm ngày
trai giới thanh tịnh. Vậy ngày nay con hãy phát nguyện giữ giới,
đi viếng tinh xá và lắng nghe Pháp suốt
đêm, rồi khi con trở về, mẹ sẽ cho con
một ngàn đồng tiền nhé.
Vì tham số tiền ấy, cậu bằng lòng ngay. Ngay khi
ăn sáng xong, cậu đi đến tinh xá, ở lại đó suốt
ngày; song từ đầu hôm cho đến lúc canh tàn,
chẳng một lời Giáo pháp này lọt vào tai cậu cả. Cậu
đi nằm một nơi và ngủ thẳng giấc. Ngày
hôm sau, từ tảng sáng, cậu rửa mặt và đi về nhà,
ngồi phịch xuống.
Bấy giờ, mẹ cậu nghĩ thầm: "Hôm nay, sau khi nghe Pháp, con ta sẽ về từ
sáng sớm, dẫn theo vị Trưởng lão đã
giảng Pháp". Vì thế, bà nấu cháo sẵn, với thức
ăn đủ loại cứng và mềm, sửa soạn chỗ ngồi xong,
đợi con về. Khi bà thấy con
đi về một mình, bà hỏi:
- Này con, sao con không đưa về vị Pháp sư?
- Mẹ ạ, chẳng có Pháp sư nào giảng cho con cả. Cậu
đáp.
Bà mẹ bảo:
- Thế thì con húp cháo này đi.
Cậu nói:
- Mẹ đã hứa cho con một ngàn
đồng tiền, mẹ ạ. trước tiên mẹ hãy trao
tiền cho con, rồi sau đó con mới húp cháo.
- Húp cháo trước đi con, rồi con sẽ được
tiền kia mà.
Cậu bảo:
- Không được, con không muốn húp cháo cho
đến khi con được tiền kia.
Thế là bà mẹ đặt túi tiền một ngàn
đồng trước mặt cậu. Cậu liền húp cháo, xong cậu
lấy túi tiền một ngàn đồng đi làm
công chuyện của cậu; và cứ thế về sau, chẳng bao lâu cậu kiếm
được hai triệu đồng tiền.
Lúc ấy, cậu chợt nghĩ ra rằng cậu muốn tậu lấy một con tàu rồi
đi làm ăn
trên đó. Thế là cậu sắm tàu, rồi
bảo mẹ:
- Mẹ à con có ý định đi làm
ăn trên tàu này.
Bà mẹ đáp:
- Con là con độc nhất của mẹ, mà
trong nhà mình hiện có nhiều tài sản lắm rồi; còn biển cả lại
đầy nguy hiểm, con đừng đi.
Song cậu bảo:
- Con quyết ra đi, mẹ không thể cản con được
đâu.
Bà tiếp:
- Này, mẹ cứ muốn cản con đấy.
Rồi bà cầm lấy tay cậu, xong cậu hất tay bà ra khiến bà ngã xuống, và
trong chốc lát, cậu đã biến dạng, vội
lên đường.
Vào ngày tháng bảy, nhân vì có mặt Mittavindaka, con tàu cứ
đứng bất động trên biển sâu. Người ta
rút thăm và cả ba lần
đều trúng tay Mittavindaka. Thế là họ
cho cậu một chiếc bè và nói:
- Ðừng để nhiều người phải chết chỉ vì
một người này.
Rồi họ thả cậu trôi dạt trên đại dương, chỉ
thoáng chốc sau, con tàu ấy đã
lao nhanh vùn vụt trên biển.
Còn cậu trai trên chiếc bè trôi đến một đảo
kia. Tại đó, trong một cung điện bằng thủy tinh, cậu chợt thấy bốn ma nữ.
Trước kia, ma chúng thường phải chịu bảy ngày
đau khổ và hưởng bảy ngày hạnh phúc.
Ðược kết bạn với chúng, cậu thọ hưởng khoái lạc thần tiên. Rồi khi
đến thời chúng phải chịu khổ hình, chúng
bảo cậu:
- Thưa công tử, chúng em sắp xa chàng bảy ngày, trong lúc chúng em
đi vắng, xin chàng ở lại
đây và đứng
lo buồn gì cả.
Nói xong, chúng giã từ.
Song cậu trai, lòng đầy khát vọng, lại
ra khơi trên chiếc bè kia, và vượt đại dương,
đến một đảo khác, tại đây trong một cung điện bằng bạc, cậu thấy tám ma nữ
khác. Cứ như thế, cậu thấy trên một đảo
nữa mười sáu ma nữ trong một cung bằng ngọc, rồi trên một
đảo khác nữa, ba mươi hai ma nữ trong một cung
bằng vàng. Cũng như trước kia, với các ma nữ này, cậu hưởng thọ lạc
thú thần tiên, rồi khi chúng đi xa để chịu cực
hình, cậu lại ra khơi lần nữa, lênh đênh
trên đại dương, mãi cho
đến cuối cùng cậu thấy một kinh thành có
bốn cổng lớn và hào lũy bao bọc. Người ta bảo
đó là ngục Ussada (Ngục bằng sắt hay Thiết vi Ðịa ngục), nơi mà nhiều
chúng sinh bị đọa đầy, phải thọ lãnh các
nghiệp báo của mình, song đối với Mittavindaka,
nó lại có vẻ như một kinh thành tuyệt mỹ. Cậu suy nghĩ: "Ta muốn vào
thăm kinh thành kia và làm vua tại
đó.
Thế là cậu bước vào, vừa thấy một sinh linh
đang chịu khổ hình phải mang một cái bánh xe sắc như lưỡi dao cạo,
song đối với Mittavindaka dường như bánh xe dao
trên đầu kẻ kia lại giống như đóa hoa
sen nở, năm vòng xiềng xích trên ngực gã nào khác chiếc áo choàng
rực rỡ sang trọng, dòng máu nhỏ giọt trên đầu gã
như thể phấn bột gỗ chiên-đàn
đỏ thắm ngát hương, còn tiếng gã rên la
tựa tiếng ca êm dịu nhất trên đời. Vì
vậy cậu đến gần và bảo:
- Này người kia, anh đã mang cái hoa
sen ấy lâu rồi, nay hãy đưa cho ta.
Người ấy đáp:
- Thưa ngài, nó không phải là hoa sen đâu, mà
nó là bánh xe sắc như dao cạo.
Cậu trai bảo:
- À, anh nói vậy vì anh không muốn đưa nó cho
ta đấy thôi.
Gã tội nhân khốn khổ kia liền suy nghĩ: "Ắt hẳn các nghiệp quá khứ của ta
đã tiêu trừ hết. Rõ ràng người này cũng
như ta đi đến đây vì
đã đánh mẹ
nó. Ðược rồi ta sẽ cho nó đưa bánh xe
dao này". Gã liền bảo:
- Này đây, hãy cầm lấy hoa sen.
Cùng với lời nói trên, gã thả bánh xe dao trên
đầu cậu, nó rơi xuống đỉnh đầu và nghiến
sâu vào đó, lập tức, Mittavindaka biết ngay đó
là bánh xe dao, cậu liền nói:
- Lấy bánh xe của anh lại!
Và cậu gào thét dữ dội trong cơn đau đớn,
song kẻ kia đã khuất dạng mất rồi.
Vừa lúc ấy, Bồ-tát cùng đoàn tùy tùng
đông đảo đang đi kinh lý qua ngục Ussada, và
đến tận nơi ấy, Mittavindaka trông thấy ngài,
vội kêu lên:
- Tâu thiên chủ, Thượng đế của chư Thiên,
bánh xe này đang đâm thủng và xé nát
đầu con như thể cái chầy nghiền nát mớ hột cải,
vậy con đã phạm tội ác gì?
Cậu vừa hỏi, vừa ngâm hai vần kệ này:
1. Thành sắt này xây bốn cổng cao,
Con nay mắc bẫy bước chân vào,
Chung quanh con, lũy hào bao bọc,
Con đã gây nên các nghiệp nào.
2. Giờ đây đóng chặt các thành môn
Và bánh xe này hủy diệt con
Nào khác chim lồng, con bị bắt.
Tại vì sao vậy, tấu Thiên vương?
Lúc ấy Thiên chủ ngâm các vần kệ này để giải
thích vấn đề cho cậu rõ:
3. Ngài có ngày xưa chục vạn đồng,
Hai mươi lần nữa đấy, tôn ông,
Tuy nhiên ngài vẫn không hề muốn
Tai lắng nghe bằng hữu nói năng.
4. Ngài đã vội vàng vượt
đại dương
Chất đầy nguy hiểm dọc đường trường,
Nữ ma, bốn tám, ngài thăm viếng,
Mười sáu nàng, theo kế tám nàng.
5. Tiếp theo mười sáu, đến ba hai
Tận hưởng dục tham cứ miệt mài,
Nay hãy nhìn đây đầy phần tặng thưởng
Bánh xe dục lạc ở đầu ngài.
6. Ai đi đại lộ dục tham đầy,
Con lộ thênh thang rộng lớn thay,
Vô độ, chúng không hề thỏa mãn
Thì phần chúng đội bánh xe này.
7. Ai chẳng mong phân phát bạc vàng,
Chẳng cầu tìm Chánh đạo bình an
Cũng không biết phải làm như vậy,
Phần bánh xe này chúng sẽ mang.
8. Hãy suy kết quả việc ngài làm
Gia sản ngài xem thật ngập tràn,
Ðừng ước làm tài chủ bất chính,
Thực hành điều bạn tốt khuyên răn,
Về sau chẳng có bao giờ nữa
Vòng bánh xe này đụng đến thân.
Nghe vậy, Mittavindaka tự nhủ: "Vị Thiên chủ này vừa giải thích thật
chính xác những việc ta làm. Chắc chắn ngài cũng biết
được mức độ trừng phạt ta". Rồi cậu ngâm vần kệ
thứ chín:
9. Vậy tấu Thiên vương, đến lúc nào
Bánh xe này dính ở trên đầu?
Mấy ngàn năm nữa? XIn ngài dạy,
Ðừng để con hoài sức khẩn cầu.
Lúc ấy bậc Ðại sĩ tuyên bố vấn đề qua vần kệ
thứ mười:
10. Bánh xe này tiếp tục xoay vần,
Mà chẳng hiện ra vị cứu nhân
Nó dính đầu ngài cho
đến chết,
Này Mít-ta hỡi có nghe chăng?
Nói vậy xong Thiên chủ trở về cõi của Ngài, còn kẻ kia chìm vào cơn
đau đớn cùng cực.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy, Tỷ-kheo phóng dật này là Mittavindaka, và Ta chính là
Thiên chủ.
-ooOoo-
440. Chuyện Hắc Hiền Giả (Tiền thân Kanha)
Ðằng kia nhìn kẻ sắc đen tuyền..,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kapilavathu (Ca-tỳ-la-vệ) trong Bồ-đề
Lâm (Rừng cây Ða), về một nụ cười.
Vào thời ấy, chuyện kể rằng bậc Ðạo Sư đang
du hành cùng Tăng chúng trong Bồ-đề Lâm,
lúc chiều xuống, tại một chốn kia, Ngài mỉm một nụ cười. Trưởng lão
Ànanda nói:
- Nguyên do gì, lý do gì khiến đức Thế Tôn
mỉm cười? Ðức Như lai mỉm cười không phải là không có duyên cớ. Vậy
ta muốn hỏi Ngài.
Thế là Tôn giả cúi đầu đảnh lễ cung kính hỏi
về nụ cười kia, bậc Ðạo Sư bảo:
- Ngày xưa, này Ànanda, có một bậc Hiền trí tên là Kanha
đã sống ở nơi
đây, chuyên tâm thiền tịnh, và lạc thú
trong thiền định, nên nhờ uy lực công
đức của ngài mà cung của Sakka (Ðế
Thích), Thiên phủ phải rúng động.
Song vì câu giải thích nụ cười kia chưa được
rõ ràng lắm, nên theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão,
đức Phật kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một vị Bà-la-môn
không con cái, nhưng của cải lên đến tám mười
triệu đồng, vị này phát nguyện giữ giới
đức và cầu tự. Trong lòng bà vợ vị Bà-la-môn này
đang mang thai Bồ-tát, sau đó do màu da
đen của ngài, vào ngày lễ
đặt tên, cha mẹ chọn tên ngài là Kanha -
Kumàra tức Hắc nam tử
Ðến năm mười sáu tuổi, đầy vẻ uy nghi như
một bức tượng bằng ngọc quý, ngài được
phụ thân đưa đến học ở Takkasilà, nơi
đây ngài được dạy đầy đủ các môn văn học
nghệ thuật, xong trở về nhà. Sau đó cha
ngài lại cưới cho ngài một cô vợ xứng
đôi vừa lứa. Dần dần theo thời gian, ngài hưởng trọn gia sản của song
thân.
Bấy giờ một ngày kia, sau khi kiểm tra các kho báu,
đang lúc ngồi trên một bảo tọa lộng lẫy,
ngài cầm trong tay một cái đĩa bằng vàng,
đọc được trên
đĩa những hàng chữ do các bậc tiền nhân
ngài ghi lại: "Rất nhiều tài sản do vị này kiếm
được, rất nhiều tiền bạc do vị kia làm ra v.v..." Ngài nghĩ thầm:
"Những vị tạo ra vàng bạc này bây giờ không còn nữa, song vàng bạc vẫn còn
đó; không ai có thể mang chúng theo khi ra đi
khỏi cuộc sống; ta không thể buộc vàng bạc thành một bó, rồi mang
theo mình qua thế giới khác.
Thấy rằng của cải liên hệ đến Năm Ác dục, còn
phân phát bố thí của cải này là việc tốt đẹp
hơn; thấy rằng thân xác phù du này liên hệ với nhiều bệnh tật, còn tỏ
lòng cung kính và nhân từ với những vị đức hạnh
đem nhiều lợi lạc hơn; thấy rằng cuộc đời tạm bợ phù phiếm này chỉ
thoáng qua chốc lát, còn tinh tấn hành trì thiền
định là phần cao cả hơn. Vậy thì những
vàng bạc phù phiếm này ta sẽ đem bố thí hết, vì
làm như thế ta sẽ thọ hưởng phước đức hơn
nhiều."
Thế là ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, sau khi
xin đức vua thỏa thuận, ngài bố thí rất hào phóng.
Ðến ngày thứ bảy, thấy vàng bạc vẫn không suy giảm, ngài suy nghĩ: "Vàng
bạc này có nghĩa gì đối với ta? Trong khi ta
chưa bị tuổi già chế ngự, ta muốn ngay bây giờ phát nguyện xuất gia
tu hành; ta quyết tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng, ta quyết tái sinh
lên cõi Phạm Thiên". Thế là ngài ra lệnh mở các cửa lớn trong nhà ra, rồi
bảo gia nhân lấy của cải đem, bố thí rộng rãi,
vứt bỏ nó như một vật bất tịnh, ngài đoạn trừ
các tham dục của nhãn quan, và những tiếng khóc than cùng nước mắt
đông đảo của họ hàng quyến thuộc, ngài
ra đi từ kinh thành,
đến tận vùng Tuyết sơn.
Tại đó ngài sống theo lối
độc cư, và khi
đi tìm một chốn an lạc
để trú thân, ngài thấy nơi này, rồi
quyết định ở lại; chọn cây bầu làm nơi
ăn chốn ở, ngài sống tại
đó, ngủ ngay dưới gốc cây bầu ấy. Không bao giờ
cư trú trong làng, ngài trở thành một người sống trong rừng, không
bao giờ ngài dựng chòi lá, mà chỉ ở dưới gốc cây này, ở ngoài trời, thường
an tọa, hoặc nếu ngài muốn nằm thì chỉ
nằm trên mặt đất.
Ngài không dùng cái chày, mà chỉ dùng hàm răng
nghiền nát thức ăn, ngài chỉ ăn những
thức ăn không nấu bằng củi lửa, không bao giờ một thứ hạt còn vỏ lọt
vào miệng ngài, ngài chỉ ăn ngày một lần
và chỉ ngồi ăn một lần. Trên mặt
đất, dường như ngài
đã hòa cùng với tứ
đại làm một, ngài sống hành trì giới
đức của bậc xuất gia khổ hạnh. Trong Tiền thân
ấy, như ta được biết, Bồ-tát rất thiểu dục.
Vì vậy chẳng bao lâu, ngài đạt các Thắng trí
và các Thiền chứng (năm thần thông:
Abhinnà; và tám cấp thiền: Jhànà) và ngài sống nơi ấy trong hỷ lạc của
thiền định. Về trái cây rừng, ngài không
đi đâu xa, khi trái cây mọc trên cây,
ngài ăn trái; vào mùa hoa nở, ngài
ăn hoa; khi lá mọc, ngài
ăn lá; khi không còn lá nào ngài
ăn vỏ cây. Vào buổi sáng ngài thường hái
quả cây ấy, không bao giờ vì tham lam mà ngài
đứng dậy đi hái quả cây nào khác. Ở nơi ngài ngồi, ngài dang tay ra
lượm các trái cây trong tầm tay, ngài ăn các
thứ trái cây đến tay ngài, không phân biệt ngon dở .
Trong khi ngài tiếp tục tìm lạc thú như vậy, nhờ thần lực công
đức của ngài, chiếc ngai hoàng thạch của
Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên (tương truyền chiếc ngai vàng này
nóng lên khi Ðế Thích Thiên chủ sắp mạng chung, hoặc lúc phước
đức của ngài
đã tận diệt và kết thúc, hay khi có một
vị Ðại sĩ cầu nguyện, hay do công năng đức độ
của các Sa-môn, Bà-la-môn đầy uy lực.)
Lúc ấy Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: "Kẻ nào muốn làm ta phải rời khỏi
ngai đây?" vừa nhìn quanh, ngài thấy
trong rừng sâu, ở một nơi kia bậc Hiền nhân Kanha
đang sống nhờ nhặt trái rừng, ngài biết
rằng đó là một trí nhân hành trì khổ
hạnh cao độ, tất cả các căn đều được điều phục,
ngài suy nghĩ: "Ta muốn đi đến gặp vị
ấy. Ta muốn bảo người thuyết Pháp thật cao giọng, và sau khi nghe lời
giảng Pháp đem lại an lạc này, ta sẽ làm
người hoan hỷ một điều ước, và sẽ làm
cho cây của người sinh quả không ngừng, rồi ta mới trở về
đây. "
Sau đó nhờ thần thông lực, Thiên chủ
vụt xuống trần, đứng ngay sau lưng bậc Hiền
nhân, ngài ngâm vần kệ đầu tiên
để thử xem bậc Hiền trí kia có bực tức khi nghe
nhắc đến vẻ xấu xí của mình chăng:
1. Ðằng kia, ngắm kẻ sắc đen tuyền,
Sống ở nơi này cũng đất đen,
Miếng thịt đang ăn đen xám xịt,
Tâm ta chẳng thích đáng người hiền
Hiền nhân Kanha nghe ngài nói vậy:
- Ai nói với ta đấy?
Và nhờ thần thông lực, ngài nhận ra đó là
Ðế Thích Thiên chủ, nên vẫn không cần quay đầu
lại, ngài đáp vần kệ thứ hai:
2. Dù toàn sắc đen, hỡi Ngọc hoàng,
Tâm ta chân chính Bà-la-môn,
Màu da chẳng lỗi, nhưng làm ác
Khiến kẻ phàm nhân đen tối luôn.
Và rồi sau đó, khi đã giải thích
nhiều loại lỗi lầm và chê trách những lỗi lầm đã
biến con người thành những kẻ đen tối, cùng
ca ngợi công đức, ngài thuyết giáo cho
Ðế Thích Thiên chủ, chẳng khác nào ngài làm mặt trăng
mọc lên giữa bầu trời.
Ðế Thích Thiên chủ nghe bài thuyết Pháp, lòng vô cùng hoan hỷ, liền ban
tặng bậc Ðại Sĩ một điều ước và ngâm vần
kệ thứ ba:
3. Nói năng khôn khéo, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng luôn
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Nghe vậy bậc Ðại Sĩ nghĩ thầm: "Ta biết thế nào rồi. Vị này muốn thử ta,
xem ta có giận dữ khi nói đến vẻ xấu xí của ta
không; nên ngài chê bai màu da của ta, thức
ăn chốn ở của ta. Khi thấy rằng ta không giận,
thì ngài vui vẻ, ban cho ta một điều
ước, chắc chắn ngài tưởng ta hành trì cuộc sống này vì ước mong có
thần lực của Sakka Thiên chủ hay Phạm Thiên, vậy nay
để làm ngài tin tưởng, ta sẽ chọn bốn
điều ước: ta ước được an tịnh, không sân hận
đối với kẻ xung quanh ta, không tham cảnh vinh quang của các vị xung quanh
ta, hay thèm muốn dục tình đối với các
vị xung quanh ta".
Suy nghĩ như vậy xong, để giải quyết mối
nghi hoặc của Thiên chủ, bậc Hiền trí ngâm vần kệ thứ tư
đòi bốn
điều ước này:
4. Thiên chủ Sak-ka của thế gian
Chọn điều hạnh phúc, lệnh ngài ban,
Ta mong thoát khỏi lòng sân hận,
Ác độc, tiêu trừ mọi dục tham,
Tất cả bốn điều này hạnh phúc,
Ta thường mơ ước tận tâm can.
Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: "Hiền giả Kanha, khi chọn
điều ước đã chọn bốn
điềm an lạc không lỗi lầm. Bây giờ ta phải hỏi
ngài về thiện ác liên hệ bốn điều này".
Rồi ngài hỏi bằng cách ngâm vần kệ thứ năm:
5. Ở trong ác dục với tham sân,
Này hãy nói đi, hỡi Ðạo nhân,
Ngài thấy điều gì là bất thiện,
Trả lời ta nhé, hãy làm ơn.
- Vậy hãy nghe đây:
Bậc Ðại sĩ đáp lại và cảm khái ngâm
bốn vần kệ này:
6. Ác ý được nuôi bởi hận sân,
Phát sinh từ nhỏ lớn lên dần,
Nên lòng tràn ngập niềm đau xót,
Vì thế ta không muốn giận hờn.
7. Cứ vậy thông thường với ác nhân,
Trước tiên lời nói, chạm vào thân,
Kế đến đấm đá, rồi cây gậy,
Sau hết lòe ra mũi kiếm trần,
Khi có ác tâm, thường phẫn nộ,
Nên lòng ta chẳng muốn hờn căm.
8. Khi người, thúc dục bởi gian tham,
Lừa đảo tăng dần với dối gian,
Vội đuổi theo tiền tài cướp bóc,
Vậy nên ta chẳng muốn tâm tham.
9. Trói chặt xiềng gông bởi dục tình,
Vẫn thường phát triển nảy sinh nhanh
Trong tim, làm xót xa đau nhức,
Ái dục, ta không muốn phận mình.
Khi các câu hỏi đã
được giải thích xong, Ðế Thích Thiên chủ
bảo:
- Thưa Trí giả Kanha, nhờ ngài, các câu hỏi của ta
đã được
giải đáp êm đẹp với trí tuệ của một bậc
Giác Ngộ, ta rất hoan hỷ vì ngài; bây giờ xin ngài chọn một
điều ước khác nữa.
Rồi Thiên chủ ngâm vần kệ thứ mười:
10. Nói năng chân chính, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Lập tức Bồ-tát ngâm kệ:
11. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
Ngài bảo cho ta một đặc ân,
Mong chốn núi rừng ta ẩn náu,
Nơi nào ta trú ngụ đơn thân,
Bệnh không làm hại niềm an tịnh,
Hoặc phá niềm thiền lạc vỡ tan.
Nghe vậy, Ðế Thích Thiên chủ suy nghĩ: "Khi chọn
điều ước, Hiền giả Kanha không chọn điều gì
liên hệ đến thức ăn, mà những gì ngài
chọn đều liên quan
đến đời sống tu hành." Tâm càng hoan hỷ
hơn, Thiên chủ lại cho thêm một điều ước khác và
ngâm kệ:
12. Nói năng thật khéo, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Và Bồ-tát, khi nói lên điều ước của ngài,
đã thuyết Pháp trong vần kệ cuối:
13. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
Ngài bảo cho ta một đặc ân,
Xin chẳng sinh linh nào bị hại,
Vì ta, dù khẩu, ý hay thân.
Nơi nào cũng vậy, này Thiên chủ,
Lời nguyện này ta vẫn ước mong.
Như vậy trong sáu trường hợp, bậc Ðại sĩ lựa
điều ước, ngài đều chỉ chọn những gì
liên quan đến đời sống viễn ly. Ngài
hiểu rõ thân người phải có bệnh và Ðế Thích chủ không thể trừ diệt căn
bệnh của thân nghiệp; Ðế Thích Thiên chủ cũng không thể rửa sạch cho
nhân thế trong ba cửa Thân, Khẩu, Ý. Mặc dù vậy, ngài vẫn chọn
điều ước ấy với mục đích thuyết Pháp cho vị Thiên
chủ.
Sau đó Ðế Thích Thiên chủ làm cho cây
ấy sinh quả quanh năm, vừa chắp tay lên
trán đảnh lễ ngài vừa bảo:
- Xin Hiền giả an trú ở đây không bệnh tật.
Rồi ngài đi về cõi của ngài. Còn
Bồ-tát không bao giờ gián đoạn thiền định, nên
về sau được sinh lên Phạm thiên giới.
*
Sau khi chấp dứt Pháp thoại này, bậc Ðại Sư bảo:
- Này Ànanda, đây là nơi Ta
đã an trú ngày xưa.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào thời ấy Anuruddha (A-na-luật-đà)
là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ và Hiền giả Kanha chính là Ta.
-ooOoo-
441. Bốn Vị Giữ Trai Giới (Tiền thân Catu-Posathika)
(Chuyện tiền thân này sẽ được kể trong Tiền
thân Punnaka) (chưa được tìm thấy)
-ooOoo-
442. Chuyện Bà La Môn Sankha (Tiền thân Sankha)
La-môn Tôn-giả, bậc uyên thâm ...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể ở Kỳ Viên về tứ sự cúng dường.
Chuyện kể rằng ở thành Xá-vệ, có một nam cư sĩ, sau khi nghe
đức Như Lai thuyết Pháp, tâm rất hoan hỷ nên
đã mời chư tăng
vào ngày hôm sau. Tại cửa nhà, ông dựng lên một cái rạp trang hoàng
lộng lẫy, rồi đi thưa trình rằng
đã đến giờ.
Bậc Ðạo Sư đến nơi với năm trăm vị
Tỷ-kheo theo hầu, và ngồi trên bảo tọa lộng lẫy dành cho ngài. Vị cư
sĩ, sau khi đã dâng cúng các lễ vật sang
trọng lên hội chúng Tỷ-kheo với đức Phật là
thượng thủ, lại mời tăng chúng ngày mai;
và cứ thế, trong bảy ngày liền, vị này mời Tăng
chúng đến cúng dường, và vào ngày thứ bảy lại cúng dường những vật
dụng cần thiết. Trong buổi cúng dường này, ông tặng các
đôi hài làm lễ vật
đặc biệt. Ðôi hài dâng lên
đức Phật trị giá một ngàn
đồng vàng. Hai
đôi hài cúng hai vị Ðại
đệ tử (Xá-lợi phất và Mục -kiền-liên)
trị giá năm trăm, còn những
đôi trị giá hơn một trăm đồng dành cho
các vị Tỷ-kheo khác.
Sau khi dâng cúng lễ vật đủ các thứ cần
thiết cho chư Tăng, ông ngồi xuống trước đức Thế Tôn cùng với hội
chúng của Ngài. Sau đó bậc Ðạo Sư
đáp lời tùy hỷ công
đức bằng một giọng vô cùng êm dịu:
- Này gia chủ, thí vật của ông thật hào phóng biết bao, ông hãy hoan hỷ.
Ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã
có những người nhờ cúng dường một đôi hài
lên một vị Ðộc Giác Phật mà kết quả việc bố thí
đó là tìm được chỗ an trú trên
biển cả không có nơi an trú; và nay ông vừa cúng dường cho toàn thể hội
chúng của đức Phật mọi vật dụng cần thiết cho
mỗi Tỷ-kheo, thì công đức biết bao, nếu
không phải là lễ dâng hài này sẽ làm nơi an trú cho ông về sau?
Và theo lời thỉnh cầu của ông. Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, thành Ba-la-nại có tên là Molinì. Trong khi vua Brahamadatta
trị vì ở Molinì, một người Bà-la-môn tên là Sankha giàu có lớn,
đã xây bố thí trường ở sáu chỗ, một ở
mỗi cổng thành, một ở giữa thành và một ở cửa nhà ông. Hằng ngày ông bố thí
sáu trăm ngàn
đồng tiền và cho các kẻ lữ hành cùng kẻ
ăn xin rất rộng rãi.
Một ngày kia ông suy nghĩ: "Một khi kho của cải hết, ta không còn gì
để bố thí nữa. Vậy trong lúc kho chưa cạn, ta
muốn lấy con tàu đi đến xứ Vàng
và sẽ mang của cải về". Thế là ông bảo đóng tàu,
chất đầy hàng hóa và khi từ biệt vợ con,
ông bảo:
- Bà và con hãy lo bố thí không ngừng cho
đến khi ta trở về.
Nói xong, ông cầm lấy dù, mang giày cùng gia nhân hướng mặt về hải cảng,
rồi đúng ngọ ông khởi hành.
Vào lúc ấy một vị Ðộc Giác Phật trên đỉnh
núi Gandhamàdana (Hương Sơn), đang nhập
định, thấy vị kia lên đường tìm
kiếm vàng liền suy nghĩ: "Một bậc Ðại sĩ đang
vượt biển để tìm vàng. Có gặp gì trên biển cả gây trở ngại cho vị này
chăng? Rồi sẽ có. Nếu ông thấy ta, sẽ dâng ta
đôi giày và chiếc dù. và kết quả việc đi
cúng dường này là ông sẽ tìm được nơi an
trú khi tàu đắm trên biển. ta
muốn giúp đỡ ông."
Vì thế bay qua không gian, Ngài hạ xuống, không xa chỗ kẻ lữ hành kia,
rồi tiến đến gặp ông, dẫm chân trên cát
nóng, nóng như thể một đống tro đang cháy bỏng
trong luồng gió dữ dội và ánh mặt trời gay gắt. Vị Bà-la-môn nghĩ
thầm: "Ðây là cơ hội để tạo công đức, ta phải
gieo một hạt giống ngày hôm nay tại chốn này". Lòng vô cùng hoan hỷ,
ông vội vã đi đến đảnh lễ Ngài:
- Thưa Tôn-giả, - ông nói - xin Tôn giả vui lòng ra khỏi con
đường này trong chốc lát,
đến dưới gốc cây kia.
Sau đó, khi đến chỗ ngồi gốc cây, ông lau
phủi hết cát cho Ngài, rồi trải thương y ra mời Ngài ngồi xuống, với
nước sạch thơm ngát, ông rửa chân Ngài, xoa dầu thơm ngào ngạt, và từ chân
của chính mình, ông rút ra đôi hài lau
sạch, xoa dầu thơm xong, mang vào cho Ngài, cúng dường Ngài
đôi hài cùng với chiếc dù, xin Ngài mang
hài và che dù trên đầu Ngài khi ngài lên
đường. Vị Ðộc Giác Phật muốn làm ông vui
lòng nên nhận lễ vật, và trong khi vị Bà-la-môn chiêm ngưỡng Ngài
để tăng trưởng tín tâm, Ngài bay lên về
lại núi Gandhmàdana.
Còn Bồ-tát với tâm đầy hoan hỷ, tiến ra hải
cảng và lên thuyền.
Khi ra đến đại dương vào ngày thứ
bảy, con thuyền nứt ra và họ không thể tát hết nước
được. Tất cả mọi người lo sợ cho mạng sống mình,
đồng thanh kêu gào, mỗi người kêu cầu
một vị thần linh riêng của mình. Bậc Ðại Sĩ, chọn một người hầu, xoa dầu
khắp mình mẩy, ăn một đống đường mịn hòa
với bơ tươi cho thỏa thích, cho kẻ kia cùng ăn,
rồi ngài leo lên cột buồm. Ngài bảo:
- Về hướng kia là kinh thành của ta.
Vừa chỉ tay về hướng ấy, vừa gạt bỏ nỗi sợ hãi về các loài rùa, cá, ngài
lặn mất cùng với gã gia nhân một khoảng xa chừng một trăm
năm mươi cubit (1 cubit = 45cm). Ðám người kia chết
đuối cả, còn bậc Ðại Sĩ cùng gã gia nhân
bắt đầu tiến lên trên biển cả. Trong bảy
ngày liền, ngài tiếp tục bơi. Ngay cả giờ phút ấy, ngài vẫn giữ trọn ngày
trai giới, súc miệng với nước mặn.
Lúc bấy giờ một nữ thần tên là Mani-Mekkhalà, nghĩa là Ngọc Ðới,
đã được
lệnh của Tứ Thiên vương: "Nếu gặp tàu chìm, và tai họa xảy
đến cho người đã quy y Tam Bảo, hoặc
đầy đủ giới đức, hoặc phụng thờ cha mẹ, thì
nàng phải lo cứu độ". Và
để bảo vệ cho các người như vậy, nữ thần an trụ
trên mặt biển. Nhờ thần lực của bà, bà không cần canh phòng trong
suốt bảy ngày ấy, song đến ngày thứ bảy,
nhìn lướt trên mặt biển, bà thấy vị Bà-la-môn Sankha
đức độ kia, nên suy nghĩ: "Kẻ
đằng kia đã bị rớt xuống biển,
đến nay là ngày thứ bảy rồi, nếu ông
chết đi thì ta mắc phải tội nặng lắm."
Vì thế sinh lòng lo lắng, bà vội đổ vào
chiếc đĩa bằng vàng
đầy đủ mọi thức ăn thiên giới, phi nhanh
như gió đến phía ngài, rồi dừng lại
trước mặt ngài trên không và bảo:
- Này Bà-la-môn, ngài không ăn gì
đã bảy ngày rồi, vậy
ăn thức này
đi.
Vị Bà-la-môn nhìn bà đáp:
- Cất thức ăn của nàng
đi, ta đang giữ giới kiêng
ăn.
Kẻ gia nhân của ngài không thấy nữ thần, mà chỉ nghe âm thanh nên nghĩ
thầm: "Vị Bà-la-môn này nói lảm nhảm, ta chắc vì cơ thể ngài yếu
đuối lại nhịn đói đã bảy ngày nên
đang đau đớn và sợ chết, ta muốn an ủi
ngài." Và gã liền ngâm vần kệ đầu:
1. La-môn Tôn giả, bậc uyên thâm,
Tôn giả vốn đầy đủ thánh tâm,
Ðồ đệ Thánh sư, sao lại phải
Hoài tâm vô cớ nói lầm bầm,
Trong khi chẳng có ai đây cả
Ðối đáp ngoài tôi, lúc luận
đàm?
Vị Ba-la-môn nghe gã, biết rằng gã không thấy vị thần kia, nên bảo:
- Này hiền hữu, không phải ta sợ chết đâu,
song đang có một vị khác ở đây để đàm
đạo với ta đó.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:
2. Xuất hiện Thiên thần rực ánh quang,
Tặng ta tiên phạn để ta ăn,
Cao sang trên đĩa vàng bày sẵn
Ta đáp nàng "không" dạ lạc hoan.
Sau đó gã ngâm vần kệ thứ ba:
3. Nếu như người thấy một Thiên thần,
Người hãy yêu cầu một đặc ân
Xin đứng chấp tay van vị ấy,
Cho hay Thiên nữ hoặc phàm nhân?
- Bạn nói phải lắm - vị Bà-la-môn bảo.
Rồi ngài hỏi bằng cách ngâm vần kệ thứ tư:
4. Nương tử nhìn ta vẻ thiết thân,
Bảo ta: "Cần lấy thức này ăn",
Hỏi nàng cao cả đầy uy lực,
Là nữ nhi hay một nữ thần?
Vị nữ thần lấp tức ngâm hai vần kệ:
5. Ta, nữ thần uy lực đại cường,
Nơi này vội đến giữa trùng
dương,
Tràn đầy từ mẫn, tâm hoan hỷ,
Vì cứu ngài trong bước cuối đường.
6. Nhìn đây thực phẩm, chốn an lành,
Nhiều loại cỗ xe, đủ dáng hình,
Cho ngài làm chủ quyền tất cả,
Những gì ao ước tự tìm mình.
Khi vừa nghe vậy, bậc Ðại sĩ suy nghĩ đắn
đo: "Ðây là nữ thần giữa đại dương - ngài
tự nhủ - bà tặng ta vật này vật nọ. Cớ gì bà lại muốn
đem tặng chúng cho ta? Có phải vì một
công đức nào
đó của ta hay do quyền lực riêng của bà
mà bà làm như thế? Ðược, ta sẽ hỏi." Và ngài chất vấn
điều này qua vần kệ thứ bảy:
7. Thưa, vậy tiên nương chính nữ hoàng,
Nắm quyền bao lễ vật nàng ban,
Mỹ nương yểu điệu, mày thanh tú,
Nghiệp quả nào ta tạo đấy chăng?
Vị nữ thần nghe ngài hỏi, nghĩ thầm: "Vị Bà-la-môn này
đã hỏi thế, chắc vì ngài tưởng ta không
biết ngài đã làm việc lành nào. Ta muốn
nói ngay cho ngài rõ". Vì vậy bà đáp ngài
qua vần kệ thứ tám:
8. Trên đường nóng bỏng kẻ đơn thân,
Khát nước, mệt nhừ, lại nhức chân,
Ngài đã dừng, mang tài vật
cúng,
Ngày nay lễ ấy được hồng ân.
Lúc bậc Ðại Sĩ nghe thế, ngài nghĩ thầm: "Ô kìa giữa
đại dương khó vượt qua này, việc cúng
dường đôi hài trở thành một
đại phước báo cho ta. Ôi việc dâng lễ vật lên
một vị Ðộc Giác Phật thật tốt lành thay!" Rồi trong niềm
đại hân hoan, ngài ngâm kệ thứ chín:
9. Xin chiếc thuyền bằng ván khéo xây,
Thuận buồm xuôi gió, chạy như bay,
Mà không thấm nước trên đường biển
Không thể dùng xe cộ chốn đây,
Xin chở ta về Mo-lí gấp,
Làm sao vừa kịp đúng hôm nay.
Nữ thần rất đẹp ý khi nghe những lời này,
liền làm phép cho chiếc thuyền hiện ra, được làm
bằng bảy báu vật, chiều dài tám trăm cubit (1
cubit = 45cm), chiều rộng sáu trăm cubit, chiều sâu hai mươi sải (sải=
1,82m). Có ba cột buồm bằng ngọc bích, dây buộc bằng vàng, cánh buồm
bằng bạc, các mái chèo và bánh lái đều bằng vàng
ròng cả. Trong thuyền, vị nữ thần chất đầy bảy
báu vật, rồi ôm lấy vị Bà-la-môn đưa lên
chiếc thuyền huy hoàng kia. Bà không chú ý đến
gã hầu cận, song vị Bà-la-môn vẫn chia phần cho gã hưởng phước lành.
Gã sung sướng quá và nữ thần kia cũng ôm gã đặt
lên thuyền nữa. Liền đó bà
đưa thuyền đến kinh thành Molinì và sau
khi đã chất
đầy châu báu vào kho nhà vị Bà-la-môn, bà trở về nơi an trú mình.
*
Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Tối thắng, đã
ngâm vần kệ cuối cùng:
10. Thần nữ hân hoan, hạnh phúc tràn,
Làm cho xuất hiện, chiếc thuyền thần,
Ðem San-kha với người hầu cận
Về đến kinh đô đẹp tuyệt trần.
Còn vị Ba-la-môn suốt đời ở nhà bố
thí thật rộng rãi không ngừng và giữ giới hạnh, nên khi mạng chung ngài cùng
các gia nhân đi lên cộng trú với chư
Thiên.
*
Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy
giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị cư sĩ ấy chứng
đắc Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa sắc) là nữ thần, Ànanda là người hầu,
và Bà-la-môn Sankha chính là Ta.
-ooOoo-
443. Chuyện Trí Giả Tiểu Bồ Ðề (Tiền thân Culla-Bodhi)
Ví thử người ta bắt quý nương...,
Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người tính hay nóng giận.
Người này, sau khi đã xuất gia, tu
tập, hành trì Giáo pháp đưa đến giải thoát, an
lạc trọn vẹn, lại không thể chế ngự cơn giận của mình. Ông lòng
đầy bực tức, hiềm hận; song lại ít nói nên
khi phẫn nộ, bị lôi cuốn vào cơn nóng giận, ông trở nên gay gắt chua cay và
khó dạy bảo. Khi nghe nói đến tính hay nóng
giận của ông, bậc Ðạo Sư cho gọi ông vào và hỏi có thật là ông hay
nổi giận như lời đồn chăng. Vị này
đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn,
Bậc Ðạo Sư bảo:
- Này Tỷ-kheo, tính nóng giận phải được chế
ngự, vì một kẻ hành ác hạnh như vậy không thể nào có nơi an trú
được dù trong
đời này hoặc
đời sau. Tại sao sau khi tu tập pháp môn giải
thoát của đức Phật tối thượng không có lòng sân giận, cớ gì ông lại
tự mình tỏ ra hay phẫn nộ? Các bậc trí nhân ngày xưa, ngay cả những vị hành
trì giáo pháp khác với chúng ta cũng đã
kềm chế được lòng phẫn nộ.
Rồi Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta lên ngôi ở Ba-la-nại, trong một thị trấn ở
xứ Kàsi có một vị Bà-la-môn rất giàu vàng bạc, gia sản
đồ sộ song lại không có con, nên bà vợ
cầu mong con trai. Vào thời ấy Bồ-tát từ cõi Phạm thiên
đi xuống trần, nhập mẫu thai của bà, rồi
vào ngày lễ đặt tên, cha mẹ chọn cho
ngài cái tên Bodhi-Kumàra hay là Nam tử Trí Tuệ. Khi ngài
đến tuổi khôn lớn, ngài
đi đến Takkasilà, nghiên cứu
đủ các môn học thuật, và sau khi về nhà,
dù ngài không muốn, cha mẹ ngài vẫn đi cưới một
thiếu nữ về làm vợ ngài, từ một gia đình
cùng chung giai cấp với ngài. Nàng ấy cũng xuống cõi trần từ Phạm thiên
giới, có nhan sắc tuyệt thế, chẳng khác nào một vị tiên nữ. Cả hai vị trở
thành vợ chồng, song cả hai chẳng ai mong muốn chuyện
đó cả. Chẳng bao giờ có ai phạm vào dâm
dục, cũng chẳng kẻ nào liếc mắt nhìn kẻ kia một cách say
đắm, ngay cả trong giấc ngủ, hai vị cũng không
hề bao giờ có hành động tương tự, cả hai
vị đều sống thanh tịnh như thế.
Sau một thời gian, khi song thân đều mất cả,
ngài lo việc tang lễ cho thi hài cha mẹ chu
đáo. Bậc Ðại Sĩ gọi vợ
đến, bảo nàng:
- Này quý nương, nàng hãy giữ lấy gia sản tám trăm
triệu đồng này và sống đời hạnh phúc.
- Không phải vậy đâu, mà
đó là phần của phu quân.
Ngài bảo:
- Ta không cần vàng bạc, ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn, trở thành một ẩn sĩ và
tìm nơi cư trú ở đó.
- Vậy thưa phu quân tôn quý, chỉ nam giới mới
được xuất gia tu hành thôi chăng?
Ngài đáp:
- Không phải vậy, nữ giới cũng được.
- Vậy thì thiếp, cũng không muốn nhận lấy thứ chàng
đã phun khỏi miệng, vì thiếp cũng không
ham thích vàng bạc gì hơn chàng, thiếp cũng muốn thành ẩn sĩ như chàng.
- Này quý nương, tốt lành thay!
Rồi hai vị đem phân phát bố thí phần lớn tài
sản và xuất gia. Ðến một vùng đất an lạc dựng
am thất ẩn sĩ, các ngài sống bằng trái cây rừng mà các ngài kiếm
được, và cứ sống như vậy mười năm
tròn, song vẫn chưa chứng đắc Thiền định
của bậc Thánh.
Thế là sau một thời gian sống tại đó, hưởng
hạnh phúc của cuộc đời ẩn dật suốt mười năm liền, các ngài ra
đi ngang qua vùng quê
để tìm muối và
đồ gia vị, và thuận
đường đến Ba-la-nại liền vào trú chân
trong vườn ngự uyển.
Bấy giờ, một ngày kia vua thấy người giữ ngự viên
đến dâng một món quà trong tay, ngài
phán:
- Trẫm muốn liên hoan trong ngự viên, vậy hãy sắp xếp cho chỉnh tề.
Và khi hoa viên đã
được dọn dẹp sạch sẽ sẵn sàng, vua ngự
vào đó cùng
đám cận thần hộ tống đông đảo.
Lúc đó cả hai vị ở trên một chỗ trong
ngự viên, an hưởng lạc thú của cuộc sống tu hành. Còn vua khi
đi ngang qua ngự viên, thấy hai vị ngồi
đó; và khi mắt ngài chợt bắt gặp vị nữ
nhân diễm lệ khả ái kia, ngài say mê ngay. Lòng ngài rúng
động vì khát vọng dục tình, ngài quyết
định hỏi nàng có liên hệ gì
đối với ẩn sĩ kia; nên khi
đi đến gần Bồ-tát, vua hỏi ngay câu ấy. Bồ-tát
đáp:
- Tâu đại vương, nay nàng ấy chẳng có
liên hệ gì đối với ta cả; nàng chỉ cùng
chung đời sống tu hành với ta thôi, song
trước kia ta còn sống ở chốn trần tục, thì nàng ấy
đã là vợ ta.
Nghe vậy, vua thầm nghĩ: "Như vậy, vị này bảo nữ nhân kia chẳng là gì
đối với ông cả, song khi còn sống
đời thế tục, nàng ấy
đã là vợ ông. Ðược rồi, nếu ta dùng
vương quyền bắt lấy nàng thì ông làm gì được?
Cho nên ta muốn chiếm nàng". Và vua vừa
đến gần vừa ngâm vần kệ:
1. Ví thử người ta bắt quý nương,
Mắt tròn, và cướp khỏi Tôn ông,
Người yêu ngồi đó đang cười nụ,
Ngài sẽ làm gì, hỡi Ðạo nhân?
Bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ hai để đáp câu
hỏi này:
2. Khi đã khởi lên, nó chẳng rời
Chẳng bao giờ nữa, suốt đời tôi,
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Dập tắt nó thời mới nhú thôi.
Bậc Ðại Sĩ trả lời như vậy, lớn tiếng như sư tử hống. Song nhà vua dù
đã nghe thế, vẫn không thể nào chế ngự
được con tim say đắm của mình, do nỗi si
mê mù quáng, liền ra lệnh cho vị cận thần phải bắt nàng kia vào cung.
Vị cần thần tuân lệnh dẫn nàng đi, dù
nàng đã thở than khóc lóc rằng làm ác
nghiệp phi pháp là thói thường của thế gian, còn Bồ-tát nghe tiếng nàng kêu
khóc, ngài chỉ nhìn một lần thôi, không nhìn nữa. Vì thế nàng bị
đưa vào cung trong lúc
đang kêu gào thê thảm.
Vua xứ Ba-la-nại không còn chần chờ ở ngự viên nữa, mà nhanh chóng trở về
cung, triệu nàng đến chầu và ban cho
nàng nhiều vinh dự cao sang. Song nàng bảo những vinh quang
đó chẳng có giá trị cả, và chỉ
đời sống độc cư là cao thượng thôi. Vua
thấy không thể dùng cách gì để chinh phục được
tim nàng, nên truyền giữ nàng trong một phòng biệt lập và bắt
đầu suy nghĩ: "Ðây là một người
đàn bà khổ hạnh không màng mọi thứ vinh
quang này, và vị ẩn sĩ cũng không hề tỏ ra giận dữ khi người hầu bắt
đi một nữ nhân tuyệt mỹ như vậy. Song những ẩn
sĩ thường có mưu sâu lắm; chắc chắn ông đang lập mưu để hại ta. Ðược
rồi, ta muốn trở lại gặp ông và tìm hiểu tại sao ông vẫn ngồi
đó." Và thế là không thể ngồi yên
được, vua đi vào ngự viên.
Lúc ấy Bồ-tát đang ngồi vá chiếc y. Vua chỉ
đi một mình nên đến tận nơi, bước nhẹ nhàng
không gây tiếng động. Bồ-tát vẫn tiếp tục vá
áo, chẳng nhìn đến vua. Vua nghĩ: "Người
này chẳng muốn nói gì với ta vì đang tức
giận đấy. Kẻ khổ hạnh này đúng là
gã bịp bợm, trước tiên thét lớn: "ta không muốn
để lòng căm hận khởi lên chút
nào, song nếu nó khởi lên, ta quyết dập tắt nó ngay lúc còn nhỏ nhoi", rồi
sau đó lòng căm
phẫn cứ đeo đẳng dằng dai nên gã không muốn nói chuyện với ta
đó!". Với ý nghĩ này, vua ngâm vần
kệ thứ ba:
3. Ngài lớn tiếng khoe hay,
Chừng một lát trước đây,
Nay lặng thinh vì giận
Ngài ngồi đó vá may.
Khi bậc Ðại Sĩ nghe thế, ngài hiểu vua tưởng ngài im lặng vì tức giận,
nên muốn tỏ ra là ngài không hề bị lòng phẫn nộ chi phối, ngài ngâm vần kệ
thứ tư:
4. Hễ lúc nào sinh khởi nó rồi,
Chẳng bao giờ nó chịu rời tôi,
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Tôi dập nó thời mới nhỏ nhoi.
Khi nghe những lời này, vua suy nghĩ: "Có phải người này nói
đến lòng sân hận hay
điều gì khác nữa? Ta muốn hỏi ông cho
rõ". Rồi vua ngâm vần kệ thứ năm:
5. Gì đó mà không thể bỏ ngài,
Chẳng bao giờ hết, suốt trong đời?
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Ngài dập tắt gì lúc nhỏ nhoi?
Vị kia đáp:
- Thưa Ðại vương, như thế nỗi sân hận thường
đem lại nhiều đau khổ, nhiều tai hại, tàn khốc; nó chỉ vừa khởi lên
trong ta, song nhờ nuôi dưỡng lòng từ mẫn, ta đã
dập tắt được nó.
Rồi ngài ngâm các vần kệ sau để thuyết giảng
về nỗi khổ đau vì hiềm hận:
6. Con người không nó, thấy minh quang,
Có nó, mù đui trước nẻo đàng,
Nó khởi trong ta không thoát được,
Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
7. Ðiều gì làm thích thú cừu nhân,
Kẻ muốn tâm ta phải khổ buồn,
Phát khởi trong ta không thoát được,
Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
8. Cái điều, nếu nổi dậy trong mình.
Che khuất người ta trước hạnh lành,
Ðã phát trong ta không thoát được,
Căm hờn, nuôi dưỡng bởi vô minh.
9. Ðiều làm tổn phước đức vô song,
Khiến kẻ bị lừa bỏ lập công,
Mãnh liệt, phá tan, đầy khủng khiếp,
Không rời ta nữa, ấy là sân.
10. Ngọn lửa lên cao, sẽ lớn hơn,
Nếu mỗi nhiên liệu được khơi tròn,
Bởi vì ngọn lửa lên cao mãi,
Nhiên liệu tự mình phải cháy luôn.
11. Cũng vậy trong tâm trí kẻ đần,
Người không có thể nhận chân ra rằng
Phát sinh phẫn nộ từ tranh cãi
Bởi vậy thanh danh phải bại tàn.
12. Phẫn nộ nào tăng tựa lửa hừng
Với mồi than củi cháy bừng bừng,
Như trăng nửa tháng đêm trời tối,
Ðức hạnh tiêu hao, hủy hoại dần.
13. Người nào chế ngự được lòng sân,
Như lửa mà không có củi than,
Như trăng nửa tháng trời dần sáng,
Công đức người kia cứ mãi tăng.
Khi vua đã nghe bậc Ðại Sĩ thuyết
Pháp xong, lòng rất hoan hỷ, nên ra lệnh cho một cận thần
đi dẫn người đàn bà
đến, và mời vị ẩn sĩ vô sân kia cùng ở
lại với nàng trong ngự viên để an hưởng lạc thú
của cuộc sống độc cư và vua hứa sẽ chăm
sóc bảo vệ cho hai vị như bổn phận của mình. Sau
đó nhà vua xin hai vị tha thứ lỗi lầm và
kính cẩn từ tạ ra về. Thế là hai vị ấy ở lại
đó.
Dần dần về sau, người đàn bà ấy từ
trần và sau khi nàng qua đời, vị ẩn sĩ trở về vùng
Tuyết Sơn, tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng, làm cho Tứ Vô lượng tâm
(bốn Phạm trú: Từ, Bi, Hỉ, Xả) sinh khởi trong lòng, nên ngài
được sinh vào cõi Phạm thiên.
*
Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Vào
đoạn kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo hay sân
hận kia đã được an trú vào Tam
quả (Bất Lai).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy, mẫu thân của Ràhula (La-hầu-la) là nữ ẩn sĩ ấy. Ànanda là
vua kia và vị ẩn sĩ chính là Ta.
-ooOoo-
444. Câu Chuyện Hắc Nhân Dìpàyana (Tiền thân Kanhadìpàyana)
Bảy ngày tâm trí được thong dong...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.
Hoàn cảnh này sẽ được giải thích trong Tiền
thân Kusa (số 531). Khi bậc Ðạo Sư hỏi lời
đồn ấy có đúng không và vị Tỷ-kheo ấy
đáp là
đúng, thì ngài bảo:
- Này Tỷ-kheo, thuở xưa trước khi đức Phật
xuất hiện ở đời, các bậc trí nhân, ngay cả những vị hành trì một nếp
tu tập không theo Chánh pháp, trong suốt hơn năm
mươi năm bước đi trong Thánh hạnh mà không thích thú nhiệt tâm, song
vì bản tính thận trọng khôn ngoan, nên không bao giờ nói cho ai hay biết là
các ông đã thối thất. Còn nay tại sao
ông đã hành trì Giáo pháp của Ta
đưa đến giải thoát, và ông
đang đứng trước mặt một đức Phật Thế Tôn như
Ta, sao ông dám bộc lộ sự thối thất của ông trước bốn hàng
đệ tử? Tại sao ông không giữ được tính thận
trọng e dè?
Nói xong, Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, trong quốc độ Vamsa, một vị vua
trị vì tại Kosambi mệnh danh là Kosambika. Thời ấy có hai vị
Bà-la-môn ở một thị trấn kia, mỗi vị đều có tài
sản tám trăm triệu đồng và là bạn thân
thiết của nhau, cả hai ông, sau khi đã
nhận thức sự tai hại của tham dục, và đã
phân chia của cải ra để bố thí, liền từ bỏ thế
tục ngay giữa tiếng than khóc của nhiều người thân, khởi hành về phía
Tuyết Sơn, dựng am ẩn sĩ ở đó cho mình.
Tại chốn ấy trong năm mươi năm liền, hai vị
sống đời ẩn sĩ, nuôi thân bằng trái cây, củ rừng mà hai vị tình cờ
kiếm được; song các vị không thể nào
chứng đắc Thiền định.
Sau năm mươi năm ấy đã trôi qua, các
vị đi du hành qua vùng quê xin muối và
đồ gia vị, lại đến vương quốc Kàsi.
Trong một thị trấn của quốc độ này có
một gia chủ tên là Mandavya, đã từng là
một thân hữu tại gia ngày trước của ẩn sĩ Dìpàyana. Hai vị liền
đi đến thăm ông Mandavya này; vừa trông
thấy hai vị, ông chủ nhà vô cùng thích thú, liền xây cho hai vị một am
tranh, cung cấp đầy đủ mọi loại vật dụng cần
thiết của cuộc sống ẩn sĩ. Hai vị ở đó ba bốn mùa, rồi từ giã ông,
tiến về Ba-la-nại, tại đây hai vị vào ở
trong nghĩa địa trồng toàn cây
Atimuttaka. Khi Dipàyana đã ở
đó một thời gian như ý muốn, ngài trở về
nơi người bạn xưa lần nữa; còn Tôn-giả Mandavya, ẩn sĩ kia, vẫn ở chỗ cũ.
Lúc bấy giờ, một ngày kia có tên đạo tặc gây
cướp bóc trong thị trấn, và trở về từ nơi ấy cùng một số của cải cướp
được. Các gia chủ, lính canh, chạy ra cùng
la to "kẻ trộm" và kẻ trộm bị các người này
đuổi gấp, đã thoát thân qua một ống cống và trong lúc
đang chạy quanh gần nghĩa địa, gã làm
rơi gói đồ ở cửa nhà lá của vị ẩn sĩ ấy.
Khi các chủ nhà thấy gói này, đồng kêu
to:
- À đồ khốn kiếp! Anh là quân trộm
cướp ban đêm, còn ban ngày anh
đi quanh quẩn giả dạng tu hành.
Rồi vừa phỉ báng, vừa đấm đá, họ đem vị này
vào yết kiến vua.
Vua không bảo điều tra gì cả mà chỉ
nói:
- Dẫn nó đi ra và
đóng cọc vào nó.
Họ đem ông đến nghĩa địa, đặt ông vào
cái cọc bằng gỗ cây keo. Song cây cọc không chịu
đâm qua thân của vị ẩn sĩ, kế đó họ mang vào
cái cọc khác, song cái này cũng không đâm thủng
ông, kế đó là cái cọc sắt, cũng không thể
đâm thủng thân ông được. Ông tự hỏi hành
động nào trong quá khứ của mình
đã gây nên sự việc này, liền quan sát
quá khứ, trong tâm ông khởi lên tri kiến về các
đời trước, nhờ vậy nhìn lại quá khứ, ông thấy những việc
đã làm từ lâu,
đó chính là việc
đâm thủng một con ruồi trên một mảnh gỗ
mun.
Chuyện kể rằng trong một đời trước, ông là
con trai một người thợ mộc. Một bữa nọ, cậu đi
đến chỗ người cha thường đốn cây và cậu
đã dùng một mảnh gỗ mun đâm thủng một
con ruồi như thể đóng cọc vào nó. Chính ông phát giác ra tội ác kia
vào giờ phút nguy kịch này. Ông nhận thức rằng không thể nào thoát khỏi ác
nghiệp cũ được, nên bảo
đám quân hầu của vua:
- Nếu các ông muốn đóng cọc ta, hãy
lấy cái cọc bằng gỗ mun.
Họ làm theo, và đóng cọc vào vị ấy
xong, họ để lại một tên quân canh giữ vị
ấy và ra đi.
Bọn lính canh từ một nơi ẩn nấp quan sát mọi việc xảy ra cho vị ấy. Lúc
bấy giờ, Dìpàyana suy nghĩ: "Ta đã gặp
đạo hữu của ta cách đây lâu rồi", liền muốn đi
tìm bạn. Khi nghe tin bạn đã bị
đóng cọc treo lên suốt ngày bên vệ
đường, ông liền đi đến đứng bên bạn và
hỏi bạn đã làm gì.
- Chẳng làm gì cả. Vị ấy đáp.
Vị kia lại hỏi:
- Thế hiền hữu, ta chẳng thấy sân hận gì những kẻ
đã bắt ta, cũng chẳng hiềm hận vua;
chẳng có nỗi oán hờn nào trong tâm ta cả.
- Nếu quả vậy, thì bóng mát của một vị đức
độ như thế này cũng đủ đem lại an lạc
cho đời ta rồi.
Cùng với những lời này, ông ngồi xuống cạnh cây cọc. Từ thân của Mandavya
rơi xuống vài giọt máu trên thân người bạn. Vì chúng rơi xuống làn da vàng
óng và khô đi như thể các chấm đen trên
đó, khiến cho ông có tên Kanha hắc nhân
Dìpàyana từ đó về sau. Và ông cứ ngồi
yên tại chỗ suốt đêm.
Ngày hôm sau, bọn quân canh đến kể mọi
chuyện với vua, ngài bảo:
- Ta đã hành
động quá hấp tấp.
Rồi vua vội vã đến nơi, hỏi Dìpàyana
chuyện gì đã khiến ông ngồi bên cây cọc.
Ông đáp:
- Tâu Ðại vương, thần ngồi đây để canh bạn.
Nhưng xin cho biết người này đã
làm gì, hay bỏ dở việc gì chưa làm, mà Ðại vương
đối xử như vậy?
Vua giải thích là vấn đề chưa được điều tra.
Vị kia đáp:
- Tâu Ðại vương, một vị vua phải hành động
cẩn trọng; một người thế tục phóng túng, ham mê dục lạc là
điều không hay v.v...
Và ông còn khuyến cáo nhà vua thêm những việc tương tự như thế nữa.
Khi vua thấy Mandavya vô tội, ngài ra lệnh nhổ cọc lên. Nhưng dù bọn
chúng gắng hết sức, cũng không nhổ lên được.
Mandavya bảo:
- Tâu Ðại vương, thần phải chịu mang sự ô nhục này là do một lỗi lầm
đã phạm thời xa xưa, nên không thể nào
nhổ cọc ra khỏi thân này được. Song nếu
Ðại vương muốn cứu mạng thần, xin bảo đem đến
cái cưa, xẻ cái cọc ngang sát lớp da.
Vua bảo làm như thế; nên phần cây cọc nằm trong thân ông vẫn còn
đó. Vì chuyện kể rằng trước kia có lần
ông cầm một viên kim cương nhỏ đâm thủng ống
mật của một con ruồi nọ để nó khỏi chết, cho đến lúc nó tận số. Nhờ vậy ông
cũng không chết luôn. Chuyện kể như thế.
Còn nhà vua đảnh lễ hai vị ẩn sĩ, xin thứ
lỗi, rồi đem hai vị vào trú ngụ trong ngự viên, và chăm
sóc hai vị tại chỗ ấy. Cũng từ đó, Mandavya được gọi là "Mandavya
mang-cái-cọc", cứ sống ở nơi này gần gũi nhà vua. Phần Dìpàyana, sau khi
chữa lành vết thương cho bạn xong, lại trở về với bạn xưa là gia chủ
Mandavya. Khi gia nhân nhận thấy vị này đi vào
am thất cũ, liền đi báo với gia chủ. Ông chủ
nghe tin lòng rất hoan hỷ, cùng với vợ con
đem nhiều hương liệu, tràng hoa, dầu,
đường đi đến am thất, đảnh lễ Dìpàyana,
rửa chân và xoa dầu thơm cho vị này xong, đem
mời nước uống và ngồi lắng nghe câu chuyện ẩn sĩ Mandavya
mang-cây-cọc.
Bấy giờ con trai của gia chủ là nam tử Yannadatta,
đang chơi đùa với quả cầu ở cuối mái
hiên. tại đó, có một con rắn trong một ổ kiến.
Trái cầu của cậu trai bị ném xuống đất, chạỵ tọt vào lỗ kiến kia và
rơi nhằm con rắn. Vì không biết sự này, cậu thò tay vào lỗ. Con rắn tức giận
cắn tay cậu, khiến cậu ngã xuống bất tĩnh vì nọc
độc của rắn quá mạnh. Sau đó cha mẹ cậu thấy
con bi rắn cắn, liền nâng con dậy đem đến vị ẩn sĩ kia, đặt cậu nằm dưới
chân vị này và nói:
- Thưa Tôn giả, các bậc tu hành thường biết các cây thảo dược và bùa chú,
xin Tôn giả chữa trị cho con chúng tôi.
- Ta đâu biết gì về thảo dược, ta
chẳng làm nghề y sĩ bao giờ.
- Thưa Tôn giả, ngài là bậc tu hành xin thương xót thằng bé này và thực
hiện một lời Nguyện cầu Chân thật.
- Ðược lắm - vị ẩn sĩ đáp - ta sẽ thực hiện
một lời Nguyện cầu Chân thật.
Rồi vừa đặt đặt lên
đầu Yannadatta, ông vừa ngâm vần kệ đầu:
1. Bảy ngày tâm trí thật thong dong,
Thanh tịnh sống đời ước lập công,
Từ đó năm mươi năm ẩn dật,
Chú tâm ta bộc bạch lời chân;
Nơi đây ta sống dù không muốn,
Lời thật này mong tạo phước ân,
Khiến nọc độc không còn hiệu lực,
Cậu trai này sẽ tỉnh lên dần.
Chẳng bao lâu khi lời Nguyện cầu Chân thật này
được thực hiện, thì chất
độc phóng ra từ ngực của Yannadatta và
chui xuống đất. Cậu bé mở mắt nhìn cha
mẹ và kêu:
- Mẹ ơi!
Rồi cậu quay người nằm im. Lúc ấy Hắc nhân Dìpàyana bảo người cha:
- Này, ta đã dùng hết khả năng
của ta, nay đến thời bạn dùng khả năng
của mình đi.
Người cha đáp:
- Vậy tôi sẽ thực hiện lời Nguyện cầu Chân thật.
Rồi vừa đặt tay lên ngực con trai,
ông vừa ngâm vần kệ thứ hai:
2. Chẳng chút quan tâm vật cúng dường
Ta đem đãi mọi khách qua
đường,
Song người hiền trí chưa hề biết
Ta đã tự kiềm chế bản thân;
Dù bố thí, ta lòng miễn cưỡng,
Cầu mong lời thật tạo hồng ân,
Làm cho nọc độc thành vô hiệu,
Thằng bé này đây được tỉnh dần.
Sau khi ông thực hiện lời Nguyện cầu Chân thật này, từ lưng cậu bé nọc
độc xuất ra và chui xuống
đất. Cậu ngồi dậy, nhưng chưa thể đứng lên
được. Lúc ấy người cha bảo người mẹ:
- Này phu nhân, ta đã dùng hết khả năng
của ta, bây giờ chính bà dùng năng lực
của mình phát nguyện Lời Chân thật để làm
cho con bà đứng lên và
đi được.
Bà vợ đáp:
- Tôi cũng có một sự thật muốn nói ra, nhưng trước mặt quí vị tôi không
thể nói được.
Ông bảo:
- Này phu nhân, hãy dùng hết mọi phương cách làm cho con ta bình phục.
Bà đáp:
- Thế thì tốt lắm.
Và lời Nguyện cầu Chân thật của bà được đưa
ra trong vần kệ thứ ba:
3. Rắn nọ cắn con mới nãy giờ,
Nằm trong lỗ ấy hỡi con thơ,
Và cha con đó, này ta bảo,
Là một, trong tim mẹ hững hờ,
Mong sự thật này mang phươc đức,
Nọc tan, con trẻ tỉnh hồn mơ!
Chẳng bao lâu lời Nguyện Cầu Chân thật này
được thực hiện thì tất cả nọc độc đều
tuôn ra và chui xuống đất. Yannadatta
đứng dậy, toàn thân cậu đã
được tẩy sạch hết chất độc, nên cậu bắt
đầu chơi đùa. Khi cậu bé
đã hồi tỉnh như thế xong, gia chủ
Mandavya hỏi về tâm tư của Dìpàyana qua vần kệ thứ tư:
4. Người ta xuất thế, trí quang minh,
Thuần thục, tâm không chút bất bình,
Trừ bạn Kan-ha, sao thối chất,
Chẳng mong tiến bước đạo tu hành?
Ðể đáp lại lời này, vị kia ngâm vần
kệ thứ năm:
5. Xuất thế rồi quay lại cõi trần,
Chắc người ta nghĩ: "Kẻ ngu đần!",
Chính điều này khiến ta lùi bước,
Ta vẫn hành trì đạo Thánh nhân
Tuy vậy ta không còn phát nguyện,
Ta theo Thánh đạo bởi nguyên nhân:
Ðược lời khen ngợi từ người trí,
Là cách người hiền thiện trú thân.
Sau khi đã giải thích lối suy nghĩ
của mình như vậy xong, vị này hỏi Mandavya lần nữa qua vần kệ thứ sáu:
6. Nhà bạn đây như thể quán ăn,
Chứa đồ ẩm thực để cung dâng
La-môn, trí giả cùng du khách,
Thỏa mãn cơn khao khát, đói lòng,
Xong sợ điều gì gây tiếng xấu,
Nên lòng miễn cưỡng lại cho không.
Ðến lượt Mandavya giải thích ý tưởng mình qua vần kệ thứ bảy:
7. Giữ gìn Thánh hạnh các cha ông,
Là thí chủ ban phát rộng lòng,
Theo gót xưa, ta đầy cẩn trọng,
Sinh thời đường lối của gia tông,
Sợ mình sẽ biến thành suy thoái,
Nên miễn cưỡng lòng vẫn biếu không.
Sau khi nói xong, Mandavya hỏi vợ qua vần kệ thứ tám:
8. Khi còn thiếu nữ trí ngây thơ,
Ta cưới bà về tự nhạc gia,
Bà chẳng bảo lòng ta lãnh đạm
Làm sao bà sống cả đời bà,
Không tình gắn bó, không thương mến,
Bà đã vì
đâu ở lại nhà,
Hỡi quí phu nhân đầy yểu điệu,
Sống đời lạnh lẽo thế cùng ta.
Bà vợ đáp qua vần kệ thứ chín:
9. Chẳng phải là nề nếp cổ phong,
Cho người làm vợ lại thay chồng,
Chẳng bao giờ thế, nên tôi vẫn,
Giữ thói lề kia, kẻo ngại rằng
Tôi bị người xem là thoái hóa,
Chính niềm lo sợ tiếng đồn hung,
Khiến tôi ở lại và chung sống
Chẳng có tình yêu, vẫn lạnh lùng.
Sau khi vừa nói điều này ra xong, một
ý nghĩ chợt đến với bà: "Nay ta
đã nói điều
bí mật kia với chồng ta rồi, cái điều bí mật chưa hề bao giờ được nói ra cả!
Chắc chàng sẽ giận ta lắm; vậy ta muốn
được xin lỗi chàng ngay trước mặt vị ẩn sĩ này vốn là bạn chân tình
của nhà ta!" Với mục đích trên, bà ngâm
vần kệ thứ mười:
10. Giờ đây thiếp lỡ nói rồi,
Những điều chẳng đáng nên lời nói ra
Vì con, mong ước thứ tha,
Không gì hơn được mẹ cha nồng tình,
Yan-na, con của chúng mình
Trước đây đã chết, hồi sinh bây giờ!
- Thôi phu nhân hãy đứng dậy đi - Mandavya
nói - tôi tha lỗi cho bà rồi. Từ nay bà
đừng vô tình với tôi nữa; rồi tôi sẽ không bao giờ buồn phiền gì bà
đâu.
Còn Bồ-tát bảo Mandavya:
- Trong khi thu thập được nhiều của cải bất
chính, rồi bạn lại phân phát bố thí rộng rãi, song không có lòng tin
rằng hành động ấy là hạt giống an lành
mang lại dị thục quả, như thế là bạn sai lần
đấy. Trong tương lai, bạn hãy tin tưởng vào công
đức của lễ vật bố thí, và bạn hãy bố thí
cúng dường.
Vị gia chủ hứa làm như vậy, và đến phiên
mình nói với Bồ-tát:
- Thưa Tôn giả, chính Tôn giả cũng sai lầm khi nhận lễ vật của chúng tôi
cúng dường trên bước đường Thánh hạnh mà
lòng không phát nguyện tu hành. Giờ đây để cho
hạnh nghiệp của Tôn giả mang lại nhiều phước quả dồi dào, xin từ nay
về sau Tôn giả tiến lên trong Thánh đạo với lòng
an tịnh thanh thản và tràn đầy thiên
lạc.
Rồi hai ông bà giã từ bậc Ðại sĩ và ra về.
Từ đó về sau, bà vợ thương yêu chồng
mình, gia chủ Mandavya giữ tâm thanh tịnh, đem
của cải bố thí với đầy đủ lòng tin; còn Bồ-tát xua tan hết lòng thối
thất, và tu tập các Thắng trí thiền định nên
được sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Khi Pháp thoại này chấm dứt, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ
vào đoạn kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối
thất đã được an trú vào Sơ quả
(Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy Ànanda là gia chủ Mandavya; Visàkhà (Tỳ-cá-khư) là bà vợ,
Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Mandavya mang-cái-cọc, và Hắc nhân Dìpàyana chính
là Ta.
-ooOoo-
445. Chuyện Vua Ða (Tiền thân Nigrodha)
Người ấy là ai, ta chẳng hay ...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).
Một bữa nọ, các Tỷ-kheo bảo vị này:
- Này hiền hữu Ðề-bà-đạt-đa, bậc Ðạo
sư cứu độ hiền hữu rất nhiều! Từ bậc Ðạo
Sư, hiền hữu đã thọ
đủ Tiểu giới và Ðại giới; hiền hữu
đã học Tam Tạng là tiếng nói của
đức Phật; hiền hữu đã làm phát khởi
Thiền định trong tâm hiền hữu; vinh quang là
lợi lạc của đấng Thập Lực thuộc về hiền hữu.
Nghe vậy vị này liền đưa lên một cọng
cỏ và nói:
- Ta không thấy một điều lợi lạc nào
mà Sa-môn Gotama đã tạo cho ta cả, dù
chỉ bằng cọng cỏ này.
Tăng chúng bàn tán việc ấy trong
Chánh Pháp đường. Khi bậc Ðạo Sư bước
vào, Ngài hỏi các vị ấy đang bàn luận
điều gì trong lúc ngồi
đó. Các vị trình lên Ngài, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu, mà
từ lâu cũng như bây giờ, Ðề-bà-đạt-đa đã
vô ơn và phản bội thân hữu.
Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện đời
xưa:
*
Ngày xưa một vị Ðại vương danh hiệu là Magadha (Ma-kiệt-đà)
cai trị ở thành Ràjagaha (Vương xá) .
Một thương nhân trong thành ấy cưới về nhà cho con trai mình một cô vợ,
đó là con gái của một thương nhân ở thôn
quê. Song nàng ấy không sinh sản gì. Theo thời gian, vì nguyên cớ
đó, lòng kính trọng
đối với nàng giảm
đi; cả nhà thường nói chuyện cho nàng có
thể nghe được như vầy:
- Khi có một người vợ không sinh sản trong nhà, con trai ta làm sao nối
dõi tông đường được?
Khi chuyện này cứ đến tai nàng mãi,
nàng tự nhủ: "được rồi, ta sẽ giả vờ mang thai
để đánh lừa họ".
Thế là nàng hỏi vú già tốt bụng của nàng:
- Ðàn bà có thai phải làm gì?
Và khi được chỉ bảo những điều cần làm
để giữ gìn thai nhi, nàng dấu kín thời
kỳ hành kinh của nàng, lại tỏ ý thích ăn các vị
chua mới lạ. Vào lúc tay chân bắt đầu to
lên, nàng nhờ chúng bạn đập vào
tay chân, và lưng cho đến khi chúng sưng phồng
lên; dần dần nàng bó quanh người nàng bằng giẻ vụn và vải làm cho
thân thể có vẽ lớn dần; lại bôi đen hai đầu vú
nàng, và chỉ trừ bà nhũ mẫu ấy ra, chẳng ai
được phép ở bên nàng lúc nàng tắm rửa.
Chồng nàng cũng tỏ ra chăm sóc nàng chu
đáo cho phù hợp với hoàn cảnh ấy.
Sau chín tháng trôi qua trong cảnh này, nàng tỏ ý muốn trở về nhà sinh
con trong nhà cha mẹ mình. Vì vậy nàng từ giã cha mẹ chồng, lên xe cùng một
số gia nhân từ bỏ thành Vương Xá lại đằng sau,
thẳng tiến lên đường.
Lúc bấy giờ trước mặt nàng có một đoàn
xe ngựa đang du hành, và lúc nào nàng
cũng đến vào khoảng giờ
ăn điểm tâm ở địa điểm mà
đoàn xe kia vừa mới ra
đi. Vào một
đêm kia, một người đàn bà nghèo
khổ trong đoàn xe
đã hạ sinh một con trai dưới gốc cây
đa; và nghĩ rằng nếu không có
đoàn xe ấy bà không thể
đi thêm
được nữa, song nếu bà sống, bà có thể nhận
được hài nhi ấy, nên bà quấn nó lại,
để nó nằm dưới gốc cây đa. Vị thần cây này
săn sóc hài nhi:
đó không phải là một
đứa bé bình thường, mà chính là Bồ-tát
đã xuất hiện ở
đời trong hình thức ấy.
Vào giờ ăn sáng, đoàn lữ hành kia
đến nơi đó. Còn nàng ấy cùng nhũ mẫu của
nàng đi riêng ra chỗ bóng mát của cây
đa để rửa ráy, chợt thấy hài nhi có màu
vàng chói nằm đó. Lát sau, nàng gọi bà
nhũ mẫu bảo rằng mục tiêu của họ đã
đạt được rồi; nàng liền mở các lớp vải
quấn bụng ra, tuyên bố hài nhi ấy là con nàng và nàng vừa mới sinh ra nó.
Các kẻ hầu cận lập tức dựng lều để dành
chỗ ở riêng cho nàng, và vô cùng hân hoan gởi một lá thư về thành Vương Xá.
Cha mẹ chồng nàng đáp thư lại rằng vì
hài nhi đã ra
đời nên nàng không cần phải trở về nhà
cha nàng nữa, mà hãy quay lui. Vì vậy nàng lập tức trở về Vương Xá. Và gia
đình chồng thừa nhận hài nhi ấy nên khi
hài nhi được đặt tên, họ
đặt tên nó theo chốn nó ra
đời, là Nigrodha Kumàra hay Cậu bé Ða.
Cùng ngày hôm ấy cô con dâu của một thương nhân trên
đường về nhà cha ruột
để sinh con, đã cho ra
đời một bé trai dưới cành cây nên họ
đặt tên nó là Sakka Kumàra hay Cậu
Nhành. Và cùng ngày hôm đó, vợ của người thợ
may làm việc cho thương nhân này lại sinh một con trai giữa
đống vải vụn của nàng, họ nên
đặt tên nó là Pottika hay Chú bé Nhồi
bông.
Nhà đại phú thương cho đi tìm hai hài
nhi ấy về, vì chúng sinh cùng một ngày với công tử Ða, và cho nuôi chúng với
nhau.
Các đứa trẻ lớn lên, về sau
đi đến Takkasilà
để hoàn thành việc học tập. Cả hai nam
tử con các thương nhân nhận được hai ngàn
đồng để trả học phí cho thầy giáo, công tử
Ða bảo trợ việc học tập cho Pottika.
Khi việc học hành đã hoàn tất, các
ông từ giã thầy giáo và ra đi với ý định tìm
hiểu phong tục dân quê, nên cứ ngao du mãi, vừa lúc
đến thành Ba-la-nại, liền nằm xuống nghỉ
ngơi, trong một ngôi đền thờ.
Khi ấy vua Ba-la-nại đã băng
hà được bảy ngày rồi. Có tiếng
trống lệnh loan báo khắp kinh thành rằng ngày mai sẽ có xe hoa hành lễ. Ba
người bạn ấy đang nằm ngủ dưới gốc cây, vào
tảng sáng, Pottika thức dậy, vừa ngồi vừa xoa bóp chân cậu Ða. Có vài con gà
trống đang gáy trên cây ấy, con gà trên
đọt cây làm rơi một cục phân trên con gà
ở gần gốc cây. Con này hỏi:
- Cái gì rớt trên ta thế này?
Con kia đáp:
- Xin tôn ông đừng giận, ta không cố ý làm
như vậy.
- Thế chú tưởng thân ta là chỗ để chú thả
phân ra hay sao? Chú không biết giá trị của ta, điều ấy đã rõ quá!
Nghe vậy con gà kia đáp lại:
- Ô kìa, ngài cứ thịnh nộ mãi, dù ta đã
nói là ta không cố ý làm việc đó. Thế xin cho
biết giá trị của ngài ra sao?
- Hễ bất kỳ ai giết ta ăn thịt sẽ được một
ngàn đồng tiền sáng nay. Ðó không
phải là điều đáng tự hào hay sao?
- Úi chà! Úi chà! Gà kia đáp lại. Tự hào
gì cái việc vặt vãnh ấy! Này, nếu cứ giết ta và
ăn mỡ của ta sẽ trở thành vua ngay sáng nay. Còn nếu
ăn thịt ở bụng sẽ thành
đại tướng; ai ăn thịt ở ức sẽ thành quan
giữ ngân khố.
Pottika nghe lọt hết mọi chuyện này. Cậu suy nghĩ: "Một ngàn
đồng tiền...! Cái gì
đây? Ðược làm vua là tuyệt nhất!"
Thế là nhẹ nhàng trèo lên cây, cậu nắm lấy con gà trống gáy trên
đọt cây, giết nó đi và nướng gà trên
than hồng, đem mỡ gà cho cậu Ða, thịt
bụng cho cậu Nhành còn chính mình ăn thịt quanh
xương ức. Khi đã ăn xong, cậu bảo:
- Thưa công tử Ða, hôm nay ngài sẽ làm vua; thưa công tử Nhành, hôm nay
ngài sẽ làm đại tướng; còn tôi sẽ làm
quan giữ kho báu.
Hai cậu kia hỏi làm thế nào biết được chuyện
ấy, cậu liền kể lại hết.
Vì vậy vào khoảng giờ ăn buổi cơm sáng trong
ngày, ba cậu vào thành Ba-la-nại. tại nhà một vị Bà-la-môn, các cậu
được ăn một bữa cháo gạo, với bơ tươi và
đường, rồi từ kinh thành các cậu vào ngự
viên.
Cậu Ða nằm xuống một phiến đá, hai cậu kia
nằm bên cạnh. Vừa lúc ấy dân chúng cử hành lễ rước xe hoa cùng với năm
biểu tượng của vương quyền (kiếm, lọng, miện, hài, quạt) trên
đó. (Các chi tiết câu chuyện này sẽ
được tả trong câu chuyện Tiền thân Mahàjanaka,
số 539, tập VI). Vương xa tiến vào và dừng lại,
đứng sẵn sàng để các vị bước lên.
"Chắc có một bậc Ðại nhân tài đức ở đây". Viên
quan tế lễ tự nhủ. Ông bước vào ngự viên, nhìn thấy cậu thanh niên này, rồi
giở lớp vải dưới bàn chân cậu để quan sát các
dấu hiệu trên đó. Ông bảo:
- Ô kìa, người này có số được làm vua
toàn cõi Diêm phù-đề (Ấn Ðộ), chứ nói gì
chỉ một thành Ba-la-nại.
Và ông ra lệnh cho chuông trống, thanh la nổi lên.
Cậu Ða thức dậy ném tấm vải trùm mặt ra, liền thấy một
đám đông vây quanh cậu! Cậu quay nhìn
quanh quẩn nằm im một lát rồi trở dậy ngồi xếp bằng
đôi chân...Vị tế sư quỳ xuống bảo:
- Tâu Thần nhân, vương quốc này thuộc về ngài.
- Ðược rồi, cứ như vậy. Cậu đáp.
Vị tế sư liền đặt cậu ngồi trên một
đống báu vật rồi làm lễ quán
đảnh (rảy nước thánh), phong vương cho cậu.
Khi được phong vương như vậy rồi, vua ban
chức Ðại tướng cho bạn Nhành, rồi vào kinh thành trong cảnh uy nghi
trọng thể, còn Potika cũng đi vào với
hai ông.
Từ ngày ấy trở về sau, bậc Ðại Sĩ cai trị rất
đúng pháp tại Ba-la-nại.
Một ngày kia chợt nhớ đến song thân, ngài
bảo tướng Nhành:
- Này hiền hữu, ta không thể sống thiếu cha mẹ
được. Vậy hãy
đem một đoàn người về tìm song thân ta.
Song tướng Nhành từ chối:
- Ðó không phải là việc của hạ thần. Ông bảo.
Sau đó ngài bảo Pottika làm việc ấy.
Pottika tuân lệnh lên đường tiến về nhà
song thân của vua Ða, nói cho hai vị biết là con trai của họ
đã lên làm vua, và mong họ
đến ở với ngài. Song họ từ chối, bảo
rằng họ đã có cả thế lực lẫn giàu sang
rồi, đầy đủ như vậy, họ không muốn đi nữa. Chàng
cũng đi mời song thân tướng Nhành
đến triều, nhưng họ cũng chỉ thích ở lại đấy
hơn; và đến khi chàng về mời
chính song thân mình, họ bảo:
- Chúng ta sống bằng nghề may vá, thế đủ
rồi, đủ rồi.
Và họ cũng từ chối như các người kia.
Vì chàng không đáp ứng nguyện vọng các vị lão
thân, chàng đành trở về Ba-la-nại. Chàng
nghĩ rằng sẽ về và nghỉ ngơi cho đỡ mệt nhọc vì
cuộc hành trình tại nhà vị Ðại tướng trước khi yết kiến vua Ða, liền
đến nhà kia. Chàng bảo người canh cổng:
- Xin báo cho Ðại tướng biết thân hữu Pottika
đến đây.
Người ấy tuân lệnh. Song tướng Nhành vẫn mang mối hiềm hận
đối với chàng, vì tướng ấy bảo chàng kia
đã giao vương quyền cho thân hữu Ða thay
vì chính mình cho nên khi nghe lời nhắn này, tướng quân nổi cơn thịnh nộ:
- Thân hữu như vậy ư? Ai là thân hữu của nó? Nó chỉ là thằng thô tục, hạ
đẳng, ngu ngốc. Hãy tóm lấy nó ngay!
Thế là chúng đánh đá chàng, nện nhừ
tử bằng chân cẳng, cùi chỏ một trận nên thân, rồi tóm cổ chàng quẳng ra
đường.
Chàng suy nghĩ: "Nhành được chức vụ
Ðại tướng nhờ ta, thế mà nay nó phản bội, độc
ác, đã đánh đập ta rồi quẳng ta ra
đường. Song còn bạn Ða là bậc hiền nhân, biết ân nghĩa và lương
thiện, và ta sẽ đi gặp bạn ấy."
Thế là chàng đến cửa cung, đưa tin vào
nhà vua rằng thân hữu của ngài là Pottika đang
chờ ở cửa.
Vua mời chàng vào, khi thấy chàng đến gần,
ngài liền đứng dậy, tiến đến đón chàng,
chào hỏi rất thân thiết; ngài ra lệnh cạo râu tóc và chăm
sóc chàng chu đáo rồi trang điểm cho chàng
bằng các loại ngọc vàng, đãi tiệc chàng
đầy đủ thức cao lương mỹ vị. Xong xuôi nhà
vua lại ân cần ngồi bên chàng hỏi thăm song
thân mình, chàng tường trình cho ngài biết hai vị
đó từ chối việc đến đây ở.
Lúc bấy giờ tướng Nhành thầm nghĩ:" Chắc Pottika sẽ phỉ báng ta vào tai
đức vua, song nếu ta đến bên ngài, gã sẽ
không thể nói được." Vì thế chàng này
cũng đến đó. Còn Pottika, dù có Nhành
hiện diện, vẫn tâu với vua:
- Tâu chúa thượng, khi hạ thần mệt nhọc vì
đường xa, đã đến nhà tướng
Nhành, hy vọng nghỉ ngơi tại đó trước rồi đến
yết kiến ngài sau. Song tướng Nhành bảo: "Ta chẳng biết gã
đó!" Rồi đối xử tàn tệ với hạ thần, và
tóm cổ hạ thần quẳng ra ngoài! Xin Chúa thượng tin lời hạ thần nói.
Cùng với các lời này, chàng ngâm ba vần kệ:
1. Người đó là ai, ta chẳng hay,
Ai là thân phụ của người đây,
Nhành còn hỏi: Nó là ai đó?
Ða hỡi, nghĩ sao trước việc này?
2. Ðầy tớ Nhành kia cứ y lời
Ðấm, thoi, tát, đánh khắp người tôi,
Rồi còn chụp lấy tôi vào cổ,
Từ đó lôi tôi quẳng phía ngoài.
3. Phản bội như vầy đối với tôi,
Chỉ người độc ác mới làm thôi,
Vong ân bạc nghĩa là ô nhục,
Gã cũng bạn ngài, Chúa thượng ôi!
Nghe những lời này, vua Ða liền ngâm bốn vần kệ
4. Ta chẳng hề nghe, cũng chẳng hay
Một ai từng nói chuyện như vầy,
Xấu xa như bạn đang tường thuật,
Nhành ấy vừa làm tại chốn đây.
5. Bạn cùng ta, sống với Sàk-kha,
Ðồng bọn chí tình thưở đã qua,
Bạn đã giành phần cho mỗi một,
Hướng quyền vương tước, tặng hai ta,
Vinh quang ta được là nhờ bạn,
Còn có gì nghi hoặc nữa mà.
6. Khi hạt ném trong ngọn lửa hồng,
Cháy rồi, hạt chẳng thể gieo trồng
Ta làm việc thiện cho người ác,
Cũng vậy, nó tàn lụi diệt vong.
7. Chúng chẳng như nhiều kẻ biết ơn,
Những người đức hạnh, bậc hiền lương,
Ðất lành, hạt chẳng hề quăng bỏ,
Như việc làm cho các thiện nhơn.
Trong khi vua Ða ngâm kệ trên, tướng Nhành
đứng im tại chỗ. Sau đó vua hỏi:
- Nào bạn Nhành, bạn có nhận ra anh chàng Pottika này không?
Gã đành câm lặng. Vua liền truyền xử
gã này qua những lời của vần kệ thứ tám:
8. Tóm tên hèn hạ bội ân này,
Tư tưởng nó đà xấu ác thay,
Ðâm nó! Vì ta cho nó chết,
Nghĩa gì đời nó với ta đây?
Sau khi Pottika nghe nói vậy, liền suy nghĩ trong lòng: "Chớ nên
để kẻ ngu si này chết vì ta!" nên chàng
ngâm vần kệ thứ chín:
9. Ðại vương, mong mở lượng từ bi,
Thật khó tìm đời sống mất đi,
Chúa thượng dung tha cho nó sống,
Thần mong thằng khốn chẳng sầu chi.
Khi vua nghe vậy, ngài tha tội cho Nhành; và ngài muốn ban chức Ðại tướng
cho Potika, song chàng không nhận. Rồi vua phong chàng chức Chưởng khố, và
với chức vụ đó, chàng xét xử các
đám thương nhân. Trước kia chẳng có chức vụ đó,
song chức vụ này tồn tại từ đây về sau.
Dần dần với thời gian, quan Chưởng khố Pottika được phước đầy đủ con trai
con gái, đã ngâm vần kệ cuối cùng để
giáo hóa các con:
10. Ta cần sống với Ni-gro-dha
Chẳng tốt gì hầu hạ Sà-kha,
Nếu phải sống cùng Nhành, đại tướng,
Thà nên chịu chết với vua Ða.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:
- Như vậy, này các Tỳ kheo, các ông thấy rằng trước kia Ðề bà
đạt đa cũng đã vô ơn bạc nghĩa rồi.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời đó, Ðề-bà-đạt-đa
là Sàkha, Ànanda là Pottika, và Nigrodha chính là Ta.
-ooOoo-
446. Chuyện Cây Hành (Tiền thân kkala)
Chẳng rau để luộc, cũng không hành...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một cư sĩ phụng dưỡng cha mình.
Chuyện kể rằng người này tái sinh vào một gia
đình nghèo khó. Sau khi mẹ mất, chàng
thường dậy sớm vào buổi sáng và soạn tăm xỉa
răng cùng nước súc miệng, sau đó đi làm
thuê hay cày ruộng ngoài đồng, chàng
thường nấu cháo gạo nuôi cha theo phong cách phù hợp hoàn cảnh mình. Cha
chàng bảo:
- Này con, con phải làm mọi việc từ trong nhà ra ngoài
đường. Thôi để cha kiếm vợ cho con, nàng
ấy sẽ làm việc nhà thay con.
Chàng đáp:
- Thưa cha, nếu có đàn bà
đến nhà này, họ sẽ không làm cha con ta
yên tâm được đâu. Xin cha đừng mơ tưởng chuyện
đó nữa. Khi cha còn sống, con muốn phụng dưỡng cha, và khi cha từ
trần, con sẽ biết việc gì cần làm.
Song người cha đi kiếm về một cô gái, dù
con mình không muốn, và nàng ấy lo chăm sóc
chồng và cha chồng; tuy vậy, nàng là người hèn hạ. Lúc bấy giờ chồng
nàng hài lòng vì nàng đã săn
sóc cha chàng, và bất cứ món gì chàng tìm
được để làm nàng vui lòng, chàng
đều đem về cho nàng và nàng
đưa cho cha chồng. Rồi có lúc người đàn
bà ấy suy nghĩ: "Bất cứ cái gì chồng ta kiếm
được đều đem cho ta, chứ không cho cha chàng chút nào cả. Rõ ràng là
chàng chẳng quan tâm gì đến cha. Ta phải tìm
cách gây xích mích giữa ông già và chàng, rồi ta sẽ
đuổi ông già ra khỏi nhà."
Vì thế từ đó, nàng bắt
đầu đem nước quá lạnh hoặc quá nóng cho ông lão,
thức ăn thì nàng bỏ muối quá nhiều hoặc
chẳng bỏ chút muối nào, cơm nàng nấu cứng ngắc hoặc mềm nhão; nàng cố làm
đủ mọi thứ như vậy để khiêu khích ông
lão. Rồi khi ông lão tức giận, nàng mắng lại:
- Ai hầu nổi một ông già như thế này?
Nàng vừa nói vừa gây chuyện ồn ào. Nàng khạc nhổ khắp mặt
đất rồi thức chồng nàng dậy và bảo:
- Xem kìa, cha chàng làm thế đó! Thiếp mãi
van xin cha đừng làm thế này thế nọ, mà
cha chỉ nổi giận. Hoặc cha chàng, hoặc thiếp phải
đi ra khỏi nhà này.
Lúc ấy người chồng bảo:
- Này nàng, nàng còn trẻ, nàng muốn ở đâu tùy
ý, song cha ta đã già, nếu nàng không
thích ông cụ, thì nàng cứ đi khỏi nhà.
Lời nói ấy khiến nàng khiếp sợ. Nàng quỳ xuống chân ông lão xin ông thứ
lỗi và hứa từ nay sẽ không làm thế nữa, rồi lại bắt
đầu săn sóc ông lão như trước kia.
Vị cư sĩ đáng trọng ấy trước tiên quá
lo âu vì cách đối xử của nàng, nên bỏ
việc đến yết kiến bậc Ðạo Sư
để nghe thuyết Pháp, song khi nàng
đã hồi tâm, chàng lại
đến. Bậc Ðạo Sư hỏi tại sao chàng không
đến nghe Ngài thuyết giảng bảy tám ngày
nay. Chàng kể lại mọi việc xảy ra. Bậc Ðạo Sư bảo:
- Lần này, ông không chịu nghe vợ, và không đuổi
cha ra khỏi nhà, nhưng trong một đời quá
khứ, ông làm theo lời vợ bảo, đã
đem cha ra bỏ trong một nghĩa địa và
đào cho ông lão một cái hố. Vào thời kỳ
ông sắp giết cha, Ta được bảy tuổi và
nhờ ta kể công đức cha mẹ và cản ông
khỏi tội giết cha. Thời đó ông đã nghe
lời Ta, và nhờ việc săn sóc cha trong lúc ông lão
còn sống mà ông được sinh lên Thiên
giới. Thời ấy Ta đã thuyết giảng và báo
cho ông biết trước để đừng bỏ rơi cha khi sinh
vào một đời khác; vì duyên cớ này
nên ngày nay ông không chịu nghe theo lời người
đàn bà kia bảo, và cha ông không bị giết hại.
Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của người ấy, Ngài kể một chuyện quá
khứ.
*
Ngày xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, trong một làng kia ở
Kàsi, một gia đình nọ có một con trai
duy nhất tên gọi Vasitthaka. Chàng này nuôi nấng cha mẹ, và sau khi mẹ mất,
chàng phụng dưỡng cha như đã tả ở phần
đầu. Nhưng có chỗ khác ở đây là: Khi
người đàn bà bảo: "Nhìn kia kìa! Cha
chàng làm thế đó, thiếp cứ mãi van xin
cha chàng đừng làm thế này thế nọ, cha
chỉ nổi giận", nàng lại nói tiếp:
- Này phu quân, cha chàng hung dữ, độc ác
lắm, vì cứ mãi gây sự cãi vã. Một lão già lụ khụ như vậy, lại bị bệnh
hoạn giày vò, sắp chết đến nơi rồi, nên
thiếp không thể ở cùng nhà với ông lão được.
Trước sau gì ông lão cũng chết già thôi, vậy chàng hãy
đem ông lão ra nghĩa
địa, đào hố ném ông vào và lấy cái cuốc
đập đầu ông đi; khi ông chết rồi hãy xúc
đất lấp hố lại, và
để mặc đó.
Cuối cùng, vì cứ nghe mãi những lời đinh tai
nhức óc, chàng bảo:
- Này nàng ơi, giết người là việc hệ trọng, bằng cách nào ta có thể làm
thế được?
Vợ đáp:
- Thiếp sẽ chỉ cho chàng một cách.
- Vậy cứ nói đi.
- Nào, phu quân, rạng ngày mai, hãy đến nơi
cha chàng ngủ, nói thật lớn với ông lão
để mọi người đều nghe được, rằng có một con nợ của cha ở một làng kia
mà chàng đã
đến gặp, nhưng gã không chịu trả tiền cho chàng. Nếu ông lão chết,
thì gã ấy chẳng bao giờ trả nợ nữa. Vậy hãy nói rằng hai cha con sẽ cùng lái
xe đến đó vào buổi sáng, rồi
đến giờ đã
định, chàng hãy cột đôi bò vào
xe, đưa ông lão
đến nghĩa địa. Khi chàng
đến đó, hãy chôn ông vào cái hố và la to
lên như thể chàng bị cướp giữa đường và
bị thương, rồi gội đầu mà ra về.
Chàng bằng lòng làm theo lời bàn ấy và sắp sẵn chiếc xe bò lên
đường. Lúc bấy giờ người ấy có một con trai lên
bảy tuổi, nhưng rất khôn ngoan và thông minh. Cậu bé nghe lọt những chuyện
mẹ nói, và nghĩ thầm: "Mẹ ta thật là một ác phụ,
đang cố thuyết phục cha ta giết ông nội. Ta
muốn ngăn cản cha ta khỏi tội giết người này."
Cậu ta liền chạy nhanh đến nằm cạnh ông nội.
Vào giờ phút người vợ dặn dò, Vasitthaka
đã sắp sẵn chiếc xe bò. Chàng bảo:
- Cha ơi, dậy đi, ta đi đòi nợ.
Rồi chàng đặt cha ngồi vào xe. Song
cậu bé ngồi vào xe trước tiên. Vasitthaka không thể cản con
được, nên cùng
đem cậu đi ra nghĩa địa với họ. Sau đó, đem cha
già và con trai ra để ngồi riêng
một nơi với chiếc xe, còn chàng bước xuống lấy cuốc và cái giỏ
đến một nơi, dấu mình cho họ khỏi thấy
rồi bắt đầu đào một lỗ vuông lớn. Cậu bé
đi xuống theo cha và làm như thể không
biết việc gì đang xảy ra, cậu ngâm vần kệ đầu
tiên để mở lời:
1. Chẳng rau để luộc, cũng không hành,
Chẳng bạc hà, cây để nấu canh,
Nếu chẳng cần, sao cha bới đất
Một mình, trong nghĩa địa rừng xanh?
Rồi cha cậu đáp lại bằng cách ngâm vần kệ
thứ hai:
2. Ông nội già nua, quá yếu gầy,
Do nhiều bệnh hoạn, khổ tràn đầy,
Cha chôn ông nội trong mồ đó,
Cha chẳng muốn ông sống thế này.
Nghe thế, cậu bé đáp lại qua nửa vần kệ:
Cha cầu việc ấy, tội đà gây,
Vì việc làm này độc ác thay!
Cùng với những lời trên, cậu bé chụp lấy cái cuốc từ tay cha cậu và bắt
đầu đào một hố khác không xa
đó mấy.
Cha cậu liền đến gần hỏi tại sao con đào
hố đó, cậu đáp lại bằng cách ngâm hết vần kệ
thứ ba:
3. Con sẽ thờ cha lúc tuổi già
Như cha đối xử với ông nhà,
Theo phong tục ấy trong gia tộc,
Con cũng chôn cha dưới hố mà.
Người cha đáp lại qua kệ thứ tư:
4. Thằng bé nói lời ác nghiệt thay,
Ông cha sao mắng mỏ như vầy!
Nghĩ rằng con trẻ rầy la bố,
Với bạn chí tình, tệ lắm đây!
Khi người cha nói vậy xong, cậu bé khôn ngoan ngâm ba vần kệ, một
để đáp lời và hai
để làm thành khúc thánh
đạo ca:
5. Con không tồi tệ hoặc hung tàn,
Con đối với cha, dạ thiết thân,
Nhưng việc này cha làm đại ác,
Sức nào gỡ lại, nếu sai lầm?
6. Người ác ý làm, hỡi Vat-tha,
Hại người vô tội, mẹ cùng cha,
Ðến khi người ấy thân vong hoại,
Ðịa ngục phải vào, chắc chẳng xa.
7. Người dùng cơm nước, hỡi Vat-tha,
Ðem phụng dưỡng luôn mẹ với cha,
Người ấy đến khi thân hủy hoại,
Sẽ lên Thiên giới hiển nhiên mà.
Người cha sau khi con thuyết giáo, liền ngâm vần kệ thứ tám:
8. Thấy con không tàn nhẫn, vong ơn,
Ðối với cha đầy dạ mến thương,
Chính bởi cha vâng lời của mẹ,
Ðịnh làm việc ác thật kinh hồn.
Khi nghe vậy, cậu bé bảo:
- Thưa cha, đàn bà hễ khi làm việc ác
mà không bị khiển trách, thì còn tái phạm mãi. Vậy cha phải uốn nắn mẹ con
để cho mẹ sẽ chẳng bao giờ làm lại một
việc như vậy.
Rồi cậu ngâm vần kệ thứ chín:
9. Vợ cha là ác phụ vô lương,
Bà đã sinh con, chính mẹ con,
Ta hãy đuổi bà ra khỏi cửa,
Sợ bà gây việc khác cha buồn.
Nghe lời đứa con khôn ngoan, Vasittha rất
hoan hỷ bảo:
- Nào ta đi con!
Chàng lại ngồi vào xe bò với cha và con mình.
Lúc bấy giờ người đàn bàn gây tội ác
ấy cũng sung sướng lắm vì tưởng rằng đã
tống được con người xui xẻo ra khỏi nhà
rồi. Nàng trét đầy phân bò ướt trên sàn
và nấu một mẻ cháo gạo. Song khi nàng ngồi trông ra con
đường mà họ sẽ trở về, nàng thấy họ
đang tiến đến: "Kìa chàng ta
đã về, lại có lão già xui xẻo ấy nữa".
Nàng suy nghĩ, lòng đầy tức giận: "Hừ!
Ðồ vô dụng". Nàng la lớn:
- Sao, đem về cái của nợ chàng
đã mang đi
vứt ấy à?
Vasittha không nói một lời, và mở tháo dây chiếc xe bò ra. Rồi chàng bảo:
- Cô nói gì thế?
Chàng đánh cho nàng một trận nên
thân, rồi chụp đầu nàng tống ra khỏi
cửa, cấm nàng đừng bao giờ đến làm bẩn
cửa nhà chàng nữa. Rồi chàng tắm cho cha và con, chính chàng cũng tắm luôn,
và cả ba ngồi ăn cháo gạo. Còn người
đàn bà độc
ác liền đến ở nhà khác vài ngày.
Sau đó cậu bé bảo cha:
- Cha ơi, về việc này mẹ con chưa hiểu đâu.
Bây giờ ta thử chọc tức bà ấy đi. Cha
tung tin trong làng kia có cô cháu gái của cha, muốn săn
sóc cha, ông và con, vì vậy cha định đem
cô ấy về, rồi cha lấy hoa tươi và dầu thơm
để lên xe, và cứ
đi quanh vùng suốt ngày
đến tối mới về nhà.
Chàng làm theo như vậy. Những bọn đàn
bà trong xóm nhà chàng đến bảo nàng:
- Chị có nghe nói chồng chị đã
đi kiếm một cô vợ khác ở một chỗ nào
đó chăng?
Nàng kêu lên:
- Ôi thế là ta tàn đời rồi, chẳng còn
chỗ nào dành cho ta cả!
Nhưng nàng muốn hỏi thăm con nàng, vì
thế nàng vội vã đi tìm con, sụp xuống
chân nó, kêu khóc lên:
- Trừ con ra, mẹ chẳng có nơi đâu nương tựa
nữa! Từ nay về sau mẹ cố quyết chăm sóc cha con và ông nội như thể chăm
sóc ngôi bảo tháp tuyệt đẹp vậy. Cho mẹ vào nhà lần nữa
đi con!
- Vâng thưa mẹ - Cậu đáp - Nếu mẹ không làm
gì như trước thì con sẽ để mẹ vào, thôi
mẹ hãy vui lên nào.
Và khi cha cậu về, cậu ngâm vần kệ thứ mười:
10. Bà vợ cha kìa, bạc ác thay,
Người sinh con trẻ, chính là đây,
Như voi được luyện rất thuần thục,
Cho trở lui, người tội lỗi này.
Cậu nói thế với cha xong, liền đi gọi mẹ cậu
vào. Nàng làm lành với chồng và cha chồng xong, từ
đó tánh tình thuần thục tràn
đầy đức độ chân chính, và săn
sóc cả cha, chồng cùng con chu đáo. Cả
hai vợ chồng cương quyết theo lời con khuyên nhủ, chuyên bố thí và
làm các thiện sự, rồi được sinh lên cộng
trú với Thiên chúng.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật. Lúc kết
thúc các Sự Thật, người con hiếu thảo được an
trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Lúc bấy giờ hai cha con và nàng dâu ấy cũng là những người này, còn cậu
bé khôn ngoan ấy chính là Ta.
-ooOoo-
447. Chuyện
Đại Nhân Hộ Pháp (Tiền thân Mahà
Dhamma-Pàla)
Tục lệ nào hay Thánh
đạo nào...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể sau khi Ngài đã
thành bậc Chánh Ðẳng Giác, trong chuyến thăm
viếng Kapilapura lần đầu tiên, Ngài trú ngụ tại Bồ-đề
Lâm (Rừng cây Ða), và nói về việc phụ vương không chịu tin lời
đồn.
Vào lúc ấy, chuyện kể rằng Ðại vương Suddhodana (Tịnh Phạn), sau khi cúng
dường một buổi tại cung điện của ngài
cho đức Phật dẫn đầu hai mươi ngàn vị
Tỷ-kheo, suốt buổi trò chuyện với Ðức Phật rất vui vẻ, và nói:
- Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn hành trì khổ hạnh, có vài thần
nhân đến gặp ta, đứng trên không và bảo:
"Thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-ta), Vương tử của
Ðại vương đã chết
đói".
Bậc Ðạo Sư liền hỏi:
- Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có tin chuyện
đó không?
- Bạch Thế Tôn, ta không tin. Ngay cả khi các thần nhân
đến, bay lượn trên không và bảo ta như
vậy, ta cũng không tin, mà còn bảo rằng Vương tử của ta không chết
được cho đến khi chứng đắc Chánh đẳng Chánh
giác dưới gốc cây Bồ-đề.
Bậc Ðạo Sư bảo:
- Tâu Ðại vương, xưa kia, vào thời Mahà Dhammapàla, ngay khi một vị giáo
sư lừng danh thiên hạ đến bảo: "Con ngài
đã chết,
đây là xương của chàng", Ðại vương cũng không tin và bảo: "Trong gia
tộc ta, bọn chúng không bao giờ chết trẻ". Vậy thì làm sao bây giờ Ðại vương
tin được?
Rồi theo lời thỉnh cầu của phụ vương, bậc Ðạo Sư kể một chuyện ngày xưa.
*
Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta làm vua tại Ba-la-nại, trong nước Kàsi
có một ngôi làng tên là Dhammapàla, nó mang tên này vì có gia tộc một vị
Dhammapàla, nghĩa là Hộ Pháp, cư ngụ tại đó. Do
hành trì Mười Thiện đạo, vị Bà-la-môn
ấy nổi tiếng ở vùng mình cư trú là một vị Hộ Pháp (Dhammapàla). Trong nhà vị
ấy, ngay cả các tôi tớ cũng bố thí, tôn trọng
đạo đức và giữ ngày trai giới.
Thời ấy, Bồ-tát tái sinh vào gia đình
trên, vị gia chủ đặt tên ngài là Nam tử
Hộ Pháp (Dhammapàla Kumàra). Vừa khi đến tuổi
khôn lớn, cha chàng trao cho chàng một ngàn
đồng vàng, và gửi chàng
đến học ở Takkasilà. Chàng
đến đó, học tập với một vị giáo sư lừng danh
thế giới và trở thành đệ tử trưởng trong
hội chúng gồm năm trăm nam tử.
Vào lúc ấy, trưởng nam của vị giáo sư từ trần, và vị giáo sư
được đám đệ tử vây quanh, giữa các bà
con quyến thuộc, vừa than khóc vừa cử hành tang lễ con trai trong nghĩa
địa. Lúc ấy, vị giáo sư cùng thân bằng
quyến thuộc và tất cả các đồ đệ đều than khóc kêu
gào, chỉ riêng Dhammapàla không khóc cũng chẳng than. Sau khi năm
trăm nam tử từ nghĩa địa về, họ ngồi xuống trước vị giáo sư và nói:
- Ôi, chàng trai thật tốt đẹp, non trẻ thế mà
phải chia lìa cha mẹ trong tuổi thanh xuân!
Dhammapàla đáp:
- Non trẻ thay, đúng như các hiền hữu nói! Này,
tại sao chàng chết ở tuổi thanh xuân? Trẻ con phải chết lúc còn niên thiếu
thật là chẳng hợp lý chút nào.
Chúng bạn liền đáp lại:
- Này Tôn giả, thế Tôn giả không biết rằng những người dù trẻ như vậy
cũng phải chịu chết sao?
- Ta biết điều ấy lắm, nhưng lúc còn
non trẻ, chúng không chết; người ta chết lúc người ta già.
- Thế không phải mọi pháp hữu vi đều giả tạm
nhất thời hay sao?
- Chúng thật là giả tạm, đúng vậy, nhưng lúc
tuổi còn niên thiếu, con người không chết, chỉ khi già người ta mới
chết thôi.
- Ồ, thế đó là tục lệ trong gia tộc
ngài sao?
- Phải, đó là tục lệ của gia tộc ta.
Bọn thanh niên liền kể câu chuyện này cho vị giáo sư ấy nghe. Ông cho gọi
Dhammapàla đến, hỏi chàng:
- Này Dhammapàla, có phải trong gia tộc con chẳng có người nào chết trẻ
chăng?
- Thưa thầy, chính phải, đúng như vậy. Chàng
đáp.
Nghe nói thế, vị giáo sư nghĩ thầm: "Chàng nói chuyện này thật hi hữu lắm
thay! Ta muốn lên đường tới gặp cha chàng
và hỏi chuyện ấy, nếu quả thực vậy, ta sống theo giới luật chân chánh kia."
Thế là sau khi đã làm xong mọi việc
cần làm cho cậu trưởng nam, khoảng bảy tám ngày sau
đó, ông cho gọi Dhammapàla
đến bảo:
- Này con, ta sắp đi xa nhà, vậy lúc
ta đi vắng, con phải dạy bảo các đệ tử của ta.
Nói thế xong, ông đi tìm xương của
một con dê rừng, rửa sạch và ướp hương, rồi đặt
vào giỏ, sau đó mang theo mình
một chú tiểu đồng, ông rời Takkasilà dần
dần đi đến làng kia, tại
đó ông hỏi đường đi đến nhà vị Ðại Hộ
Pháp và dừng lại ở cửa.
Người đầy tớ đầu tiên của vị
Bà-la-môn trông thấy vị này, dù đó là
ai, cũng cất dù từ tay ông, cởi giày, cầm lấy túi xách trên tay tiểu
đồng. Ông nhờ báo với thân phụ chàng
rằng đây là giáo sư của nam tử
Dhammapàla đang đứng ở cửa.
- Tốt lành thay!
Các gia nhân nói, rồi đi mời vị thân sinh ra
gặp ông. Vị thân sinh vội vã đến thềm và
nói:
- Xin mời vào.
Và ông dẫn đường vào nhà mình. Vừa
mời khách ngồi xuống tọa sàng, và ông làm bổn phận của chủ nhân như rửa chân
vị kia v.v...
Khi vị giáo sư đã dùng cơm xong, và
hai vị ngồi đàm
đạo thân thiết với nhau, vị giáo sư bảo:
- Này Tôn giả Bà-la-môn, nam tử Dhammapàla của ngài có trí tuệ sáng suốt,
tinh thông ba tập Vệ-đà và mười tám công
trình học thuật, nhân vì rủi ro đã mất
mạng. Các pháp hữu vi đều giả tạm, xin ngài
chớ đau buồn vì chàng.
Vị Bà-la-môn vỗ tay cười lớn.
- Tại sao ngài cười, thưa Tôn giả Bà-la-môn? Vị giáo sư hỏi.
Vị này đáp:
- Bởi vì không phải con tôi chết đâu; chắc là
người khác.
Vị kia nói:
- Không đâu, thưa Tôn giả Bà-la-môn,
chính con trai ngài chết chớ không phải người khác. Hãy nhìn kỹ xương chàng
đây và tin tôi.
Nói thế xong, ông dở đống xương ra và
nói:
- Ðây là xương con trai ngài.
Người cha đáp:
- Có lẽ xương dê rừng hay xương chó, chứ con trai tôi không chết
được. Trong gia tộc ta bảy đời nay chưa hề xảy
ra chuyện như là chết lúc tuổi còn non; vậy ngài
đang nói sai sự thật.
Rồi cả nhà cùng vỗ tay và cười lớn.
Khi thấy việc kỳ diệu như thế, vị giáo sư rất hoan hỷ nói:
- Thưa Tôn giả Bà-la-môn, lề lối này trong gia tộc ngài không phải là
không có nguyên nhân, đó là
đám thanh niên không hề chết yểu. Tại
sao các ngài không chết yểu?
Ông hỏi bằng cách ngâm vần kệ đầu:
1. Tục lệ nào hay Thánh đạo nào
Quả này do thiện nghiệp từ đâu?
Bà-la-môn, nói ta duyên cớ
Người trẻ trong dòng chẳng chết sao?
Lúc ấy vị Bà-la-môn giải thích những công
đức gì đã
đem lại kết quả là trong gia tộc mình
không ai chết trẻ cả, ông ngâm các vần kệ sau:
2. Ta không lời dối, sống hiền chân,
Mọi ác nghiệp xa lánh, chẳng gần,
Ðiều bất thiện ta đều tránh cả,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
3. Nghe việc người ngu lẫn trí nhân,
Việc người ngu trí chẳng quan tâm,
Ta theo bậc trí, ngu ta bỏ,
Nên chẳng ai người chết giữa xuân.
4. Trước khi bố thí, dạ hân hoan,
Lòng thật vui mừng lúc phát phân,
Khi bố thí xong, không hối tiếc,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
5. Ta mời đám lữ khách, La-môn,
Khất sĩ, Sa-môn, mọi kẻ cần,
Ta đãi uống, ăn, người đói khát,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
6. Cưới vợ, không khao khát vợ người,
Giữ lời loan phụng đã thề bồi,
Vợ hiền tiết hạnh tòng phu cả,
Nên các con không sớm bỏ đời.
7. Con được sinh từ vợ chính chuyên,
Tài cao, học rộng, xứng danh hiền,
Vệ-đà thông thạo, con toàn hảo,
Nên chẳng lìa đời giữa thiếu niên.
8. Gắng làm chân chánh đạt cao thiên,
Sống vậy, từ cha đến mẹ hiền,
Ðến mọi gái trai, anh chị nữa,
Nên không ai chết giữa thanh niên.
9. Mong cầu thiên giới, các gia nhân,
Trai gái thảy đều sống thiện lương,
Ngay bọn nô tỳ thấp kém nhất,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
Và cuối cùng, qua hai vần kệ này, ngài tuyên thuyết thiện nghiệp của
những người bước trên đường chân chánh:
10. Chánh đạo cứu ai hướng chánh chân,
Khéo hành Chánh đạo đạt hồng ân,
Phúc này ban tặng người làm chánh,
Người chánh không vào chốn khổ thân.
11. Ðạo đức hộ phò bậc chánh nhân,
Như cây che bóng giữa mưa tràn,
Thằng con sống được nhờ hành thiện,
Tâm thiện cho người Hộ Pháp-an;
Còn đó là xương khô kẻ khác,
Ðống xương Tôn giả mới vừa mang.
Khi nghe vậy, vị giáo sư đáp:
- Cuộc hành trình của ta thật an lạc lắm thay, nó mang lại nhiều kết quả,
chứ không phải là không có kết quả!
Ðang lúc lòng đầy hoan hỷ, ông xin lỗi thân
sinh Dhammapàla và nói thêm:
- Ta đến đây và mang theo mình một
đống xương dê rừng, cố ý
để thử ngài. Chứ con trai của ngài hiện
đang bình yên mạnh khỏe. Xin ngài truyền
cho ta những điều luật bảo tồn cuộc sống của
gia tộc ngài.
Lúc ấy vị kia viết quy luật ấy vào một ngọn lá. Sau khi lưu lại chỗ
đó vài ngày, vị thầy trở về Takkasilà và
khi đã dạy cho Dhammapàla
đủ mọi tài nghệ và học thuật xong, ông
cho phép chàng ra về cùng với một đoàn
tùy tùng đông đảo.
*
Khi bậc Ðạo Sư đã thuyết Pháp thoại
như vậy cho Ðại vương Suddhodana xong, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy
giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Ðại vương
được an trú vào Tam quả (Bất Lai).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy, người cha và người mẹ là hoàng tộc của Ðại vương ngày nay,
vị giáo sư là Sàriputta (Xá-lợi-phất), đám tùy
tùng là các đệ tử đức Phật, và Ta chính
là nam tử Hộ Pháp.
-ooOoo-
448. Chuyện Kê Vương (Tiền thân Kukuta)
Chớ đặt lòng tin bọn dối lừa...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Veluvana (Trúc Lâm) về vấn
đề mưu toan sát hại.
Trong Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo đang bàn
luận bản chất độc ác của Ðề-bà-đạt-đa:
- Này các Hiền giả, lạ quá, Ðề-bà-đạt-đa
đang mưu toan sát hại đấng Thập Lực bằng cách mua chuộc đám xạ thủ và
nhiều người khác.
Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi:
- Này, các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện
gì trong lúc ngồi với nhau tại đây?
Tăng chúng trình với Ngài. Ngài
đáp:
- Ðây không phải là lần đầu người ấy toan hành
thích Ta, mà đã có lần như vậy ngày xưa.
Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá
khứ.
*
Một thuở nọ, tại Kosambi (Kiều-thưởng-di: một kinh thành trên sông Hằng),
có một vị vua cai trị mệnh danh là Kosambaka. Vào thời ấy, Bồ-tát
đầu thai làm con của một gà mái sống
trong một rừng tre, sau đó làm chúa cả
đàn gà hàng trăm
con trong rừng. Không xa đó, có một con Diều hâu tìm cơ hội bắt từng
con gà trong đàn và
ăn thịt, dần dần nó ăn hết mọi con gà,
chỉ còn Bồ-tát một mình sống sót. Song ngài rất thận trọng trong lúc kiếm
mồi, và sống trong một rừng tre rậm. Tại đây
Diều hâu không thể nào đến gần được, vì
thế nó bắt đầu suy tính lập mưu gì
để dụ dỗ ngài mà bắt lấy.
Sau đó nó đậu trên một cành cây gần
đó, và gọi:
- Này Kê hiền hữu, chuyện gì khiến ngài sợ ta? Ta mong muốn kết bạn với
ngài. Giờ đây ở một nơi kia (nó nói tên
nơi đó) có đầy thức ăn, chúng ta hãy
cùng nhau đến đó ăn và sống bầu bạn với
nhau.
- Không, thưa Tôn ông tốt bụng! Bồ-tát đáp.
Giữa ngài và ta không thể có tình bằng hữu
được, xin hãy
đi đi.
- Thưa Tôn giả, vì các tội ác trước đây của
ta, nên ngài không thể tin ta bây giờ, nhưng ta hứa với ngài rằng ta
sẽ chẳng bao giờ làm như vậy nữa.
- Không, ta không muốn có bạn như vậy, hãy
đi nơi khác, ta nói rồi đấy.
Ðến lần thứ ba, Bồ-tát từ chối:
- Với một người hay vật có những đặc tính
như vậy - ngài bảo - chẳng bao giờ nên kết tình bằng hữu cả.
Rồi Ngài làm cho cả khu rừng rộng vang dội nên các vị thần hoan nghênh
trong lúc ngài cảm hứng nói lên bài Pháp này:
1. Ðừng đặt lòng tin bọn dối lừa,
Những ai chỉ biết lời riêng tư,
Hoặc người đã phạm nhiều
điều ác,
Những kẻ tỏ ra quá phụng thờ.
2. Lắm kẻ bản tâm giống lũ bò,
Tràn đầy khao khát với tham ô,
Nói lời thành thật nâng niu bạn,
Song chẳng hề hành động thế mà.
3. Bọn chúng chìa tay lạnh trống trơn,
Nói lời che dấu cả tâm hồn,
Bọn người phù phiếm, ta nên tránh,
Những kẻ không hề biết nhớ ơn.
4. Nam nữ nào tâm chóng đổi thay,
Ðừng tin tưởng các bọn người này,
Cũng đừng tin kẻ theo chiều hướng
Làm hiệp ước rồi lại phá ngay.
5. Người bước theo đường ác vẫn đi
Ðến làm mọi việc cực gian nguy,
Liều thân, vô định, đừng tin nó,
Kiếm sắc trong bao có khác gì?
6. Nhiều kẻ nói năng thật dịu lành,
Những lời không phải tự tâm thành,
Lòng tin chớ đặt vào trong chúng,
Cố lấy lòng nên giả thật tình.
7. Khi kẻ ác tâm ấy ngắm xem
Thức ăn hoặc lợi nhuận kề bên,
Nó hành động ác và
đi mất,
Nhưng nó làm nguy bạn trước tiên.
Bảy vần kệ này được vị Kê vương ngâm
lên. Rồi vần kệ tiếp theo được vị Pháp vương
đọc, đây là những lời phát xuất từ Trí tuệ của bậc Chánh Ðẳng Giác:
8. Lắm kẻ thù ra vẻ thiết thân,
Ra tay giúp đỡ sẵn sàng luôn,
Như Gà rời bỏ Diều hâu ấy,
Tốt nhất nên lìa những ác nhân.
9. Người nào không nhạy bén nhìn xa
Ý nghĩa việc làm diễn biến ra,
Phải chịu bao cừu nhân chế ngự,
Ăn năn hối hận buổi sau mà.
10. Nhanh trí, người nào nhận thấy ngay
Việc làm mang ý nghĩa nào đây,
Như Gà tránh bẫy Diều hâu ấy,
Vậy tránh cừu nhân, phải chạy bay.
11. Bẫy đó thông thường lại dối gian,
Giết người, dấu kín giữa rừng hoang,
Như Gà xa lánh Diều hâu ấy,
Người có nhãn quan phải kiếm đàng.
*
Và một lần nữa, sau khi ngâm các vần kệ này, Gà gọi Diều hâu lại khiển
trách nó và bảo:
- Nếu ngài tiếp tục ở chốn này, ta sẽ biết việc cần phải làm.
Do đó Diều hâu đành bay
đến nơi khác.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, ngày xưa cũng như bây giờ, Ðề-bà-đạt-đa
đã mưu toan sát hại Ta.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy Ðề-bà-đạt-đa là Diều
hâu và Ta chính là Kê vương.
-ooOoo-
449. Chuyện Nam Tử
Đeo Vòng Tai (Tiền thân Matta-Kundali)
Sao giữa rừng này có cậu trai...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một
địa chủ có con trai mới chết.
Tại Xá-vệ, ta được biết thần chết đã
cướp mất cậu trai thân yêu của một người địa
chủ thường đến cúng dường đức Phật. Quá sầu muộn vì con, người ấy
chẳng rửa mặt mày ăn uống gì cả, cũng
chẳng đi làm công việc của mình hay
đi phụng sự đức Phật mà chỉ kêu khóc:
- Ôi! Con yêu quí! Con đã bỏ ta mà
đi trước rồi!
Vào sáng sớm, khi bậc Ðạo Sư nhìn xuống trần gian, Ngài nhận thấy ngườI
này đã chín muồi công hạnh
để chứng đắc quả Dự Lưu. Vì vậy ngày hôm
sau, khi đã dẫn các
đệ tử đi suốt kinh thành Xá-vệ
để khất thực, và thọ dụng bữa cơm xong,
Ngài bảo các đệ tử đi nơi khác, còn Ngài
được Tôn giả Ànanda theo hầu,
đi đến nơi người này ở. Bọn gia nhân báo
tin cho vị chủ đất biết bậc Ðạo Sư
đã đến, sau
đó họ sắp đặt sàng tọa và mời Bậc Ðạo Sư ngồi xuống, rồi dẫn chủ nhà
đến yết kiến Bậc Ðạo Sư.
Sau khi người ấy đảnh lễ Ngài xong và
ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư nói bằng giọng dịu dàng
đầy từ mẫn:
- Này cư sĩ, có phải ông vẫn đang đau buồn vì
đứa con trai duy nhất chăng?
Ông đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn
Bậc Ðạo Sư nói:
- Này cư sĩ, đã lâu, lâu lắm rồi, các
người có trí đi lang thang nặng trĩu đau buồn vì
cái chết của đứa con trai, đã nghe
được lời các bậc hiền nhân và hiểu rõ
rằng không gì có thể đem lại người đã
mất, nên không còn thấy buồn rầu nữa, dù chỉ một chút thôi.
Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của người ấy, Bậc Ðạo Sư kể một chuyện
quá khứ.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì
ở Ba-la-nại, cậu con trai của một vị Bà-la-môn rất giàu có, khoảng mười lăm,
mười sáu tuổi, lâm bệnh nặng và khi chết,
được tái sinh vào cõi chư Thiên. Từ lúc
con trai chết, người Bà-la-môn thường đi đến
nghĩa địa và than khóc, rồi đi quanh
đống tro tàn; bỏ các phận sự dở dang, ông cứ lang thang với tâm tư
nặng trĩu u sầu.
Một vị Thiên tử, khi đi dạo thấy vậy, liền
lập mưu để an ủi khổ đau của người kia. Chàng
đến nghĩa địa lúc người này
đang sầu bi, giả dạng làm chính con trai
vị ấy và tô điểm đủ mọi thứ trang sức, chàng
đứng một bên, vừa ôm
đầu trong hai tay vừa than khóc kêu gào.
Vị Bà-la-môn nghe tiếng động và nhìn
lên, lòng tràn đầy yêu thương
đối với con trai mình, liền dừng lại
trước chàng và nói:
- Này con yêu quí, tại sao con đứng khóc
giữa nghĩa địa này?
Ông đặt câu hỏi qua vần kệ sau:
1. Sao giữa rừng này có cậu trai,
Tràng hoa, vòng ngọc mỗi bên tai,
Chiên-đàn sực nức, giơ tay nọ,
Sầu khổ gì rơi lệ vắn dài?
Lúc ấy chàng trai kể chuyện mình bằng cách ngâm vần kệ thứ hai:
2. Vàng ròng đúc, chiếu rực hào
quang,
Xe ấy con thường vẫn ngã lưng,
Ðôi bánh này con tìm chẳng thấy,
Chắc con buồn khổ đến lìa trần!
Vị Bà-la-môn nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:
3. Bằng vàng, dát ngọc, loại gì nào,
Bằng bạc, hay đồng, trí nghĩ sao,
Cứ nói ra lời, xe được đóng,
Ta tìm đôi bánh sẽ thêm vào!
Lúc bấy giờ chính Bậc Ðạo Sư với Trí tuệ Tối thắng của Ngài, sau khi nghe
vần kệ do chàng trai ngâm xong, liền ngâm câu
đầu của một vần kệ khác:
4. Nghe nói xong, chàng trẻ đáp lời,
Trong khi chàng ngâm tiếp theo phần còn lại:
Ðằng kia, huynh đệ đó, trăng trời,
Chính nhờ đôi bánh đằng xa ấy,
Xe của con vàng chiếu sáng ngời!
Lập tức vị kia tiếp:
5. Chàng thật ngu vì việc đã làm,
Cầu xin chuyện chẳng có ai ham,
Bởi vì ta chắc chàng nên chết
Nhật, nguyệt, đòi sao
được hỡi chàng?
Thế rồi:
6. Trước mắt, trời, trăng, lặn, mọc dần,
Sắc màu, đường hướng vẫn không ngừng;
Còn ai thấy được hồn người chết,
Vậy kẻ nào ngu lúc khóc than?
Chàng trai nói vậy xong, vị Bà-la-môn tỉnh ngộ, liền ngâm kệ:
7. Giữa ta, hai kẻ khóc than thân,
Chàng thật khôn, ta thật độn đần,
Quả đúng, đòi hồn người đã
chết,
Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?
Lúc ấy vị Bà-la-môn được an ủi nhờ lời lẽ
của chàng trai kia, liền cám ơn chàng bằng cách ngâm các vần kệ cuối
cùng:
8. Lòng ta thiêu đốt nóng bừng,
Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
Chàng đà
đem nước lạnh vào,
Và chàng dập tắt khát khao, tủi buồn.
9. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
Chàng đà an ủi khuây khỏa
Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
10. Tên vừa nhổ, khỏi đau ngay,
Giữ tâm thanh thản, ta rày khinh an,
Nghe lời chân thật, hỡi chàng,
Ta không còn phải khóc than muộn phiền.
Lúc ấy chàng trai bảo:
- Này, ngài Bà-la-môn, ta chính là người con trai mà ngài
đang thương khóc, ta đã
được tái sinh vào cõi chư Thiên. Vậy từ
đây xin đừng sầu muộn vì ta nữa, mà hãy
bố thí, hành trì giới đức và giữ ngày
trai giới.
Với lời khuyến giáo này, chàng trở về cõi của mình. Còn vị Bà-la-môn tuân
theo lời khuyên của chàng, nên sau khi làm nhiều công
đức bố thí và các thiện sự khác, ông
mạng chung và tái sinh vào cõi chư Thiên.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự thật. Bấy
giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, người địa chủ
đã được an trú vào Sơ quả (Dự
Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, Ta chính là vị Thiên tử đã
nói lời thuyết giáo này.
-ooOoo-
450.Chuyện phú ông keo kiệt Bilàri (Tiền thân Bilàri-Kosiya)
Khi món ăn không có giữa nồi...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo nhiệt
tâm bố thí.
Chuyện kể rằng sau khi nghe thuyết Pháp, từ lúc hành trì giáo lý, vị này
rất nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí. Chưa bao giờ ông
ăn chén cơm đầy trừ khi đã chia phần cho
kẻ khác, ngay cả nước cũng không uống nếu không
đem cho kẻ khác. Ông chuyên tâm bố thí như vậy.
Thời ấy, chúng Tỳ Kheo bắt đầu nói về các
đức tính của ông trong Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư
đi vào hỏi Tăng
chúng đang nói chuyện gì khi ngồi tại
đây. Các vị ấy trình ngài. Ngài cho gọi vị Tỷ Kheo ấy
đến và hỏi:
- Này Tỷ kheo, có phải đúng như Ta đã
nghe là ông nhiệt tâm bố thí, khát khao bố thí chăng?
Ông đáp:
- Thưa vâng, bạch Thái Tôn.
Bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỳ Kheo, ngày xưa, kẻ này không có tín tâm nên không tin tưởng
gì cả, đến như một giọt dầu trên
đầu ngọn cỏ cũng không cho ai; sau đó, Ta điều
phục y, giáo hoá, làm cho y thuần thục, và dạy cho y kết quả của bố
thí, nên hỷ tâm bố thí này không rời y ngay cả khi
đã sang một
đời khác.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ Tát sinh vào một gia
đình giàu có. Khi
đến tuổi khôn lớn, ngài
được hưởng tài sản và khi thân phụ mất
đi, ngài tiếp nhận
địa vị thương nhân của cha ngài.
Một ngày kia, khi xem xét lại sự giàu sang của mình, ngài suy nghĩ: "Tài
sản của ta đây dĩ nhiên
đầy đủ lắm, song những vị đã tích lũy
tài sản ấy nay ở đâu rồi? Ta phải phân chia tài
sản ra và bố thí."
Vì thế, ngài xây một bố thí đường, trong lúc
sinh thời, ngài bố thí rộng rãi; và khi sắp mạng chung liền giao phó
cho con trai ngài không được làm gián
đoạn việc hành trì bố thí, còn ngài tái
sinh là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ ở cõi Trời Ba mươi ba. Con trai của ngài
cũng bố thí như thân phụ đã làm, rồi
giao trọng trách ấy cho con trai mình, và tái sinh lên làm Canda, Thần mặt
trăng, giữa Thiên chúng. Con trai vị này
trở thành Suriya. Thần mặt trời, lại sinh ra một người con trở thành Màtali,
Thần lái xe (của Thiên chủ Sakka hay Indra), con trai vị này tái sinh làm
Pancasikha (Ngũ kế) một vị Gandhabba (Càn-thát-bà), nhạc thần của Thiên chủ.
Song người con trai thứ sáu trong dòng họ này lại không có tín tâm, tàn
nhẫn, không thương người, keo kiệt; người này phá hủy bố thí
đường, đốt cháy hết, đánh đập các hành
khất, đuổi họ đi mơi khác làm
ăn chẳng hề cho ai chút gì dù bằng một
giọt dầu ở đầu ngọn cỏ.
Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ nhìn lại các việc của ngài trong quá khứ, tự
hỏi: "Truyền thống bố thí của ta có tiếp tục
được chăng? Suy nghĩ thế, ngài nhận xét: "Con trai ta tiếp tục bố
thí, tái sinh làm Canda, con trai nó là Suriya, cháu nó là Màtali, và chắt
nó là Pancasikha, nhưng đứa con thứ sáu trong dòng
họ đã phá bỏ truyền thống kia."Lúc ấy,
ngài chợt có ý nghĩ này, ngài muốn đi điều phục
con người độc ác kia, và dạy cho gã kết quả của bố thí. Vì vậy ngài
triệu tập Canda, Suriya, Màtali, Pancasikha đến
gặp ngài và bảo:
Này các Hiền-giả, người con thứ sáu trong dòng họ ta
đã phá bỏ truyền thống gia
đình, nó đã
đốt bố thí đường, đuổi đánh bọn hành
khất đi chỗ khác, và không cho ai chút
gì cả. Vậy ta phải điều phục nó.
Thế là ngài cùng các ông lên đường đi đến
Ba-la-nại.
Vào lúc ấy, thương nhân kia phải đến chầu
vua, và khi đã trở về,
đang đi đi lại lại dưới tháp canh thứ bảy, nhìn
theo con đường. Thiên chủ bảo các vị
thần:
- Các Hiền giả, hãy đợi cho đến khi ta bước
vào rồi hãy lần lượt theo sau.
Cùng với những lời này, ngài bước tới và
đứng trước phú thương kia, bảo ông:
- Này Tôn ông hãy cho ta ăn với.
- Này Bà-la-môn, chẳng có gì ở đây cho ngài
ăn cả, hãy
đi nơi khác.
- Này Ðại nhân, khi các Bà-la-môn khất thực thì chẳng nên từ chối.
- Này Bà-la-môn, trong nhà ta chẳng có thức
ăn nấu sẵn, cũng chẳng có thức ăn để nấu, hãy
đi đi!
- Này đại nhân, ta muốn đọc một câu kệ cho
ngài, hãy lắng nghe.
Ta chẳng muốn nghe kệ gì cả, đi đi, đừng
đứng ở đây.
Nhưng Thiên chủ không để ý lời ông và
ngâm hai vần kệ:
1. Khi món ăn không có giữa nồi,
Thiện nhân tìm, chẳng chối từ hoài,
Còn ngài đang nấu, thì không tốt
Nếu chẳng muốn chia xẻ với ai.
2. Phóng dật, xan tham, kẻ chối từ
Chẳng hề đem bố thí bao giờ,
Còn người nào thích làm công hạnh,
Là một trí nhân, phải biết cho.
Khi người này nghe nói vậy liền đáp:
- Thôi được, xin vào ngồi
đó, ngài sẽ
được ăn đôi chút.
Thiên chủ Ðế Thích vừa bước vào vừa ngâm các vần kệ ấy và ngồi xuống.
Kế đó là Canda bước lên xin thức
ăn.
- Chẳng có thức ăn cho ngài
đâu - người đó bảo - đi đi!
Vị kia đáp:
- Thưa Ðại nhân, có một vị Bà-la-môn ngồi trong
đó, ta đoán chắc hẳn có một bữa cơm bố thí cho
Bà-la-môn, nên ta cũng bước vào.
- Chẳng có một bữa cơm nào bố thí cho Bà-la-môn cả - người
đó bảo - đi ngay đi!
Lúc ấy Canda nói:
- Thưa Ðại nhân, xin nghe một hai vần kệ.
Rồi Ngài ngâm hai vần kệ (hễ khi một kẻ keo kiệt lo sợ không muốn cho ai
cả, thì chính nỗi sợ hãi đó khởi lên
trong lòng vì y không bố thí):
3. Sợ khi khát nước hoặc thèm cơm
Khiến bọn xan tham phải hoảng hồn,
Trong cõi đời này,
đời kế nữa,
Bọn ngu kia phải trả hoàn toàn.
4. Vậy nên bố thí, tránh xan tham,
Rửa sạch tâm nhơ ác dục tràn,
Trong cõi đời sau, nhiều thiện nghiệp
Sẽ là nơi trú tuyệt an toàn.
Sau khi nghe các lời như vậy xong, ông bảo:
- Thôi được, xin bước vào, và ngài sẽ
được ăn một chút.
Vị kia bước vào ngồi xuống với Thiên chủ Ðế Thích.
Sau khi đợi một lát nữa, Suriya bước lên,
và xin ăn bằng cách ngâm hai vần kệ:
5. Thực khó làm như các thiện nhân,
Phát ban như các vị đem ban,
Khó mà kẻ ác làm theo được
Cuộc sống hiền nhân vẫn trú an.
6. Vậy thì khi phải giã từ trần,
Kẻ ác, người hiền bỏ thế gian,
Kẻ ác tái sinh vào địa ngục,
Người hiền sinh ở cõi thiên đàng.
Vị phú gia chẳng thấy cách gì thoát được
chuyện ấy, đành bảo:
- Thôi được, xin bước vào, và ngồi
với các Bà-la-môn này, rồi ngài sẽ được ăn đôi
chút.
Và Màtali, sau khi chờ đợi một lát nữa, cũng
bước lên xin ăn, và khi vị ấy
được bảo là không có thức
ăn, vừa mới nghe các lời ấy được thốt lên,
liền ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Có người ít của vẫn đem ban,
Có kẻ không cho, dẫu của tràn,
Người ít của cho không thể kém
Kẻ kia ban phát cả trăm ngàn.
Ông bảo vị này:
- Thôi được, xin vào ngồi xuống.
Sau khi đợi thêm một lát, Pancasikha
bước lên xin ăn. Kẻ kia đáp:
- Không có, đi đi!
Ông bảo:
- Ta đã
đến thăm nhiều nhà rồi! Ở đây chắc phải
có bữa cơm cúng dường các Bà-la-môn chứ, ta
đoán thế.
Rồi ông bắt đầu nói với ông, vừa ngâm vần kệ
thứ tám:
8. Dù sống chắt chiu, phải chánh chân,
Con nhiều, của ít vẫn đem phân,
Trăm ngàn đồng bạc người giàu
cúng
Chẳng sánh quà con của tiện dân.
Vị phú gia suy nghĩ lại khi nghe lời của Pancasikha. Rồi ông ngâm vần kệ
thứ chín để yêu cầu vị ấy giải thích giá
trị ít oi của các vật bố thí kia:
9. Sao dồi dạt lễ vật cao sang
Giá trị không bằng vật chánh chân,
Sao cả ngàn đồng từ phú hộ
Chẳng bằng quà mọn kẻ cùng bần?
Pancasikha ngâm vần kệ kết thúc để đáp lời:
10. Nhiều người sống độc ác hung tàn,
Ðàn áp, giết rồi lại phát ban:
Thí vật chua cay, tàn nhẫn ấy
Thua xa quà tặng với chân tâm,
Nên ngàn đồng bạc người giàu cúng
Chẳng sánh quà con của tiện dân.
Nghe lời thuyết giáo của Pancasikha xong, ông
đáp:
- Thôi được, xin ngài vào nhà ngồi
xuống, ngài sẽ được ăn đôi chút.
Rồi ông cũng vào ngồi với các vị kia.
Sau đó, phú ông keo kiệt Bilàri ra
hiệu cho một tỳ nữ, bảo nàng:
- Hãy đem cho các Bà-la-môn
đằng kia một đấu thóc còn vỏ.
Nàng ấy đem thóc đến gần các vị, bảo các vị
rằng:
- Nhận thóc rồi đem nấu nơi khác mà
ăn.
Các vị đáp:
- Ta chưa đụng đến thóc còn vỏ trấu.
- Thưa ông chủ, các vị ấy bảo chưa hề đụng
đến thóc còn vỏ.
- Ðược, vậy thì cho các ông gạo đã
xay.
Nàng ấy đem gạo đã xay, và bảo các vị
nhận. Các vị bảo:
- Chúng ta không nhận thứ gì chưa nấu chín.
- Vậy thì nấu cho họ một ít thức ăn của bò
trong cái nồi và đem ra mời khách.
Năm vị cầm lên mỗi người một miếng và
đặt vào mồm, song
để nó dính vào cổ họng rồi trợn mắt lên.
Các vị bất tỉnh nằm đó như chết rồi. Cô nữ tỳ
thấy thế nghĩ chắc các vị đã chết, nàng hoảng sợ chạy
đi báo phú ông:
- Thưa ông chủ, các Bà-la-môn này không nuốt nổi thức
ăn của bò, nên chết cả rồi!
Ông suy nghĩ: "Bây giờ dân chúng sẽ trách mắng ta, bảo gã
độc ác này
đem đống thức ăn trâu bò cho các Bà-la-môn yếu
đuối và các ông không nuốt nổi nên
đã chết." Sau
đó, ông bảo cô nữ tỳ:
- Mau đi chôn cất hết thức ăn trong bát của
các ông, rồi nấu cho họ một ít món đủ thứ gạo ngon nhất.
Nàng tuân lời. Phú ông tìm một số khách qua lại trên con
đường gần đó, khi đã tập hợp số người ấy
lại với nhau, ông bảo:
- Ta đã cúng dường các Bà-la-môn này
thức ăn giống như các thức ta vẫn ăn, nhưng các
vị tham lam nuốt từng miếng lớn và vì ăn
như vậy nên thức ăn mắc ở cổ họng và
phải chết. Ta mời các ngài đến làm chứng
cho ta vô tội.
Trước đám đông đang tụ tập như vậy, các vị Bà-la-môn
đứng dậy, vừa bảo vừa nhìn vào
đám đông:
- Các vị hãy xem sự dối trá của thương nhân này. Ông bảo cho chúng ta
thức ăn của ông đấy! Một đống tạp nhạp thức ăn
cho bò là những thứ ông đã
đem cho chúng ta trước tiên, sau
đó sau khi chúng ta nằm như chết, ông bảo người
nhà nấu thức ăn này
đây.
Rồi các vị ấy nhả ra từ miệng những thứ đã
ăn rồi chỉ thứ đó. Ðám
đông trách mắng vị thương gia, thét lớn:
- Ðồ ngu si, mù quáng! Ông đã phá bỏ
phong tục gia đình ông. Ông
đốt bỏ thí đường, ông đã nắm cổ các hành
khất tống ra đường, giờ đây khi bố thí các Bà-la-môn
yếu đuối này, ông lại cho một
đống thức ăn trâu bò. Ðến lúc ông sang
thế giới bên kia, chắc ông sẽ mang hết tài sản trong nhà buộc thật chặt
quanh cổ đấy!
Vào lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ bảo đám đông:
- Các người có biết tài sản này là của ai chăng?
- Chúng tôi không biết.
Ngài bảo:
- Chắc các người có nghe một đại phú thương
ở Ba-la-nại, ngày xưa sống ở thành này,
đã xây một bố thí đường, và bố
thí rất rộng rãi?
- Thưa có - họ đáp - Chúng tôi có nghe nói về
ông.
Ngài bảo:
- Ta chính là vị thương gia đó, nhờ các vật
tài thí ấy ta được là Ðế Thích
Thiên chủ bây giờ đây, và con trai ta
đã không phá vỡ truyền thống gia
đình, trở thành thần Canda, con trai nó
là Suriya và cháu trai của nó là Pancasikha; trong các vị này,
đằng kia là Canda,
đó là Syriya, và
đây là Màtali, thần lái xe, còn
đây nữa là Pancasikha, nhạc thần, ngày
xưa là cha của kẻ độc ác đằng kia ấy. Bố thí
tạo công đức lớn như vậy, cho nên người có trí phải làm công
đức.
Nói vậy xong với ý định đánh tan các mối
nghi hoặc của dân chúng đang tụ tập tại đó, các ngài bay lên không
gian và đứng vững trên không, nhờ thần
lực của các ngài hiện ra một đám tùy
tùng đông đảo vây quanh, toàn thân các
ngài sáng rực lên vì thế toàn thể kinh thành như ở trong
đám lửa. Sau đó Ðế Thích Thiên chủ bảo
đám đông:
- Chúng ta đã rời vinh quang thiên
giới để đến đây và chúng ta
đến chỉ vì kẻ
độc ác Bilàri Kosiya này, người cuối
cùng trong dòng họ, người tàn phá cả giống nòi mình. Với lòng lân mẫn mà
chúng ta đến, vì chúng ta biết ác nhân
này đã phá bỏ truyền thống gia
đình, đốt
bố thí đường, nắm cổ hành khất tống ra ngoài, vi phạm phong tục của
nhà ta, và do từ bỏ bố thí, nó sẽ tái sinh vào
địa ngục.
Ngài thuyết giáo cho đám đông như vậy, xong
lại nói về công hạnh của bố thí. Bilàri Kosiya chấp hai tay thỉnh cầu
và phát nguyện.
- Tâu Thiên chủ, từ nay trở đi, con xin
nguyện sẽ không phá bỏ phong tục gia đình nữa, mà con sẽ bố thí, bắt
đầu ngay hôm nay, con quyết chẳng bao giờ ăn mà
không chia phần cho kẻ khác, các vật dụng của riêng con, ngay cả nước uống
và cả tăm xỉa răng con dùng cũng vậy.
Ðế Thích thiên chủ đã
điều phục ông như vậy, làm cho ông biết
xả thân, và an trú ông trong Ngũ giới, rồi trở về cõi của ngài. Còn vị
thương nhân cứ bố thí suốt cả đời nên
được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại, Bậc Ðạo Sư bảo:
- Như vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ Kheo này ngày xưa không có tín tâm và
không bao giờ cho ai chút gì cả, song Ta đã
điều phục y và dạy cho y kết quả của bố
thí, và tâm lành đó không rời y ngay cả khi y đã
sinh vào một đời khác.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời bấy giờ, Tỳ kheo rộng lượng này là vị phú gia, Sàriputta
(Xá-lợi-phất) là Canda, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Suriya, Kassapa (Ca
diếp) là Màtali, Ànanda (A-nan) là Pancasikha và Ta là Sakka (Ðế Thích)
Thiên chủ.
-ooOoo-
451. Chuyện Hồng Nga (Tiền Thân Cakka-Vàka)
Màu lông tươi đẹp, dáng thanh tao...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc đang trú
tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo tham lam.
Chuyện kể rằng người này bất mãn với bộ y khất sĩ cùng những thứ tương tự
nên thường đi quanh quẩn hỏi:
- Nơi đâu có cơm cho Tăng chúng? Nơi đâu có
người mời?
Và khi nghe nói có thịt, ông tỏ ra rất hoan hỷ. Lúc bấy giờ có một vị Tỳ
kheo tốt bụng vì lòng thương tưởng bạn, nên đem
chuyện ấy kể với Bậc Ðạo Sư. Ngài triệu người ấy
đến hỏi:
- Này Tỳ kheo, có thật đúng như ta nghe rằng
ông tham lam đó chăng?
- Bạch Thế Tôn, đúng thế.
- Này Tỳ kheo, tại sao ông còn ham muốn, sau khi hành trì Giáo pháp
đưa đến giải thoát như Ðạo của Ta? Tham
tâm này là ác pháp, ngày xưa, vì tham dục, ông bất mãn với các xác voi chết
cùng nhiều vật thừa khác ở Ba-la-nại nên đã
đi vào rừng rậm.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một con Quạ tham
ăn không hài lòng với các xác voi chết ở
Ba-la-nại, cùng mọi thứ xác chết khác. Nó suy nghĩ: "Bây giờ
đây ta không biết rừng rậm ra sao nhỉ? Thế là
nó vào rừng xanh, song nó cũng không hài lòng với trái cây rừng mà nó tìm
được, nên
đi đến sông Hằng.
Khi nó tiến về phía sông Hằng, chợt thấy một
đôi Hồng Nga, nó suy nghĩ: "Những con chim đàng xa kia tuyệt
đẹp, ta chắc chúng tìm ra nhiều thịt
để ăn trên bờ sông Hằng này. Ta muốn hỏi
chúng và nếu ta cũng ăn thịt chúng nữa, chắc
chắn ta sẽ được màu lông tươi sáng như chúng vậy." Thế là khi
đậu không xa đôi chim ấy, Quạ hỏi Hồng Nga bằng
cách ngâm hai vần kệ đầu:
1. Màu lông tươi đẹp, dáng thanh tao,
Thân thể tròn xinh, ửng sắc đào,
Này Ngỗng, đúng là bạn tuyệt mỹ,
Năm căn và mặt sáng ngời sao!
2. Trong khi đậu ở bến sông Hằng,
Cá tráp, cá vền, Ngỗng vẫn ăn,
Cá chép, cùng nhiều loài cá khác,
Trên dòng sông nước lội tung tăng.
Hồng Nga liền cãi lại Quạ bằng cách ngâm vần kệ thứ ba:
3. Ta chẳng ăn bầy cá giữa dòng,
Cũng không nằm nghỉ ở trong rừng,
Mọi loài rong cỏ, ta nuôi sống,
Này bạn, đó là món Ngỗng
ăn.
Lúc ấy Quạ ngâm hai vần kệ:
4. Ta chẳng tin theo Ngỗng giải bày,
Xác minh thực phẩm nó ăn đầy,
Của ngon trong xóm ngâm dầu muối,
Là món ta ăn sống mỗi ngày.
5. Món cơm tinh sạch, đẹp làm sao
Có kẻ làm xong, lại đổ vào
Món thịt ấy, nhưng này bạn Ngỗng,
Sắc ta không giống bạn đâu nào.
Ngay sau đó Hồng Nga ngâm cho Quạ nghe các
vần kệ còn lại, nêu rõ lý do tại sao Quạ có màu lông xấu xí và thuyết
giảng đức tính chân chánh:
6. Ngắm xem tội ác ở lòng người,
Làm hại, phá tan cả cuộc đời,
Lo sợ, kinh hoàng, ngươi ẩm thực,
Nên ngươi có được sắc này thôi.
7. Quạ ơi, lầm lạc khắp trên trần,
Tội ác trong đời trước hóa thân,
Bạn chẳng thích đồ ăn uống nữa,
Chính màu này Quạ phải mang luôn.
8. Này bạn ta chẳng hại ai,
Cũng không lo lắng, dạ an hoài,
Cũng không có việc gì sầu muộn,
Sợ hãi gì do kẻ địch ngoài.
9. Vậy bạn này, nên sống dũng cường,
Giã từ đường lối sống vô lương,
Trên đời tiến bước không làm
hại,
Tất cả cùng yêu mến tán dương.
10. Người nào thân ái với muôn loài,
Không hại và không bảo hại ai,
Không quấy nhiễu, không ai quấy nhiễu,
Không thấy gì sân hận vì người.
- Vậy bạn muốn được mọi người thương mến, hãy
từ bỏ các ái dục.
Hồng Nga này thuyết giảng đạo đức chân
chánh, đã nói như vậy. Quạ đáp:
- Ðừng nói tầm phào với ta về cách sống của bạn.
Xong nó vừa kêu lên "Quạ! Quạ!", vừa bay mất qua không gian
đến bãi phân ở thành Ba-la-nại.
*
Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này xong. Ngài thuyết giảng các Sự
thật. Bấy giờ lúc kết thúc các Sụ thật, vị Tỳ kheo tham lam
đã được an
trú vào Tam quả (Bất Lai).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, Tỳ kheo tham lam này là Quạ, mẹ của La-hầu-la là chim bạn của
Hồng Nga và Ta chính là Hồng Nga.
-ooOoo-
452. Chuyện Vấn Đề
Trí Tuệ (Tiền Thân Bhùri - Panha)
Chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Mahà-Ummagga,
số 546, Tập VII.
-ooOoo-
453. Chuyện Điềm Lành
Lớn (Tiền thân Mahà-Mangala)
Hiển bày chân lý giải nghi nan...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Kinh Ðiềm lành Tối
thượng hay Luận về Ðiềm lành.
Tại kinh thành Vương Xá vì một lý do này nọ, một
đám đông tụ họp trong nhà nghỉ của vua,
giữa bọn ấy có người đứng dậy, bước ra nói:
- Hôm nay là ngày có Ðiềm lành.
Một người khác nghe được, bảo rằng người kia
bước ra và nói đến "Ðiềm triệu",
vậy y muốn nói gì qua chữ "Ðiềm"?
Một người thứ ba bảo:
- Dấu hiệu gì có vẻ may mắn thì đó là
điềm lành, ví dụ một người thức dậy sớm,
và thấy một con bò đực toàn trắng hay
một người đàn bà có thai, hay con cá màu
đỏ (Ciprinus Rohita) hay cái bình
đầy đến tận miệng, hoặc bơ tươi mới tan từ sữa
bò, hoặc y phục mới chưa giặt hoặc cháo gạo, thì chẳng có
điềm nào tốt hơn nữa.
Vài kẻ bàng quan bình phẩm lời giải thích này:
- Nói hay đấy.
Song có kẻ khác chen vào:
-Ồ không, chẳng có điềm gì trong việc
ấy cả, chỉ lời nói bạn nghe mới là điềm. Có
người nghe người ta nói: "Ðầy đủ", rồi
lại nghe "Lớn đầy đủ" hoặc "Ðang lớn", hoặc nghe chúng bảo: "Ăn
đi" hay "Nhai đi" thì chẳng có điềm nào
tốt hơn nữa.
Một số kẻ bàng quan bảo:
- Nói hay đấy.
Và họ bình phẩm lời giải thích này. Một người khác lại nói:
- Chẳng có điềm gì trong mọi chuyện
ấy cả. Hễ vật gì bạn đụng chạm đến mới là
điềm. Nếu một người thức dậy sớm đụng vào
đất hay cỏ xanh, phân bò tươi, chiếc áo
sạch, cá màu đỏ, vàng hay bạc, thức
ăn... thì chẳng có
điềm gì tốt hơn nữa.
Ở đây vài kẻ bàng quan lại tán
đồng và bảo là khéo nói. Và sau
đó, số người theo phái chủ trương các điềm do
mắt thấy, điềm về âm thanh, điềm về xúc chạm, chia làm ba nhóm, không
ai thuyết phục ai được cả. Từ chư Thần trên
mặt đất đến Phạm thiên giới không ai có
thể xác định điềm là như thế nào cả. Ðế
Thích Thiên chủ nghĩ thầm: "Giữa chư thiên và loài người ai ngoài
đức Thế Tôn là có thể giải
đáp đúng vấn đề điềm triệu. Ta muốn đi đến đức
Thế Tôn, và đặt vấn đề với Ngài."
Thế là ban đêm Thiên chủ
đến thăm đức Thế Tôn, đảnh lễ ngài và
chắp tay vào nhau để thỉnh cầu, Thiên
chủ đặt câu hỏi bắt đầu bằng: "Có chư Thiên
và loài người." Sau đó Bậc Ðạo Sư dùng
mười hai vần kệ nói cho biết ba mươi tám điềm lành
lớn. Và trong khi ngài ngâm những lời kinh điềm
lành ấy, lần lượt chư Thiên lên đến con
số mười ngàn triệu vị đắc Thánh quả
A-la-hán, còn các vị đắc ba Ðạo
Quả kia thì không sao kể xiết. Thiên chủ nghe xong các
điềm lành, liền trở về cõi của mình.
Khi Bậc Ðạo Sư nói các điềm lành
xong, thế giới loài người và Thiên giới đồng
tán thành và bảo:
- Thật là khéo nói.
Sau đó trong Chánh pháp đường, Tăng chúng
bắt đầu bàn luận về công đức của đức Như
Lai:
- Này các Hiền gỉa, vấn đề Ðiềm triệu
vượt phạm vi hiểu biết của mọi người, nhưng Ngài
đã tuệ tri tâm của loài người và chư
Thiên, cùng giải tỏa các mối nghi của quần chúng như thể ngài khiến mặt trăng
hiện lên trên bầu trời! Ôi đức Như Lai là
một bậc Ðại trí, này các hiền hữu!
Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói
chuyện gì trong lúc ngồi tại đó. Tăng
chúng trình với Ngài. Ngài bảo:
- Này các Tỳ kheo, chẳng vi diệu gì khi Ta giải
đáp vần đề điềm lành, vì nay ta
đã đạt Trí
tuệ Tối thắng; mà ngay cả khi Ta còn là Bồ-tát trên trần gian, Ta
đã giải đáp
các mối nghi hoặc của chư Thiên và loài người bằng cách trả lời vấn
đề Ðiềm lành.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, Bồ-tát tái sinh vào một thị trấn trong một gia
đình Bà-la-môn giàu có, cha mẹ
đặt tên ngài là Rakhita-Kumàra. Khi ngài
khôn lớn và đã hoàn thành việc học tập
tại Takkasilà, ngài cưới vợ. Sau khi song thân qua
đời, ngài kiểm tra lại gia sản, suy nghĩ
kỹ, ngài phân chia tài sản để bố thí, và
điều phục các tham dục rồi, ngài trở
thành ẩn sĩ trong vùng Tuyết Sơn. Ở tại đó, Ngài tu tập các Thắng trí, và an trú tại một nơi, tự nuôi sống bằng
các thứ củ, quả rừng. Theo thời gian, đệ tử của
ngài rất đông, gồm năm trăm vị cùng
sống với ngài.
Một ngày kia, các ẩn sĩ này đến gần Bồ-tát
nói như sau:
- Bạch Ðạo sư, khi mùa mưa đến, xin cho
chúng con xuống vùng Tuyết Sơn đi qua
đồng bằng để kiếm muối và các thứ gia vị; nhờ vậy thân thể chúng con
sẽ được khỏe mạnh và chúng con sẽ thành
tựu cuộc sống tu hành.
- Ðược rồi, các bạn cứ đi - ngài bảo.
Còn ta sẽ ở lại nơi này.
Thế là các vị từ giã ngài, đi xuống từ vùng
Tuyết Sơn, tiến hành trên lộ trình đến tận
Ba-la-nại, tại đó các vị trú ngụ ở trong ngự viên. Dân chúng
đón tiếp các vị rất trọng thể và nồng
nhiệt.
Lúc bấy giờ, một ngày kia, có đám đông tụ
tập trong nhà nghỉ của cung vua tại Ba-la-nại, và vấn
đề Ðiềm triệu
được đưa ra bàn cãi. Lúc ấy, cũng như
trước kia, đám đông không thấy ai có đủ khả
năng đánh tan mối hoài nghi của mọi người và giải
đáp vấn đề Ðiềm triệu; vì thế họ
đi đến ngự viên
đặt vấn đề cùng hội chúng hiền nhân kia.
Các hiền nhân ấy nói với vua:
- Tâu Ðại vương, chúng thần không thể giải
đáp vấn đề này, song Bổn sư của chúng thần, ẩn sĩ Rakkhita, một bậc
đại tuệ sống ở Tuyết Sơn, ngài sẽ giải
đáp vấn đề ấy, vì ngài thông suốt tư
tưởng của chư Thiên và loài người.
Vua đáp:
- Này các Hiền giả, Tuyết Sơn quá xa xôi và khó
đi lắm đấy, chúng ta không thể nào
đến đó được. Xin các Hiền giả đích thân đi về
gặp đức Bổn sư và xin hỏi ngài vấn đề
ấy. Sau khi các vị đã biết rồi, hãy trở lại
đây nói cho chúng ta biết được chăng?
Các vị ấy hứa sẽ làm như vậy; và khi các vị
đã trở về gặp đức Bổn sư, đảnh lễ ngài
và sau khi ngài đã vấn an vua cùng các
phong tục của dân chúng, các vị kể lại cho ngài toàn thể câu chuyện các Ðiềm
triệu như trên, từ đầu tới cuối và giải
thích việc các vị đến đây theo lời dặn dò
của vua như thế nào, để nghe tận tai lời giải
đáp vấn đề này. Các vị thưa:
- Bạch Tôn Sư, giờ đây xin Tôn Sư giải thích
vấn đề Ðiềm triệu cho chúng con rõ và cho chúng con thấy chân lý. Lúc
ấy vị đệ tử lớn tuổi nhất hỏi Bậc Ðạo Sư
bằng cách ngâm vần kệ đầu:
1. Hiển bày chân lý, giải nghi nan,
Xin dạy kinh gì của Thánh nhân
Ðược học hành theo giờ thuận lợi,
Ðời này, đời kế tạo hồng ân?
Khi vị đệ tử lớn nhất đã
đặt vấn đề Ðiềm lành qua các lời kệ này,
bậc Ðại Sĩ muốn xóa tan mọi nỗi nghi ngờ của chư Thiên và loài người, liền
đáp lại:
- Ðây và đây chính là
điềm lành.
Và như vậy ngài diễn tả các điềm lành
với tài thiện xảo của một vị Phật:
2. Mỗi Phạm thiên, thần thánh hiển linh,
Rắn rồng ta thấy giữa quần sinh,
Trong lòng mãi mãi đầy từ mẫn,
Vị ấy ban ơn mọi hữu tình.
Như vậy Bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng
Ðiềm lành thứ nhất, rồi tiếp đến thuyết giảng
Ðiềm lành thứ hai và các Ðiềm lành khác còn lại:
3. Kẻ nào khiêm tốn với muôn người,
Yêu mến nữ nam, mọi gái trai,
Ðứng trước lời bình, không đáp lại,
Sẽ mang hạnh phúc đến cho đời.
4. Gặp hiểm nguy, người có trí nhanh
Chẳng khinh đồng nghiệp, bạn đồng hành,
Chẳng khoe dòng trí, giàu, giai cấp,
Hạnh phúc cho đời ắt khởi sinh.
5. Người nào kết bạn thiện, hiền nhân,
Ðược trọng vì mồm chẳng ác thâm,
Không hại bạn, chia đều của cải,
Chính niềm hạnh phúc giữa thân bằng.
6. Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
7. Vua nào đại đế giữa thần dân,
Biết sống thanh cao, đủ khả năng,
Bảo: "Ðấy bạn ta", không dối trá,
Chính niềm hạnh phúc giữa vương quân.
8. Thành tín, cùng cơm nước cúng dường,
Vòng hoa tươi tốt, các mùi hương,
Với tâm thanh tịnh, gieo an lạc,
Ấy mang hạnh phúc mọi thiên đường.
9. Các trí nhân thuần thiện, chánh chân,
Tâm tư rửa sạch, gắng tinh cần,
Theo đời thanh tịnh, người hiền trí,
Phúc lạc thay người giữa Thánh nhân!
Cứ như vậy bậc Ðại Sĩ đã
đưa bài thuyết Pháp lên
đến đỉnh cao nhất của Thánh Quả, và sau
khi đã giải thích các Ðiềm lành trong
tám vần kệ, ngài ngâm vần kệ cuối cùng để tán
thán các Ðiềm lành ấy:
10. Công đức như vầy giữa thế gian,
Ðược tôn sùng bởi mọi hiền nhân,
Người khôn hãy bước đi theo chúng,
Ðiềm triệu chẳng mang tính thật chân.
Các bậc hiền trí, sau khi nghe các Ðiềm lành này xong, còn ở lại bảy tám
ngày nữa rồi từ giã ngài và lên đường đến chỗ
cũ.
Vua đến thăm các ông và hỏi chuyện
kia. Các vị giải thích vấn đề Ðiềm lành
như cách đã
được giải thích cho quý vị và trở lại Tuyết Sơn. Từ
đó về sau, vấn đề Ðiềm lành
đã được
thông hiểu trên thế giới. Sau khi đã
chuyên tâm học tập vấn đề Ðiềm lành, lúc
mạng chung, các vị đều lên cộng trú với
Thiên chúng rất đông đảo. Còn Bồ-tát tu
tập Tứ Vô lượng tâm, và cùng với hội chúng của ngài
được tái sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỳ kheo, không phải bây giờ mà cả ngày xưa nữa Ta cũng
đã giải thích vần
đề Ðiềm lành.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào thời ấy, hội chúng đệ tử của đức Phật
là đám hiền nhân kia, Sàriputta
(Xá-lợi-phất) là vị Trưởng đệ tử, người đã
hỏi vấn đề Ðiềm lành, và Ta chính là Ðạo
Sư.
-ooOoo-
454. Chuyện Trí Giả Ghata (Tiền thân Ghata)
Hắc đế Kan-ha hãy
đứng lên...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về cái chết của một nam tử. Hoàn
cảnh cũng giống trong số 449. tt Matta Kundali.
Ở đây, Bậc Ðạo Sư hỏi vị nam cư sĩ:
- Này cư sĩ, có phải ông đang phiền muộn
chăng?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Ðức Phật bảo:
- Này cư sĩ, ngày xưa các bậc trí nghe lời dạy của các hiền nhân nên
không phiền muộn về cái chết của con mình nữa.
Và theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa một vị vua có danh hiệu là Mahàkamsa, trị vì ở Uttaràpatha,
trong địa hạt Kamsa ở kinh thành
Asitanjanà. Ông có hai hoàng nam Kamsa và Upakamsa, và một công chúa
Devagabbhà. Vào ngày sinh nàng, các Bà-la-môn tiên
đoán tương lai của nàng, bảo:
- Một hoàng nam do công chúa này sinh ra sẽ phá hoại xứ sở và dòng họ
Kamsa.
Vua quá yêu thương con gái nên không thể giết nàng
được, mà để
cho các hoàng huynh của nàng lo liệu việc
đó, còn ngài chỉ sống hết
đời thì từ trần. Khi ngài băng
hà, Kamsa lên làm vua, và Upakamsa làm phó vương.
Hai vị nghĩ sẽ có sự phản đối của quần thần
nếu như bắt công chúa phải chết, vì thế quyết
định không gả nàng cho ai cả, mà cứ
để nàng sống không có chồng và canh giữ
thật kỹ. Các ngài lại xây một cái tháp tròn đơn
độc để nàng ở đó. Bấy giờ nàng có
một nữ tỳ tên là Nandagopà, và chồng nữ tỳ này là Andhakavenhu, gã gia nô
canh giữ nàng.
Thời ấy vị vua danh hiệu Mahàsàgara đang trị
vì ở phương Bắc Madhurà, có hai vương tử là Sàgara và Upàsàgara. Vào
lúc vua cha băng hà, Sàgara lên ngôi vua
và Upasàgara làm phó vương. Vương tử này là bạn của Upakamsa, cùng lớn lên
và cùng học với một thầy. Song chàng đã có âm
mưu dan díu trong khuê phòng của hoàng huynh và bị bại lộ nên phải
chạy trốn đến Upakamsa, trong địa phận Kamsa.
Upakamsa tiến cử chàng với vua Kamsa và vua
đón tiếp chàng rất trọng thể.
Upasàgara, trong lúc vào chầu vua, thường quan sát cái tháp mà công chúa
Devagabbhà trú ngụ, và khi hỏi ai ở đó, rồi
nghe chuyện kia, chàng đem lòng
yêu nàng. Còn Devagabbhà, một hôm, trông thấy chàng khi chàng cùng
đi với Upakamsa vào chầu vua. Nàng hỏi
ai đó, và khi dược Nandagopà nói
đó là Upasàgara, con của Ðại vương
Sàgara, thì nàng cũng yêu chàng ngay. Chàng Upasàgara trao một món quà cho
Nandagopà, bảo:
- Này hiền tỷ, xin chị thu xếp cho tôi được
gặp Devagabbhà.
- Dễ lắm.
Nandagopà vào và kể lại chuyện ấy với công chúa. Nàng
đã thầm yêu chàng nên
đồng ý ngay. Một đêm kia Nandagopà sắp
đặt một cuộc hẹn hò và
đem Upasàgara lên tháp và chàng ở lại
đó với Devagabbhà. Vì
đôi bên tiếp xúc thường xuyên như thế,
nên Devagabbhà có thai. Dần dần ai cũng biết nàng có thai, nên hai vị hoàng
huynh cật vấn Nandagopà. Nữ tỳ này xin hai vị tha tội cho nàng, rồi kể tình
tiết của câu chuyện. Khi hai vị nghe chuyện, liền suy nghĩ: "Ta không thể
bảo giết em gái ta được. Nếu em ta sinh con
gái, chúng ta sẽ tha chết cho hài nhi ấy luôn, còn nếu con trai thì
giết nó đi."
Và hai vị vua gả Devagabbhà cho Upasàgara
đem về làm vợ.
Ðến thời mãn nguyệt khai hoa, nàng sinh hạ một gái. Hai vị hoàng huynh
nghe tin ấy rất hoan hỷ đặt cho hài nhi
tên là công nương Anjanà. Hai vị lại cho các em một ngôi làng
để làm tài sản,
đặt tên là Govaddhamàna. Upasàgara
đem Devagabbhà
đến sống cùng nhau tại ngôi làng ấy.
Devagabbhà lại có thai nữa và đúng ngày
đó Nandagopà cũng có thai. Khi
đến kỳ, cả hai lại cùng sinh một ngày.
Deva sinh con trai và Nanda sinh con gái. Song Deva sợ rằng con trai nàng có
thể bị giết nên bí mật gởi con đến Nanda và
nhận con gái của Nanda về nuôi. Chúng lại báo tin nàng sinh con ấy với hai
vị hoàng huynh. Hai vị hỏi:
- Con trai hay gái?
Chúng đáp:
- Con gái.
- Vậy thì lo nuôi nấng nó đi - Các hoàng
huynh bảo.
Cứ như vậy, Devagabbhà sinh mười con trai, và Nandagopà sinh mười con
gái. Bọn con trai sống với Nanda và bọn con gái sống với Deva, chẳng một ai
biết được bí mật kia.
Con trai trưởng của Devagabbhà được đặt tên
là Vàsu-Deva, con trai thứ là Bala-Deva, thứ ba là Canda-Deva, thứ tư
Suriya-Deva, thứ năm Aggi-Deva, thứ sáu
Varuna-Deva, thứ bảy Ajjuna, thứ tám Pajjuna, thứ chín Ghata-Pandita, thứ
mười Amkura. Chúng nổi tiếng là các con trai của gia nô Andhakavenhu
hay Mười Anh Em Nô lệ.
Theo thời gian chúng lớn khôn, rất cường tráng lại hung dữ, bạo tàn,
chúng đi khắp nơi cướp phá, chúng còn cả
gan đến độ cướp lễ vật triều cống được dâng
vua. Dân chúng đến tụ tập ở sân chầu vua, kêu than:
- Các con trai của Andhakavenhu, cả Mười Anh Em ấy
đang cướp phá xứ sở.
Vì thế vua triệu Andhakavenhu đến, trách
mắng y đã để các con mình
đi cướp bóc. Cứ như vậy, các tiếng kêu
than nổi dậy ba bốn lần, vua hăm dọa y. Vì
lo sợ cho tính mạng mình nên y xin vua ban cho y
đặc ân được an toàn tính mạng rồi kể
chuyện bí mật kia, rằng chúng không phải là con trai của y như thế nào, mà
là con trai của Upasàgara. Vua hoảng sợ.
- Làm thế nào bắt chúng nó được? Ngài
hỏi quần thần.
Quần thần tâu:
- Tâu Ðại vương, chúng nó là bọn đánh vật,
chúng ta hãy tổ chức thi đánh vật tại
kinh thành, và khi chúng vào vòng đấu,
chúng ta sẽ bắt chúng và giết đi.
Thế là quần thần tìm hai người đánh vật Cànura
và Mutthika, và cho loan báo khắp kinh thành bằng trống lệnh rằng vào ngày
thứ bảy sẽ có một cuộc thi đô vật.
Vùng đấu được chuẩn bị trước hoàng
môn, có hàng rào quanh đấu trường . Vòng
được trang hoàng rất vui mắt. Cờ chiến
thắng được buộc sẵn sàng. Cả kinh thành
quay cuồng như ở trong cơn lốc. Hàng hàng lớp lớp ghế ngồi chật ních. Cànura
và Mutthika bước vào vòng đấu, đi nghênh
ngang, nhảy nhót, la hét, vỗ tay. Mười Anh Em kia cũng thế. Trên
đường đi chúng đã cướp phá phố thợ giặt
nên phục sức các xiêm y rực rỡ vào, lại cướp nước hoa của các tiệm nước hoa,
xoa dầu thơm khắp người, đeo vòng trên
đầu, hoa tai trên tai chúng nghênh ngang
bước vào đấu trường, nhảy nhót, la hét vỗ tay.
Vào lúc ấy, Cànura đang đi quanh và
vỗ tay, Baladeva thấy gã liền suy nghĩ: "Ta không muốn
đụng kẻ kia với bàn tay ta!" Nên chàng
chụp lấy sợi dây lớn từ chuồng voi, vừa nhảy lên, hò hét, vừa ném dây quanh
bụng Cànura, cột hai đầu dây lại thật chặt, rồi
tung gã kia lên, quay cuồng gã quanh đầu
mình, rồi đạp gã xuống đất cho lăn ra
khỏi đấu trường. Khi Cànura đã
chết, vua cho gọi Mutthika. Mutthika bước lên, hò hét, vỗ tay. Baladeva tát
mạnh vào mặt gã và trong lúc gã la lớn:
- Ta không phải kẻ đấu vật. Ta không phải kẻ
đấu vật!
Baladeva cột hai tay gã lại bảo:
- Ðấu vật hay không phải đấu vật đối với ta
cũng thế thôi!
Rồi chàng xô mạnh gã xuống đất, giết gã,
và ném gã ra ngoài đấu trường.
Mutthika trong cơn giãy chết, thốt ra lời nguyền: "Ước mong ta thành quỷ
để xé xác nó ra", và gã trở thành con
quỷ ở trong rừng có tên gọi là Kàlamattiya. Vua bảo:
- Bắt Mười tên Nô lệ này ra ngay.
Vào lúc ấy Vàsudeva ném một cái bánh xe (một loại binh khí), chặt
đứt đầu cả hai anh em nhà vua. Ðám
đông kinh hoàng quỳ xuống chân chàng, và
xin chàng cứu giúp che chở cho họ.
Thế là Mười Anh Em này, sau khi đã
giết hai ông cậu xong, lên làm vua tại kinh thành Asitanjanà và
đem cha mẹ về đó ở.
Lúc bấy giờ họ bắt đầu dự định chinh phục cả
cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ). Chẳng
mấy chốc, họ đi đến kinh thành Ayojjhà,
nơi ngự trị của vua Kàlasena. Họ bao vây kinh thành. tiêu diệt
đám rừng rậm quanh đó, phá vỡ trường thành
và bắt vua làm tù binh, chiếm vương quốc vào tay họ.
Sau đó họ đến Dvàravati. Bấy giờ kinh
thành này có một phía là biển, một phía là núi. Dân chúng
đồn rằng nơi đó có quỷ hiện. Con quỷ giữ vị trí
canh phòng, hễ thấy quân thù nó hóa thành con lừa, và hí như lừa vậy.
Lập tức nhờ sức kỳ bí của quỷ, cả kinh thành bay lên không gian
đặt chân trên một hòn
đảo giữa biển, khi quân thù
đi rồi, nó sẽ trở lại và ổn
định trên vị trí cũ.
Lần này cũng như thường lệ, vừa khi con lừa thấy Mười Anh Em kia
đến, thì nó hí lên như lừa. Cả kinh
thành bay lên không gian và đặt mình
trên hòn đảo kia. Họ không thấy kinh thành
nữa nên quay lui. Sau đó kinh thành lại
trở về chỗ cũ. Bọn họ trở lại, con lừa lại làm như trước, bọn họ không thể
nào chiếm lấy thành Dvàravati được.
Vì thế họ đến yết kiến vị hiền giả Kanhadìpàyana
và nói:
- Thưa Tôn giả, chúng tôi đã thất bại
trong việc chiếm vương quốc Dvàravati, xin cho chúng tôi biết phải làm cách
nào?
Ông bảo:
- Trong một cái hào ở nơi kia, có một con lừa
đi quanh quẩn. Nó hí lên khi thấy quân
thù, nên lập tức kinh thành bay lên không. Các ngài phải ôm lấy chân nó mà
van xin, đó là cách
để các ngài
đạt mục đích.
Sau đó họ tạ từ ẩn sĩ và cả mười
người đi đến con lừa, quỳ xuống chân nó bảo:
- Thưa Tôn ông, chúng ta không nhờ cậy ai
được ngoài Tôn ông! Khi chúng ta đến
chiếm thành, xin đừng hí lên.
Con lừa đáp:
- Ta không thể nào không hí được. Song nếu
các ngài đến trước, và bốn người
trong bọn các người đem các cây cày bằng
sắt thật lớn, và đặt bốn cột trụ sắt lớn ở dưới
đất tại bốn cổng thành. Khi kinh thành bắt
đầu bay lên, nếu các ngài
đóng vào trụ sắt một dây xích bằng sắt
buộc vào cây cày thì kinh thành không thể nào bay lên nổi.
Họ cám ơn con lừa, và nó không kêu một tiếng khi họ
đem đến các cây cày và
đào hố chôn các cột trụ dưới
đất ở bốn cổng thành rồi
đứng đợi. Sau khi con lừa hí, cả kinh thành
bắt đầu bay lên. Song những người
đứng ở bốn cổng thành với bốn cây cày
đã đóng vào
các cột trụ các dây xích sắt buộc vào các cây cày, nên kinh thành không thể
bay lên được nữa. Thế là Mười Anh Em vào
thành giết vua và chiếm vương quốc.
Như vậy họ chiếm được toàn cõi
Diêm-phù-đề, và trong sáu mươi ba ngàn
kinh thành, họ đã dùng bánh xe kia giết
sạch mọi vị vua các nước đó, rồi sống tại Dvàravati,
chia vương quốc thành mười phần. Song họ đã
quên mất cô chị đầu là công nương
Anjanà, vì thế họ bảo:
- Hãy chia vương quốc ra mười một phần.
Song Amkura đáp:
- Thôi cho chị ấy phần của tiểu đệ, và
đệ sẽ làm việc khác mà sống, các vương
huynh chỉ giảm thuế cho đệ ở mỗi vương quốc của
các vương huynh thôi.
Họ đồng ý và
đưa phần chàng cho chị
đầu; họ sống chung với nàng tại
Dvàravati, cả chín ông vua, trong khi Amkura
đóng tàu đi buôn.
Với thời gian các vua ấy sinh được nhiều con
trai và con gái và lâu sau đó, các bậc
cha mẹ họ từ trần. Vào thời ấy chuyện kể là con người sống
đến hai mươi ngàn tuổi.
Sau đó vương tử yêu quí của Ðại vương
Vàsudeva mất đi. Vua dở sống dở chết vì
sầu muộn, nên xao lãng mọi việc, cứ nằm than khóc, bám chặt lấy sàng tọa. Lúc
ấy Trí giả Ghata suy nghĩ: "Trừ ta ra không ai
đủ khả năng xoa dịu nỗi buồn của hoàng huynh. Ta muốn tìm phương tiện
để làm giảm nỗi ưu phiền cho ngài." Vì
thế chàng làm vẻ điên cuồng
đi khắp kinh thành, nhìn lên bầu trời và
kêu lớn:
- Cho ta một con thỏ! Cho ta một con thỏ!
Cả kinh thành chấn động lên:
- Trí giả Ghata nổi điên rồi. Họ bảo
nhau.
Vừa lúc ấy một cận thần tên là Rohineyya, đi
vào yết kiến vua Vàsudeva và mở đầu câu
chuyện bằng cách ngâm vần kệ đầu tiên:
1. Hắc đế Kan-ha, hãy
đứng lên,
Sao ngài nhắm mắt ngủ, nằm yên,
Kìa bào đệ, gió to đang cuốn
Tâm trí chàng bay mất, hãy nhìn:
Mất trí, Gha-ta mồm lảm nhảm,
Hỡi ngài Ðại đế tóc đen huyền!
*
Khi viên cận thần nói vậy xong, Bậc Ðạo Sư thấy vua ấy
đứng dậy, rồi với Trí tuệ Tối thắng, Ngài
cảm hứng ngâm vần kệ thứ hai:
2. Chốc lát vua dài tóc Ke-sa,
Nghe Ro-hi lớn tiếng gào la,
Ðứng lên, đại đế đầy phiền muộn
Vì nỗi khổ buồn của Gha-ta.
*
Vua đứng lên, vội vàng bước xuống từ
cung thất tiến về phía Trí giả Ghata, ngài chụp mạnh lấy chàng bằng cả hai
tay và ngâm vần kệ thứ ba hỏi chàng:
3. Sao dáng điên rồ,
đệ bước qua
Khắp miền non nước Dvà-ra-ka,
Và kêu: "Thỏ, thỏ! này cho biết,
Ai lấy thỏ con của đệ à?
Trước câu hỏi của vua, chàng chỉ đáp lại
bằng cách ngâm mãi các lời kệ ấy. Còn vua ngâm thêm hai vần kệ nữa:
4. Thỏ làm bằng ngọc hoặc vàng ròng,
Như đệ ước ao, bạc hoặc đồng,
Vỏ óc, san hô, hay đá cuội,
Ta làm ngay thỏ, đệ an lòng.
5. Còn có nhiều loài thỏ biết bao,
Vẫn thường quanh quẩn chốn rừng sâu,
Ðược mang về nữa ta đòi bắt,
Hãy nói, em thích chọn thứ nào?
Nghe lời vua, bậc hiền nhân đáp lại bằng
cách ngâm vần kệ thứ sáu:
6. Em chẳng ước ao thỏ thế gian,
Mà mơ con thỏ ở cung trăng,
Này Ke-sa, thỏ kìa, đem xuống,
Em chẳng đòi thêm một đặc ân.
"Chắc em ta đã nổi
điên rồi". Vua suy nghĩ khi nghe nói
vậy. Lòng đầy sầu muộn, ngài ngâm vần kệ
thứ bảy:
7. Nói thật này em sẽ chết thôi,
Nếu em cầu khấn chuyện kia hoài,
Em đòi chuyện chẳng ai mong ước,
Con thỏ cung trăng ở cõi trời!
Trí giả Ghata khi nghe vua đáp lại, liền
đứng yên không nhúc nhích và nói:
- Này vương huynh, anh biết rằng con người đòi
thỏ mặt trăng thì không thể nào có
được và sẽ phải chết. Vậy tại sao anh
phiền muộn vì đứa con trai đã mất?
8. Nếu Kan-ha hiểu chuyện này mau,
Và giải khuyên người khóc khổ đau,
Anh vẫn cớ sao đang phiền muộn
Ðứa con trai đã chết từ lâu?
Rồi chàng nói tiếp khi vẫn đứng trên
đường.
- Này anh, em chỉ cầu xin cái có thật, còn anh lại phiền muộn vì cái
không còn nữa.
Sau đó chàng giáo hóa vua bằng hai
vần kệ sau:
9. Con ta sinh, ước chẳng lìa trần,
Không một người hay cả thánh thần
Có thể đạt lời nguyền kia, vậy
Sao điều không có, lại cầu mong?
10. Không có bùa thiên, hoặc thuốc thần,
Chẳng loài cỏ thuốc hoặc tiền vàng
Ðủ công năng để làm cho sống
Người chết, Kan-ha vẫn khóc than.
Vua nghe vậy, đáp:
- Này hiền đệ, em có mục đích tốt lành
lắm. Em đã làm như vậy
để xua tan phiền muộn của ta.
Sau đó ngài ngâm bốn vần kệ
để tán thán Trí giả Ghata:
11. Trẫm nghe nhiều bậc trí nhân,
Nhiều người lỗi lạc khuyên toàn điều hay,
Song Gha-ta đã khéo thay,
Mở đôi mắt trẫm từ nay sáng bừng!
12. Ta đang thiêu đốt trong lòng,
Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
Em đà mang nước lạnh vào,
Và em dập tắt khát khao tủi buồn.
13. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
Em vừa an ủi khuây khoa
Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
14. Tên vừa nhổ, hết đau ngay,
Giữ tâm thanh thản, ta rày bình an,
Nghe lời chân lý, hỡi chàng,
Ta không còn phải khóc than đau buồn.
*
Và cuối cùng:
15. Hãy làm như đấng từ tâm,
Và như các bậc trí nhân đại hiền
Giải tan các nỗi ưu phiền,
Như Gha-ta đã giải khuyên anh mình.
Ðây là vần kệ phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng.
*
Bằng cách ấy, Vàsudeva Ðại vương đã
được vương tử Ghata an ủi nỗi buồn.
Sau một thời gian dài, vua cai trị vương quốc, các vương tử của Mười Anh
Em làm vua kia suy nghĩ:
- Dân chúng đồn rằng Kanhadìpàyana có
thần thông lực. Ta thử xem sao.
Thế là cả bọn ấy kiếm một thanh niên cho gã phục sức
đẹp vào rồi buộc một chiếc gối quanh
bụng gã làm như thể gã có thai. Rồi họ đem gã
vào yết kiến ngài và hỏi:
- Thưa Tôn giả, khi nào thì người đàn
bà này sinh con?
Nhà ẩn sĩ nhận thấy (nhờ thần lực) rằng Mười Anh Em vương tử này
đã đến hồi
mạt vận; rồi khi xem kỹ hạn kỳ mạng sống của chính mình
được chừng nào, ngài hiểu là ngài phải
chết đúng ngày hôm ấy. Sau
đó ngài hởi:
- Thưa các vị vương tử, người này là gì của các vị?
Họ khăng khăng đáp lại:
- Xin hãy trả lời cho chúng ta rõ.
Ngài đáp:
- Từ ngày thứ bảy kể từ nay, người này sẽ sinh ra một khúc gỗ keo. Với
khúc gỗ ấy, nó sẽ phá tan dòng họ Vàsudeva, dù cho các vị có lấy thanh gỗ ấy
và đốt đi rồi thả tro xuống sông.
- A, đạo sĩ này giả hiệu - họ
đáp. Ðàn ông không thể nào
đẻ con được!
Rồi họ làm một sợi dây thừng giết ngài lập tức.
Các vị vua triệu các vương tử vào hỏi tại sao
đã giết đạo
sĩ. Khi các vị nghe như vậy đều kinh hãi. Các vị cho người canh giữ
chàng trai kia, và đến ngày thứ bảy,
chàng ta lấy ra từ trong bụng một khúc gỗ keo, họ
đem đốt đi và thả tro xuống sông. Tro ấy
trôi theo dòng nước dính vào một bên bờ nhờ một cái ngõ vào phía sau, từ nơi
ấy mọc lên một cây Eraka.
Một ngày kia, các vua đề nghị đi hu hí dưới
sông . Vì thế các vị ấy đến ngõ
sau này dựng một chiếc rạp lớn, và trong cái rạp rực rỡ ấy, các vị vua
ăn uống vui đùa. Sau
đó, các vị bắt đầu đấm đá nhau và chia
thành hai phe gây gổ dữ dội. Cuối cùng một người trong
đám đó thấy không có gì tốt hơn
để làm cây gậy liền hái một ngọn lá
Eraka, ngay sau khi hái, nó liền biến thành cái gậy gỗ keo trong tay, người
ấy dùng gậy đánh nhiều người. Rồi các người
khác cũng hái như vậy, và các lá cây mà họ hái
đều biến thành gậy gộc, và bọn người ấy
dùng gậy đánh nhau cho đến chết. Trong lúc cả
bọn tàn sát lẫn nhau, chỉ có bốn người: Vàsudeva, Baladeva, công chúa
Anjanà, vương tỷ, và vị quan tế sư nhảy lên xe chạy trốn. Còn cả
đám kia chết hết không sót ai.
Bấy giờ bốn vị ấy dùng xe trốn đi đến khu
rừng Kàlamattikà, nơi ấy gã đấu vật
Mutthika tái sinh làm quỷ đúng như lời
nguyện của y. Khi y nhận thấy Baladeva, y liền dựng lên một ngôi làng
tại đó rồi giả dạng làm người nô bộc vừa
đi vừa nhảy nhót la hét vừa búng tay một hồi:
- Ai muốn đấu đây?
Baladeva mới thấy y liền nói:
- Này anh, em sẽ cố đánh gã này.
Vàsudeva cố hết sức ngăn cản chàng,
song chàng vẫn xuống xe, đi đến gã, búng
tay, gã kia chụp ngay chàng trong lòng bàn tay và nhai chàng ngấu nghiến như
một củ cải!
Vàsudeva thấy chàng đã chết, liền
đi suốt đêm cùng chị và viên tế sư rạng
ngày sau vừa đến một làng ở biên
địa. Vua nằm xuống trong chổ ẩn sau một bụi
rậm, nhờ chị và viên tế sư vào làng bảo nấu một ít thức
ăn đem đến dâng ngài. Một người thợ săn
(tên là Jarà hay Lão niên) thấy bụi rậm lay
động:"Chắc có con lợn rồi!", gã suy nghĩ
và đâm một giáo xuyên suốt chân ngài.
- Ai đã bắn ta bị thương
đó? Vàsudeva la lớn.
Người thợ săn thấy gã
đã đâm nhằm
một người nên kinh hoàng bỏ chạy trốn. Vua hồi tỉnh
đứng lên gọi gã thợ săn:
- Này lão tiều phu, tới đây đừng sợ!
Khi gã đến, Vàsudeva hỏi:
- Người là ai?
- Tâu Chúa thượng, tiểu thần là Jàra.
- Than ôi! Vua nghĩ thầm: "Hễ ai bị Lão niên
đâm bị thương đều phải chết, người xưa vẫn nói như vậy. Chắc chắn ta phải
chết hôm nay rồi". Sau đó vua bảo:
- Này lão tiều phu, xin đừng sợ, đến đây
buộc vết thương lại cho ta.
Khi miệng vết thương buộc lại xong, vua để gã
đi. Vết thương khiến ngài
đau đớn ghê gớm, ngài không thể
ăn thứ gì mà các người kia mang
đến. Sau đó, ngài bảo các người kia:
- Hôm nay ta phải chết. Các người yếu đuối
lắm, không bao giờ có thể có nghề gì khác
để sinh sống, vậy hãy học chuyên khoa
này của ta.
Nói xong ngài dạy cho hai người học một chuyên khoa, rồi
để cho họ ra đi, và ngài chết ngay hôm
đó. Như vậy trừ công nương Anjanà, tất
cả đều chết không ai sót. Câu chuyện kể như
vậy.
*
Khi Bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại
này, Ngài bảo:
- Này cư sĩ, như vậy ngày xưa, có người đã
thoát khỏi khổ đau vì con chết bằng cách
nghe theo lời dạy của các bậc trí nhân; thôi, ông
đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa.
Sau đó Ngài tuyên thuyết các Sự thật,
vị cư sĩ đã
được an trú vào Sơ quả Dự lưu.
Rà Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào thời ấy, Ànanda (A-nan) là Rohineyya, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là
Vàsudeva, các đệ tử của đức Phật là các
người kia, và Ta chính là Trí giả Ghata.
-ooOoo-
Chương XI
Phẩm Mười Một Bài Kệ
455. Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền thân Màti-Posaka)
Cho dù voi chúa phải đi xa...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo còn mẹ
phải cấp dưỡng.
Hoàn cảnh chuyện này cũng giống như chuyện Sàma (số 540 tập VI). Trong
dịp này Bậc Ðạo Sư nói chuyện với chúng Tăng,
Ngài bảo:
- Này các Tỷ kheo, chớ giận Tỳ kheo này. Ngày xưa, bậc hiền nhân, ngay cả
lúc sinh ra từ bụng của loài vật, và cách xa mẹ mình cũng không chịu
ăn uống gì trong bảy ngày, cứ gầy héo
mỏi mòn. Dù được cung cấp đồ ăn vương giả, họ
cũng chỉ đáp: "Không có mẹ ta thì ta không muốn
ăn". Tuy thế, lúc gặp lại mẹ, họ mới chịu ăn
như trước.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát
được sinh làm Ðại tượng vương ở vùng
Tuyết Sơn. Toàn thân Voi màu trắng rất hùng vĩ, là chúa
đàn gồm tám mươi ngàn con voi vây quanh
ngài, song mẹ ngài bị mù. Ngài thường đưa cho
bầy voi những quả rừng thật ngon để đem về dâng mẹ, tuy thế, chúng chẳng đem
gì về dâng voi mẹ, mà chúng ăn hết. Khi
ngài hỏi thăm và biết
được việc ấy, ngài bảo:
- Ta muốn rời đàn
để nuôi mẹ ta.
Thế là một đêm thuận lợi, bầy voi
không hay biết ngài đưa mẹ đi đến đỉnh núi
Candorana (Chiên-đồ-gia), tại đó ngài
để mẹ ở trong một hang dưới đồi, gần một hồ
nước và nuôi nấng mẹ rất chu đáo.
Bấy giờ, một người thợ rừng ở Ba-la-nại đi
lạc đường và không thể nào tìm lối ra
được nên bắt đầu than khóc ầm ĩ. Nghe
tiếng này Bồ-tát thầm nghĩ: "Ðó là một người
đang cơn hoạn nạn, khi ta đang ở đây mà
gã gặp tai họa thật chẳng phải lẽ". Vì vậy ngài
đến gần gã, nhưng gã bỏ chạy vì quá sợ hãi; thấy thế, chúa Voi bảo
gã:
- Này người kia, anh không cần phải sợ ta,
đừng chạy trốn, hãy nói tại sao anh vừa
đi vừa khóc thế?
- Tâu chúa tể, kẻ hèn này bị lạc đường đã
bảy ngày qua.
Chúa Voi đáp:
- Anh đừng sợ nữa, và ta sẽ
đưa anh ra đường đi của dân chúng.
Sau đó ngài bảo người ấy leo lên ngồi
trên lưng ngài và đưa gã ra khỏi rừng,
xong ngài quay về.
Còn con người độc ác kia quyết vào
thành phố báo tin cho vua biết. Vì thế gã đánh
dấu các cây cối, các ngọn đồi, rồi tiến về Ba-la-nại. Lúc ấy vương tượng của
hoàng đế vừa từ trần. Ngài cho
truyền lệnh bằng một hồi trống:
- Nếu kẻ nào thấy ở đâu có con voi xứng đáng
để hoàng thượng ngự du thì hãy báo ngay.
Sau đó gã kia
đến triều kiến vua và tâu:
- Tâu Chúa thượng, tiểu thần đã thấy
một con Voi tuyệt mỹ, toàn thân màu trắng, một vật tối thắng xứng
đáng để Chúa thượng ngự lên. Tiểu thần
xin chỉ đường. Nhưng xin đưa các người quản
tượng đi theo để bắt Voi.
Vua chấp thuận, bảo một người thợ rừng cùng
đi với gã ấy và một đoàn tùy tùng
lên đường.
Người thợ cùng đi với gã và trông
thấy Bồ-tát đang ăn uống trong một hồ nước. Khi
Bồ tát thấy gã thợ rừng, ngài nghĩ: "Hiểm họa này chắc chắn không
phát xuất từ ai khác, ngoài kẻ kia. Nhưng Ta rất mạnh, ta có thể
đánh tan tành cả ngàn con voi trong lúc
thịnh nộ, ta lại đủ sức tiêu diệt cả
đàn voi ra trận của một vương quốc. Tuy
nhiên nếu ta bị lòng phẫn nộ chi phối thì công
đức của ta sẽ bị tổn hại. Vì vậy hôm nay ta sẽ không nổi giận, cho dù
có bị gươm giáo đâm vào da thịt". Với
quyết đinh này, ngài cúi
đầu đứng bất động.
Người thợ rừng bước xuống hồ sen, khi thấy vẻ tuyệt mỹ của các chóp ngà
voi, gã bảo:
- Này con, hãy đến đây.
Rối nắm lấy cái vòi giống như sợi dây thừng bằng bạc, gã dẫn voi về thành
Ba-la-nại trong vòng bảy ngày.
Khi mẹ Bồ Tát thấy con mình không trở về, bà
đoán chắc hẳn ngài bị quan quân nhà vua bắt rồi, và bà than khóc:
- Giờ đây cây cối vẫn mọc, nhưng con ta đã
đi xa rồi.
Và bà đã ngâm hai vần kệ sau:
1. Dù cho Voi chúa phải đi xa,
Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,
Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,
Kén xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.
2. Tượng vương hẳn đến tận phương nao
Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,
Trang điểm ngọc vàng, vua chúa cỡi,
Oai hùng thắng địch thủ mang bào.
Bây giờ người luyện voi kia, đang lúc còn
đang đi đường đã gửi về triều một tờ sớ
dâng vua. Nhà vua liền ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy.
Người luyện voi dẫn Bồ tát vào một cái chuồng
được tô điểm bằng các dây tua, tràng hoa và vây quanh mỗi bức màn
đủ màu rực rỡ, xong
đến trình vua. Vua mang các món cao
lương mỹ vị ra bảo đưa cho Bồ Tát, nhưng ngài
không ăn chút gì cả:
- Nếu không có mẹ ta, ta không muốn ăn gì
đâu.
Vua van nài ngài ăn, và ngâm vần kệ
thứ ba:
3. Nào ăn đi một miếng, Voi này,
Ðừng có buồn chi, chớ héo gầy,
Ðể phụng sự vua, còn lắm việc
Mà Voi sẽ đảm trách sau này.
Nghe vậy Bồ Tát ngâm vần kệ thứ tư:
4. Không, trên đỉnh núi Chiên-đồ-gia,
Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ
Vì không Voi chúa, ấy con bà.
Vua ngâm vần kệ thứ năm để hỏi ý nghĩa lời
ngài:
5. Ai ở trên đồi Chiên-đồ-gia,
Nào ai khốn khổ, lại mù lòa?
Dậm chân vào một gốc cây nọ,
Vì chẳng chúa Voi, con của bà?
Voi đáp lời qua vần kệ thứ sáu:
6. Mẹ ta ở trên núi Chiên-đồ gia,
Khốn khổ mù lòa thật xót xa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ,
Bởi vì Voi chúa ấy là ta.
Khi nghe nói vậy, vua liền cho ngài được tự
do, và ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân mình,
Nên thả tự do, cứ mặc tình,
Thôi để Voi đi về với mẹ
Và cùng sum họp với gia đình.
Vần kệ thứ tám và thứ chín xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của
đức Phật.
8. Khỏi cảnh giam cầm được thoát thân,
Hết dây ràng buộc, chúa Voi rừng,
Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy,
Voi lại trở về chốn núi ngàn.
9. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong,
Nơi này Voi vẫn tới bao lần,
Dùng vòi hút nước từ hồ ấy
Tung vẫy khắp mình của mẫu thân.
Nhưng mẹ của Bồ Tát tưởng là trời bắt đầu
mưa, nên ngâm vần kệ thứ mười để trách
cơn mưa:
10. Ai đó đem mưa thật trái thời,
Thần nào độc ác quá, trời ơi!
Vì nay con trẻ đà
đi vắng,
Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi.
Lúc ấy Bồ tát ngâm vần kệ thứ mười một để
trấn an mẹ:
11. Sao mãi nằm kia vậy, mẹ ơi!
Này đây con mẹ đã về rồi,
Ca-thi Ðại đế, ngài Thông tuệ,
Cho trẻ bình an được tái hồi.
Bà mẹ liền đáp lời, cảm tạ vua qua vần kệ
cuối cùng:
12. Vạn tuế trường tồn, đấng Ðại
vương!
Cầu ngài đem lại nước hùng cường,
Tự do ngài trả cho con đó,
Với mẹ, con tròn vẹn kính thương!
Vua rất hoan hỷ vì đức độ của Bồ tát nên
ra lệnh xây một thị trấn không xa hồ ấy và vua thường
đến phụng sự Bồ Tát cùng mẹ ngài. Sau
đó, khi mẹ ngài từ trần, ngài
đi thật xa đến một tinh xá tên là
Karandaka. Tại đây có năm trăm bậc trí giả an
trú và vua thường đến cúng dường các ngài.
Vua lại truyền tạc một tượng bằng đá có hình
Bồ tát và thường đến chiêm bái
để tỏ lòng ngưỡng mộ ngài. Dần dần dân
chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) tụ
tập lại đó cùng nhau cử hành ngày hội
gọi là hội Voi.
*
Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự thật. Bấy
giờ lúc kết thúc các Sự thật, Tỳ kheo phụng dưỡng mẹ
đã được an
trú vào Sơ quả Dự lưu.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào thời ấy Ànanda là nhà vua, mẫu hậu Mahàmàyà là mẹ Voi và chính
Ta là chúa Voi đã nuôi dưỡng mẹ mình.
-ooOoo-
456. Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền thân Junha)
Tâu Ðại vương nghe lão nói điều này...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ viên, về các
đặc ân mà Tôn Giả Ànanda nhận
được.
Suốt trong hai mươi năm đầu Ngài
chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
các thị giả đức Thế Tôn không phải chỉ là một người: Khi thì Tôn giả
Nàgasamàla, khi thì Tôn giả Nàgita, Upavàna, Sunakkhatta, Cunda, Sàgala, khi
thì Meghiya hầu hạ đức Thế Tôn. Một ngày kia,
đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:
- Này các Tỳ kheo, nay Ta đã già, và
khi Ta bảo chúng ta hãy đi đường này,
vài người trong Tăng chúng lại đi đường khác,
có người làm rơi bình bát và y của ta xuống
đường. Vậy hãy chọn một Tỳ kheo luôn
luôn hầu cận ta.
Sau đó, Tăng chúng đồng đứng lên, bắt
đầu với Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất),
và chấp hai tay lên đầu nói lớn:
- Bách Thế Tôn, con xin hầu hạ Thế Tôn, con muốn hầu hạ Thế Tôn.
Nhưng ngài từ chối trả lời:
- Lời thỉnh cầu của các ông đã
được ta biết trước, thôi đủ rồi.
Sau đó Tăng chúng nói với Tôn giả
Ànanda:
- Này Hiền giả, Hiền giả hãy xin giữ chức vụ thị giả.
Tôn giả đáp:
- Nếu đức Thế Tôn sẽ không ban cho ta chiếc
y mà chính Ngài đã nhận, nếu Ngài
sẽ không ban cho ta đồ ăn khất thực của Ngài,
nếu Ngài sẽ không cho phép ta ở cùng trong Hương phòng, nếu Ngài sẽ không
muốn cho ta cùng Ngài đi đến nơi Ngài
được mời. Nhưng nếu đức Thế Tôn sẽ đi với ta
đến nơi mà ta được mời, nếu ta sẽ được
phép giới thiệu hội chúng vào lúc hội chúng từ các vùng xa xôi hay
các nước ngoài đến yết kiến đức Thế Tôn, nếu ta
sẽ được gặp đức Thế Tôn khi có nghi vấn khởi lên, hoặc nếu bất cứ khi
nào đức Thế Tôn thuyết Pháp mà ta vắng
mặt thì ngài sẽ thuyết Pháp lại cho ta ngay lúc trở về: Thế thì ta sẽ hầu hạ
đức Thế Tôn.
Tôn giả cầu xin tám đặc ân này, bốn
điều "không" và bốn
điều "có" và
đức Thế Tôn ban tất cả cho Tôn giả. Sau đó Tôn
giả thường xuyên hầu hạ Bậc Ðạo Sư trong hai mươi lăm
năm liền. Vì vậy sau khi đã
đạt được năm đức tính xuất sắc và sau
khi thành tựu bảy phúc lạc " Phúc lạc về Ðạo pháp, phúc lạc về sự giáo hóa,
phúc lạc về sự tuệ tri các nhân duyên, phúc lạc về sự quán sát công
đức của mình, phúc lạc vì
được ở trong một Thánh chúng, phúc lạc về nhiệt
tâm tinh cần được khai sáng, phúc lạc về khả năng đạt giác ngộ. Vào
hầu cận đức Phật, Tôn giả nhận được tám đặc ân
và trở nên danh tiếng trong Giáo pháp của
đức Phật, Tôn giả sáng chói chẳng khác nào
mặt trăng trên bầu trời.
Một ngày kia Tăng chúng bắt đầu nói đến
chuyện ấy trong Chánh pháp đường:
- Này hiền hữu, đức Như Lai đã làm
thỏa nguyện Tôn giả Ànanda bằng cách ban các
điều ước của Tôn giả.
Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi:
- Này các Tỳ kheo, các ông đang nói chuyện gì
trong khi ngồi ở đây?
Tăng chúng thưa với Ngài. Sau
đó Ngài bảo:
- Không phải đây là lần
đầu tiên, này các Tỳ kheo, mà thuở xưa
cũng như bây giờ Ta đã làm thỏa nguyện
Ànanda với một đặc ân; ngày xưa cũng như
bây giờ, bất cứ điều gì ông muốn xin, Ta
đều ban cho cả.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một vương tử của ngài
là Junha hay Nguyệt Quang Vương tử đang theo
học tại Takkasilà.
Một đêm kia, sau khi lắng nghe kỹ
lưỡng lời dạy bảo của vị giáo sư, chàng từ giã nhà của thầy trong
đêm tối và lên
đường về nhà. Một Bà-la-môn
đã đi khất
thực, và đang trên
đường về nhà, còn vương tử vì không thấy
vị này, nên chạy đến đụng vào Bà-la-môn
ngã xuống và kêu lên. Chàng động lòng
thương liền quay lại, cầm lấy hai tay vị kia và
đỡ dậy. Vị Bà-la-môn nói:
- Này con, con đã làm vỡ bình bát của
ta, vậy hãy cho ta tiền mua một bữa ăn.
Vương tử đáp:
- Thưa Tôn giả Bà-la-môn, bây giờ tiểu sinh không thể cho ngài tiền bữa
ăn được; nhưng tiểu sinh là vương tử
Junha, con vua xứ Kàsi, khi tiểu sinh về vương quốc, ngài có thể gặp tiểu
sinh và xin số tiền ấy.
Khi chàng trai hoàn tất việc học tập, chàng tạ từ thầy dạy và trở về
Ba-la-nại, trình vua cha việc học tập của chàng.
- Trẫm đã thấy
được con trước khi từ trần - vua phán - và
muốn thấy con trẫm lên ngôi.
Sau đó ngài làm lễ quán
đảnh cho con và phong chàng lên ngôi
vua. Với danh hiệu Ðại vương Junha, vương tử cai trị rất chân chánh.
Khi vị Bà-la-môn hay tin ấy, ông nghĩ rằng giờ
đây mình có thể lấy lại tiền bữa
ăn rồi. Thế là ông
đến Ba-la-nại, thấy toàn thể kinh thành
được trang hoàng rực rỡ và vua
đang ngự du trong đám rước rất uy nghi hướng về
phía hữu, diễu quanh kinh thành. Ðứng trên một chỗ cao, vị Bà-la-môn
giơ tay kêu lớn:
- Ðại vương toàn thắng!
Vua đi qua mà không nhìn thấy ông.
Khi vị Bà-la-môn thấy mình không được chú ý,
liền ngâm một vần kệ để xin ngài giải thích:
1. Tâu Ðại vương, nghe lão nói điều này
Chẳng phải là vô cớ lão về đây,
Ðời thường bảo: Mình không nên vượt quá
Người du sĩ đứng ngay trên
đường sá.
Khi nghe những lời này, vua thúc vương tượng quay lại với cái gậy nạm
ngọc của ngài và ngâm vần kệ thứ hai:
2. Ta đứng nghe, này Ðạo sĩ nói
ngay,
Cớ sao ngài cất bước đến nơi đây?
Ngài ao ước một đặc ân nào
đó,
Mà phải tìm, xin nói cho ta rõ.
Và câu chuyện của vua và vị Bà-la-môn hỏi
đáp lẫn nhau được kể lại trong các vần kệ sau đây:
Bà-la-môn:
3. Xin cho lão năm ngôi làng thượng
hạng,
Bảy trăm bò, tỳ nữ một trăm
nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ với ta cùng dòng dõi.
Quốc vương:
4. Ðạo sĩ ơi, ngài có điều sám hối
Thật hãi hùng khi phải thổ lộ ra,
Ngài có nhiều thần chú hoặc đạo bùa,
Hay ma quỷ sẵn sàng tuân mệnh lệnh?
Hoặc thỉnh cầu vì hầu ta chân chính?
Bà-la-môn:
5. Không ăn năn, chẳng thần chú, đạo bùa,
Không quỷ ma nào tuân lệnh của ta,
Không đòi thưởng vì công lao giúp
đỡ,
Song trước kia chúng ta đà gặp gỡ,
Ðây chính là sự thật phải trình ra.
Quốc vương:
6. Trẫm không sao nhớ nổi, thời gian qua,
Rằng trẫm đã tương phùng ngài thuở nọ,
Trẫm van ngài nói điều này cho rõ
Khi gặp nhau, nơi chốn, thuở xưa xa?
Bà-la-môn:
7. Trong thành đô mỹ lệ chúa Gan-dhà,
Tâu Chúa thượng, Tak-ka là chốn ở,
Ðêm tối đen như mực kia, tại đó
Lão và ngài cùng vụt tới chạm vai,
8. Khi chúng ta đang đứng đó, thưa ngài,
Cuộc trò chuyện bắt đầu đầy thân thiện,
Chỉ lần đó chúng ta cùng diện kiến,
Trước chẳng hề và sau đó cũng không.
Quốc vương:
9. Khi trí nhân đã gặp, hỡi La-môn,
Thiện nhân giữa đời không nên để mặc
Tình bạn xưa nay cố nhân đi khuất,
Chẳng vì đâu, làm việc cũ chẳng
quên!
10. Chính kẻ ngu chối bỏ việc xưa liền.
Và bỏ mặc tình người xưa chẳng nhớ
Những người ấy chúng có lần gặp gỡ;
Người ngu làm nhiều việc chẳng ra gì,
Chúng vong ân và chúng cứ quên đi.
11. Song chánh nhân chẳng hề quên quá khứ,
Tình bằng hữu, người quen, luôn gắn bó,
Việc nhỏ nhoi do bằng hữu làm nên
Cũng chẳng hề bị từ chối, lãng quên,
Chánh nhân tận cuối đời ghi ơn bạn.
12. Trẫm ban cố nhân năm làng thượng hạng,
Bảy trăm bò, nữ tỳ một trăm
nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ, với ngài cùng đẳng cấp.
Bà-la-môn:
13. Ðại vương ôi, khi thiện nhân hòa hợp,
Như trăng rằm ta thấy giữa sao trời,
Như ta đây cũng vậy, Chúa công ôi,
Vì ngài đã giữ lời xưa giao
ước.
Bồ tát liền tỏ thêm niềm quý trọng đối với
đạo sĩ kia.
*
Khi Bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại
này. Ngài bảo:
- Này các Tỳ kheo, đây không phải là
lần đầu Ta làm Ànanda thỏa nguyện với
các đặc ân, mà Ta
đã làm như vậy ngày xưa nữa.
Cùng các lời này, Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào thời ấy Ànanda là vị Bà-la-môn, và Ta chính là vua.
-ooOoo-
457. Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền thân Dhamma)
Ta hành chánh hạnh giữa trần gian...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta
(Ðề-bà-đạt-đa) bị nuốt vào lòng
đất như thế nào.
Tăng chúng tụ tập trong Chánh pháp đường đàm
luận:
- Này Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa sinh lòng
thù nghịch với đức Như Lai và
đã bị nuốt vào lòng
đất.
Bậc Ðạo Sư đi vào hỏi Tăng
chúng đang nói chuyện gì lúc ngồi ở đó.
Tăng chúng trình với Ngài. Ngài đáp:
- Này các Tỳ kheo, nay kẻ ấy bị nuốt vào lòng
đất vì đã
giáng một đòn chống lại quyền lực vinh
quang của Ta, song ngày xưa kẻ ấy đã
chống lại uy quyền của lẽ phải, nên đã
bị nuốt vào lòng đất và
đọa vào địa
ngục.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thời nọ, khi vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba-la-nại, Bồ tát
được sinh vào cõi dục giới thiên làm một
Thiên tử, có tên là Dhamma hay Chánh pháp, đồng
thời Ðề-bà-đạt-đa lại có tên là
Adhamma hay Tà pháp.
Vào ngày trai giới trăng tròn, về
buổi chiều khi cơm nước xong xuôi, dân chúng ngồi vui vẻ trước sân nhà mình
trong làng, ngoài phố hay kinh thành, Dhamma xuất hiện trước mặt quần chúng,
đứng vững trên không gian, cỡi chiếc
thiên xa của ngài và phục sức thiên y rực rỡ giữa hội chúng Thiên nữ, ngài
dạy bảo như sau:
- Ðừng đoạt mạng sống của mọi loài
hữu tình và tránh mười ác đạo, hãy làm
tròn phận sự phụng dưỡng cha mẹ, cùng tam nghiệp chân chánh (Chánh thân
nghiệp, chánh khẩu nghiệp, chánh ý nghiệp), nhờ thế các người sẽ
được tái sinh lên thiên giới và hưởng
mọi vinh quang tuyệt diệu.
Như vậy ngài khuyến cáo dân chúng hành trì Mười thiện
đạo, và ngài diễu quanh cõi Diêm-phù-đề
(Ấn Ðộ) một vòng thật uy nghiêm hướng về phía hữu. Nhưng Adhamma lại
dạy dân chúng:
- Hãy sát sinh các loài hữu tình.
Và như thế vị này đã xúi giục dân
chúng theo Mười ác đức và diễu quanh cõi
Diêm-phù-đề hướng về phía tả.
Lúc bấy giờ thiên xa của hai vị đối diện
nhau trên không gian, và đám tùy
tùng của hai vị hỏi nhau:
-Các ông là tùy tùng của ai? Và chúng đáp:
- Chúng ta là tùy tùng của Dhamma.
- Còn chúng ta là tùy tùng của Adhamma. Rồi chúng chiếm chỗ, làm cho lối
đi được chia hai ra. Nhưng Dhamma bảo Adhamma:
-Này Hiền giả, ngài là Adhamma và ta là Dhamma, ta
đi về hướng phải, vậy hãy quay xe qua
một bên nhường lối cho ta.
Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Ta hành chánh hạnh ở trần gian,
Danh tiếng người đời được tặng ban,
Ðạo sĩ, hiền nhân, khen ngợi mãi,
Phần ta, đường Chánh, được tôn sùng,
Ðường ta là đó, ta chân chánh,
Tà pháp, vậy ngài hãy tránh đường.
Ðây là các vần kệ tiếp theo:
Tà:
2-Trong chiếc hùng xa của pháp Tà,
Ngự trên ngôi báu ấy là ta,
Ðại hùng không kẻ làm kinh hãi,
Vì vậy ta không tự trước giờ
Nhường chỗ, sao nay đành nhượng bộ
Ðể cho Chánh pháp vượt xe qua?
Chánh:
3. Chánh pháp đã bày tỏ trước tiên,
Là Thần ưu thắng, bậc cao niên,
Tà pháp trẻ hơn vì đẻ muộn,
Hậu sinh nhường bước, lệnh bề trên!
Tà:
4. Dù ngài đức độ hoặc cầu xin,
Hoặc nếu công bình lẽ tự nhiên,
Ta quyết cũng không hề nhượng bộ,
Hôm nay ta dự đấu tranh liền,
Bất kỳ ai hễ giành ưu thắng,
Vị ấy được nhường chỗ trước tiên.
Chánh:
5. Khắp cõi gần xa, ta nổi danh
Anh hùng vô địch, đại quang vinh,
Trong ta, hình thái này mang đủ
Tất cả công năng kết hợp thành,
Tà pháp này, ta là Chánh pháp,
Làm sao ngài chiến thắng phần mình?
Tà:
6. Nhờ sắt, mà vàng được đập ra,
Lấy vàng đập sắt, thấy bao giờ?
Nếu Tà đánh Chánh mà Tà thắng,
Sắt đẹp như vàng chẳng kém thua.
Chánh:
7. Nếu ngài chiến đấu thật hùng
cường,
Lời nói ngài dẫu chẳng thiện chơn,
Ta sẽ thứ tha lời ác ấy,
Và dù không muốn, phải nhường đường.
Hai vị ngâm sáu vần kệ trên để đối đáp lẫn
nhau. Nhưng vừa lúc Bồ tát ngâm vần kệ này, Adhamma không thể nào
đứng trên xe
được nữa, mà nhào
đầu xuống đất đang há miệng để nuốt vị ấy liền,
và vị ấy tái sinh vào địa ngục.
*
Ðức Thế Tôn vừa nhận thấy việc này xảy ra, Ngài liền ngâm các vần kệ cuối
cùng phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài:
8. Lời ấy vừa nghe tự cõi cao,
Pháp Tà kia đã ngã lăn
nhào,
Kinh hoàng số phận cho Tà pháp,
Dù muốn, ta không đánh trận nào.
9. Vậy pháp Tà khiêu chiến bạo hung,
Bại vì Ðại sĩ lượng khoan dung,
Chết vì bị nuốt vào lòng đất,
Bậc Chánh chân an lạc, đại hùng,
Bảo vệ cho mình bằng chánh lý,
Ngự lên xa giá vội đằng vân.
10. Ở nhà ai chẳng kính song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Từ đây kẻ ở chốn phàm trần
Thẳng vào địa ngục ngay, nào khác
Tà pháp kia nhào xuống ngã lăn.
11. Ở nhà ai kính trọng song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Cõi Thiên thẳng tiến tự phàm trần,
Như ngài Chánh pháp trên xa giá
Ði đến cung trời của thiện nhân.
*
Khi Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:
- Này các Tỳ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa
đã tấn công Ta và đã bị nuốt vào
lòng đất.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào thời ấy, Ðề-bà-đạt-đa là
Adhamma (Tà pháp), đám tùy tùng của Tà
pháp này là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, còn
ta là Dhamma (Chánh pháp) và các đệ tử của đức
Phật là đám tùy tùng của Dhamma
vậy.
-ooOoo-
458. Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền thân Udaya)
Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn...,
Chuyện này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo thối
thất.
Trường hợp này sẽ được giải thích trong Tiền
Thân Kusa (số 531 tập VI). Bậc Ðạo Sư hỏi người này:
- Này Tỳ kheo, có đúng là ông thối thất như Tăng
chúng bảo chăng?
Người ấy đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Ngài nói:
- Này Tỳ kheo, tại sao ông lại thối thất trong Giáo pháp như Giáo pháp
của Ta đưa đến giải thoát, mà tất cả chỉ
vì tham dục?
Các bậc trí nhân ngày xưa, từng làm vua tại Surundha, một kinh thành phồn
thịnh rộng mười hai dặm mỗi bề, dù suốt cả bảy trăm
năm sống cùng phòng với một nữ nhân diễm lệ như Thiên nữ, cũng không
hề bị lôi cuốn vào dục vọng, thậm chí cũng chẳng bao giờ
đưa mắt nhìn nàng với lòng ham muốn cả.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, khi vua Kàsi đang trị vì
quốc độ Kàsi, ỏ kinh thành Surundha,
ngài không có con cái gì cả. Vì thế ngài ra lệnh cho các vương phi cầu tự.
Bấy giờ Bồ tát từ cõi Phạm thiên xuống nhập vào mẫu thai của chánh hậu. Và
do ngài sinh ra đời làm vui lòng
đại chúng nên
được đặt tên là Udayabhadda, tức Thiện
Lai. Vào lúc vương nhi biết đi chập chững, thì
một người khác xuất hiện ở đời này từ
cõi Phạm thiên xuống nhập mẫu thai làm công chúa của một bà vương phi khác
và nàng cũng được đặt cùng tên ấy
Udayabhaddà.
Khi thái tử đến tuổi trưởng thành,
chàng tinh thông mọi ngành học thuật, và hơn nữa, chàng trong sáng
đến độ chàng không biết gì về các hành
động xác thịt, ngay cả trong các giấc mơ, tâm
chàng cũng không hướng đến ác dục. Vua
cha ước mong chàng cũng không lên ngôi báu với lễ quán
đảnh phong vương huy hoàng, và muốn diễn
kịch để chàng giải trí, nên ngài ra lệnh
ngay. Nhưng Bồ tát đáp:
- Con không thiết ngai vàng, lòng con không hướng về ác dục.
Chàng cứ bị nài ép mãi, nhưng chàng đáp lại
bằng cách bảo tạc một tượng nữ nhân bằng vàng ròng, rồi trình lên
song thân với lời tâu:
- Khi nào hoàng nhi tìm được một nữ nhân như
vậy, hoàng nhi sẽ nhận ngôi báu.
Quần thần đem bức tượng vàng
đi khắp cõi Diêm-phù-đề,
nhưng họ không tìm ra nữ nhân nào giống như vậy cả, cuối cùng họ
trang điểm cho nàng Udayabhadà thật lộng
lẫy rồi đưa nàng ra so với bức tượng,
dung sắc nàng còn vượt xa khi nàng đứng cạnh
nó. Thế là quần thần đem gả nàng
cho Bồ tát làm vương phi, dù cả hai vị đều
không muốn, vì nàng chính là công chúa Udayabhaddà, em ruột cùng cha
khác mẹ với ngài, rồi quần thần lại làm lễ quán
đảnh phong vương cho ngài.
Cả hai vị cùng nhau sống một cuộc đời thanh
tịnh, không vướng dục tình. Theo thời gian, khi song thân qua
đời, Bồ-tát trị vì vương quốc. Hai vị ở
chung phòng, nhưng từ bỏ dục vọng, đến độ không
bao giờ nhìn nhau với vẻ ham muốn. Không những thế, hai vị còn ước
nguyền rằng, nếu một trong hai vị từ trần trước, thì sẽ trở lại gặp vị kia
từ cõi mới tái sinh, để báo tin: "Ta đã
tái sinh ở nơi kia".
Thời bấy giờ lúc làm lễ quán đảnh, Bồ-tát
sống bảy trăm năm rồi từ trần. Vì không có vua nào nối ngôi, nên có
lệnh của tiên đế Udayabhadda ban bố rằng triều
đình phải lo trị nước. Bồ-tát đã
trở thành Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ trên cõi Trời ba mươi ba, và do cảnh
vinh quang này quá huy hoàng, nên ngài không nhớ
đến đời trước trong vòng bảy ngày. Thế
là sau bảy trăm năm theo ước tính của loài
người, ngài nhớ lại và tự nhủ: "Ta muốn trở về gặp công chúa Udayabhaddà và
sẽ thử lòng nàng bằng vàng bạc quý, rồi rống lên tiếng rống sư tử, ta sẽ
thuyết giáo, như thế là ta thành tựu lời nguyện ước xưa".
Vào thời ấy, chuyện kể rằng, đời sống con
người kéo dài được mười ngàn năm.
Bấy giờ, vào ban đêm cửa cung
khóa chặt, quân canh đã
được bố trí cẩn mật, và công chúa
đang ngồi yên lặng một mình trong cung
điện nguy nga ở lầu thượng, suy tư về công hạnh
của nàng. Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ cầm một chiếc dĩa vàng
đựng đầy tiền vàng và xuất hiện trong
khuê phòng trước mặt nàng, rồi đứng ra một bên.
Ngài bắt đầu ngâm vần kệ thứ nhất với nàng:
1. Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn,
Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,
Diễm kiều, trông tựa như Thiên nữ,
Xin được đêm nay ở với nàng.
Công chúa đáp lời này qua hai vần kệ
sau:
2. Thành này tường bọc, lũy đào
sâu,
Việc đến gần đây khó biết bao,
Trong lúc tháp cao và lũy rộng,
Canh phòng đoàn kết với cung
đao.
3. Chẳng bầy niên thiếu, bậc anh hùng
Có thế vào đây được dễ dàng,
Hãy nói, việc gì là có sự
Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung?
Sau đó Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ
thứ tư:
4. Ðại quý là Ta, hỡi tố nga,
Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,
Ban ta ân huệ nàng, nương tử,
Ðây dĩa vàng, xin nhận của ta.
Nghe thế, công chúa liền ngâm vần kệ thứ năm:
5. Từ thuở Thiện Lai vĩnh biệt trần,
Ta không đòi, dẫu quý hay thần,
Hoặc người ở cạnh, này Thiên tử,
Ðừng đến nữa đây, chớ ở gần.
Nghe giọng sư tử hống của nàng, Thiên chủ không còn
đứng lại nữa, mà làm ra vẻ giã từ nàng
rồi lập tức biến mất. Hôm sau cũng vào giờ ấy, ngài cầm cái chén bạc
đựng đầy tiền vàng và
đến nói với nàng qua vần kệ thứ sáu:
6. Cực lạc cùng nhau biết rõ rành,
Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi tình,
Khiến người đời phạm bao điều ác,
Ôi quý nương, nàng chớ vội khinh!
Chén bạc, hãy nhìn, ta kính tặng,
Hỡi nàng, cười mỉm giá khuynh thành.
Lúc ấy công chúa suy nghĩ: "Nếu ta cứ để vị
kia nói mãi chuyện nhảm nhí, y sẽ đến hoài.
Vậy ta không nói gì nữa với y". Thế là nàng không nói thêm lời nào. Ðế Thích
Thiên chủ thấy nàng không có gì để nói nữa, nên
biến mất từ chỗ đứng.
Ngày kế tiếp cũng vào giờ ấy, ngài cầm chén sắt
đựng đầy tiền vàng và bảo:
- Thưa công nương, nếu nàng ban cho ta tình yêu của nàng, ta sẽ tặng nàng
chén sắt đầy vàng này.
Khi trông thấy ngài, công chúa ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Nam nhi mong tán tỉnh hồng quần,
Ðem tặng vàng kia cứ mãi tăng,
Cho đến khi nàng chìu thỏa ý,
Nhưng ta xét cách của Thiên thần
Nơi ngài khác hẳn: nay ngài đến,
Tặng vật xem ra cứ giảm dần.
Khi nghe những lời này, bậc Ðại Sĩ đáp:
- Thưa công nương, ta là một kẻ đi buôn rất
thận trọng. Ta không phung phí của cải vô ích đâu. Nếu nàng tăng
dần vẻ xuân sắc, ta sẽ tăng số tặng vật cho nàng, nhưng sắc
đẹp của nàng
đang tàn tạ dần, vì thế ta giảm dần số
tặng vật đó thôi.
Nói xong ngài ngâm ba vần kệ:
8. Ôi mỹ nhân, xuân sắc tàn phai,
Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,
Hôm nay nàng phải già hơn trước,
Nên số vàng ta tặng giảm hoài.
9. Vậy thưa nàng nữ chúa huy hoàng,
Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,
Trong lúc ngày đêm qua thấm thoắt,
Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn.
10. Song hỡi công nương trí tuyệt trần,
Nếu như nàng thuận ý bằng lòng,
Giữ gìn Thánh đạo và thanh tịnh,
Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần.
Ngay sau đó công chúa ngâm một vần kệ khác:
11. Chư Thiên chẳng giống các người trần,
Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,
Thiên chúng làm sao không thể xác?
Ðiều này, Ðại quý nói cho cùng.
Lúc ấy, Thiên chủ giải thích vấn đề này
qua một vần kệ nữa:
12. Thiên chúng không như người thế gian,
Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,
Mai đây và mãi về sau nữa,
Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng.
Khi nàng nghe nói dung sắc trên thiên giới, nàng hỏi con
đường lên
đó qua một vần kệ khác:
13. Ðiều gì làm khiếp sợ quần sinh,
Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,
Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,
Xin ngài giải thích thật phân minh
Làm sao đi hướng về Thiên giới,
Nơi ấy chẳng còn phải hãi kinh.
Kế đó Thiên chủ giải thích vấn
đề trong một vần kệ nữa:
14. Ai khéo hộ trì khẩu, ý, căn,
Chăng ưa làm ác nghiệp về thân,
Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,
Ban phát rộng lòng, tín chánh chân,
Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ý,
Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng.
Khi công chúa nghe lời ngài xong, nàng cảm tạ ngài qua một vần kệ khác:
15. Giống như bà mẹ, giống như cha,
Ðại lực thần đang giáo hóa ta,
Hỡi Ðại thần oai hùng mỹ diệu,
Ngài là ai đó, nói ngay ra.
Liền đó Bồ-tát ngâm kệ:
16. Ta chính Thiện Lai, hỡi mỹ nhân,
Vì lời ước hẹn, đến bên nàng,
Giờ đây đã nói, ta từ giã,
Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng!
Công chúa thở dài bảo:
- Ôi Chúa thượng, ngài chính là Ðại vương Udayabhadda ư?
Rồi nàng nức nở khóc, nước mắt tuôn như suối chảy:
- Vắng bóng Chúa thượng, thần thiếp không thể nào sống
được. Xin Chúa thượng dạy bảo thần thiếp cách nào
thiếp có thể sống cùng Chúa thượng mãi mãi!
Nói xong nàng lại ngâm kệ khác:
17. Nếu Ðại vương là chúa Thiện Lai,
Ðến đây vì nguyện ước, không sai,
Thì xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,
Ðể sống cùng nhau mãi mãi hoài.
Tiếp theo ngài ngâm bốn vần kệ để giáo hóa nàng:
18. Thoáng chốc, xuân thì vụt quá nhanh,
Ðời không bền vững, mọi loài sinh,
Chết rồi, sống lại đời sau nữa,
Thối nát, thân này thật mỏng manh.
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tiến lên, vững bước, giữ tâm thành.
19. Nếu cả trần gian, mọi bạc vàng
Thuộc quyền cai trị một anh quân,
Thánh nhân còn vượt xa vua ấy
Trong cuộc thi đua giữa cõi trần,
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tín tâm giữ vững, bước lên đàng.
20. Song thân cùng quyến thuộc, anh em,
Và vợ (có tiền lại kết duyên),
Tất cả đều ra đi lũ lượt,
Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,
Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,
Giữ tín tâm bền vững, bước lên.
21. Thân kia, hãy nhớ, sẽ làm thành
Thực phẩm cho nhiều loại chúng sinh,
Hoan lạc cũng như niềm khổ não
Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,
Ðời này nối tiếp đời sau mãi,
Vậy chớ buông lung, giữ tín thành.
Bậc Ðại Sĩ đã thuyết Pháp như vậy.
Công chúa rất hoan hỷ với cách giáo hóa trên, và nàng cảm tạ ngài với vần kệ
cuối cùng:
22. Thiên thần này nói ngọt ngào,
Thế nhân thấy rõ ngắn sao cuộc đời,
Ðời buồn, ngắn ngủi thế thôi,
Ði theo đời sống, không rời sầu bi.
Giã từ trần thế, ta đi,
Từ kinh đô xứ Ca-thi lên đàng.
Sau khi thuyết giáo như vậy cho nàng xong, Bồ-tát trở lại cõi của ngài.
Ngày kế tiếp, công chúa liền giao việc trị nước cho các triều thần, còn
nàng trở thành ẩn sĩ ngay trong kinh thành ấy, ở hoa viên
đầy an lạc. Tại đó, nàng vẫn sống theo
chánh hạnh cho đến khi mạng chung, nàng
được tái sinh ở cõi Trời Ba mươi ba, làm
thị nữ của Bồ-tát.
*
Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Sự Thật.
Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất
đã được an
trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy, thân mẫu La-hầu-la là công chúa kia và Ðế Thích Thiên chủ
chính là Ta.
-ooOoo-
459. Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền thân Paniya)
Ngụm nước kia còn là của bạn mình..,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự
điều phục các ác dục.
Ta biết rằng có một thời, năm trăm dân chúng
thành Xá-vệ là gia chủ cùng thân hữu của
đức Như Lai đã đi nghe Pháp và
xuất gia thọ giới Tỷ-kheo. Trong khi sống ở Tinh xá trên con Ðường-lát-vàng
kia, vào ban đêm các vị chìm
đắm trong dục tưởng (các chi tiết cũng được
biết như trong chuyện trước). Theo lệnh của đức Thế Tôn, Tôn giả
Ànanda liền tập họp Tăng chúng lại. Bậc
Ðạo Sư ngồi xuống ở chỗ đã
được soạn sẵn và không cần hỏi Tăng
chúng: "Có phải các ông chìm đắm trong
dục tưởng chăng?", mà Ngài dạy bảo Tăng
chúng bằng những lời tổng quát:
- Này các Tỷ-kheo, không có việc gì được xem
là lỗi lầm nhỏ nhặt cả. Một Tỷ-kheo phải chế ngự tất cả các dục mỗi
khi chúng khởi lên. Các bậc trí nhân thuở xưa, trước khi
đức Phật ra đời, đã biết
điều phục ác dục và
đạt đến trí tuệ của một vị Ðộc Giác
Phật.
Cùng với lời dạy này, Ngài kể cho Tăng chúng
nghe một chuyện quá khứ.
*
Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, có hai người bạn
trong một làng kia ở quốc độ Kàsi. Hai
người ấy, ra đồng mang theo hai bình
nước uống, họ đặt khuất bên
đường trong lúc cuốc đất, mỗi khi khát nước lại
đến đó uống. Một trong hai người ấy, khi uống nước, đã
để dành nước trong bình của mình và uống
nước trong bình kẻ kia. Buổi chiều khi ra khỏi rừng tắm rửa xong, kẻ ấy
đứng suy nghĩ: "Ta có phạm lỗi gì hôm
nay, hoặc do thân căn, hoặc do căn nào
khác chăng?" Lúc đó, ông nhớ lại đã uống
ngụm nước trộm như thế nào, và buồn phiền kêu lên:
- Nếu sự thèm khát này khởi lên trong ta, nó sẽ khiến ta phải tái sinh
vào cõi dữ. Vậy ta quyết nhiếp phục lỗi lầm.
Vì vậy do chuyện uống ngụm nước trộm này mà ông dần dần
đạt được thiền định và chứng
đắc Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật
(Pacceka-Buddha) và ông đứng đấy suy nghĩ về
Thắng trí của mình vừa đạt được.
Bấy giờ người kia sau khi tắm xong bảo:
- Này Hiền hữu, về nhà đi.
Ông đáp:
- Hiền hữu về nhà đi, nhà cửa chẳng
có ý nghĩa gì đối với ta nữa! Ta là một
vị Ðộc Giác Phật đây!
- Ô kìa, Ðộc Giác Phật giống như Hiền hữu ư?
- Thế thì các vị ấy ra sao?
- Các vị ấy có tóc dài cỡ hai ngón tay, đắp
y vàng, sống ở động Nandamùla tận
trên vùng Tuyết Sơn.
Người kia vỗ vào đầu; ngay lập tức các dấu
vết của một người thế tục biến mất, một cặp y đỏ đắp quanh mình vị
ấy, một dây đai màu vàng như lằn chớp
cột quanh thắt lưng, tấm thượng y màu son đỏ
vắt qua một bên vai, một y phấn tảo màu
đen sẫm như đám mây trời bão nằm vắt qua một vai kia, một bình bát
bằng đất màu vàng nâu treo lủng lẳng
trên vai tả, ông đứng vững trên không,
sau khi thuyết Pháp xong liền bay lên cao và không hề hạ xuống, cho
đến khi bay tận hang núi Nandamùla.
Một người khác cũng sống trong một làng ở Kàsi, là một
địa chủ, đang ngồi trong tiệm tạp hóa thì
thấy một người nọ dẫn vợ đi tới. Vừa thấy nàng
là một mỹ nhân dung sắc tuyệt thế, người kia lỡ phá giới
đức và liếc nhìn nàng. Sau
đó ông suy nghĩ: "Nếu tham dục này tăng
trưởng, nó sẽ khiến ta đọa vào cõi ác thú". Ông vừa tu tập tâm vừa
làm phát khởi thiền định và
đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật,
rồi đứng trên không và thuyết Pháp, về
sau cũng bay đến động Nandamùla.
Lại có hai cha con là dân làng Kàsi, cùng du hành với nhau. Tại lối
đi vào rừng có nhiều kẻ cướp trú ẩn.
Những quân cướp này, nếu bắt được cả hai cha
con, thì sẽ giữ người con lại và bắt người cha
đi về, bảo:
- Hãy đem tiền đến chuộc con trai ông.
Hoặc nếu là hai anh em, chúng sẽ giữ người em lại và bắt người anh
đi về, nếu là hai thầy trò, chúng giữ
ông thầy lại và bắt học trò đi về, người học trò
muốn học hành sẽ đem tiền đến và chúng
sẽ thả ông thầy.
Lúc bấy giờ, khi hai cha con này thấy bọn cướp
đang nằm chờ, người cha bảo:
- Con đừng gọi ta là cha, ta cũng
không gọi con là con đấy.
Hai người đồng ý như vậy, nên khi
quân cướp đi đến, chúng hỏi hai người là
gì đối với nhau, hai người đáp:
- Chúng ta chẳng là gì đối với nhau cả.
Rồi họ nói dối một điều đã nghĩ sẵn
từ trước. Khi hai người ra khỏi rừng và nghỉ ngơi sau khi
đã tắm rửa buổi tối xong, người con xem
xét lại đức hạnh của mình và nhớ lời nói
dối kia, nghĩ thầm: "Lỗi lầm này nếu tăng
trưởng sẽ nhận chìm ta vào cõi ác. Ta quyết khắc phục lỗi lầm". Sau
đó người ấy tu tập thiền định, và
đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật,
rồi đứng trên không và thuyết Pháp cho
cha, xong cũng đi về hang Nandamùla.
Trong một làng ở Kàsi cũng có một địa chủ ra
lệnh cấm sát sinh. Bấy giờ đến lúc người ta thường dâng lễ tế thần, một đám
đông tụ tập lại và nói:
- Thưa chủ nhân, đây là lúc tế lễ,
xin cho chúng tôi giết dê, lợn và những súc vật khác
để dâng lễ cúng thần linh.
Ông bảo:
- Cứ làm như các anh đã làm trước
kia.
Dân làng liền làm một việc đại sát sinh. Khi
người ấy thấy một số lớn cá thịt, liền suy nghĩ: "Người ta đã giết
hết các sinh vật này, tất cả cũng chỉ vì lời nói của ta mà thôi!". Ông
ăn năn hối hận, và khi
đứng bên cửa sổ, ông tu tập thiền
định và đạt
Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi
đứng trên không thuyết pháp xong, cũng
đi về hang Nandamùla.
Một người địa chủ khác sống ở quốc độ Kàsi,
cấm bán rượu mạnh. Một đám đông đến kêu
gào:
- Thưa chủ nhân, chúng tôi phải làm sao? Ðây là tửu hội
được yêu chuộng lâu
đời rồi mà!
Người ấy đáp:
- Cứ làm như các anh vẫn làm trước kia.
Dân chúng tổ chức đại hội, uống rượu mạnh và
gây sự lẫn nhau, kẻ gãy tay chân, người vỡ đầu
sứt tai và phải chịu nhiều hình phạt về chuyện này. Người
địa chủ thấy vậy, nghĩ thầm: "Nếu ta không cho
phép chuyện này, thì dân chúng đã
không phải chịu khổ sở như vậy". Ông cảm thấy
ăn năn dù chỉ một việc nhỏ nhặt kia. Sau
đó ông tu tập thiền định, và đạt Thắng
trí của một vị Ðộc Giác Phật, đứng trên
không thuyết Pháp, khuyên bảo dân chúng phải tỉnh giác, rồi ông cũng
đi đến hang Nandamùla.
Một thời gian sau, năm vị Ðộc Giác
Phật đều giáng lâm tại cổng thành
Ba-la-nại, để tìm
đồ ăn bố thí. Thượng y và hạ y của các
Ngài đều được đắp gọn ghẽ, với phong thái ung
dung thanh thoát, các Ngài đi khất thực
đến tận cung môn của vua. Rất hoan hỷ khi ngắm các vị ấy, ngài rước
các vị ấy vào cung, rửa chân các vị và xoa dầu thơm, dâng lên các vị
đủ món ăn thượng vị loại cứng và loại
mềm, rồi ngài ngồi xuống một bên, và nói với các vị như sau:
- Thưa các Tôn giả, các Ngài đang còn
thanh xuân mà đã sống
đời tu hành, thật vi diệu biết bao! Ở
tuổi này các Ngài đã là ẩn sĩ, và các
Ngài đã nhìn thấy nỗi khổ
đau của ác dục. Nguyên nhân nào
đã đưa đến
hành động của các Ngài?
Các ngài đáp lại:
1. Ngụm nước kia là của bạn mình,
Ta đà uống trộm, dẫu thân tình,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Phát nguyện về sau sẽ trở thành
Ẩn sĩ, giã từ đời thế tục,
Vì e tái phạm tội phần mình.
2. Vợ của người kia, lỡ liếc nhìn,
Trong lòng ta dục vọng bừng lên,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Ta quyết về sau tự phát nguyền
Từ giã thế gian làm ẩn sĩ,
Vì e tái phạm lỗi lầm trên.
3. Trộm cướp trong rừng bắt phụ thân,
Ta đành nói với bọn kia rằng:
"Người này chẳng phải là thân phụ",
Ta biết ngay là nói dối gian,
Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,
Về sau ta ước nguyện tu thân.. (như trên)
4. Người làm tửu hội sát sinh linh,
Chẳng phải là không thuận ý mình,
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm..
Về sau ta đã phát tâm thành.. (như
trên)
5. Cả bọn người kia một thuở xưa,
Cùng nhau chè chén thật say sưa,
Ðánh nhau gây sự nhiều người khổ,
Chẳng phải là không thuận ý ta.
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm,
Về sau ta ước nguyện ly gia,
Giã từ thế tục, làm tu sĩ,
Vị sợ ta còn phạm lỗi xưa.
Các Ngài ngâm lần lượt các vần kệ trên.
Khi vua đã nghe xong lời giải thích
của mỗi vị Phật, ngài nói lời tán thán:
- Thưa các Tôn giả, việc tu hành của các Ngài thật xứng
đáng lắm thay.
Vua rất hoan hỷ về bài thuyết Pháp của các vị này. Ngài ban tặng các y
trong, y ngoài cho các vị, cùng thuốc men xong xuôi, liền
để các vị Ðộc Giác Phật ra
đi. Các vị ấy cảm tạ ngài rồi trở về nơi
đã xuất hành.
Sau đó vua sinh chán ghét các dục lạc, ngài
ly tham, ngài vẫn dùng các món cao lương mỹ vị, song ngài không nói chuyện
với bọn cung nhân, cũng không nhìn đến chúng.
Nhàm chán khởi lên trong tâm, ngài lui về cung thất nguy nga của ngài
ngồi đó nhìn thẳng vào bức tường trắng
trước mặt cho đến khi ngài nhập thiền
định, cảm nhận trong tâm ngài lạc thọ
của thiền định. Mải mê trong nỗi hân
hoan, ngài ngâm kệ chê bai tham dục:
6. Ta quyết ly tham, diệt dục tham,
Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!
Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước
Ta đã đi
theo chuyện lỗi lầm,
Lạc thú như vầy ta đã gặp,
Ðây là lạc thú của tham tâm.
Lúc ấy bà chánh hậu của ngài suy nghĩ thầm: "Ðức vua
đã nghe lời thuyết Pháp của các vị Ðộc
Giác Phật, và nay ngài tự giam mình với nỗi chán chường trong cung
điện thật nguy nga của ngài. Ta phải chăm
sóc ngài mới được". Vì thế bà
đến cửa cung thất của vua, và
đứng ở cửa, nghe rõ những lời cảm hứng
đầy hoan lạc của ngài tỏ ý chê bai tham
dục, bà bảo:
- Tâu Hoàng thượng, ngài vừa chê bai tham dục! Song chẳng có lạc thú nào
bằng lạc thú của tham dục êm ái cả.
Sau đó, để tán thán tham dục, bà ngâm
một vần kệ khác:
7. Cựu lạc dịu êm thật khó lường,
Thú nào hơn được thú yêu thương,
Ai theo lạc thú này sau đạt
Hạnh phúc trên cao cõi ngọc đường!
Nghe vậy vua đáp:
- Này ác nữ nhân! Thật quái lạ, bà nói gì thế? Dục lạc phát xuất từ
đâu đấy? Có nhiều khổ đau tiếp theo sau để trả
giá cho dục lạc.
Cùng với các lời này, ngài ngâm các vần kệ cuối
để tỏ lòng chê bai tham dục:
8. Tham dục hôi tanh, thật đáng nhờm,
Chẳng còn khổ não khốc tàn hơn,
Ai theo ác dục này sau phải
Gặt lấy sầu bị địa ngục môn.
9. Thèm muốn khát khao mãi chẳng nguôi,
Còn hơn kiếm sắc khéo tay mài,
Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,
Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài.
10. Hố kia sâu đến cỡ thân người,
Than củi kia đang cháy đỏ tươi,
Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,
Dục tham còn độc hại hơn thôi.
11. Thuốc độc nào tàn hại tối đa,
Dầu nào nguy hiểm với thân ta,
Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,
Tham dục còn hơn chúng nữa mà.
Bậc Ðại Sĩ đã thuyết Pháp cho bà
chánh hậu như vậy. Sau đó ngài tập họp
triều thần lại và phán:
- Này các khanh, các khanh hãy cai trị vương quốc. Ta sắp từ giã thế tục.
Và ngay giữa tiếng khóc lóc kêu gào của quần chúng, ngài vụt lên cao, vừa
đứng vững trên không, vừa thuyết Pháp.
Rồi theo hướng gió ngài bay đến vùng
Tuyết Sơn cao xa nhất, ở một nơi đầy an lạc, ngài
dựng một am thất, tại đấy ngài sống
đời của một bậc hiền trí cho đến mạng chung, ngài
được sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nói thêm:
- Này các Tỷ-kheo, không có gì gọi là lỗi lầm nhỏ mọn cả, ngay
đến những lỗi nhỏ nhất cũng phải được người trí
điều phục.
Rồi Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc bài giảng, năm
trăm vị Tỷ-kheo đã được an trú vào
Thánh quả (A-la-hán).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc
Niết-bàn, mẹ của Ràhulà (La-hầu-la) là bà chánh hậu và Ta là vị vua
kia.
-ooOoo-
460. Chuyện Thái Tử Yuvanjana (Tiền thân
Yuvanjana)
Con xin đảnh lễ đấng
Quân vương..
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế của
Ngài.
Một ngày kia, các Tỷ-kheo tụ họp trong Chánh pháp
đường:
- Này Hiền hữu, một vị Tỷ-kheo bảo vị kia,
đấng Thập Lực trước kia hẳn có thể sống tại gia, có thể làm một vị
Chuyển luân Thánh vương ở giữa Ðại thế giới đầy
đủ báu vật, vinh quang với bốn Thần lực siêu phàm,
được đám vương tử vây quanh hơn ngàn vị.
Tuy thế, Ngài đã từ bỏ mọi cảnh vinh
quang ấy khi Ngài nhận thấy mối nguy hiểm nằm trong tham dục. Nửa
đêm, cùng với Channa (Xa-nặc), Ngài cỡi
vương mã Kanthaka (Kiền-trắc) của Ngài và ra
đi. Trên bờ sông Anomà, Dòng Sông Vẻ vang ấy, Ngài từ giã thế tục và
suốt sáu năm liền, Ngài sống khổ hạnh ép
xác, sau đó Ngài tự tu tập và chứng
đắc Chánh Ðẳng Giác.
Tăng chúng nói với nhau như vậy về công hạnh
của đức Phật. Bậc Ðạo Sư bước vào hỏi:
- Này các Tỷ-kheo, trong lúc ngồi đây, các
ông đang nói về vấn đề gì?
Tăng chúng thưa với Ngài. Bậc Ðạo Sư
bảo:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên
Như Lai làm đại sự xuất thế. Ngày xưa,
Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở vương quốc
Ba-la-nại rộng đến mười hai dặm.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Sabbadatta cai trị thành Ramma.
Kinh thành mà nay ta gọi là Ba-la-nại đã
được gọi là Sarundhana trong tiền thân
Udaya số 458, cũng là Sudassana trong tiền thân Cullasutasoma số 525, hay là
Brahmavaddhana trong tiền thân Sonandana số 532, và là Pupphavati trong tiền
thân Khandahàla số 542. Còn trong tiền thân Yuvanjana này, nó lại có tên là
thành Ramma. Như vậy tên đó thay đổi theo nhiều
hoàn cảnh.
Thời ấy vua Sabbadatta có một ngàn vương tử, và ngài phong chức phó vương
cho Thái tử Yuvanjana.
Một sáng sớm kia, thái tử ngự lên vương xa lộng lẫy của chàng trong quang
cảnh cực kỳ uy nghi, chàng nhàn du trong vườn thượng uyển. Khắp các
đỉnh cây, ngọn cỏ, đầu cành, trên các
mạng nhện giăng tơ qua các đầu ngọn lau, chàng
thấy các giọt sương lủng lẳng như vô số xâu chuỗi ngọc trai. Chàng hỏi:
- Này hiền hữu quản xa, cái gì đây?
- Tâu điện hạ, đây là chất lỏng rơi
xuống trong mùa lạnh, mà người ta gọi là sương mai.
Thái tử tiếp tục du ngoạn vui chơi trong ngự viên trọn ngày hôm
đó. Về chiều, khi chàng quay lại lối cũ,
chàng không còn thấy hạt sương nào nữa. Chàng hỏi:
- Này hiền hữu quản xa, những hạt sương đâu
rồi? Nay ta không còn thấy chúng nữa.
Vị kia đáp:
- Tâu điện hạ, khi mặt trời lên cao,
sương tan hết và chìm xuống đất.
Nghe vậy, thái tử thất vọng bảo:
- Ðời người ta cũng được tạo thành
chẳng khác gì các giọt sương mai trên ngọn cỏ. Ta cần phải thoát khỏi gánh
nặng bức bách của bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Ta phải từ giã song thân
và rời thế tục.
Như vậy là do nhân duyên các giọt sương mai, chàng nhận thức ba cõi sinh
hữu (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) như thể
đang ở trong ngọn lửa cháy bừng. Khi chàng về cung, chàng vào yết
kiến phụ vương trong Ðại pháp đình nguy
nga của ngài. Ðảnh lễ vua cha xong, chàng đứng
sang một bên và ngâm vần kệ đầu để xin
phép vua cha được rời thế tục:
1. Con xin đảnh lễ đấng quân vương,
Giữa ngự quan, bằng hữu, đại thần,
Hoàng thượng, con mong rời thế tục,
Xin hoàng thượng chẳng chối từ con.
Kế đó vua ngâm vần kệ thứ hai để khuyên
can chàng:
2. Con có mơ gì, hỡi Dũ-vân,
Cha ban tròn vẹn mọi cầu mong,
Nếu ai làm hại, cha che chở,
Con chớ làm tu sĩ ẩn thân.
Nghe thế, thái tử ngâm vần kệ thứ ba:
3. Chẳng có ai làm hại đến con,
Ước mơ con đạt được vuông tròn,
Song con muốn kiếm nơi an trú,
Mà tuổi già không phá mỏi mòn.
Bậc Ðạo Sư ngâm nửa vần kệ để giải thích vấn
đề này:
4. Thái tử tâu vầy với phụ vương,
Vua cha liền phán bảo cùng con:
Nửa vần kệ sau do đức vua ngâm:
"Ðừng rời thế tục, này vương tử,
Dân chúng kinh thành thảy khóc thương".
Vương tử lại đáp vần kệ này:
5. Ðại đế, đừng làm trẻ phải xa,
Cuộc đời không tục lụy phù hoa,
Con e say đắm nhiều tham dục
Sẽ hóa mồi ngon của tuổi già.
Khi nghe nói điều này, vua cha phân
vân do dự. Sau đó, mẫu hậu được tin:
- Tâu lệnh bà, thái tử đang xin pháp hoàng
thượng để xuất gia.
Bà hỏi:
- Ngươi nói gì thế?
Tin ấy khiến bà ngạt thở, liền ngự vào chiếc kiệu bằng vàng, bà bảo
đi nhanh đến đại pháp đường và ngâm vần
kệ thứ sáu:
6. Mẹ van con đó, hỡi con thân,
Và mẹ mong con phải ở gần,
Mẹ muốn gặp con hoài, thái tử,
Con đừng rời bỏ chốn phàm trần.
Khi nghe vậy, thái tử ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương,
Khi mặt trời lên rực ánh dương,
Cũng vậy là đời người thế tục,
Xin đừng cản bước, mẹ hiền thương.
Chàng nói vậy xong, bà vẫn van xin chàng mãi, với mục
đích ngăn cản chàng. Sau
đó, bậc Ðại sĩ tâu với vua cha vần kệ
thứ tám:
8. Bảo người khiêng kiệu, hãy cùng nâng!
Ðừng để mẹ già cứ cản ngăn
Con trẻ muốn đi vào Thánh đạo,
Xa đời sinh diệt, tấu Minh quân!
Khi vua cha nghe con nói, ngài phán:
- Này ái hậu, hãy lên kiệu về cung thường lạc của ta mà an nghỉ.
Trước lệnh của vua, đôi chân vương hậu quỵ
xuống, rồi bà được đám cung nữ vây quanh
dìu bà về. Khi bước vào hậu cung, đứng
nhìn về phía đại pháp đường, bà băn
khoăn hỏi tin tức con mình. Sai khi mẫu hậu
đi rồi, Bồ-tát lại xin phép vua cha lần nữa.
Vua không thể từ chối chàng được, liền
phán:
- Này thái tử thân yêu, cứ làm theo ý nguyện của con và từ bỏ thế tục.
Khi vừa nghe cha chấp thuận điều này,
tiểu hoàng đệ của Bồ-tát là vương tử
Yudhitthila, đến đảnh lễ vua cha, và
cũng xin phép theo đời xuất gia như thế, vua
liền bằng lòng ngay.
Cả hai vị vương tử từ biệt vua cha và giờ
đây, sau khi từ bỏ mọi dục lạc thế gian, hai vị ra đi từ đại pháp đường giữa
đại chúng. Chánh hậu nhìn theo bậc Ðại sĩ và than khóc:
- Thái tử đã từ giã thế tục, kinh
thành Ramma này sẽ trống rỗng.
Rồi bà ngâm đôi vần kệ:
9. Nhanh lên, cầu hạnh phúc, con ôi!
Ta chắc Ram-ma trống vắng thôi,
Ðại đế Sab-ba vừa chấp thuận,
Dũ-vân thái tử xuất gia rồi.
10. Thái tử, đại huynh giữa cả ngàn,
Hoàng nhi trông dáng thật như vàng,
Từ đây vương tử oai hùng
đã
Ðắp chiếc y vàng bỏ thế gian.
Bồ-tát không đi ngay lên
đường tu hành. Không, trước tiên ngài
đến từ biệt song thân, rồi cùng với tiểu
đệ là vương tử Yudhitthila, ngài rời
kinh thành và bảo đám đại chúng đang theo sau
hai vị phải quay về, còn hai vị tiến lên vùng Tuyết Sơn. Tại
đó, hai vị dựng lên một thảo am ở một
chốn đầy an lạc và hành trì cuộc
đời của bậc hiền nhân thanh tịnh tu tập thiền
định hướng thượng. Hai vị sống suốt đời bằng các củ, quả rừng rồi được sinh
lên cõi Phạm thiên.
Vấn đề này
được giải thích qua vần kệ cuối cùng
phát xuất từ trí tuệ tối thắng của đức Phật:
11. Vương tử Dũ-thi với Dũ-vân,
Sống đời thanh tịnh của hiền nhân,
Giã từ vương phụ và vương mẫu,
Chặt đứt làm
đôi xích tử thần.
*
Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp
thoại, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu
Như Lai từ bỏ vương quốc để đi theo đời tu hành, mà ngày xưa cũng
đã làm như thế.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thuở ấy, song thân trong hoàng tộc ngày nay là vương phụ và mẫu hậu,
Ànanda là tiểu đệ Yudhitthila và thái tử
Yuvanjana chính là Ta.
-ooOoo-
461. Chuyện Đại Vương
Dasaratha (Tiền thân Dasaratha)
Lak-kha hiền đệ lẫn Si-ta..,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một người
địa chủ có cha chết.
Khi người cha từ trần, lòng người ấy tràn ngập
đau buồn bỏ dở mọi công việc của mình,
ông chìm đắm trong nỗi u sầu. Vào một
buổi sáng, bậc Ðạo Sư nhìn xuống thế gian, nhận thấy người ấy
đã đến thời
kỳ thành thục để đắc quả Dự Lưu. Hôm ấy
khi đã đi khất thực tại Xá-vệ, và
thọ thực xong, Ngài bảo các Tỷ-kheo lui về, rồi Ngài
đem theo một Tỷ-kheo trẻ, đi đến nhà
người ấy. Ngài chào ông và nói với ông trong lúc Ngài ngồi
đó bằng những lời ngọt ngào như mật:
- Này cư sĩ, ông đang sầu muộn phải chăng?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Con đang buồn vì
cha con mất!
Bậc Ðạo Sư bảo:
- Này cư sĩ, các bậc trí nhân ngày xưa hiểu rõ Tám pháp của thế giới này
(được và mất, vinh và nhục, khen và chê,
lạc và khổ), nên khi cha mất, các ngài không thấy
đau buồn, dù chỉ mảy may.
Rồi theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, tại Ba-la-nại, một vị đại vương
mệnh danh Dasaratha, từ bỏ các ác đạo và cai trị theo Chánh pháp.
Trong số mười sáu ngàn cung phi, vị chánh hậu sinh hạ hai vương tử và một
công chúa; thái tử được đặt tên là Ràma
Pandita hay hiền giả Ràma. Vị thứ hai được đặt
tên Lakkhana hay Cát Tường và tên công chúa là Sità hay Thanh Lương.
Theo thời gian chánh hậu qua đời. Lúc bà
từ trần, vua bị nỗi đau buồn xâm chiếm trong
một thời gian, nhưng khi được triều thần thúc giục, ngài cử hành tang
lễ bà xong, lại phong cho một vi vương phi khác lên làm chánh hậu. Bà này
được vua hết sức sủng ái. Sau đó bà thụ
thai, được vua chăm sóc rất ân cần chu đáo và
sinh hạ một hoàng nam, đặt tên là vương
tử Bharata.
Vua rất yêu quý vương tử ấy và bảo chánh hậu:
- Này ái khanh, ta ban cho nàng một ân huệ, nàng hãy chọn
đi.
Bà nhận đặc ân trên, nhưng xin vua
cho bà hoãn lại sự lựa chọn ấy một thời gian. Khi vương nhi lên bảy tuổi, bà
đến yết kiến vua và tâu:
- Tâu thánh thượng, ngài đã hứa ban
một đặc ân cho vương tử, con của thần thiếp,
giờ đây xin ngài ban cho thần thiếp được
chăng?
- Ái khanh hãy chọn đi - Vua phán.
- Tâu thánh thượng - bà bảo - xin ban vương quốc này cho con thần thiếp.
Vua tỏ vẻ bất cần đối với bà:
- Lui ra ngay, này ác nữ nhân! Ngài phán một cách giận dữ. Hai vương nhi
của ta sáng rực như hai ngọn lửa hồng, ngươi muốn giết chúng
đi rồi đòi ngai vàng cho con của ngươi
đấy chăng?
Bà hoảng sợ chạy về cung thất nguy nga của bà, rồi các ngày tiếp theo,
lại cố xin vua đặc ân ấy mãi. Vua không
chấp thuận ban cho bà ân huệ ấy. Ngài nghĩ thầm: "Nữ nhân thường vong ân và
phản bội, ác phụ này có thể dùng chiếu chỉ giả mạo hay hối lộ gian trá
để sai giết các con ta". Vì vậy ngài cho
triệu hai con đến và kể hết mọi việc cho
con nghe, rồi phán:
- Này hai vương nhi, nếu các con ở đây, chắc
tai họa có thể xảy ra cho các con. Vậy hãy qua vương quốc bên cạnh
ta, hoặc vào rừng, rồi khi thân ta đã
được hỏa táng, hãy trở về thừa kế vương
vị thuộc về gia tộc của các con.
Sau đó ngài triệu các thầy tướng số
đến hỏi về thọ mạng của ngài. Họ tâu
rằng ngài có thể sống thêm mười hai năm nữa.
Rồi ngài bảo:
- Này các con, sau mười hai năm các con phải
trở về và giương cao chiếc lọng của hoàng gia.
Hai vương tử hứa lời xong và vừa đi khỏi
cung điện vừa khóc lóc. Công nương Sità nói:
- Ta cũng sẽ đi cùng hai vương huynh.
Nàng vào từ biệt phụ vương, vừa ra đi vừa
khóc lóc.
Cả ba anh em lên đường giữa đám đông dân
chúng. Ba vị bảo dân chúng lui về, rồi tiến lên cho
đến khi đi tận vùng Tuyết Sơn. Tại
đó, ở một nơi có nước chảy nhiều, và
thuận tiện để hái quả rừng, hai vị dựng am tu và
sống tại đó bằng quả cây.
Trí giả Lakkhana và Sità nói với trí giả Rama:
- Ðại hiền huynh ở địa vị thân phụ của chúng
em, vậy xin ở lại trong am và chúng em sẽ
đi hái quả về nuôi hiền huynh.
Chàng đồng ý. Từ đó hiền giả Rama ở tại nhà,
còn hai em cùng đi mang quả rừng về nuôi chàng.
Ba vị sống tại đó như vậy và nuôi
thân bằng quả rừng hoang dại, song vua Dasaratha héo mòn vì nhớ các con nên
từ trần vào năm thứ chín. Trong lúc cử hành
tang lễ vua, hoàng hậu ra lệnh giương chiếc lọng phong vương cho con trai bà
là vương tử Bharata. Nhưng triều thần bảo:
- Các vị vương tử chúa tể của chiếc lọng này
đang ở trong rừng.
Nên đại chúng không cho phép việc ấy. Vương
tử Bharata lại bảo:
- Ta sẽ đi tìm
đại vương huynh Ràma trong rừng về và
giương chiếc lọng phong vương cho ngài.
Mang theo năm biểu tượng của vương quyền
(bảo kiếm, lọng trắng, vương miện, đôi hài và cái quạt bằng lông
đuôi trâu rừng), chàng lên
đường cùng một
đoàn hộ tống
đầy đủ bốn đạo quân (voi, kỵ mã, xe, bộ
binh), đến nơi ba vị đang trú ngụ. Không xa đó
mấy, chàng ra lệnh cắm trại, rồi cùng vài triều thần
đi đến viếng vùng ẩn am, vào lúc hiền
giả Lakkhana cùng Sità đã
đi vào rừng.
Hiền giả Ràma đang ngồi ở cửa am, vô tư và
thanh thản như một pho tượng bằng vàng ròng vững chắc. Vị vương tử
đến gần ngài
đảnh lễ rồi đứng một bên, kể cho ngài
nghe mọi việc xảy ra ở vương quốc, vừa quỳ xuống chân ngài cùng
đám triều thần vừa òa lên khóc nức nở.
Hiền giả Ràma không buồn cũng không khóc, tâm trí ngài không còn xúc
động nữa.
Sau khi Bharata đã hết khóc và ngồi
xuống, mãi đến chiều hai vị kia mới trở về với
mớ quả rừng. Hiền giả Ràma suy nghĩ: "Hai em kia còn trẻ, chúng không
có trí tuệ tỉnh giác như ta. Nếu thình lình chúng
được nghe tin rằng phụ vương đã băng
hà, nỗi đau khổ sẽ lớn quá mức chúng
chịu đựng, ai biết được tim chúng chẳng tan nát ra? Vậy ta sẽ dụ chúng bước
xuống nước rồi tìm phương tiện tỏ bày sự thật. "Rồi vừa chỉ cho hai
em một nơi ở phía trước có nước, ngài bảo:
- Các em đi ra ngoài lâu quá, vậy
đây là cách
để các em hối lỗi. Hãy bước xuống vũng nước kia và
đứng đó.
Rồi ngài ngâm nửa vần kệ:
1. Lak-kha hiền đệ, lẫn Si-tà,
Bước xuống ao kia cả đấy mà.
Chỉ một lời thế là đủ, hai vị bước xuống
nước và đứng đó. Lát sau ngài báo
tin cho hai em bằng cách ngâm nửa vần kệ tiếp:
Vương tử Bha-ra vừa nói rõ
Da-sa đại đế đã băng
hà.
Khi hai vị nghe tin vương phụ đã băng
hà, liền ngất xỉu. Ngài lập lại tin ấy, hai vị lại ngất xỉu,
đến lần thứ ba, hai vị vẫn ngất đi. Các triều
thần liền đỡ họ dậy và đem họ ra khỏi
nước rồi đặt họ lên đất khô ráo. Khi hai
vị đã được an ủi khuyên lơn, cả
hai vẫn ngồi khóc lóc, kêu gào. Lúc ấy vương tử Bharata suy nghĩ: "Vương
huynh Lakkhana và vương tỷ Sità không thể nào ngăn
nỗi sầu bi khi nghe tin phụ vương từ trần, song hiền giả Ràma chẳng
than khóc kêu gào gì cả. Ta không biết nguyên nhân gì khiến vương huynh
chẳng sầu muộn. Ta sẽ hỏi xem".
Rồi chàng ngâm vần kệ thứ hai hỏi:
2. Cho biết, Rà-ma, bởi lực gì,
Gặp buồn, huynh lại chẳng sầu bi?
Lòng huynh sầu muộn không tràn ngập,
Dù được tin vương phụ mất đi!
Sau đó, Ràma giải thích lý do ngài
không cảm thấy sầu bi bằng cách đáp lời:
3. Khi chẳng làm sao giữ vật nào,
Dù cho người ấy có kêu gào,
Vậy nên người trí đầy thông tuệ
Phải tự hành mình bởi cớ sao?
4. Các đám thanh niên, kẻ trưởng
thành,
Người ngu cùng với bậc thông minh,
Giàu, nghèo, kết cuộc đều cầm chắc,
Phải chết từng người giữa chúng sinh.
5. Như ta đứng trước quả cây muồi,
Hay phát sinh niềm sợ quả rơi,
Cũng vậy phát sinh lòng sợ chết,
Với phàm nhân ở khắp muôn người.
6. Nhiều kẻ vừa trông thấy buổi mai,
Có khi chiều tối đã lìa
đời,
Và người được thấy khi chiều xuống,
Vừa mới sáng mai đã mất rồi.
7. Nếu người ngu dại hoặc cuồng điên,
Phúc lạc đổ dồn đến tự nhiên
Khi nó tự hành bằng nước mắt,
Bậc hiền làm giống kẻ kia liền.
8. Cách này đây nó tự hành mình,
Kẻ ấy gầy mòn lại tái xanh,
Nước mắt chẳng làm gì ích lợi,
Chẳng làm người chết được hồi sinh.
9. Như nhà cháy rực lửa đang hồng,
Ðược dập tắt liền với nước sông,
Người mạnh, người hiền, người có trí,
Những người hiểu giáo lý tinh thông,
Nỗi buồn đem rắc như bông vải,
Khi có cuồng phong thổi bão bùng.
10. Một khi sinh vật phải lìa trần,
Một kẻ khác liền được thọ thân,
Kết hợp với nhiều dây trói buộc,
Có cùng đặc tính một nguồn căn,
Phước phần mỗi kẻ đều tùy thuộc
Vào những dây liên hệ buộc ràng.
11. Người mạnh, tinh thông lý nhiệm mầu,
Quán sát đời này lẫn kiếp sau,
Hiểu bản chất này chung của chúng,
Cho nên chẳng bị nỗi buồn rầu,
Khiến cho lòng trí mình dao động,
Dù có khổ đau đến độ nào.
12. Vậy ta nên cống hiến song thân,
Phụng dưỡng các ngài phẩm vật dâng,
Ta sẽ bảo tồn di tích cũ,
Ấy là hành động của hiền nhân.
Trong các vần kệ này, ngài đã giải
thích tính Vô thường của vạn vật.
Khi hội chúng nghe Pháp thoại này của hiền giả Ràma làm sáng tỏ quy luật
Vô thường, họ đều tiêu tan mọi nỗi sầu
muộn. Sau đó vương tử Bharata kính chào
hiền giả Ràma và van xin ngài nhận lãnh vương quốc ở Ba-la-nại. Hiền giả
Ràma bảo:
- Này vương đệ, hãy
đem Lakkhana và Sità về với vương
đệ, và chính các vương
đệ hãy chăm
lo cai trị đất nước.
- Tâu chúa thượng, không được, xin chúa
thượng đảm nhận quốc độ.
- Này vương đệ, phụ vương đã ban lệnh
cho ta nhận lãnh quốc độ sau mười hai năm. Nếu
ta về bây giờ, ta sẽ không thi hành lệnh vua ban. Vậy ba năm
nữa ta sẽ về.
- Thế ai sẽ trị nước trong thời gian này?
- Chính vương đệ.
- Tiểu đệ không muốn thế.
- Vậy thì cho đến khi ta về, đôi hài
này sẽ làm việc đó.
Ràma bảo, rồi tháo đôi hài rơm ra,
ngài trao chúng cho vương đệ. Thế là ba
vị nhận lấy đôi hài, từ tạ vị hiền nhân
và lên đường về Ba-la-nại cùng với
đoàn người hộ tống
đông đảo.
Trong ba năm liền, đôi hài ấy cai trị
vương quốc. Triều thần đặt chúng lên
ngai, khi hội chúng xét xử một việc gì. Nếu vụ kiện
được xét xử sai, đôi hài sẽ
đập vào nhau. Và khi thấy dấu hiệu ấy,
sự việc kia được xét lại, đến khi việc phán xét
đúng đắn thì đôi hài nằm yên.
Khi thời gian ba năm ấy đã qua, bậc
trí nhân ra khỏi rừng, đi đến Ba-la-nại, và
vào ngự viên. Các vương tử nghe tin ngài đến,
liền cùng một đoàn hộ tống
đông đảo đi đến hoa viên, và phong Sità
lên làm chánh hậu, rồi làm lễ quán đảnh (rảy
nước thánh) cho cả hai. Khi cử hành lễ quán
đảnh như thế xong, bậc Ðại Sĩ
đứng trên chiếc vương xa lộng lẫy với
một đám đông vây quanh tiến vào kinh
thành, đi diễu quanh một vòng theo hướng
bên hữu, rồi ngự lên thượng lầu vĩ đại của cung
điện nguy nga Sucandaka kia, ngài trị nước tại
đó rất chân chánh trong mười sáu ngàn năm,
và về sau đi lên cộng trú cùng
hội chúng của chư Thiên.
Vần kệ này từ trí tuệ tối thắng giải thích phần kết thúc câu chuyện:
Trăm năm nhân với sáu mươi lần,
Một vạn năm thêm, chuyện kể rằng
Dũng sĩ Rà-ma lên ngự trị,
Cổ ngài ba ngấn, hạnh phúc tràn
*.
Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết các Sự Thật.
Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, người địa
chủ đã được an trú vào Sơ quả (Dự
Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, vua Suddhodana là vua Dasaratha, hoàng hậu Mahàmayà là mẫu
hậu, mẹ của Ràhula là Sità, Ànanda là Bharata và Ta chính là hiền giả Ràma.
-ooOoo-
462. Chuyện Vương Tử Samvara (Tiền thân Samvara)
Quả xưa thánh thượng đã tinh tường..,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo
không giữ tinh tấn.
Chúng ta biết đây là một thiện gia
nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết Pháp, người này từ bỏ thế
tục. Ðang khi hoàn thành mọi nhiệm vụ do các giáo sư và các vị giáo thọ
đề ra, người ấy vừa học thuộc lòng các
chi phần của Giới bổn Patimokka. Sau năm năm
ông nói:
- Khi nào ta đã
được chỉ dạy pháp môn nhập thiền định, ta sẽ vào
an trú trong rừng.
Sau đó, ông từ giã các giáo sư, tiến
vào một làng ở biên địa trong vương quốc
Kosala. Dân chúng hài lòng với cách ăn ở
của ông, nên ông dựng am lá ở đó được
cung phụng đầy đủ. Vào mùa mưa, với nhiệt tâm tinh cần, nỗ lực phấn
đấu, ông cố gắng đạt đến thiền định trong vòng
ba tháng, song chẳng đạt được chút gì từ
việc này cả. Sau đó ông suy nghĩ: "Quả thật ta
là người đầy nhiệt tâm đối với các thế
gian pháp nhất trong bốn hạng người được bậc Ðạo Sư thuyết giảng. Ta
còn làm gì nữa với đời sống trong rừng?" Rồi
ông lại nghĩ thầm: "Ta sẽ trở về Kỳ Viên, trong lúc chiêm ngưỡng hảo
tướng của đức Như Lai và nghe giọng Ngài
thuyết Pháp dịu ngọt như mật, ta sẽ sống cả đời
tại đó".
Thế là người ấy giảm sút lòng tinh tấn, và lên
đường lần hồi đi đến Kỳ Viên. Các giáo
sư và các vị giám hộ của ông, cùng bạn bè thân thuộc hỏi ông về nguyên nhân
trở về đây. Ông bảo cho các vị kia biết, đại
chúng đều chê trách ông về việc này và chất vấn ông tại sao lại làm
như vậy. Sau đó đại chúng dẫn ông đến yết kiến
bậc Ðại Sư.
- Này các Tỷ-kheo - bậc Ðạo sư hỏi - tại sao các ông dẫn một Tỷ-kheo
đến đây mà kẻ ấy không muốn?
Tăng chúng đáp:
- Tỷ-kheo này đã
đến đây vì ông
đã giảm sút tinh tấn.
- Việc này có đúng như họ nói với Ta chăng?
Bậc Ðạo sư hỏi.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Người ấy đáp.
Bậc Ðạo sư bảo:
- Này Tỷ-kheo, tại sao ông không còn tinh tấn nữa? Ðối với một người yếu
kém và lười biếng, không có quả vị cao cả nào dành cho y trong giáo pháp
này, y cũng không thể đạt Thánh quả. Chỉ những
kẻ nào nỗ lực tinh cần mới hoàn thành việc ấy
được. Ngày xưa ông
đầy đủ dũng lực, lại dễ dạy bảo và vì
thế dù là nhỏ tuổi nhất trong đám cả trăm vương
tử của vua Ba-la-nại, ông cũng đã chiếm
được chiếc lọng trắng nhờ tuân theo đúng lời giáo huấn của các bậc hiền
nhân.
Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, vị trẻ tuổi nhất
trong số một trăm vương tử của ngài tên
là vương tử Samvara. Vua giao mỗi con trai ngài cho một vị cận thần
đảm trách cùng với lời chỉ dẫn
để dạy mỗi người những môn học cần phải học
tập. Vị cận thần dạy cho vương tử Samavara là Bồ-tát, ngài thật sáng
suốt, học rộng, làm tròn nhiệm vụ như người cha
đối với vương tử kia. Trong khi mỗi vị vương tử được giáo dục như thế, các
cận thần thường đem họ đến để vua cha thăm viếng. Ngài ban cho mỗi vị
một thị trấn và truyền lệnh ra đi nhận chức.
Khi vương tử Samvara hoàn thành mọi việc học tập, chàng hỏi Bồ-tát:
- Thưa dưỡng phụ, nếu phụ vương đưa con đến
một thị trấn thì con phải làm gì?
Ngài đáp:
- Này con, khi con được ban cho một thị
trấn, con phải từ chối và tâu: "Tâu phụ vương, con là con út trong
nhà, nếu đi nữa thì sẽ không còn ai dưới
chân phụ vương, nên con muốn ở lại nơi đang
sống đây dưới chân phụ vương thôi".
Rồi một ngày kia, khi vương tử Samvara đến
đảnh lễ ngài và đang đứng một bên,
vua hỏi chàng:
- Này vương nhi, con đã học tập xong
chưa?
- Tâu phụ vương, đã xong.
- Vậy con hãy lựa một thị trấn.
- Tâu phụ vương, nếu vậy thì quanh mình phụ vương sẽ trống vắng, vương
nhi xin ở lại dưới chân phụ vương, chứ không đi
đâu khác.
Vua rất hoan hỷ và bằng lòng ngay.
Sau khi chàng ở lại bêm mình vua cha, chàng hỏi Bồ-tát:
- Thưa dưỡng phụ, con phải làm gì nữa?
Ngài bảo:
- Hãy xin vua cha một ngự viên cũ.
Vương tử đồng ý và xin một hoa viên
với số hoa quả trồng tại đó, chàng kết
bạn cùng những người thế lực trong kinh thành. Chàng lại hỏi phải làm gì
nữa. Bồ-tát bảo:
- Hãy xin vua cha cho phép phân phát tiền của khắp kinh thành.
Chàng làm theo và không hề bỏ quên một người nào, chàng phân phát tiền
của khắp kinh thành. Chàng lại hỏi ý kiến Bồ-tát và sau khi xin vua cha chấp
thuận, chàng phân phát thực phẩm trong cung
điện, bọn nô tỳ, bầy ngựa và quân lính, không sót nơi nào;
đối với sứ giả các nước ngoài
đến, chàng sắp
đặt nơi ăn chốn ở cho họ, chàng ấn
định thuế má cho các thương nhân, mọi việc gì
cần thu xếp, chàng đều làm một mình cả.
Như vậy theo lời khuyên của bậc Ðại sĩ, chàng kết bạn với mọi người, cả
những người sống trong gia đình cho
đến những người không gia đình, mọi
người trong kinh thành, các triều thần của quốc
độ này cho đến đám ngoại nhân, nhờ sức
thu hút của chàng kết hợp bằng hữu lại với chàng như thể một sợi dây
sắt: chàng được mọi người yêu mến thiết
thân.
Ðến khi vua lâm trọng bệnh trên vương sàng, triều thần hỏi ngài:
- Tâu chúa thượng, khi chúa thượng băng hà,
chúng thần sẽ trao chiếc lọng trắng cho ai?
Ngài đáp:
- Này các hiền khanh, các vương tử của ta
đều có quyền được chiếc lọng trắng, song các khanh hãy trao nó cho
người nào làm hài lòng các khanh.
Vì vậy sau khi ngài băng hà, và khi
lễ tang đã
được cử hành xong, vào ngày thứ bảy, quần thần tụ họp lại và bảo:
- Tiên vương ra lệnh cho chúng ta trao chiếc lọng trắng cho người nào làm
vừa lòng chúng ta. Vậy người mà tâm chúng ta hằng ao ước chính là vương tử
Samvara.
Cho nên đại chúng giương chiếc lọng trắng
che lên đầu chàng cùng với các
dây tua bằng vàng, và chàng được cả vương tộc
hộ tống lên ngôi.
Ðại vương Samvara tuân thủ lời khuyên răn
của Bồ-tát nên cai trị rất đúng Chánh
pháp.
Còn chín mươi chín vị vương tử hay tin vua cha từ trần và chiếc lọng
trắng đã giương lên cho vương tử
Samvara. Các vị bảo:
- Nhưng nó là em út trong nhà, chiếc lọng không thuộc về nó
được. Chúng ta hãy giương chiếc lọng lên
cho vị huynh trưởng của chúng ta.
Họ đều tập họp mọi lực lượng lại, và
gởi thư đến Samvara, buộc chàng hoàn trả
chiếc lọng nếu không thì sẽ giao chiến, sau đó
các vị bao vây kinh thành. Vua báo tin này với Bồ-tát và hỏi phải làm
gì bây giờ. Ngài đáp:
- Này đại vương, ngài không nên gây
chiến với các vương huynh. Hãy chia bạc vàng của vua cha thành một trăm
phần, rồi chín mươi chín phần đến các vương huynh cùng thông
điệp này: "Xin hãy nhận phần tài sản của
phụ vương vì tiểu đệ không muốn gây chiến với
các vương huynh".
Vua liền làm như thế.
Sau đo vị huynh trưởng, thái tử Uposatha,
triệu tập các vương tử kia lại bảo:
- Này các hiền đệ, không ai có khả năng
chiến thắng vị vua này được, và
đây lại là em út của ta. Mặc dù trước
đây, đó là kẻ thù của ta, nay không phải
như vậy nữa, mà em ta gởi vàng bạc đến chúng
ta, không muốn gây chiến với chúng ta. Giờ đây chúng ta không thể nào
cùng một lúc giương cao chiếc lọng lên cho mọi người
được, chúng ta hãy giương lọng lên cho
một người thôi, hãy để một mình em út ta
làm vua, vậy khi chúng ta gặp em ta, chúng ta sẽ giao trả vàng bạc của vương
tộc cho em ta, và trở về thị trấn của mình.
Sau đó tất cả các vị ấy ngưng việc vây hãm
kinh thành và đi vào trong thành, không
còn là thù địch nữa. Vua bảo triều thần ra nghênh
tiếp các vị và đại chúng đi đón các vương tử
ấy. Các vương tử cùng đoàn tùy
tùng đông đảo đi bộ vào, bước lên các
bậc thềm của cung điện, hết sức khúm núm trước
đại vương Samvara và ngồi xuống một chỗ thấp. Còn vua Samvara ngự
trên ngai vàng dưới chiếc lọng trắng trông ngài thật uy nghi cao cả và rực
rỡ huy hoàng; bất cứ nơi nào ngài nhìn đến, đại
chúng đều rúng động toàn thân.
Thái tử Uposatha chiêm ngưỡng cảnh nguy nga lộng lẫy của
đại vương Samvara, nghĩ thầm: "Ta chắc phụ
vương ta biết rõ là vương tử Samvara sẽ làm vua sau khi ngài băng
hà, nên ngài đã ban cho chúng ta
các thị trấn mà chẳng cho vương đệ ta vùng
nào cả". Sau đó chàng ngâm ba vần kệ nói
với vua:
1. Quả xưa thánh thượng đã tinh
tường,
Bản chất tính tình của đại vương,
Ân đã ban nhiều vương tử khác,
Ðại vương lại chẳng được ban phần.
2. Chính là vương phụ lúc sinh thời,
Hay lúc thành tiên, đến cõi trời,
Vì thấy lợi nhiều cho quốc độ,
Nên vương tộc đã thuận theo
lời.
3. Hãy nói lực gì, Sam-va-ra,
Ðại vương vượt hẳn cả hoàng gia,
Sao vương huynh lại không đoàn kết,
Ðể chiếm ngôi cao của đệ à?
Nghe vậy vua Samvara ngâm sáu vần kệ giải thích
đặc tính của ngài:
4. Ta chẳng bao giờ miễn cưỡng dâng
Những gì xứng với đại hiền nhân,
Sẵn sàng ban tặng đầy trân trọng,
Ðảnh lễ, ta quỳ xuống dưới chân.
5. Ta chẳng tỵ hiềm, muốn học luôn
Mọi điều đức hạnh hợp công bằng,
Các hiền nhân dạy điều lương thiện
Trong ấy các ngài thấy lạc hoan.
6. Ta vẫn thường nghe sự bảo ban
Của nhiều bậc trí, đại hiền nhân,
Tâm hồn ta hướng về lương thiện,
Ta chẳng coi thường lời dạy răn.
7. Voi chiến cùng nhiều đạo mã
xa,
Bộ binh và vệ sĩ vương gia,
Ta không hề bớt phần công nhật,
Mà trả tiền lương đủ mọi nhà.
8. Quý tộc danh gia vẫn đến hầu,
Quân sư tài trí thật là cao,
Họ thường khen ngợi rằng lương thực,
Quả thật Ba-la-nại rất giàu.
9. Thịnh vượng như vậy, các lái buôn,
Từ nhiều quốc độ tới lui luôn,
Ta che chở chúng - Này vương tử,
Sự thật, hiền huynh đã tỏ tường.
Thái tử Uposatha nghe kể rõ đức tính của vua
liền ngâm hai vần kệ:
10. Ðạo đức vượt hơn gia tộc mình,
Và em cai trị thật công bình,
Sam-va tài trí càng cao trọng,
Phục lạc ban đều các đại huynh.
11. Vương huynh rày bảo vệ kho tàng,
Vương đệ sau này sẽ vạn an,
Tránh khỏi quân thù như Ðế Thích
Mình vàng tránh các La-hầu-vương.
Vua Samvara tiếp đãi các vương huynh
rất trọng thể. Các vị ở lại cùng vua một tháng rưỡi, rồi bảo vua:
- Tâu đại vương, chúng thần muốn đi xem có
trộm cướp nào đặt chân lên lãnh
thổ của chúng thần chăng. Cầu mong triều đại này
được vạn vạn phúc!
Các vị ấy lại ra về lãnh thổ của mọi người. Còn vua theo lời dạy của
Bồ-tát, nên khi mạng chung, ngài đi lên
cộng trú với hội chúng ở Thiên giới.
*
Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài nói thêm:
- Này Tỷ-kheo, xưa kia ông đã theo
lời dạy bảo, tại sao nay ông lại không tiếp tục nỗ lực tinh cần?
Rồi Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết thúc các Sự Thật, vị
Tỷ-kheo đã
được an trú vào Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời ấy, Tỷ-kheo này là vua Samvara, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là thái tử
Uposatha, các vị trưởng lão và cao niên là các vương huynh kia, các
đệ tử của đức Phật là
đám tùy tùng của các vị ấy, và Ta chính
là vị cận thần đã khuyến giáo vua.
-ooOoo-
463. Chuyện Trí Giả Suppàraka (Tiền thân Suppàraka)
Những người kia mũi nhọn như dao..,
Chuyện này bậc Ðại Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự viên mãn của
trí tuệ tối thắng.
Một ngày nọ, chúng ta nghe kể rằng về buổi tối, các Tỷ-kheo
đang đợi đức Như Lai đến thuyết Pháp cho Tăng
chúng, và trong lúc ngồi tại chánh pháp
đường, các vị nói với nhau:
- Này Tỷ-kheo, quả thật bậc Ðạo Sư có trí tuệ vĩ
đại! Trí tuệ quảng bác! Trí tuệ mẫn tiệp, Trí
tuệ linh hoạt! Trí tuệ tinh xảo! Trí tuệ uyên thâm! Trí tuệ Ngài
đáp ứng đúng nơi đúng lúc! Trí bao la như thế
giới, như đại dương vô tận, như bầu trời trải rộng mênh mông: khắp cả
xứ Diêm-phù-đề không một bậc trí nhân nào
có thể sánh bằng đấng Thập Lực, như một đợt
sóng nổi lên trên đại dương không thể
chạm đến bờ được, hoặc nếu chạm vào bờ, sóng kia sẽ vỡ tan. Cũng vậy,
không một người nào có thể đạt đến trí tuệ bằng
đấng Thập Lựïc, hoặc nếu kẻ ấy đến chân
bậc Ðạo Sư thì sẽ vỡ tan.
Bằng những lời ấy Tăng chúng tán thán Trí
tuệ tối thắng của đấng Thập Lục. Bậc Ðạo Sư bước vào, và hỏi:
- Này các Tỷ-kheo, các ông đang nói gì
trong khi ngồi đây?
Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:
- Không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ
trí tuệ. Ngày xưa ngay khi trí tuệ chưa viên thành Chánh giác, Ngài
cũng đã sáng suốt thông minh. Mặc dù mù
lòa, Ngài cũng biết qua các dấu hiệu của đại
dương là ở trong đại dương có chôn giấu
các loại ngọc này nọ.
Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ một vị vua mệnh danh Bharu trị vì trong quốc
độ Bharu. Có một thị trấn bên hải cảng
được đặt tên là Bharukacha hay là Ðầm
Bharu. Vào thời ấy, Bồ-tát sinh ra trong gia đình
một thuyền trưởng ở tại đó, ngài rất khả
ái, với làn da màu vàng nâu. Cha mẹ đặt tên
ngài là Suppàraka-Kumàra.
Ngài lớn lên, xuất sắc khác thường, và ngay khi chỉ mới
được mười sáu tuổi, ngài
đã hoàn toàn tinh thông nghệ thuật hàng
hải. Sau đó khi thân phụ mất, ngài cầm
đầu đám thủy thủ và miệt mài với nghề
hàng hải, ngài thật thông minh sáng suốt, khi ngài lên tàu rồi thì không hề
có chiếc tàu nào đến làm hại
được.
Theo thời gian, ngài bị thương vì nước mặn nên
đôi mắt ngài mất cả thị giác. Sau sự
kiện ấy, dù ngài là thuyền trưởng của đám thủy
thủ, ngài không còn đeo đuổi sự nghiệp
thương mãi nữa, mà quyết định về phục vụ
vua, ngài đến yết kiến vua với mục đích
ấy, và vua phong cho ngài chức hội thẩm
đánh giá các báu vật. Từ đó ngài định
giá trị các voi báu, ngọc báu và châu báu.
Một hôm, một con voi được đem trình
lên vua, da voi màu đá đen, nên có thể
được làm vương tượng. Vua liếc nhìn voi
rồi ra lệnh đem nó đi đến trình diện với
bậc trí giả. Quân hầu liền dẫn con vật đến gặp
ngài. Ngài sờ tay lên khắp mình voi và bảo:
- Con voi này không xứng đáng làm
quốc tượng. Nó có đặc tính của một con vật bị
dị tật ở phía sau. Khi voi mẹ sinh ra nó, đã không
đủ sức mang nó lên vai, nên
để nó ngồi xuống đất, vì vậy nó bị tật
nguyền ở chân sau.
Họ chất vấn những người đem voi đến, và
bọn ấy trả lời rằng bậc trí giả đã nói
đúng sự thật. Khi vua nghe nói chuyện kia, lòng
rất hoan hỷ và ra lệnh ban cho bậc trí giả tám
đồng tiền vàng.
Một ngày khác, người ta đem một con ngựa
dâng lên để làm vương mã. Con vật
này cũng được dẫn đến bậc trí giả. Ngài
lấy tay sờ khắp mình ngựa rồi nói:
- Con vật này không thích hợp để làm
vương mã cho đức vua ngự. Vào ngày nó
sinh ra, ngựa mẹ chết đi, nên do thiếu
sữa mẹ, nó không lớn lên đầy đủ.
Lời nói này của ngài cũng đúng sự thật nữa.
Khi nghe được chuyện ấy, vua rất đẹp ý, phán bảo đem tặng ngài tám
đồng tiền nữa.
Vào một ngày khác, một chiếc xe được đem đến
để làm vương xa. Vua cũng đưa xe này
đến ngài. Ngài lấy tay rờ khắp xe và
bảo:
- Chiếc xe này được làm bằng gỗ rỗng,
nên không thích hợp với đức vua.
Lời nói này của ngài cũng đúng như các lời
khác. Vua lại một phen hài lòng khi nghe chuyện này, nên ban thêm cho
ngài tám đồng nữa. Một lần nữa có người đem
dâng vua một tấm thảm quý có giá trị lớn, vua liền đưa nó đến ngài
như lần trước. Ngài sờ khắp tấm thảm, rồi bảo:
- Ở đây có một chỗ mà con chuột
đã cắn một lỗ.
Họ xem kỹ và thấy chỗ đó, liền tâu với vua.
Vua đẹp ý lại bảo cho ngài tám đồng tiền
nữa.
Lúc bấy giờ bậc trí giả mới suy nghĩ: "Chỉ
được có tám đồng vàng để xem những việc
kỳ diệu như thế đấy. Ðây là món tiền tặng cho thợ hớt tóc, chắc hẳn
vua này là cậu bé thường hớt tóc! Tại sao ta phải phụng sự một vị vua như
thế chứ? Ta sẽ trở về nhà riêng của mình". Thế là ngài trở về hải cảng
Bharukaccha và sống tại đó.
Lúc ấy có vài thương nhân chuẩn bị một chiếc thuyền và
đang đi tìm một thuyền trưởng. Họ suy
nghĩ: "Ngài Suppàraka thông minh kia là một bậc trí giả tài ba, có ngài trên
tàu thì không con tàu nào đến hại nữa. Dù
ngài mù lòa, bậc trí giả Suppàraka vẫn là người tuyệt hảo". Vì thế họ
đi đến ngài và mời ngài làm thuyền
trưởng.
- Này các hiền hữu - ngài đáp - ta mù
rồi, làm sao lái thuyền các bạn được?
- Thưa Tôn giả, quả ngài mù thật đấy - các
thương nhân bảo - song ngài là người tài giỏi nhất.
Vị họ cứ năn nỉ ngài mãi không ngớt
nên cuối cùng ngài chấp thuận.
- Như các bạn đã nói với ta - ngài
bảo - thì ta sẽ làm thuyền trưởng của các bạn.
Sau đó, ngài bước lên chiếc thuyền
của họ.
Họ lái thuyền ra giữa đại dương. Suốt bảy ngày
liền, thuyền đi không gặp rủi ro nào,
rồi một ngọn gió trái mùa nổi lên. Thuyền trôi dạt bốn tháng trên vùng
đại dương hoang dã, cho
đến lúc vào
được một nơi gọi là Biển Khuramàla (Bãi Dao nhọn hoắc). Tại
đây loài cá có thân như người với mõm
nhọn hoắc như lưỡi dao, nhào lộn dưới nước. Các thương nhân quan sát loài cá
này, vừa hỏi bậc Ðại Sĩ biển này tên gì, vừa ngâm vần kệ
đầu:
1. Ðám người kia mũi nhọn như dao,
Vừa nhảy lên cao, lại lộn nhào,
Hãy nói, Sup-pà, cho chúng bạn,
Biển này được biết với tên nào?
Bậc Ðại sĩ nghe câu nói này, liền ôn lại trong trí các kiến thức thủy thủ
của ngài, rồi đáp qua vần kệ thứ hai:
2. Này các thương nhân cảng Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðây là biển cá Khu-ra đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
Lúc bấy giờ đại dương này có nhiều
kim cương. Bậc Ðại sĩ suy nghĩ rằng nếu ngài bảo chúng bạn
đây là biển kim cương, họ sẽ làm chìm
tàu do lòng tham hốt nhiều kim cương. Vì thế, ngài không nói gì cả, song sau
khi đưa thuyền đến, ngài lấy một sợi dây
thừng và thả lưới xuống như thể bắt cá. Với dây này, ngài
đã hốt được
một mớ kim cương và dấu trong thuyền, rồi ngài lựa những thứ ít giá
trị quăng xuống biển.
Chiếc thuyền đi qua vùng biển này,
đến một biển khác tên là Aggimàla (Vùng
Lửa cháy). Biển này tỏa ra ánh sáng như thể một ngọn lửa
đang bừng cháy, như mặt trời đúng ngọ. Các
thương nhân hỏi han ngài qua vần kệ:
3. Kìa đại dương như ngọn lửa hồng,
Như vầng nhật chiếu, bạn cùng trông,
Sup-pa, xin nói cho bè bạn,
Tên gọi là gì chốn đại dương?
Bậc Ðại sĩ đáp lại họ qua vần kệ tiếp theo:
4. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðây là biển cả Ag-gi đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
Bấy giờ biển này chứa đầy vàng, cũng
như trước, ngài lấy lên một mớ vàng và cất lên thuyền. Qua khỏi biển này con
thuyền đi đến một biển cả tên là
Dadhimàla (Vũng Sữa đông), óng ánh như sữa tươi
hay sữa đông. Các thương nhân lại hỏi tên của biển qua vần kệ:
5. Kìa biển trắng phau giống sữa tươi,
Trắng như nhìn vũng sữa đông rồi,
Sup-pà, xin nói cùng bè bạn,
Tên gọi là gì của biển khơi?
Bậc Ðại sĩ đáp lại chúng bằng câu kệ tiếp
theo:
6. Này các thương nhân ở Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðây là biển cả Da-dhi đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
Trong biển này có rất nhiều bạc. Ngài lấy bạc theo cách như trước, rồi
cất lên tàu. Chiếc thuyền đi qua biển này
và đến một đại dương tên là
Nilavannakusamàla (Thảm cỏ Kusa), có hình dáng một thảm cỏ kusa
đen nhánh (cỏ cát tường) hay một cánh đồng lúa.
Các thương nhân lại hỏi tên biển qua vần kệ:
7. Kìa, biển xanh như cỏ cát tường,
Tưởng như nhìn đám lúa nàng hương,
Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
Tên gọi là gì của đại dương?
Ngài đáp lời qua vần kệ tiếp theo:
8. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Ðại dương đây chính Ku-sa đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
Bấy giờ trong biển này có rất nhiều ngọc bích quý. Cũng như trước, ngài
lấy một mớ ngọc và cất trên thuyền. Qua khỏi biển này, con thuyền
đi đến một biển tên gọi là Nalamàla (Bãi
Lau sậy), có hình dáng một bãi lau sậy hay một rừng tre. Các thương nhân hỏi
tên biển qua vần kệ:
9. Kìa đại dương như một khóm lau,
Khác nào ta thấy rặng tre đâu,
Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
Biển cả này tên gọi thế nào?
Bậc Ðại sĩ đáp lại qua vần kệ sau:
10. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Biển này tên gọi Na-la đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
Bấy giờ biển này đầy san hô với màu
khóm tre, ngài lại hốt một mớ đá quý này
và cất lên tàu.
Sau khi đi qua biển Nalamàla, các
thương nhân đến một biển có tên là
Valabhàmukha (Lòng chảo). Ở đây nước rút đi và
dâng lên một phía, và như vậy nước rút đi ở mọi
phía và dâng lên trên các vách đá thẳng
đứng để lại một vùng như thể cái hố sâu. Một
đợt sóng dâng tràn lên một phía, khác
nào một bức tường: tai lại nghe một tiếng gầm thét khủng khiếp, tưởng chừng
làm thủng màng tai hoặc vỡ cả tim ra. Khi thấy cảnh này, các thương nhân
kinh hoảng và hỏi tên biển qua vần kệ:
11. Này nghe tiếng thét thật kinh hoàng,
Từ biển cả kia thật dị thường!
Hố thẳm, hãy nhìn nhiều đợt sóng
Dâng lên dốc đứng tựa sườn non,
Sup-pà, hãy nói cho bè bạn,
Ðây gọi tên gì của đại dương?
Bồ-tát đáp lại qua vần kệ:
12. Này các thương nhân xứ Bhar-ka,
Ði tìm vàng bạc bán đường xa,
Va-la-bhà đại dương này
đó,
Thuyền của các người đã lạc qua.
Ngài nói tiếp:
- Này các hiền hữu, một khi thuyền vào trong biển Valabhàmukkhi này thì
không thể nào trở về được. Nếu thuyền này
vào đó, nó sẽ chìm và tan nát.
Bây giờ có cả bảy trăm mạng người trên
thuyền này, họ đều sợ chết; nên họ
đồng thanh thốt lên một tiếng kêu vô
cùng thảm thiết, chẳng khác nào tiếng kêu la của những kẻ
đang bị đốt cháy trong chốn địa ngục tận cùng
(Vô gián Ðịa ngục). Bậc Ðại sĩ nghĩ thầm: "Trừ ta ra, không ai có thể cứu
mạng họ được. Ta quyết cứu họ bằng một lời thề
chân lý". Rồi ngài nói lớn:
- Này các hiền hữu, hãy mau mau tắm cho ta bằng nước hương thơm, mặc y
phục mới cho ta, dọn ra một chén nước đầy và
đưa ta đứng trước con thuyền.
Cả bọn vội làm như vậy. Bậc Ðại sĩ cầm chén nước
đầy bằng cả hai tay, và
đứng trước mũi thuyền, thực hiện một lời nguyện
cầu chân lý trong khi ngâm vần kệ cuối cùng:
13. Từ khi ta nhớ rõ về thân,
Trí tuệ đầu tiên phát khởi dần,
Không một người nào ta sát hại,
Là điều ta đã biết tinh tường,
Nều lời cầu nguyện này chân chánh,
Mong ước thuyền về chốn vạn an.
Bốn tháng qua con thuyền đã du hành
trong những vùng biển xa xôi nay dường như được
ban cho thần lực siêu phàm, nên chỉ trong một ngày nó trở lại hải
cảng Bharukaccha, vào tận trên đất liền cho đến
khi dừng lại trước cửa nhà của vị thuyền trưởng kia, sau khi nhảy vọt
qua một khoảng chừng một ngàn một trăm cubit (1
cubit = 45cm). Bậc Ðại sĩ phân phát cho
đám thương nhân tất cả vàng bạc trân châu, san hô, kim cương và bảo:
- Số châu báu này là đủ cho các bạn rồi, vậy
đừng du hành đường biển nữa.
Sau đó ngài thuyết Pháp cho họ và
đến khi đã làm xong các việc bố thí và
các thiện sự suốt đời, ngài
đi lên cộng trú với hội chúng ở Thiên
giới.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Như Lai cũng rất thông thái như bây giờ vậy.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân:
- Thời bấy giờ hội chúng của đức Phật là
hội chúng thương nhân và Ta chính là Trí giả Suppàraka.
-ooOoo-
Chương XII
Phẩm MườI Hai Bài Kệ
464. Chuyện Tiểu Vương
Điểu Kùnala
(Tiền thân Culla - Kanàla)
Chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Kunàla,
số 536, tập VII.
-ooOoo-
465. Chuyện Sàla, Cổ Thụ Cát Tường (Tiền thân Bhadda-Sàla)
Ngài là ai đứng giữa không gian..,
Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc thực hành
thiện sự đối với họ hàng quyến thuộc của
mình.
Tại Xá-vệ, trong nhà ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) bao giờ cũng
đầy đủ thực phẩm cho năm trăm vị Tỷ-kheo và
tại nhà bà Visàkhà (Tỳ-xá-khư) hay cung vua Kosala cũng vậy. Nhưng trong
cung vua, dù thực phẩm đầy đủ mỹ vị cao lương,
vẫn không ai tỏ ra thân thiết với Tăng chúng. Do đó Tăng chúng không bao giờ
ăn uống tại cung vua mà chỉ đem thực
phẩm ra về dùng tại nhà ông Cấp Cô Ðộc hay bà Visàkhà hay một thân
hữu nào đó.
Một ngày kia, vua bảo:
- Một tặng vật vừa được mang lại, hãy
đem đến cho các Tỷ-kheo.
Rồi ngài bảo đưa nó đến trai đường, song họ
tâu rằng không có Tăng chúng trong trai đường. Vua hỏi:
- Thế Tăng chúng đi đâu rồi?
Họ đáp:
- Tăng chúng đang ngồi ăn uống tại nhà
các thân hữu.
Vì thế, sau khi dùng điểm tâm xong, vua liền
đến yết kiến bậc Ðạo sư, và hỏi:
- Bạch Thế Tôn, loại thực phẩm nào là tối thắng?
Ngài đáp:
- Thưa Ðại vương, thực phẩm của bằng hữu là tối thắng, ngay cả món cháo
thiu được thân hữu đem cho cũng trở thành
ngon ngọt.
- Như vậy, bạch Thế Tôn, Tăng chúng tìm
được tình bằng hữu ở những người nào?
- Thưa Ðại vương, với các thân tộc của họ hay các dòng họ Thích-ca
(Sakya).
Sau đó vua suy nghĩ giá như ngài chọn
một thiếu nữ dòng Thích - ca làm chánh hậu, rồi Tăng
chúng sẽ là thân hữu của vua, cũng như
đối với thân tộc của Tăng chúng vậy.
Vì thế ngài đứng dậy trở về cung và
gửi thông điệp đến thành Kapilavatthu
(Ca-tỳ-la-vệ) với mục đích này: "Hãy
dâng cho trẫm một cô gái của quý quốc để làm
cung phi, vì trẫm mong ước được kết thân với dòng
họ của quí quốc".
Khi nhận được thông điệp này, cả dòng
họ Thích-ca tập họp lại và thảo luận kỹ lưỡng:
- Chúng ta hiện sống trong một vùng thuộc quyền của vua Kosala, nếu ta từ
chối việc gả con gái, ngài sẽ nổi giận, còn nếu ta
đem dâng con, thì phong tục dòng họ của
ta sẽ bị phá vỡ, vậy ta phải làm gì đây?
Lúc ấy vương tử Mahànàma bảo:
- Xin đừng bận tâm việc này. Ta có
một đứa con gái tên là Vàsabhakhattiyà.
Mẹ nó là một nô tỳ, tên là Nàgamundà, nay nó chừng mười sáu tuổi, dung sắc
mỹ lệ khác thường và tướng mạo tốt lành, lại thuộc dòng dõi quý tộc (Sát-đế-ly)
về bên phía họ cha. Chúng ta sẽ đem gả nàng
như một cô gái chính thống quý tộc.
Dòng họ Thích-ca chấp thuận, và cho mời các sứ giả vào, bảo rằng dòng họ
này sẵn sàng gả con gái trong gia tộc, nên các sứ giả có thể mang nàng về
nước ngay. Song các sứ giả suy nghĩ: "Các vị Thích-tử này vô cùng kiêu mạn
về vấn đề dòng họ. Giả sử như các ngài
gả một cô gái không thuộc dòng họ của các ngài và cứ bảo là
đúng thế thì sao? Chúng ta sẽ không nhận
nàng nào trừ ra người cùng ngồi ăn chung với
các ngài". Vì thế các sứ thần đáp:
- Ðược rồi, chúng thần sẽ nhận nàng. Song chúng thần sẽ chỉ nhận một nàng
cũng ngồi dùng bữa với các ngài thôi.
Dòng họ Thích - ca sắp đặt một chốn ở cho
các sứ thần, rồi băn khoăn không biết phải làm gì. Mahànàmà bảo:
- Bây giờ đừng bận tâm gì chuyện ấy
nữa. Ta sẽ tìm cách. Vào giờ ta dùng bữa ăn, hãy
đem Vàsabhakhattiayà,
được phục sức thật lộng lẫy đến đây, rồi ngay
khi ta đã ăn một miếng hãy
đem đến một lá thư và nói: "Tâu chúa
công, có vị vua kia gởi thông điệp đến chúa
công, xin chúa công nghe thông điệp ngay bây giờ".
Hội chúng đồng ý và khi ông
đang dùng bữa, họ phục sức và trang
điểm cho cô gái kia. Mahànàmà bảo:
- Hãy đưa ái nữ ta vào và cho con ta
cùng dùng bữa với ta.
- Xin chúa công đợi một lát - họ thưa - nàng
đang được trang điểm thật tề chỉnh.
Và chẳng mấy chốc họ đưa nàng vào.
Nàng mong đợi được dùng cơm với vua cha,
nên đặt tay vào cùng một
đĩa thức ăn với cha nàng. Mahànàmà
đã lấy xong một miếng và
đã đưa vào
mồm; ông vừa đưa tay ra lấy miếng khác thì
họ đem vào một bức thư và nói:
- Tâu chúa công, có vị vua kia gởi thông
điệp đến cho chúa công, xin chúa công hạ cố nghe thông điệp ấy ngay bây giờ.
Mahànàmà bảo:
- Này con yêu quý, con cứ dùng cơm đi nhé.
Rồi tay phải ông vẫn để trong đĩa, tay trái
vừa cầm lá thư vừa nhìn vào đó. Trong
khi ông xem bức thông điệp kia, cô gái vẫn tiếp tục ăn cơm. Khi nàng
đã ăn xong,
ông rửa tay và súc miệng. Các sứ thần tin chắc chắn nàng là con gái
vị vương tử này, vì họ không đoán ra điều bí
ẩn.
Do vậy Mahànàmà tiễn đưa con gái ra đi vô cùng
trọng thể. Các sứ thần đem ngay về Xá-vệ và
bảo nàng này là con gái chính thức của vương tử Mahànàmà. Vua rất hoan hỷ,
ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật đẹp rồi
đặt nàng ngồi lên một đám châu báu và
cử hành lễ quán đảnh phong làm chánh
hậu. Nàng được vua rất mực sủng ái.
Chẳng bao lâu hoàng hậu có thai, nên vua ra lệnh chăm
sóc nàng thật chu đáo, và sau
mười tháng nàng hạ sinh một hoàng nam, có màu da hoàng
đồng. Và ngày
đặt tên hài nhi, vua gửi chiếu thư
đến tổ mẫu của ngài hỏi:
- Vàsabhakhattiyà đã sinh ra một
hoàng nam, nàng là công chúa dòng họ Thích - ca, vậy sẽ
đặt tên hài nhi là gì?
Lúc bấy giờ viên cận thần mang chiếu thư ấy hơi lãng tai, song lão cũng
đi trình lại với bà tổ mẫu của vua. Khi
bà nghe chuyện ấy, bà bảo:
- Ngay như khi Vàsabha chưa từng sinh ra một hoàng nam, nàng cũng
đã là một người tuyệt thế, và nay nàng
sẽ là ái hậu của vua.
Lão điếc này không nghe rõ tiếng "ái
hậu" (Vallabhà) cho đúng, mà cứ tưởng bà
bảo là "Vidùdabha", nên lão về yết kiến vua, tâu với ngài rằng phải
đặt tên hoàng tử là Vidùdabha. Vua tưởng
đây hẳn là tên của một gia tộc cổ sơ nào
đó, nên đặt
tên con là Vidùdabha.
Sau đó, hoàng tử ấy lớn lên
được nuôi nấng đúng như cung cách của một hoàng
tử. Khi hoàng tử lên bảy tuổi, thường quan sát các vương tử kia nhân
được quà voi ngựa và nhiều
đồ chơi khác ra sao từ các gia tộc bên
họ mẹ, cậu bảo mẹ:
- Thưa mẹ, các trẻ kia đều được quà
từ bên mẹ của chúng, song không ai gửi cho con quà gì cả. Vậy mẹ có phải là
con côi không?
Lúc ấy nàng đáp:
- Này con, các tổ phụ của con là các vua dòng họ Thích-ca, song các ngài
ở xa lắm, vì thế chẳng gởi gì cho con cả.
Một lần nữa, lúc được mười sáu tuổi, cậu
hỏi:
- Thưa mẹ, con muốn đi thăm gia tộc của tổ
phụ.
Nàng bảo:
- Thôi con đừng nói đến chuyện ấy nữa, con
sẽ làm gì khi đến đó?
Song dù nàng thoái thác, cậu cứ năn nỉ xin nàng
mãi, cuối cùng mẹ cậu bảo:
- Thôi được, con cứ đi.
Vì vậy cậu xin vua cha chấp thuận và lên
đường cùng một đám tùy tùng.
Vàsabha gởi thư về nhà trước khi cậu đến với ý
định này:
- Con đang sống hạnh phúc ở đây, xin các Tôn
giả đừng nói cho hoàng tử biết chuyện bí mật kia.
Song dòng họ Thích-ca khi hay tin Vidùdabha
đến, liền cho các vương tử trẻ tuổi đi về vùng quê. Họ bảo nhau:
- Ta không thể đón tiếp thằng bé này
trịnh trọng được.
Khi hoàng tử đến Ca-tỳ-la-vệ, dòng họ
Thích-ca tập họp trong nhà nghỉ của vua. Vị hoàng tử
đến gần nhà nghỉ ngồi
đợi. Rồi bọn kia bảo cậu:
- Ðây là ngoại tổ của con, đây là
quốc cửu - họ vừa chỉ rõ từng vị.
Cậu đi đảnh lễ từng người nọ đến người kia,
song mặc dù cậu đã cúi
đầu chào toàn gia tộc
đến mỏi cả lưng, chẳng ai chịu hạ cố chào
lại cậu cả, vì thế cậu hỏi:
- Sao lại chẳng có ai trong gia tộc chào lại con cả thế này?
Gia tộc Thích-ca đáp:
- Này con, các tiểu vương tử đi về quê
cả rồi.
Sau đó cả gia tộc thết đãi cậu rất
trọng thể.
Sau vài ngày ở lại, hoàng tử trở về nhà cùng cả
đoàn tùy tùng. Vừa lúc ấy một nô tỳ chùi
chiếc ghế mà cậu đã dùng trong nhà nghỉ
ấy với nước sữa, vừa nói nhục mạ:
- Ðây là ghế ngồi của con trai nàng Vàsabhakhattiyà, nữ tỳ ấy mà.
Một người hầu bỏ quên cây giáo đang đi tìm,
nghe thoáng lời lăng mạ hoàng tử
Vidùdabha. Gã hỏi:
- Như thế nghĩa là gì?
Gã được kể cho biết là Vàsabha
đã do một nữ tỳ sinh ra với vương tử
Mahànàmà, dòng Thích-ca. Gã liền kể chuyện này cho quân lính nghe. Thế là
tiếng huyên náo vang lên, cả đám đều la lớn:
- Vàsabha là con gái của một nô tỳ, chúng bảo thế
đấy!
Vị vương tử này nghe chuyện ấy: "Ðược rồi" - cậu nghĩ thầm: "Mặc chúng cứ
đổ sữa trên ghế ta ngồi
để rửa nó đi. Khi ta lên ngôi, ta sẽ rửa
chỗ ngồi bằng máu trong tim chúng".
Khi cậu trở về Xá-vệ, quần thần kể mọi chuyện với vua. Vua nổi cơn thịnh
nộ với dòng họ Thích-ca vì đã
đưa con gái của một nô tỳ về làm hoàng
hậu của ngài, ngài truất hết các khoản tiền đã
cấp phát cho Vàsabha và con trai nàng, chỉ còn những thứ vừa
đủ với hạng gia nô mà thôi.
Vài ngày sau, bậc Ðạo sư đến cung vua, và
ngồi xuống tọa sàng. Vua đến gần Ngài
đảnh lễ và nói:
- Bạch Thế Tôn, trẫm nghe rằng thân tộc của Ngài
đưa con gái của một nô tỳ về cho trẫm làm
hoàng hậu. Trẫm đã truất hết phần trợ
cấp của chúng, và chỉ cho chúng những thứ dành cho nô tỳ mà thôi.
Bậc Ðạo sư đáp:
- Tâu đại vương, dòng họ Thích-ca
đã làm việc trái
đạo! Nếu họ dâng con gái, đáng lẽ ra họ phải
dâng một công chúa thuộc dòng huyết thống của họ kia. Song, thưa
đại vương, Ta nói điều này, Vàsabha là
con gái của vị vương tử, và trong cung điện của
một vị vua quý tộc Sát-đế-ly, nàng đã
nhận lễ quán đảnh; còn Vidùdabha cũng là
vương tử của một vị vua quý tộc Sát-đế-ly. Các
bậc trí nhân ngày xưa đã bảo:
Dòng họ mẹ nào có quan trọng, dòng họ cha mới là chuẩn mực. Với một người vợ
nghèo khó, một người lượm củi, họ đã
đưa lên địa
vị chánh hậu, và vị vương tử do bà ấy sinh ra
được nắm vương quyền tại Ba-la-nại, rộng mười
hai dặm đã trở thành vua Kattha-Vàhana, hiệu là Tiều phu.
Do đó, Ngài kể cho vua nghe chuyện
tiền thân Katthahàri (số 7 - Chuyện Nàng lượm củi).
Khi vua nghe bài thuyết giáo này, lòng rất hoan hỷ nhủ thầm: "Dòng họ cha
là tiêu chuẩn đo lường một con người". Rồi vua
lại ban những gì phù hợp cho hai mẹ con nàng như trước.
Lúc bấy giờ viên đại tướng quân của vua, là
một người có tên gọi Bandhula. Vợ ông ta là Mallikà không sinh sản gì, nên
ông sai đưa nàng
đến tận Kusinàra, bảo nàng trở về với
gia đình nàng. Nàng nói:
- Ta sẽ đi khi nào ta
đã kính bái bậc Ðạo sư.
Nàng đi đến Kỳ Viên vái chào
đức Như Lai rồi đứng đợi một bên. Ngài
hỏi:
- Bà đi đâu bây giờ?
Nàng đáp:
- Bạch Thế Tôn, chồng của con bảo đưa con về
nhà.
Bậc Ðạo sư hỏi:
- Vì cớ gì?
- Bạch Thế Tôn, vì con không sinh sản, con không có con trai.
Ngài đáp:
- Nếu chỉ có vậy, thì chẳng có lý do gì bà phải
đi cả. Hãy về lại.
Nàng rất hoan hỷ kính chào bậc Ðạo sư rồi trở về nhà. Chồng nàng hỏi tại
sao nàng lại trở về, nàng đáp:
- Ðấng Thập Lực bảo đưa thiếp trở lại, thưa
phu quân!
Vị đại tướng nói:
- Thế thì đấng Thập Lực ắt hẳn đã
thấy rõ lý do tốt lành rồi.
Chẳng bao lâu đó nàng thụ thai. Khi
nàng bắt đầu những cơn thèm
ăn của người mang thai, nàng bảo cho ông
biết. Ông hỏi:
- Thế nàng muốn gì?
Nàng đáp:
- Thưa phu quân, thiếp muốn đi tắm và
uống nước hồ ở thành Vesàli (Tỳ-xá-ly), nơi mà các hoàng gia thường lấy nước
để làm lễ quán
đảnh phong vương.
Vị đại tướng hứa sẽ cố gắng chìu ý.
Cầm lấy cây cung của ông mạnh bằng cả ngàn cây cung khác, ông
đưa bà vợ lên xe rời thành Xá-vệ và lái
xe đến Tỳ-xá-ly.
Lúc bấy giờ gần cổng thành có một người của bộ tộc Licchavi tên là Mahàli
đã từng
được học cùng một vị sư phụ với đại
tướng Bandhula của vua Kosala. Người này mù, vẫn thường khuyên các
người Licchavi về những thế sự cũng như thánh sự. Khi nghe tiếng xe chạy lóc
cóc trên ngưỡng cửa, ông nói:
- Ðây là tiếng xe của đại tướng Bandhula! Ngày
hôm nay các người Licchavi có mối lo sợ.
Bên hồ có một đội quân canh gác nghiêm
ngặt, bên trong lẫn bên ngoài, ở trên lại có lưới sắt, không một con chim
nào tìm chỗ lọt vào được. Song vị đại tướng,
vừa xuống xe đã tung thanh kiếm ra khiến quân canh bỏ chạy và ông
liền xông qua lưới sắt, vào trong hồ cho bà vợ tắm và uống nước, rồi sau khi
chính ông cũng tắm xong, ông đưa Mallikà
lên xe, rời thành và trở về bằng đường lối đã
đến. Quân canh đi thưa chuyện với các người
Licchavi. Lúc ấy các vương tử của bộ tộc Lichavi nổi giận, năm trăm vị leo lên
năm trăm cổ xe, đi bắt tướng quân Bandhula. Họ
báo tin ấy cho Mahàli, ông bảo:
- Ðừng đi, vì kẻ kia sẽ giết hết các
ngài đấy.
Song họ bảo:
- Không, chúng ta muốn đi.
- Vậy khi nào các ngài đến một nơi mà
bánh xe lún xuống tận trục thì phải trở về. Nếu các ngài không trở về lúc ấy
các ngài hãy trở về nơi mà các ngài nghe tiếng sấm sét. Nếu các ngài không
trở về lúc ấy thì các ngài hãy trở về nơi mà các ngài thấy một cái lỗ ở phía
trước các xe. Ðừng đi xa nữa.
Song các người ấy không trở lại theo lời ông mà cứ
đi tới mãi. Mallikà nhìn thấy họ và bảo:
- Thưa phu quân, có các cỗ xe xuất hiện kìa.
- Vậy hãy nói cho ta biết - ông bảo - khi nào tất cả bọn chúng trông
giống như một cỗ xe mà thôi.
Khi tất cả bọn chúng đứng thành một
hàng giống như một chiếc xe, nàng bảo:
- Thưa phu quân, thiếp thấy chúng giống như thể cái
đầu của một cỗ xe mà thôi.
- Vậy hãy cầm lấy dây cương.
Vị tướng quân bảo và trao dây cương vào tay bà. Ông
đứng dậy trên cỗ xe và giương chiếc cung
ra. Bánh xe kia lún vào đất đến tận trục xe. Bộ
tộc Licchavi đến tận nơi, thấy thế nhưng không trở lui về. Vị tướng quân kia
tiến lên một đoạn nữa và bật dây
cung lên liền phát ra một tiếng ầm như sấm dậy. Nhưng
đám kia vẫn chưa trở lui về mà cứ
đuổi theo nữa. Bandhula đứng trên xe và
bắn tên ra, mũi tên làm vỡ đầu cả năm trăm cỗ
xe và xuyên qua cả năm trăm vương tử ở
nơi có buộc dây đai rồi chôn vùi xuống
đất. Các vị này không biết họ đã
bị thương nên cứ tiếp tục đuổi theo nữa và
la lớn:
- Dừng lại! Này, dừng lại!
Bandhula dừng xe lại, bảo:
- Các người chết cả rồi! Ta không đánh với
người chết đâu!
Họ bảo:
- Sao, chúng ta thế này mà chết à?
Bandhula bảo:
- Hãy mở dây đai của người đầu tiên
ra.
Bọn kia mở dây đai người ấy, ngay lúc mở dây
ra, người kia liền ngã xuống chết luôn. Lúc ấy vị tướng quân bảo cả
bọn:
- Các người đều bị như vậy cả, hãy về
nhà đi, sắp đặt mọi việc gì cần sắp
đặt, dặn dò vợ con gia tộc, rồi hãy cởi
giáp bào ra.
Họ làm theo như vậy, xong đâu đó, cả bọn đều
trút hơi thở cuối cùng.
Về sau, tướng Bandhula đưa Millikà về
Xá-vệ. Bà sinh ra những cặp song nam liên tiếp mười sáu lần, chúng
đều lớn lên dũng mãnh anh hùng, thành
đạt trọn vẹn trong mọi việc. Mỗi người lại có
cả ngàn quân tùy tùng và khi chúng theo cha vào chầu vua, riêng phần
chúng đã
đứng chật cả sân chầu.
Một ngày kia, một số người thua kiện vì bị vu cáo, thấy Bandhula
đi đến, liền lên tiếng kêu than vang
dậy, và bảo cho ông biết các quan tòa đã
hỗ trợ một chuyện vu cáo. Vì thế Bandhula vào triều, xử lại vụ án rồi cho
phần mỗi người như cũ. Ðám đông hò reo
tán thưởng. Vua hỏi việc gì và khi nghe vậy, ngài rất hoan hỷ. Ngài chuyển
các quan tòa kia đi xa, giao cho Bandhula trọng
trách xử án, từ đó ông xử rất công minh. Sau đó các quan tòa kia trở
nên nghèo khó, ví họ không còn nhận hối lộ nữa, nên họ phỉ báng Bandhula
đến tận tai vua, kết tội vị tướng quân này
muốn nhắm chiếm ngai vàng; vua nghe lời họ, không sao tránh khỏi hoài nghi.
Song vua suy nghĩ đắn đo: "Nếu lão ấy bị
chết tại đây thì ta sẽ bị trách cứ".
Ngài liền ra lệnh cho một số người cướp phá các vùng thị trấn ở biên
địa, rồi mời Bandhula đến và bảo:
- Biên thùy đang gặp khói lửa, khanh hãy
cùng các công tử đi bắt bọn cướp kia.
Vua cũng đưa đi một số chiến sĩ dũng cảm, tài
ba, rồi căn dặn họ giết cả vị tướng quân cùng
ba mươi hai công tử kia, cắt lấy đầu đem về.
Khi ông lên đường, bọn cướp đánh thuê
ấy biết tin đại tướng đến, liền bỏ chạy. Vị
tướng quân định cư lập nghiệp cho dân khu vực ấy rồi dẹp yên thành
phố xong lên đường về. Sau đó khi ông đến gần
kinh đô, các tùy tướng kia lại cắt đầu
ông cùng các công tử.
Ngày hôm ấy Mallikà mời hai vị Ðại đệ tử cùng
với năm trăm vị Tỷ-kheo. Từ sáng sớm đã
có thư đưa vào cho bà báo tin chồng bà
và các công tử đã mất
đầu. Khi nghe vậy bà không nói với ai
một lời, bà nhét thư vào áo, và lo dọn bữa cơm mời chúng Tỷ-kheo. Khi các
gia nhân của bà đã cúng dường cho các
Tỷ-kheo xong, lại mang vào một chén đựng bơ
tươi, vô ý làm vỡ cái chén ấy ngay trước Tăng
chúng. Lúc ấy vị tướng quân Chánh pháp (Sàriputta) bảo:
- Chén bát được làm ra
để đánh vỡ, xin bà
đừng buồn phiền việc ấy.
Vị phu nhân đưa lá thư từ trong nếp áo ra
đáp:
- Ðây đệ tử được bức thư báo tin phu quân và
ba mươi hai con trai của đệ tử đã bị cắt
đầu. Nếu đệ tử không buồn phiền việc ấy, có lẽ
nào lại buồn phiền khi cái chén bị đánh
vỡ?
Vị Tướng quân Chánh pháp bấy giờ bắt đầu
nói:
- Không được thấy, không được biết là
đời người dưới đây...v.v...(Kinh tập, Kinh Mũi
tên, kệ 574).
Rồi từ chỗ đứng dậy, ngài thuyết pháp
và ra về.
Phu nhân liền triệu tập ba mươi hai nàng dâu lại bảo:
- Phu quân của các con mặc dù vô tội, đã
thọ lãnh nghiệp quả đời trước. Các con đừng sầu
bi, cũng đừng tạo ác nghiệp nặng hơn tội của vua.
Phu nhân khuyên nhủ như vậy. Bọn thám tử mật của vua nghe lời này, trình
với vua rằng họ chẳng oán hận. Sau đó, vua ân
hận đi đến nhà phu nhân cầu xin Mallikà và các con dâu của bà tha thứ
và ban một điều ước. Bà
đáp:
- Xin nhận.
Bà cử hành tang lễ xong, tắm rửa rồi đến yết
kiến vua. Bà nói:
- Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã ban
cho thần thiếp một ân huệ. Thần thiếp xin điều
gì ngoài chuyện này: đó là xin
Thánh thượng cho phép thần thiếp cùng ba mươi hai con dâu trở về nhà cha mẹ
của mình.
Vua chấp thuận. Bà liền đưa mỗi nàng
dâu về nhà cũ, xong chính bà cũng về nhà cha mẹ mình ở thành Kusinàra. Rồi
vua phong chức đại tướng cho một vị Dìgha-Kàràyana,
con trai của một bà chị đại tướng Bandhula.
Song vị này đi đâu cũng vạch tội vua và
bảo:
- Vua đã giết cậu ta.
Mãi lâu sau vụ giết hại vị tướng quân vô tội Bandhula ấy, vua cứ bị hối
hận giày vò nên tâm hồn không còn thanh thản, ngài không cảm thấy hứng thú
khi được làm vua nữa. Thời ấy, bậc Ðạo
Sư ở gần một thị trấn của dòng họ Thích-ca tên là Ulumpa. Vua
đến đó đóng trại không xa hoa viên ấy,
và cùng vài cận thần đi đến tinh xá để đảnh lễ
bậc Ðạo Sư. Vua đem trao năm biểu tượng
của vương quyền cho Kàràyana, rồi một mình
đi vào Hương phòng. Mọi việc tiếp theo
được mô tả như trong Kinh Dhammacetiya (Pháp
Trang nghiêm, Trung bộ, số 89).
Khi vua bước vào Hương phòng của đức Phật, Kàràyana
cầm lấy năm biểu tượng của vương quyền ấy và
tôn Vidùdabha lên làm vua, chỉ để lại đó cho
vua cũ một con ngựa và một nữ tỳ, rồi đi
đến Xá-vệ.
Sau buổi đàm thoại vui vẻ với bậc Ðạo
Sư, vua trở về chẳng thấy binh sĩ đâu cả, ngài
hỏi người nữ tỳ, và biết được mọi việc đã
xảy ra. Rồi ngài đi đến kinh thành Vương
Xá, quyết định đem theo người cháu trai cùng
ngài đi bắt sống Vidùdabha. Khi vua
đến kinh thành thì trời
đã tối, cổng thành
đã đóng, nên
ngài nằm nghỉ trong một túp lều, bị đuối sức vì
dãi dầu sương gió, ngài băng hà tại
đó.
Khi đêm vừa sáng dần, cô nữ tỳ bắt
đầu gào khóc:
- Trời ơi! Ðại vương Kosala đã vô
phương cứu chữa rồi!
Có người nghe tiếng kêu than liền đưa tin
đến vua xứ ấy (tức Ajàtasattu). Vua này liền cử hành tang lễ cho cậu
mình rất trọng thể.
Sau khi vua Vidùdabha an vị trên ngai vàng, nhớ lại mối thù xưa của mình
và quyết định đi sát hại tất cả dòng họ
Thích-ca. Với mục đích trên, vua lên
đường cùng với
đám đông binh sĩ. Sáng tinh sương hôm ấy, bậc
Ðạo Sư nhìn xuống cõi trần, thấy việc tàn sát kia
đang hăm dọa thân tộc Ngài, Ngài nghĩ
thầm: "Ta phải cứu độ thân tộc ta".
Vào buổi sáng, Ngài ra đi khất thực, và
sau khi dùng bữa xong trở về an nghỉ với dáng nằm như sư tử trong Hương
phòng của Ngài. Vào buổi chiều, sau khi đã
bay qua không gian đến một nơi gần Ca-tỳ-la-vệ,
ngồi dưới một gốc cây đổ bóng thưa thớt; gần đó, một cây đa khổng lồ rợp
bóng sừng sững trên biên thùy vương quốc của vua Vidùdabha. Khi thấy
bậc Ðạo Sư, vua Vidùdabha đến gần đảnh lễ Ngài
và nói:
- Bạch Thế Tôn, tại sao Thế Tôn lại ngồi dưới gốc cây thưa thớt như vậy
trong bầu trời nóng nực này?
Ngài đáp:
- Thưa Ðại vương, cứ để mặc Ta. Bóng cây của
thân tộc Ta khiến cho Ta mát mẻ.
Vua suy nghĩ: "Chắc hẳn bậc Ðạo Sư đến đây
để che chở cho thân tộc Ngài".
Vì thế vua đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi lại
trở về Xá-vệ. Còn bậc Ðạo Sư đứng dậy đi đến Kỳ
Viên. Lần thứ hai vua nhớ lại mối hận thù của mình
đối với dòng họ Thích-ca, lần thứ hai
vua lên đường, cũng thấy bậc Ðạo Sư ngồi
đúng chỗ cũ, nên vua lại ra về.
Lần thứ tư vua ra đi, và bậc Ðạo Sư,
khi xem xét kỹ những nghiệp quả quá khứ của dòng họ Thích-ca, nhận thấy rằng
không thể nào tránh được hậu quả của ác nghiệp
kia trong việc họ đã thả thuốc độc xuống
dòng sông, nên Ngài không đi đến đó lần
thứ tư nữa. Lúc ấy vua Vidùdabha giết hết dòng họ Thích-ca, bắt
đầu bằng những hài nhi còn bú, lấy máu
trong tim chúng và rửa cái ghế ngồi, rồi ra về.
Vào ngày mà bậc Ðạo Sư ra đi lần thứ ba đã
trở về, sau khi du hành khất thực, và đã
dùng bữa xong, Ngài đang nằm nghỉ trong Hương
phòng, Tăng chúng từ mọi nơi tụ tập
trong Chánh pháp đường. Khi ngồi lại với nhau, Tăng chúng bắt đầu nói đến
công hạnh của bậc Ðạo Sư:
- Này các Hiền gỉa, bậc Ðạo Sư chỉ cần xuất hiện và khiến cho vua lui về,
là giải quyết cho thân tộc Ngài khỏi nỗi sợ chết. bậc Ðạo Sư thật là một
người bạn lành, hay cứu giúp gia tộc.
Bậc Ðạo Sư đi vào, hỏi Tăng
chúng đang nói chuyện gì trong khi ngồi tại
đó. Tăng chúng thưa lại với Ngài. Sau
đó, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo. không phải chỉ bây giờ Như Lai mới hành
động vì lợi ích của các người thân tộc,
mà ngày xưa Như Lai cũng đã làm như thế.
Cùng với lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, và thực hành Thập
vương pháp (Mười đức tính của vua hiền), ngài
nghĩ thầm: "Khắp cõi Diêm-phù-đề này,
vua chúa đều sống trong các cung điện có nhiều
cột trụ chống đỡ. Vậy một cung điện được nhiều cột trụ chống đỡ chẳng kỳ
diệu gì, song nếu ta xây một cung điện
chỉ có một trụ chống đỡ thì sao?...Lúc ấy ta sẽ thành vị
đế vương bậc nhất giữa các vị vua!" Do vậy ngài
triệu tập các nhà kiến trúc lại, bảo họ xây cất cho ngài một cung
điện nguy nga chỉ dựng trên một cột trụ
thôi. Họ thưa:
- Xin tuân lệnh.
Rồi họ đi sâu vào rừng. Tại
đó, họ ngắm nghía nhiều cây thẳng tắp, cao lớn
xứng đáng làm cây cột trụ duy nhất của một cung
điện sang trọng như thế. Họ bảo nhau:
- Ðây có đủ các cây loại này, song
đường sá gồ ghề, ta chẳng bao giờ chở chúng
theo được, vậy ta phải thỉnh ý đức vua về chuyện đó.
Khi họ tâu như vậy, vua đáp:
- Hãy dùng cái móc hay neo mà kéo chúng về, thế càng nhanh nữa.
Song họ thưa:
- Chẳng cái móc nào làm được việc này
cả.
Vua phán:
- Vậy thì hãy tìm một cây trong thượng uyển của trẫm.
Các nhà xây dựng đi vào vườn ngự, tại
đó họ nhìn thấy một cây Sàla dáng vương
giả cao quý, thẳng tắp, cành là sum suê, vẫn
được dân làng, thị trấn tôn sùng, ngay cả hoàng tộc cũng thường
đến chiêm bái, và dâng lễ vật. Họ liền
tâu lại với vua. Ngài phán:
- Trong vườn ngự của trẫm kia, các khanh đã
tìm ra cho trẫm một cây đại thọ. Tốt lắm! Vậy
hãy đi đẵn nó xuống ngay.
Họ đáp:
- Xin tuân lệnh.
Họ đến khu vườn ngự, đôi tay cầm đầy các tràng
hoa thơm và các hương liệu khác, sau đó treo lên
cây một tràng hoa năm chùm, cuộn quanh
thân cây một sợi dây thừng, buộc vào đó một bó
hoa thơm, rồi vừa thắp hương đèn, vừa chiêm bái vừa khấn rõ:
- Từ nay đến bảy ngày nữa, chúng tôi
sẽ đẵn cây xuống theo lệnh vua truyền. Cầu xin
các Thần cư ngụ trên cây này hãy đi nơi
khác, và đó không phải lỗi chúng tôi.
Vị thần sống trên cây nghe nói vậy, nghĩ thầm:
"Những người xây dựng này quyết đốn cây
xuống và phá hoại chỗ cư ngụ của ta. Nay
đời ta chỉ kéo dài bao lâu còn nơi cư trú này, có các thân quyến
thuộc của ta cư trú thật đông, cũng sẽ bị phá
hủy. Sự hủy hoại thân ta không quan trọng bằng sự tiêu giết
đám con cháu ta. Vậy ta phải bảo vệ sinh mạng
chúng."
Thế là vào lúc nửa đêm, với trang
phục huy hoàng, uy nghi, vị Thần cây bước vào cung thất lộng lẫy của vua,
chiếu ánh sáng rực rỡ khắp phòng và đứng khóc
cạnh chiếc gối của vua. Ngài rất kinh hãi khi thấy vị thần, liền thốt
lên vần kệ đầu:
1. Ngài là ai, đứng giữa không gian,
Mình khoác xiêm y tựa thánh thần,
Sao nỗi kinh hoàng kia phát khởi,
Mắt ngài sao đẫm lệ tuôn tràn?
Nghe vậy, vị chúa tể Thần cây ngâm hai vần kệ:
2. Ở trong quốc độ, hỡi quân vương,
Người biết danh cây: Ðại Cát Tường,
Ðã sáu mươi ngàn năm vẫn đứng,
Toàn dân đều cúng bái ta luôn.
3. Dù chúng dựng xây lắm thị thành,
Lâu đài vương xá, các cung
đình,
Tuy nhiên, chúng chẳng hề phiền nhiễu,
Cũng chẳng gây tai hại thần linh,
Vì chúng tôn sùng ta đến thế,
Xin ngài, Chúa thượng cũng tôn vinh!
Tiếp theo, vua ngâm hai vần kệ khác:
4. Song một thân cây vĩ đại này,
Trẫm chưa hề thấy tự xưa nay,
Chu vi đẹp cả chiều cao nữa,
Hùng mạnh, một cây vững chắc thay.
5. Trẫm muốn xây nên mỹ lệ cung,
Chỉ cần độc nhất trụ làm chân,
Trẫm muốn đặt ngài vào chỗ
đó,
Ðời ngài không ngắn ngủi đâu Thần.
Nghe vậy, vị Thần chúa ngâm hai vần kệ:
6. Vì ngài mong muốn đẵn cây thần
Xin hãy chặt ta nhỏ mỗi phần,
Và xẻ thân này từng mảnh một,
Hoặc đừng gì cả, tấu Anh quân.
7. Hãy chặt trước tiên lấy đỉnh đầu,
Kế là phần giữa, gốc về sau,
Nếu ngài đốn được ta như thế,
Cái chết chẳng còn tạo khổ sầu.
Sau đó, vua lại ngâm hai vần kệ:
8. Trước hết chân tay, kế mũi tai,
Khi người lâm nạn chửa tàn hơi,
Cuối cùng thủ cấp này rơi xuống,
Cái chết này đau đớn rụng rời.
9. Cát Tường cổ thụ! Chúa sơn lâm!
Lạc thú gì ngài cảm thấy chăng?
Sao, lý do gì ngài ước muốn
Thân cây được xẻ nhỏ từng phần?
Ðại thọ Cát tường liền đáp lời qua hai vần
kệ:
10. Vì lý do nào cao cả thay,
Cớ sao ta muốn xẻ thân này,
Phân ra từng mảnh, tâu Hoàng thượng,
Xin lắng nghe lời ta nói đây.
11. Quanh ta phồn thịnh đám thân bằng,
Sinh trưởng nhờ nơi trú vẹn toàn,
Nếu ta ngã mạnh, đè tan chúng,
Nỗi đớn đau kia sẽ ngập tràn.
Vua nghe vậy xong, lòng đầy hoan hỷ: "Vị
thần này thật cao cả thay, ngài không muốn quyến thuộc mình phải mất
nơi trú ẩn do việc ngài mất chốn cư ngụ của riêng ngài. Thế là ngài hành
động vì lợi ích của thân tộc mình."
Và vua ngâm kệ cuối cùng:
12. Cát tường cổ thụ, Chúa rừng xanh!
Tư tưởng ngài cao cả thật tình,
Ngài muốn giúp thân bằng quyến thuộc,
Vậy trẫm cho ngài thoát hãi kinh!
Vị Thần chúa, sau khi thuyết giáo vua xong, liền ra
đi. Còn vua an trú vào lời khuyên nhủ
của ngài, bố thí và làm nhiều thiện sự khác cho
đến khi vua mạng chung, đi lên cộng trú với các hội chúng ở cõi Trời.
*
Sau khi chấm duat Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, như thế là Như Lai vẫn hành
động vì lợi ích của thân bằng quyến
thuộc mình.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy Ànanda là vua kia, các đệ tử
của đức Phật là các thần trú thân trong các cây con của cây Sàla, và
Ta chính là Cổ thụ Cát tường, vị Thần chúa.
-ooOoo-
466. Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả (Tiền thân Samudda - Vànijà)
Người thì gieo hạt, kẻ đi cày...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa)
khi ông bị đọa xuống địa ngục, kéo theo năm trăm gia đình bị
đọa luôn.
Bấy giờ, lúc hai Ðại đệ tử là
Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên)
đưa các Tỷ-kheo đã theo vị ấy trở về
cùng mình, Ðề-bà-đạt-đa không thể nào
chịu đựng khổ đau, nên
đã khạc ra máu và sắp từ giã cõi
đời, ông tự nhủ: "Trong chín tháng ròng
ta đã nghĩ xấu về
đức Như Lai, song trong tâm của đức Như Lai
không hề có một ác ý đối với ta, trong tám mươi vị trưởng lão cũng
không ai làm gì hại ta, bởi chính vì những hành
động của ta mà ta thành kẻ bơ vơ lạc lõng, ta
đã bị bậc Ðạo Sư từ bỏ rồi, các Trưởng
lão, Tôn giả La-hầu trưởng tộc, cùng tất cả hoàng tộc dòng họ Thích-Ca, nên
ta muốn đến gặp bậc Ðạo Sư và hòa giải
với Ngài. "Vì thế ra hiệu cho các đệ tử, ông
bảo họ mang ông trên chiếc cáng, rồi du hành suốt ngày
đêm đến
kinh thành xứ Kosala.
Trưởng lão Ànanda thưa với bậc Ðạo Sư:
- Họ bảo rằng Ðề-bà-đạt-đa đang đi đến làm
hòa với đức Thế Tôn.
- Này Ànanda, Ðề-bà-đạt-đa không được gặp ta
đâu.
Khi ông đã
đến thành Xá-vệ, Tôn giả lại thưa trình
với bậc Ðạo Sư, và đức Thế Tôn cũng trả lời như
trước. Khi ông đến cổng Kỳ Viên và tiến về hồ Kỳ Viên, tội ác
đã đến tột
đỉnh; một cơn sốt nổi lên trong người khiến ông muốn tắm và uống
nước, vì thế ông ra lệnh cho họ đưa mình
ra khỏi cái cáng để có thể uống nước. Khi ông
vừa bước xuống và đứng trên mặt
đất thì, trước khi ông có thể giải khát
cho mình, quả đất rộng há miệng ra, một ngọn
lửa phát xuất từ địa ngục tận cùng Avìci (A-tỳ hay Vô gián) bao phủ
lấy ông. Trong lúc biết các ác nghiệp của mình
đã lên đến cực điểm, cùng nhớ lại
các công đức của Như Lai, ông ngâm vần kệ này:
Nắm xương này đem đến Tối thượng Nhân,
Bậc Toàn tri, đây trăm tướng tốt lành,
Bậc điều ngự tâm người, hơn Thiên chủ,
Tâm trí ta bay về Ngài Giác Ngộ.
Song chính ngay trong hành động tìm
nơi an trú này mà ông bị đọa vào ngục
A-tỳ và có năm trăm gia đình của các
đồ đệ ông, những gia đình
đã theo ông phỉ báng
đấng Thập Lực (Dasabala) gièm pha ngài,
nên cũng tái sinh vào ngục A-tỳ. Như thế ông xuống
địa ngục A-tỳ, kéo theo mình cả năm
trăm gia đình.
Vì vậy một ngày kia, Tăng chúng nói chuyện
trong Chánh pháp đường:
- Này Hiền hữu Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa ác độc
vì tham lợi dưỡng đã vô cớ khởi
lên lòng sân hận với bậc Chánh Ðẳng Giác và không biết
đến nỗi kinh hoàng trong tương lai, nên
cùng với năm trăm gia đình
đọa xuống địa ngục. Bậc Ðạo Sư bước vào
hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Hội
chúng liền thưa lại Ngài. Ngài bảo:
- Này cácTỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa vì ham
lợi dưỡng và danh vọng nên không nhìn thấy những mối kinh hoàng trong tương
lai, và ngày xưa cũng như bây giờ, vì không nhìn thấy những nỗi khủng khiếp
trong tương lai mà kẻ ấy cùng các đệ tử tham
muốn lạc thú hiện tại, nên phải chịu hoàn toàn hủy diệt.
Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng nghe
một chuyện quá khứ.
*
Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba la nại, gần thành Ba la nại
có một thị trấn lớn của các người thợ mộc, gồm một ngàn gia
đình, những thợ mộc từ thị trấn này
thường tự xưng là họ đóng giường, ghế, nhà
cửa và thường sau khi nhận tiền trước của dân chúng, lại tỏ ra không có năng
lực để làm gì được cả. Dân chúng thường
trách mắng bất cứ người thợ mộc nào tình cờ họ gặp mặt và gây trở
ngại cho bọn họ. Vì thế bọn người mắc nợ này gặp phiền nhiễu
đến độ không thể nào sống yên ở
đấy được nữa. Bọn họ bảo nhau:
- Chúng ta hãy đi ra xứ khác và kiếm
một nơi nào đó ẩn thân.
Thế là họ vào rừng, đẵn cây, làm
thuyền lớn phóng xuống sông đẩy thuyền ra khỏi
thị trấn khoảng chừng ba phần tư dặm, thì kéo thuyền vào bờ. Sau
đó vào nửa
đêm, họ trở về thị trấn tìm gia đình
mình đưa lên thuyền rồi xuôi dòng tiến
ra biển cả. Họ gặp thuận buồm xuôi gió cho đến
khi cập vào một hòn đảo nằm giữa đại
dương.
Lúc bấy giờ trên đảo ấy đã mọc lên
nhiều loại cây rừng có trái như lúa gạo, cây mía, chuối, xoài, mận, mít, dừa
và đủ các loại khác nữa. Trước bọn ấy đã
có một người bị đắm tàu và chiếm lấy
đảo này. Sống tại
đó, ăn lúa gạo và thưởng thức cây mía
cùng các loại cây khác, nhờ thế gã trở thành lực lưỡng cường tráng, gã sống
trần truồng, râu tóc dài ra. Bọn thợ mộc suy nghĩ: "Nếu
đảo có loài quỷ ở thì bọn ta chắc phải
chết hết; vì vậy ta muốn thám hiểm xem sao."
Sau đó bảy thanh niên dạn dĩ lực
lưỡng, trang bị năm thứ vũ khí, rời thuyền đi
thám hiểm đảo này.
Ngay lúc ấy người sống sót trên đảo vừa ăn
sáng xong, uống nước mía và trong lúc sảng khoái nằm dựa lưng trên
một nơi xinh tươi, mát mẻ dưới bóng cây trên bãi cát lấp lánh như một cái
đãi bạc, gã suy nghĩ: "Những người sống
ở cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không thể có
được niềm hạnh phúc này, những người cày
cấy kia, còn hòn đảo này
đối với ta tuyệt hơn cả cõi Diêm-phù-đề
nữa." Gã liền vui mừng trong niềm cực lạc ấy.
*
Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ đầu để giải thích
người sống trên hoang đảo này ca
hát vì niềm hoan lạc như thế nào:
1. Người thì gieo hạt, kẻ đi cày,
Sống với mồ hôi ở cuối mày,
Chúng chẳng hưởng vùng ta được sống,
Hơn xa Ấn Ðộ chính nơi này!
*
Những người đi thám thính hòn
đảo bắt gặp tiếng hát của gã, bảo nhau:
- Hình như ta nghe tiếng người, ta hãy đến làm
quen với người đó.
Theo tiếng hát họ đi đến gặp người kia,
nhưng vẻ bề ngoài của gã làm họ kinh hãi. Họ kêu lên:
- Có phải quỷ đó chăng?
Rồi họ tra mũi tên vào cây cung. Khi người kia thấy họ, gã sợ bắn bị
thương nên la to:
- Ta không phải quỷ đâu, ta là
người đấy, các ông ơi, xin tha mạng cho ta.
- Sao? - Họ bảo - Người ta lại trần truồng và không có gì bảo vệ như người ư?
Họ hỏi đi hỏi lại mãi, cũng chỉ nhận
được câu trả lời ấy, rằng gã là con
người. Cuối cùng họ đến gần gã và mọi
người trò chuyện vui vẻ với nhau, những kẻ mới
đến hỏi gã làm sao đến đó được. Gã
kể cho họ nghe sự thật về việc này. Gã bảo:
- Do thiện nghiệp của các bạn mà các bạn đã
đến đây, đảo này là phần thưởng của các
bạn. Ðây là đảo tuyệt hảo. Ở đây các bạn không
cần làm việc với đôi tay để sinh sống,
gạo mía và các loại cây khác ở đây có vô
tận, tất cả đều mọc hoang. Các bạn sống ở đây không còn lo ngại gì
nữa.
Họ hỏi:
- Có gì khác cản trở cuộc sống của ta ở đây
chăng?
- Không sợ gì cả trừ một điều: đảo này
có loài quỷ dữ, lũ quỷ này sẽ nổi giận khi thấy phân thải ra từ cơ thể các
bạn; vậy khi bạn muốn đại tiện, hãy
đào lỗ trong cát chôn
đi. Ðó là mối nguy hiểm duy nhất, ngoài
ra không còn gì nữa, chỉ nhớ luôn luôn cẩn thận
điều này.
Sau đó họ lên cư ngụ trên
đảo này. Song giữa
đám một ngàn gia
đình này, có hai người cai thợ, mỗi
người dẫn đầu năm trăm gia đình trong
đó, một kẻ ngu si tham ăn món thượng hạng,
người kia khôn ngoan và không thích chiếm phần ưu thắng trong mọi sự
đời.
Theo thời gian họ tiếp tục sống tại đó, tất
cả đều thành lực lưỡng cường tráng. Sau
đó bọn họ suy nghĩ: "Lâu nay chúng ta không vui chơi gì cả, ta muốn
làm một ít rượu mạnh với nước mía". Vì thế họ làm rượu mạnh, và say sưa, ca
hát, nhảy múa, vui đùa. Sau
đó họ vô ý đi đại tiện bừa bãi khắp nơi
mà không chôn dấu đi, nên họ
đã làm cho hòn
đảo hôi hám thật ghê tởm. Các thần linh
tức giận vì bọn người này làm nơi giải trí vui chơi thành ô uế.
Các thần bàn tính kỹ lưỡng:
- Chúng ta sẽ dâng nước biển trên đảo để rửa
sạch đảo này chăng? Nay là nửa
tháng tối trời, cuộc hội họp của ta phải đình
hoãn lại. Ðược rồi, vào ngày thứ mười lăm kể từ
nay, vào ngày đầu tiên trăng
tròn, vào giờ trăng mọc, chúng ta sẽ
dâng nước biển lên và tận diệt chúng
Như vậy các thần đã
định ngày. Lúc này một vị Thần công
chính trong đám ấy suy nghĩ: "Ta không muốn các
người này chết trước mắt ta." Vì thế do lòng từ mẫn, vào lúc bọn
người đang ngồi trước cửa trò chuyện vui
vẻ, sau buổi cơm chiều, vị này làm cho toàn hòn
đảo sáng lòa, với phục sức đầy vẻ huy hoàng,
đứng trên không hướng về phía Bắc và nói
với bọn họ như vầy:
- Này các thợ mộc, các thần linh nổi cơn thịnh nộ vì các ông. Ðừng sống ở
đây nữa, vì trong nửa tháng kể từ nay
các thần sẽ dâng nước biển lên giết hết các ông
đó. Vậy phải trốn khỏi nơi này.
Rồi Ngài ngâm vần kệ thứ hai:
2. Trong hai tuần nữa thấy tròn trăng,
Từ biển này dâng ngọn sóng thần
Tràn ngập đảo to này: Hãy vội
Di cư để khỏi hại người dân.
Cùng với lời khuyên này vị ấy trở về nơi ở của mình. Khi vị ấy
đi rồi, một vị thần bạn là một hung
Thần, suy nghĩ: "Có lẽ dân chúng sẽ theo lời vị ấy khuyên mà trốn hết, còn
ta muốn cản trở việc chúng đi, để làm
cho chúng phải tiêu diệt hoàn toàn." Vì vậy vị Thần này trang
điểm thật huy hoàng, tỏa ra một luồng
ánh sáng lớn, bao trùm khắp hòn đảo ấy, và
đến gần đại chúng, đứng trên không hướng
về Nam, trong khi ông hỏi:
- Có một vị thần vừa đến đây chăng?
Họ đáp:
- Thưa có.
- Vị ấy nói gì với ông?
Họ đáp:
- Tâu Thần chúa biển cả, những việc như vầy như vầy.
Lúc ấy vị Thần bảo:
- Vị Thần này không muốn các ông sống ở đây,
nên đã nói thế trong cơn thịnh
nộ. Vậy đừng đi nơi khác, mà cứ ở lại
đây.
Cùng với những lời này, vị Thần ngâm hai vần kệ:
3. Theo nhiều dấu hiệu đã nêu rằng
Dân chúng nghe tin đợt sóng thần
Sẽ chẳng hề tràn lên đảo lớn,
Vui lên đừng sợ, chớ đau buồn.
4. Các ông gặp chốn rộng nơi đây,
Các thức uống ăn lại đủ thay,
Ta thấy chẳng gì nguy, cứ hưởng
Ðến đời sau, lạc thú như vầy.
Sau khi nói vậy qua hai vần kệ để làm
nhẹ nỗi lo âu của dân chúng, Thần này ra đi.
Khi ông đi rồi, người thợ mộc ngu si cất cao giọng lên, và không
để ý đến lời nói của vị Thần công chính, gã
kêu lên:
- Xin quý ngài nghe theo ta.
Gã nói với mọi người thợ mộc bằng cách ngâm vần kệ thứ năm:
5. Từ hướng Nam, Thần ấy hét vang,
Chúng ta nghe: "Vạn sự bình an",
Từ Thần này nói là thật,
Sợ hãi, hay không phải hoảng hồn,
Vị Bắc thần kia nào có biết,
Vui lên đừng sợ, chớ lo buồn!
Khi nghe gã nói, năm trăm người thợ mộc tham
hưởng lợi lạc muốn nghe theo lời khuyên của gã ngu si
đó. Song lúc ấy người thợ mộc khôn ngoan không
chịu nghe theo gã, và vẫn nói với đám
thợ mộc, vừa ngâm bốn vần kệ:
6. Khi nói ngược nhau, nhị hải Thần,
Một kêu sợ hãi, một an toàn,
Nghe lời ta dặn, e giây lát
Tất cả người đây chết cả đoàn.
7. Ta cùng xây một đại thương thuyền,
Thuyền lớn, hành trang cất hết lên,
Nếu vị Nam thần này nói thật,
Thần kia nói nhảm nhí quàng xiêng;
8. Khi cần, thuyền sẽ ích cho ta,
Ta chẳng rời ngay đảo ấy mà,
Song nếu Bắc thần kia nói đúng,
Thần Nam chỉ nói chuyện điên rồ,
Ta cùng lúc ấy lên thuyền cả,
Nơi có bình an, sẽ vội qua,
9. Ðừng xem ưu, liệt, chuyện vừa nghe,
Ai để lọt tai cả mọi phe,
Xét kỹ, rồi theo phần chính giữa,
Bến bình an nhất, kéo neo về.
Sau đó người ấy lại nói:
- Này bây giờ, chúng ta hãy nghe theo lời cả hai vị Thần ấy. Ta hãy
đóng thuyền, rồi nếu lời của vị thần thứ nhất là
đúng sự thật, ta sẽ leo lên thuyền và ra
đi; và nếu lời vị thần thứ hai
đúng thì ta sẽ cất thuyền chỗ khác và ở
lại đây.
Khi người ấy nói vậy xong, người thợ mộc ngu si bảo:
- Anh cứ đi mà xem con cá sấu nằm
trong chén trà! Anh thật quá ư chậm trí! Vị Thần thứ nhất nói như vậy vì tức
giận chúng ta, còn vị thứ hai nói vì thương yêu chúng ta. Nếu ta rời hòn
đảo tuyệt hảo này, thì ta sẽ
đi đâu nữa? Song nếu anh cần phải đi thì
cứ đi mà
đóng thuyền, bọn ta không cần thuyền, bọn ta ở đây!
Người thợ mộc khôn ngoan cùng những người theo phe mình,
đóng một con thuyền, đặt mọi hành trang
lên thuyền, rồi cả bọn đứng vào thuyền.
Sau đó vào ngày trăng
tròn, đúng lúc trăng mọc, từ đại dương
dâng lên một ngọn sóng bao phủ khắp hòn
đảo đến tận đầu gối, khi người khôn ngoan ấy thấy đợt sóng dâng lên
thì vội thả thuyền ra. Bọn người theo phe người thợ ngu si gồm năm
trăm gia đình, cứ ngồi bảo nhau:
- Một ngọn sóng đã dâng lên trên
đảo. Nhưng nó sẽ không cao hơn đâu.
Sau đó sóng biển dâng cao lên thắt
lưng, rồi cao bằng đầu người, cao tận ngọn cây
dừa, rồi bảy cây dừa, rồi phủ lên khắp hòn
đảo. Con người nhiều mưu trí ấy, biết đủ phương
cách, không than lam các tài vật, nên đã
ra đi an toàn; còn người thợ ngu si tham
của cải, không thấy nỗi kinh hoàng trong tương lai nên
đã bị tiêu hủy cùng năm
trăm gia đình nọ.
*
Và ba vần kệ nữa đầy tính cách giáo hóa, để
làm sáng tỏ vấn đề trên, là kệ
phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng:
10. Do nghiệp làm, như giữa đại dương,
Nên người trí hiểu điều sâu kín,
Chẳng phạm ngày sau lỗi cỏn con.
11. Kẻ ngu, khờ dại nuốt tham lam,
Chẳng hiểu tương lai hiểm họa tràn,
Chìm ngập trước nhu cầu hiện tại,
Như người tận số giữa trùng dương.
12. Hãy làm xong việc trước khi cần,
Ðừng để túng cùng phải khổ thân,
Ai đúng thời làm
điều thiết yếu,
Chẳng hề lâm cảnh ngộ đau buồn.
*
Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại
này, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên,
mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã bị
mắc vào bẫy dục lạc hiện tại mà không nhìn thấy tương lai, nên
đã gặp hủy diệt cùng
đồng bọn của kẻ ấy.
Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là người
thợ mộc ngu si, Kokàlika là vị ác Thần đứng ở
phương Nam, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị Thần
đứng ở phương Bắc và ta chính là
người thợ mộc có trí khôn ngoan kia
-ooOoo-
467. Chuyện Dục Tham (Tiền thân Kàma)
Người nào mong ước việc trong lòng...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về một Bà-la-môn
trú ở Xá-vệ, lúc ấy đang đốn cây bên bờ
sông Aciravatì để trồng trọt cày cấy.
Bậc Ðạo Sư nhìn thấy rõ nghiệp duyên của vị này (về khả năng
tu tập) khi Ngài đến Xá-vệ để khất thực,
Ngài liền bước ra khỏi con đường đang đi
để nói chuyện ân cần với ông. Ngài hỏi:
- Này Bà-la-môn, ông đang làm gì
đó?
Người ấy đáp:
- Thưa Sa-môn Gotama, tôi đang đốn cây ở một
khoảng trống để trồng trọt.
Ngài bảo:
-Tốt lành thay, này Bà-la-môn, ông tiếp tục công việc
đi.
Cứ nhu vậy bậc Ðạo Sư đi đến nói chuyện với
ông khi các thân cây đốn xong lại được mang đi nơi khác, và người kia
dọn sạch mẫu đất của mình, và Ngài lại
đến vào lúc cày cấy, hoặc
lúc đào những hố vuông nhỏ để lấy nước.
Bấy giờ vào ngày gieo hạt, vị Bà-la-môn hỏi:
- Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay là ngày Lễ hạ
điền (Lễ Cày bừa) của tôi. Khi bắp chín, tôi sẽ cúng dường nhiều cho
Tăng chúng được đức Phật cầm dầu.
Bậc Ðạo Sư nhận lời cúng dường của ông và ra
đi. Một ngày khác Ngài lại đến và
thấy người Bà-la-môn đang ngắm đám bắp ấy. Ngài
hỏi:
- Này Bà-la-môn, ông đang làm gì
đó?
- Thưa Tôn giả Gotama, tôi đang ngắm đám
bắp.
- Này Bà-la-môn, tốt lắm!
Bậc Ðạo Sư nói rồi đi thẳng.
Lúc ấy Bà-la-môn suy nghĩ: "Tôn Giả Gotama vẫn thường
đi qua đường này lắm thay! Chắc chắn
Ngài cần thực phẩm. Ðược ta sẽ cúng dường thức
ăn cho Ngài."
Vào ngày ý tưởng này xuất hiện trong trí ông, khi về nhà, ông cũng thấy
bậc Ðạo Sư đến nữa. Từ đó trong lòng vị
Bà-la-môn khởi lên một niềm tín thành kỳ diệu.
Dần dần, bắp đã chín, vị Bà-la-môn
quyết định ngày mai sẽ gặt. Nhưng khi
ông ngủ trên giường thì ở khoảng đất trên
sông Aciravatì, mưa trút xuống như chĩnh đổ: lũ
lụt kéo đến mang theo cả mùa màng ra biển, vì thế không còn sót một
cây nào. Khi cơn lũ đã rút, vị Bà-la-môn
thấy hoa màu bị tàn phá, nên không còn sức mà
đứng nữa, tay ông cứ ôm ngực vì quá đau
khổ, ông vừa khóc vừa về nhà, nằm xuống kêu than. Buổi sáng bậc Ðạo
Sư đã thấy vị Bà-la-môn này tràn ngập
khổ đau, Ngài suy nghĩ: "Ta sẽ là nơi
nương tựa của người Bà-la-môn."
Thế là hôm sau, khi đã
đi khất thực quanh Xá-vệ rồi, Ngài trở
về từ nơi thọ dụng thức ăn, bảo các Tỷ-kheo lui
về tinh xá rồi chính Ngài cùng một tiểu thị giả
đi với Ngài
đến nhà ông. Khi vị Bà-la-môn nghe Ngài
đến, thì lòng hoan hỷ, nghĩ thầm: "Chắc hẳn vị hiền hữu của ta
đến để nói chuyện thân mật." Ông mời Ngài
ngồi; bậc Ðạo Sư bước vào ngồi trên một tọa sàng
đã định sẵn
và hỏi:
- Này Bà-la-môn, tại sao ông nản lòng? Việc gì xảy ra khiến ông bất mãn?
- Thưa Sa-môn Gotama, từ lúc tôi đến đây trên
bờ sông Aciravati, Ngài cũng đã biết tôi
làm gì rồi. Tôi đã
đi đây đó, và hứa cúng dường Ngài khi
hoa màu chín, nay cơn lụt đã cuốn trôi
hết mọi hoa lợi ra biển, chẳng còn lại gì cả. Bắp ngô bị thiêu hủy cả
đến trăm cỗ xe, vì thế tôi
đang sầu khổ lắm đây.
- Này, của mất mát có thể trở lại nhờ than khóc không?
- Thua Sa-môn Gotama, nó không trở lại được.
- Nếu vậy tại sao sầu khổ? Sự giàu sang của người
đời hay thóc lúa, khi còn
đó thì chúng có mặt, và khi mất rồi thì
thôi. Chẳng có vật hữu hình nào không chịu hoạt diện, thôi ông
đừng sầu muộn vì nó nữa.
An ủi ông như thế xong, Ngài nhắc lại Kinh Tham dục (Kinh Tập IV, kệ 766)
vì thích hợp với hoàn cảnh này. Khi Ngài kết thúc bài Kinh Tham dục ấy, vị
Bà-la-môn buồn khổ đã
được an trú vào Sơ quả Dự lưu. Sau khi
làm tan biến nỗi buồn của ông, bậc Ðạo Sư đứng
dậy từ chỗ ngồi và trở về tinh xá. Cả thị trấn
đều nghe tin bậc Ðạo Sư
đã đi tìm
Bà-la-môn đang bị đau đớn hành hạ như
thế nào rồi an ủi ông và an trú ông vào quả Dự Lưu ra sao. Tăng
chúng nói đến việc ấy tại Chánh pháp đường:
- Này các Hiền giả, đấng Thập Lực đã
kết bạn với một vị Bà-la-môn, ngày càng thân thiết,
đã tạo cơ hội thuyết Pháp cho ông,
đang lúc ông gặp cơn đau khổ xé nát cõi
lòng. Ngài an ủi cho vơi niềm đau khổ rối an
trú ông vào quả Dự Lưu.
Bậc Ðạo Sư bước vào, và hỏi:
- Náy các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì
khi ngồi lại đây?
Tăng chúng thưa lại với Ngài. Ngài
đáp:
- Ðây không phải là lần đầu tiên, này
các Tỷ-kheo, mà ta chữa lành nỗi đau buồn của
kẻ ấy, song ngày xưa, đã lâu lắm,
Ta cũng làm như vậy.
Và cùng với những lời này. Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thời, vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại có hai vương tử. Ngài phong
chức phó vương cho thái tử, còn vị thứ hai làm
đại tướng quân. Sau đó khi vua Brahmadatta băng hà, triều thần phải
phong vương cho thái tử bằng nghi lễ quán đảnh.
Song chàng bảo:
- Ta chẳng màng giang sơn quốc độ, hãy
để vương đệ ta trị nước.
Ðại chúng van xin cầu khẩn thái tử, song chàng chẳng muốn chuyện
đó, nên vị vương
đệ được quán đảnh phong vương. Thái tử cũng
không màng ngôi vị phó vương hay chức tước gì cả, khi triều thần xin
chàng ở lại, sinh sống trên mảnh đất trù
phú này, chàng đáp:
- Không, ta không làm gì được trong kinh thành
này cả.
Rồi chàng ra đi, rời khỏi Ba la nại, chàng
đến vùng biên
địa và sống với một gia
đình thương gia giàu có, làm việc bằng
đôi tay của mình. Những người này sau
một thời gian biết được chàng là thái
tử, nên không để cho chàng làm việc nữa,
họ hầu hạ chàng như thể một vương tử phải được cung phụng vậy.
Bấy giờ, sau một thời gian, triều thần đến làng
đó để vẽ họa đồ đồng ruộng. Lúc ấy người lái
buôn nói với vương tử.
- Tâu Ðiện hạ, vì công lao chúng thần phụng dưỡng ngài, mong ngài gửi về
vương đệ của ngài một bức thư
để xin dùm cho chúng thần
được miễn giảm thuế chăng?
Chàng đồng ý làm việc ấy và viết như
sau: "Ta đang sống với một gia đình
thương nhân nọ, ta xin vương đệ vì ta mà
miễn thuế cho họ."
Vua chấp thuận, và làm y theo như vậy. Từ đó
dân làng và dân cả vùng ấy đến gặp chàng
bảo:
- Hãy xin cho chúng thần được miễn thuế, rồi
chúng thần sẽ đóng thuế cho ngài. Chàng làm thỉnh nguyện thư cho họ,
và xin cho họ miễn thuế. Sau đó dân chúng trả
thuế cho chàng. Lúc ấy, lợi tức và danh tiếng chàng rất lớn, cùng với
lợi danh này, lòng tham của chàng cũng khởi lên, vì thế dần dần chàng
đòi cả thị trấn, chàng
đòi chức phó vương cũ và vương
đệ chàng cứ ban cho chàng tất cả. Lúc ấy
lòng tham của chàng cứ tăng trưởng, chàng
không hài lòng với chức vị phó vương, và quyết
định chiếm lại ngai vàng. Nhắm mục đích
ấy, chàng lên đường cùng với một
đám người, đóng tại ngoại ô kinh thành
và gửi thư vào vương đệ chàng:
- Hãy trao quốc độ cho ta, không thì
giao chiến!
Vị vương đệ suy nghĩ: "Ngày trước kẻ
ngu si này đã từ chối ngai vàng,
địa vị phó vương và tất cả; nay lại
bảo: Muốn đánh chiếm lại. Nếu ta giết anh ta
trong chiến trận thì đó là
điều ô nhục cho ta, vậy ta cần gì làm
vua nữa?" Vì thế chàng gửi chiếu chỉ:
-Tiểu đệ không muốn gây binh đao, xin vương
huynh cứ lấy ngai vàng.
Vương huynh chấp thuận việc ấy và phong vương
đệ làm phó vương.
Từ đó chàng cai trị vương quốc. Nhưng
chàng tham lam như vậy, nên một vương quốc chưa làm chàng thỏa mãn mà chàng
muốn hai vương quốc, rồi ba, tuy thế, vẫn thấy lòng tham vô tận.
Thời bấy giờ, Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nhìn ra ngoài. Ngài suy nghĩ:
"Ai là người chăm lo phụng dưỡng cha mẹ đây? Ai
là người bố thí và làm điều thiện đây?
Ai là người bị tham dục chi phối." Ngài suy nghĩ: "Kẻ ngu si này
không hài lòng trị vì ở Ba la nại. Ðược, ta sẽ dạy cho y một bài học."
Vì vậy ngài giả dạng một thanh niên Bà-la-môn,
đứng ở cửa cung rồi đưa tin rằng có một thanh
niên lanh lợi đang đứng ở cửa. Chàng
được phép vào chầu, liền tung hô chúc
tụng vạn tuế vua xong xuôi, vua hỏi:
- Tại sao công tử đến đây?
Chàng đáp:
- Tâu Ðại vương, tiểu sinh có chuyện cần tâu với Ðại vương, song tiểu
sinh muốn được giữ cẩn mật.
Nhờ thần lực của Ðế Thích Thiên chủ, ngay lúc ấy mọi người rút lui cả.
Sau đó chàng thanh niên nói:
- Tâu Ðại vương, tiểu sinh biết ba kinh thành trù phú,
đông dân, quân đội, chiến mã
đều hùng cường, tiểu sinh nhờ quyền lực
của mình sẽ làm chủ ba kinh thành ấy, và sẽ dâng tặng Ðại vương. Song Ðại
vương không được trì hoãn mà phải
đi liền lập tức.
Vua đầy lòng tham nên
đồng ý ngay.
Song vì thần lực của Ðế Thích ngăn cản, nên
vua không hỏi: "Thế công tử là ai, từ đâu đến?
Công tử sẽ nhận lại cái gì?" Ðế Thích Thiên chủ nói vậy xong, trở về
cõi Trời Ba mươi ba.
Sau đó vua triệu quần thần lại, và
bảo họ:
- Một thanh niên vừa đến đây, hứa sẽ lấy và
dâng cho trẫm thống trị ba vương quốc! Các khanh hãy
đi tìm kẻ ấy. Ra lệnh
đánh trống khắp kinh thành, triệu tập
quân sĩ, không được trì hoãn, vì trẫm
sắp chiếm ba vương quốc kia đấy.
Quần thần đáp:
- Tâu Ðại vương, thế Ðại vương có tiếp đãi
thanh niên ấy, hoặc hỏi xem chàng ở đâu chăng?
-Không, không, trẫm không tiếp đãi
chàng, cũng không hỏi chàng ở đâu cả, vậy cứ đi
tìm chàng!
Quần thần đi tìm, song không thể tìm
ra chàng khắp kinh thành này. Nghe vậy, vua buồn bực:
- Quyền cai trị ba kinh thành đã mất
rồi.
Vua lại suy nghĩ liên miên: "Ta bị tước mất vinh quang tột bậc, chắc chắn
thanh niên ấy bỏ đi, bực tức ta lắm vì
chẳng ban cho chàng tiền lộ phí, cũng chẳng cấp nơi cư trú."
Sau đó trong cơ thể vua nóng như thiêu
đốt, trong khi cơ thể nóng bừng như vậy thì
ruột vua mắc bệnh kiết lỵ ra máu; thức ăn đưa vào
lại chảy ra hết, các y sĩ không thể nào chữa trị
được, nên vua kiệt sức. Bệnh trạng vua
được đồn đãi khắp kinh thành.
Lúc ấy, Bồ-tát từ Takkasilà đã trở về
nhà cha mẹ ở Ba la nại, sau khi đã tinh
thông mọi ngành học thuật. Ngài được tin về
vua, liền đi đến cung môn, với ý định chữa bệnh vua nên gửi vào một
tờ sớ tâu rằng có một thanh niên đang sẵn sàng
trị bệnh cho đức vua. Vua phán:
- Các đại danh y lừng lẫy khắp gần xa còn
chưa chữa nổi căn bệnh của trẫm, chứ một thanh
niên làm gì được? Thôi trả tiền lộ phí
cho gã rồi bảo gã ra về.
Thanh niên ấy đáp:
- Ta không cần chi phí chữa bệnh, song ta sẽ chữa lành vua, ngài chỉ cần
trả tiền cho ta món thuốc chữa bệnh mà thôi.
Khi vua nghe vậy, liền chấp thuận cho chàng vào. Chàng thanh niên kính lễ
vua:
- Tâu Ðại vương, chớ sợ gì! Chàng bảo - thần sẽ trị lành bệnh Ðại vương,
song xin Ðại vương nói cho thần nghe nguyên cớ căn
bệnh của Ngài.
Vua nổi thịnh nộ đáp:
- Ngươi hỏi thế để làm gì chứ? Cứ làm
món thuốc chữa trị đi.
Chàng bảo:
- Tâu Ðại vương, đây là phương cách
của y sĩ, trước tiên phải biết vì sao sinh bệnh tật, sau
đó mới làm thuốc chữa cho thích hợp.
Vua phán bảo:
- Thôi được rồi, chú bé.
Và vua bắt đầu kể nguồn gốc căn bệnh, từ lúc
thanh niên hứa hẹn rằng chàng ta sẽ giành lấy và dâng lên vua quyền
thống trị ba kinh thành.
- Như vậy, này bé con, căn bệnh sinh ra từ
lòng tham, chú có giỏi thì chữa đi.
Chàng đáp:
- Sao, tâu Ðại vương, có chiếm được các kinh
thành ấy nhờ buồn phiền chăng?
- Không đâu, bé con.
- Nếu vậy thì tại sao Ðại vương lại buồn phiền? Mọi vật dù vô tri hay có
tri giác, đều phải hủy diệt, bỏ lại tất cả,
ngay cả thân xác của mình. Dù cho Ðại vương có cai trị cả bốn kinh
thành đi nữa. Ðại vương cũng không thể
cùng một lúc ăn bốn mâm cơm, ngủ bốn tọa sàng,
mặc bốn bộ y phục. Ðại vương không nên làm nô lệ cho tham dục, vì khi tham
dục tăng trưởng thì ta không thể thoát
được bốn cảnh khổ.
Sau khi đã khuyến giáo như vậy xong,
bậc Ðại Sĩ thuyết pháp qua các vần kệ sau:
1. Người nào mong muốn việc trong lòng,
Khi ước nguyện kia được vẹn toàn,
Chắc chắn tâm tràn đầy hỷ lạc,
Vì nay đã
đạt được cầu mong.
2. Người nào ước vọng việc trong lòng,
Khi ước vọng kia được vẹn tròn,
Ước vọng tràn vào tâm trí mãi,
Như đang cơn khát gặp oi nồng.
3. Trong loại bò trâu có mọc sừng,
Sừng kia càng lớn, cứ to dần,
Cũng như tâm địa người vô trí
Chẳng biết chút gì, chẳng biệt phân,
Trong lúc người kia càng lớn tuổi,
Thì niềm khát vọng cứ gia tăng.
4. Ðem hết lúa ngô ở cõi đời,
Bò trâu, nô lệ, ngựa, cho người,
Vẫn chưa đầy đủ, này nên biết,
Và giữ đường công chính mãi thôi.
5. Một vua chinh phục cả phàm trần,
Trần thế trải mình tận đại dương,
Ở phía bên này chưa thỏa mãn,
Vật ngoài khơi vẫn thấy thèm thuồng.
6. Dục tham ấp ủ ở trong tim,
Tri túc chẳng hề phát khởi lên,
Người tránh dục tham tìm đúng thuốc,
Người nào tri túc, trí như nguyền.
7. Tối ưu là trí tuệ đầy tràn,
Tham dục không hề đốt cháy tan,
Chẳng có bao giờ người trí tuệ
Lại làm nô lệ của lòng tham.
8. Thiểu dục, phá tan mọi dục tham,
Chẳng ham chiếm đoạt cả trăm phần,
Người kia cũng giống như lòng biển,
Chẳng bị đốt thiêu bởi dục tầm,
Như thợ giày luôn bào guốc, dép,
Hợp làn da bọc ở bàn chân.
9. Cứ mỗi dục tham đuợc bỏ đi,
Một niềm hạnh phúc đến liền khi,
Người nào muốn hưởng tròn an lạc,
Phải bỏ mọi tham dục tức thì.
Nhưng trong khi Bồ-tát ngâm các vần kệ này, tâm ngài chuyên chú vào chiếc
lọng trắng của vua, nên khởi lên nỗi hỷ lạc của thiền
định đạt được qua ánh sáng trắng (một pháp
thiền Kasina). Riêng phần vua được bình
phục khỏe khoắn, liền hoan hỷ đứng lên
từ chỗ ngồi, và nói với ngài:
- Trong khi các y sĩ kia không thể chữa lành trẫm, thì một thanh niên
hiền trí làm cho trẫm khỏe mạnh nhờ phương thuốc trí tuệ.
Rồi vua ngâm vần kệ thứ mười:
10. Tám khúc chàng ngâm đáng tám ngàn,
Ngàn vàng mỗi khúc, Ðại La-môn,
Xin chàng nhận số vàng, vì lẽ
Lời nói chàng nay thật dịu dàng.
Nghe vậy bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ thứ mười một:
11. Dù có ngàn, muôn, triệu, triệu lần
Ngàn vàng, ta cũng chẳng mơ màng,
Như lời kệ cuối vừa ngâm ấy,
Tham dục tâm ta đã lụi tàn.
Vua càng hân hoan hơn nữa, liền ngâm vần kệ cuối cùng
để tán thán bậc Ðại Sĩ:
12. Quả thiếu sinh này thiện trí nhân,
Am tường mọi kiến thức trần gian,
Dục tham kia chính là sinh mẫu
Của khổ đau, chàng mới vạch trần.
Bồ-tát lại bảo:
- Tâu Ðại vương, ngài phải biết tinh cần và bước vào chánh
đạo.
Thuyết giáo cho vua xong, ngài bay qua không gian
đến Tuyết Sơn, và sống suốt
đời làm một ẩn sĩ tu hành. Ngài chuyên
chú hành trì Tứ Vô lượng tâm và được sinh lên
cõi Phạm thiên.
*
Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này các Tỷ-kheo, ngày xưa cũng như bây giờ, Ta
đã làm Bà-la-môn này lành bệnh.
Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy, Bà-la-môn này là vị vua kia và Ta chính là chàng thanh
niên hiền trí.
-ooOoo-
468. Chuyện Ðại vương Janasandha (Tiền thân
Janasandha)
Chúa tể Ja-na nói thế này...,
Chuyên này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về việc giáo hóa
Quốc vương Kosala.
Có một thời, dân chúng bảo rằng vua mê đắm
quyền lực buông mình vào các ác dục, không trị nước công minh, và
ngày càng xao lãng việc đến yết kiến đức Phật.
Một ngày kia, vua nhớ đến đấng Thập Lực
liền suy nghĩ: "Ta phải đến viếng Ngài." Vì vậy, sau khi
điểm tâm, vua ngự lên chiếc vương xa
lộng lẫy, tiến về tinh xá, đảnh lễ Ngài
và ngồi xuống. Ðức Phật hỏi:
- Thưa Ðại vương, thế nào? Ðã lâu Ðại vương không
đến đây?
Vua đáp:
- Bạch Thế Tôn, trẫm quá bận việc nên không có dịp
đến đây hầu cận Thế Tôn.
Ðức Phật bảo:
- Thưa Ðại vương, xao lãng việc đến gặp các
bậc Chánh Ðẳng Giác như Ta thật là không
đúng, Ta là một vị Phật ở ngay một tinh xá trước mặt, có thể khuyến
giáo Ðại vương. Một vị vua phải cai trị sáng suốt, trong mọi phận sự quân
vương, đối với thần dân như cha mẹ đối với con,
từ bỏ mọi ác đạo, không bao giờ quên lãng Thập vương pháp (Mười Ðức
hạnh của một vị vua). Khi một vị vua chân chính,
đám triều thần vây quanh cũng chân chính noi
gương. Thật thế, nếu theo lời giáo huấn của Ta mà Ðại vương
đã phải cai trị chân chính thì cũng
không lạ gì. Nhưng còn những bậc hiền tài ngày xưa, ngay cả thời chưa có một
bậc Ðạo Sư để giáo hóa vua chúa, mà nhờ
tri kiến riêng của chính mình, các vua đó đã
được an trú vào việc thực hành ba thiện nghiệp, thuyết Pháp cho một
đám đông dân chúng và cùng các
đoàn tùy tùng lên cộng trú với các hội
chúng ở cõi Trời.
Cùng với các lời này, theo sự thỉnh cầu của vua, bậc Ðạo Sư kể một chuyện
quá khứ.
*
Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, Bồ-tát sinh ra làm vị
vương tử của chánh hậu. Cha mẹ ngài đặt tên
ngài là vương tử Janasandha.
Bấy giờ đến tuổi trưởng thành và trở
về từ Takkasilà, nơi ngài đã hoàn tất
việc học tập, vua ra lệnh đại xá cho các tù
nhân, và phong ngài chức Phó vương. Sau đó khi
vua cha băng hà, ngài lên ngôi vua và ra lệnh xây sáu bố thí
đường: tại bốn cổng thành, giữa thành và
tại cung môn. Cứ mỗi ba ngày, ngài phân phát sáu trăm
ngàn đồng tiền và làm chấn
động toàn cõi Diêm-phù-đề
vì việc đại bố thí của ngài: ngài
mở cửa ngục ra thả hết, phá bỏ những pháp trường, ngài che chở cho mọi người
bằng bốn thiện pháp (bố thí, thân ái, công bình, thiện trị); ngài giữ Ngũ
giới, hành trì ngày trai giới và cai trị rất công chính. Thỉnh thoảng ngài
hội họp quần thần lại và thuyết Pháp cho họ:
- Các khanh hãy bố thí, thực hành giới đức
chân chánh, đi theo công việc và nghề nghiệp của mình, tự giáo hóa
mình trong lúc còn tuổi thanh niên, lo làm cho giàu có,
đừng cư xử như một tên lừa
đảo trong làng hoặc như một con chó,
đừng quá khắt khe hoặc thô ác, hãy làm
bổn phận với cha mẹ, sống trong gia đình,
hãy tôn trọng các bậc trưởng thượng.
Như vậy ngài khuyến khích quần chúng giữ chánh mạng.
Vào một ngày trai giới trăng tròn
kia, sau khi đã hành trì ngày trai giới
trọn vẹn, ngài tự nhủ: "Ta sẽ thuyết Pháp cho
đại chúng để luôn luôn làm tăng trưởng
lợi lạc cho họ và khiến họ tinh cần trong cuộc sống." Sau
đó ngài ra lệnh
đánh trống lên, bắt
đầu với đám cung phi, sau đó toàn thể
dân chúng trong thành tụ tập lại. Tại sân chầu ngài ngự trên một sàng tọa
lộng lẫy đặt riêng biệt, dưới một ngôi
đình được
tô điểm toàn châu báu, và thuyết Pháp bằng những lời này:
- Hỡi dân chúng trong kinh thành, trẫm sẽ tuyên thuyết cho các người nghe
những việc gì làm cho các người đau khổ và
những việc gì không làm cho các người đau khổ.
Hãy tỉnh giác, chú tâm nghe và khéo tác ý.
*
Bậc Ðạo Sư mở miệng ra, đó chính là
viên bảo châu giữa tất cả các chiếc miệng ở
đời, chứa đầy Chân lý, và với giọng ngọt ngào như mật, ngài giải
thích lời nói này với vua Kosala:
1. Chúa tể Ja-na nói thế này,
Có mười điều đúng thật như vầy,
Nếu người quên việc thi hành chúng,
Thì kẻ đó liền chịu khổ ngay!
2. Không tạo, chẳng tích trữ đúng thời,
Lòng kia giày xéo khổ đau hoài,
Về sau hối tiếc vì suy nghĩ:
"Không kiếm giàu sang thuở trước rồi!"
3. Với người không học, sống gian lao!
Suy nghĩ, ăn năn, nó khổ sầu:
Kiến thức mà nay cần sử dụng,
Nó không thèm học trước đi nào!
4. Hai lưỡi ngày xưa, chẳng thật thà,
Vọng ngôn, ý ngữ chẳng nhân từ:
Xưa ta độc ác và cay nghiệt,
Nay thấy nhân duyên khổ đó mà.
5. Xưa ta sát hại thật hung tàn,
Chẳng một người nào được phát ban,
Vì việc đáng khinh này, (tự
nhủ),
Nay ta phải chịu lắm buồn than.
6. Nó nghĩ, xưa ta lắm thiếp thê,
Ta đành mắc nợ
đám người kia,
Vì ta bỏ chúng theo nàng khác,
Việc ấy, nay ta hối tiếc ghê!
7. Xưa đã chứa
đầy thức uống ăn,
Nay buồn, nó hối tiếc vô ngần,
Nghĩ rằng nó chẳng bao giờ cả
Thuở trước đem ban bố một lần.
8. Nó khổ vì khi có thể làm,
Nó không lo phụng dưỡng chăm nom
Mẹ cha nay đã thành già yếu,
Tuổi trẻ ngày nay đã lụi tàn.
9. Vì đã khinh thường vị giáo sư,
Những người khuyên bảo hoặc ông cha
Cố làm nó đạt tròn tâm nguyện,
Việc ấy gây đau khổ xót xa.
10. Ðối với Sa-môn quá hững hờ,
Nhiều nhà tu khổ hạnh ngày xưa
Sống đời thánh thiện và thông thái,
Khiến nó ăn năn tự bấy giờ.
11. Khổ hạnh thực thi thật tốt lành,
Thiện nhân thường vẫn được tôn vinh,
Trước kia nó chẳng làm điều đó,
Nay phải buồn khi kể chuyện mình.
12. Mười điều nhờ trí tuệ khôn ngoan,
Người thực hiện cho được vẹn toàn,
Ðối với mọi người làm phận sự,
Sẽ không hề phải chịu ăn năn.
*
Như vậy, cứ mỗi tháng hai lần, bậc Ðại Sĩ thuyết giáo theo
đường lối ấy cho đại chúng. Và
đại chúng được an trú vào Giáo pháp của
ngài và hoàn thành Mười thiện pháp này, nên
được sinh lên Thiên giới.
*
Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại
này, Ngài bảo:
- Thưa Ðại vương, như vậy các bậc trí nhân ngày xưa, dù chưa
được dạy bảo mà chỉ do trí tuệ riêng của
mình, đã thuyết Pháp và an trú
đại chúng vào con
đường đưa đến thiên giới.
Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy, các đệ tử của đức Phật là
dân chúng và Ta chính là vua Janasandha.
-ooOoo-
469. Chuyện Ðại Hắc Thiên Cẩu (Tiền thân Mahà Kanha)
Chó săn đen sẫm buộc năm dây...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú ngụ tại Kỳ Viên về sự sống vì lợi
lạc cho cõi đời.
Chuyện kể rằng, một ngày kia, trong lúc các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp
đường, họ nói chuyện với nhau. Một vị bảo:
- Này các Hiền giả, bậc Ðạo Sư bao giờ cũng thực hành từ tâm
đối với đại chúng nên
đã rời bỏ nơi an trú của Ngài và sống
chỉ vì lợi lạc của người đời. Ngài
đã đạt Tối
thượng trí, song Ngài tự nguyện mang y bát di du hành cả mười tám dặm
đường hoặc nhiều hơn nữa. Vì năm
vị Trưởng lão ấy (các Tôn giả Kondannas), Ngài
đã chuyển Bành xe Pháp; vào ngày mồng năm
trong nửa tháng ấy Ngài thuyết Kinh Anattalakkana (Vô Ngã Tướng) và
làm cho các vị kia đều đắc Thánh quả A-la-hán.
Ngài lại đến Uruvela (Ưu-lâu-tần-loa), và
trước các Ðạo Sĩ khổ hạnh bện tóc này (các Tôn giả Kassapa), Ngài thị hiện
cho ba ngàn rưởi vị thấy các phép thần thông, cùng thuyết giáo cho các vị ấy
gia nhập Tăng chúng; và tại Gayàsìsa
(một ngọn núi gần Gayà, nay là Brahmàmayoni), Ngài
đã thuyết Pháp về Lửa, khiến cho cả ngàn
nhà tu khổ hạnh trong số này đắc Thánh quả
A-la-hán. Với Mahà-Kassapa (Ðại Ca-diếp), sau khi Ngài
đi cả ba dặm đường để gặp vị ấy và
thuyết ba Pháp thoại, Ngài đã truyền Ðại
giới cho vị ấy. Rồi một mình sau buổi thọ trai, Ngài ra
đi đến bốn mươi lăm dặm đường để đưa một thiện
gia nam tử là Pukkusa vào Tam quả Bất Lai. Ngài lại phải
đi xa cả hai ngàn dặm
để gặp Mahà-Kappina (Ðại Kiếp tân-na) và
làm cho vị này đắc Thánh quả. Rồi một mình
Ngài vào buổi chiều đi ba mươi dặm đường để đưa
con người độc ác tàn bạo đó là
Angulimàla (Tướng cướp đeo vòng ngón
tay) vào Thánh quả. Ngài đi ba mươi dặm nữa, và
đưa Álavaka (một con quỷ ăn thịt người) vào
Sơ qủa Dự lưu cùng cứu hoàng tử thoát nạn (khỏi bị quỷ kia
ăn thịt). Ngài an trú trên cõi Trời Ba
mươi ba suốt ba tháng và giảng toàn bộ Giáo pháp cho tám trăm
triệu Thiên tử. Ngài lên cõi Phạm thiên và phá tan tà thuyết của Phạm
thiên Baka (số 405. TT Phạm thiên Baka), cùng làm cho mười ngàn vị Phạm
thiên đắc Thánh quả. Mỗi năm Ngài du hóa
trong ba khu vực, và đối với những ai có đủ căn
cơ hiểu đạo, Ngài truyền dạy Tam quy, Ngũ giới và các quả vị khác
nhau tùy mức độ khả năng. Ngài còn hành
đạo vì lợi lạc của loài Rắn rồng (Nàga)
hoặc Kim sí điểu (garula) hoặc nhiều loài
khác nữa, theo nhiều phương tiện khác nhau.
Với những lời như trên, các Tỷ-kheo tán thán công
đức trong đời sống của đấng Thập Lực vì
lợi lạc của cõi trần gian này. Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi Tăng
chúng đang nói chuyện gì trong lúc ngồi tại
đây. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:
-Này các Tỷ-kheo, ngày nay ta đã
đạt Thắng trí viên mãn và sống vì lợi
ích của chúng sinh thì cũng chẳng lạ gì, ví ngay cả xưa kia, khi Ta còn tham
dục, Ta cũng đã sống vì lợi lạc của
chúng sinh.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, trong thời đức Phật Chánh
Ðẳng Giác Kassapa (Ca-diếp) có một vị vua mệnh danh là Usìnara. Một
thời gian rất lâu sau khi đức Phật Ca-diếp tuyên
thuyết Tứ Ðế (Bốn Sự Thật) và giải thoát cho nhiều hội chúng khỏi khổ ách,
cuối cùng đã nhập vào hội chúng chư Phật
an trú trong Niết-bàn (Ðại diệt độ) thì
Ðạo pháp đã suy tàn. Tăng
chúng tìm kế sinh nhai bằng hai mươi mốt cách phi pháp, họ kết giao
với các Tỷ-kheo ni và sinh ra nhiều con cái. Các Tỷ-kheo xao lãng phận sự
của Tỷ-kheo. Tỷ-kheo ni cũng xao lãng phận sự của Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ và
nữ cư sĩ cũng vậy, các Bà-la-môn không còn giữ phận sự của Bà-la-môn, phần
đông dân chúng theo Mười ác đạo, vì vậy
khi mạng chung, họ đều phải vào các
đọa xứ thật đông đảo.
Lúc ấy Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ, nhận thấy không có vị Thiên tử nào mới
xuất hiện, ngài nhìn ra cõi trần gian, và thấy loài người bị
đọa vào các cõi dữ như thế nào, còn Giáo
pháp của đức phật đã suy tàn. Ngài tự
hỏi: "Ta phải làm gì? - ta nghĩ ra rồi!" Ngài tự nhủ: "Ta sẽ
đe dọa loài người làm cho
đại chúng kinh hãi và khi
đại chúng đã kinh hãi, ta sẽ trấn an
đại chúng và thuyết Pháp, ta sẽ chấn
hưng Ðạo pháp đã suy tàn, ta sẽ làm Ðạo
pháp tồn tại một ngàn năm nữa!"
Cùng với quyết định này, ngài biến vị
Thần lái xe của Ngài là Màtali thành một con Chó săn
đen đủi khổng lồ, loài chó thuần chủng, có bốn nanh lớn như quả
chuối, hình thù gớm ghiếc, với cái bụng bự như
đàn bà sắp sinh con. Ngài cột con Chó bằng sợi xích năm
vòng, cột tràng hoa đỏ lên mình
nó và dẫn nó đi bằng một sợi dây. Chính ngài
mặc y phục màu vàng, buộc tóc ra đằng sau, quấn
tràng hoa đỏ rồi cầm một cây cung khổng
lồ với dây cung màu san hô, lắc lư trong tay một cái lao có
đầu mũi gắn hạt kim cương, ngài giả dạng
một sơn nhân đi xuống, một địa điểm cách kinh
thành một dặm.
- Trần gian đang bị tiêu diệt! Trần
gian đang bị tiêu diệt!
Ngài thét lớn ba lần để đe dọa mọi người và
khi vào đến kinh thành, ngài lại thét
lên như vậy. Dân chúng thấy con Chó săn liền
kinh hoảng bỏ chạy vào thành tâu trình với vua mọi việc. Vua vội vã
truyền lệnh đóng các cổng kinh thành.
Song Thiên chủ Ðế Thích nhảy qua bức thành cao mười tám cubit (1 cubit =
45cm) cùng con Chó săn, đứng bên trong
kinh thành. Dân chúng hoảng hốt chạy vào nhà
đóng cửa thật chặt. Con Chó đen khổng lồ rượt theo người nào nó gặp
phải và dọa nạt họ, cuối cùng vào đến tận cung
vua. Trong cơn khủng khiếp, dân chúng đi ẩn náu khắp sân chầu, vào
tận cung điện và
đóng cửa lại.
Còn vua cùng các vương phi đi lên
thượng lầu. Hắc thiên cẩu đưa chân đặt vào
của sổ và rống lên thật kinh hoàng! Tiếng rống vang dội từ
địa ngục lên
đến tận trời xanh cao ngất: cả vũ trụ vang rền
tiếng rống đó. Có ba tiếng rống lớn từng vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề
(Ấn Ðộ) là: Tiếng rống của vua Punnaka trong chuyện Tiền thân
Punnaka, tiếng rống của Long vương Sudassana trong chuyện Tiền thân
Bhùridatta và tiếng rống này trong Tiền thân Mahà-Kanha, hay chuyện Ðại Hắc
thiên cẩu.
Vua thu hết can đảm đến gần cửa sổ, kêu
lớn vào Thiên chủ:
- Này thợ săn kia, sao con Chó của ngươi
rống lên thế?
- Vì nó đói.
Vua bảo:
- Ðược, trẫm sẽ ra lệnh đem thức ăn cho nó.
Thế là vua ra lệnh đem thức ngự thiện của ngài
cùng thức ăn trong cả cung điện. Con Chó hình
như chỉ ngoạm một miếng là hết tất cả, xong lại gào thét. Vua hỏi nữa.
- Con chó còn đói. Thiên chủ
đáp.
Sau đó vua bảo đem thức ăn của voi, ngựa ra
cho nó. Nó cũng ăn trọn lập tức; vua lại phải lấy hết thức ăn trong kinh thành
ra cho nó; con Chó cứ nuốt trửng hết như trên rồi gào thét nữa. Vua bảo:
- Ðây không phải chó. Chắc chắn là con quỷ dữ. Ta muốn xem nó từ
đâu đến.
Lòng kinh hãi, vua ngâm vần kệ đầu hỏi:
1.Chó săn đen sẫm buộc năm dây,
Nanh trắng nhe ra cả miệng này,
Oai vệ gây kinh hoàng dữ dội,
Nó làm gì được với người đây?
Nghe vậy Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ hai:
2. Chó đen chẳng đến để săn mồi,
Song nó làm công dụng trị người,
Ðại đế U-si này, phải biết.
Khi ta thả lỏng nó ra thôi.
Lúc ấy vua bảo:
- Sao, thợ săn, chó này sẽ xé xác hết
mọi người hay chỉ xé những kẻ thù của ngươi thôi?
- Tâu Ðại vương, chỉ những kẻ thù của tiểu thần thôi.
- Vậy ai là kẻ thù của ngươi?
- Tâu Ðại vương, những kẻ nào thích gian tà và theo
đường ác.
Vua bảo:
- Hãy tả bọn chúng ra cho ta nghe.
Vị Thiên chủ liền tả bọn chúng qua các vần kệ:
3. Giả làm Tăng chúng, bát trong tay,
Mình khoác chiếc y, cạo tóc này,
Lại muốn theo nghề cày ruộng đất,
Thì ta sẽ thả Chó đen ngay.
4. Khi nào Ni chúng Giáo đoàn
này,
Ðắp một chiếc y, cạo tóc vầy,
Lại thấy đua chen đời thế tục,
Thì ta sẽ thả Chó đen đây.
5. Khi nhà tu lại muốn cho vay
Nặng lãi, môi trên chẫu thật dài,
Cả miệng răng hôi, đầu tóc bẩn,
Thì ta sẽ thả Chó đen này.
6. Giáo sĩ không kinh thánh, lễ đàn,
Lại dùng hết cả mọi tài năng
Tế đàn vì chí ham tiền của,
Lúc ấy ta liền thả Chó săn.
7. Nay đã già nua, nhị lão thân
Ðến thời tàn tạ hết ngày xuân,
Nó không cấp dưỡng dù dư sức,
Chống nó, ta liền thả Chó săn!
8. Kẻ nào đối với mẹ cha già
Nay đến lúc tàn, xuân
đã qua,
Kêu:"Các người kia, đồ ngốc dại!"
Chống y, ta thả Chó săn ra.
9. Khi đàn ông tán vợ người ta,
Vợ của thầy hay của bạn nhà,
Em của cha mình hay vợ cậu,
Thì ta liền thả Chó đen ra.
10. Khi mộc trên vai, kiếm dưới tay,
Làm quân cường đạo, vũ trang đầy,
Chiến trường giết hại, và ăn cướp,
Ta sẽ thả ra Hắc cẩu này.
11. Con trai bà góa dưỡng da ngà,
Vô dụng không tài giỏi việc nhà,
Lực lưỡng, chỉ gây trò đánh lộn,
Thì ta sẽ thả Chó săn ra.
12. Khi tâm người chứa rẫy ý tà,
Những kẻ dối gian, chẳng thật thà,
Quanh quẩn vào ra trong thế giới,
Thì ta sẽ thả Chó đen mà.
- Những người này là kẻ thù của ta, tâu Ðại vương!
Ngài làm thể như sắp thả Chó xổ ra xé những kẻ nào làm các hành
động của cừu nhân. Song trong lúc cả đám đông
đang kinh hoàng, ngài cầm lấy dây xích chó, làm như thể buộc chặt nó
vào chỗ đó, rồi ngài trút bỏ bộ dạng thợ
săn, dùng thần lực bay lên
đứng trên không, sáng rực rỡ, và bảo:
- Này Ðại vương, ta là Ðế Thích Thiên chủ, vì thấy trần gian sắp bị hủy
diệt nên ta đến đây. Quả thật bây giờ người
chết đọa vào các cõi khổ đầy rẫy, vì
chúng làm toàn chuyện độc ác, còn thiên
giới thì trống vắng. Từ nay ta sẽ biết cách trừng trị bọn gian ác, song các
người phải cố gắng tinh cần.
Rồi sau khi thuyết Pháp trong bốn vần kệ
đáng ghi nhớ và hướng dẫn dân chúng vào các công
đức thiện sự như bố thí, ngài tăng
cường uy lực của Giáo Pháp đang suy tàn
để Giáo pháp được tồn tại thêm một ngàn năm
nữa, rồi ngài cùng Thần Màtali trở lại cõi của ngài.
*
Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này. Ngài nói thêm:
-Này các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như nay, Ta
đã sống vì lợi lạc của cõi
đời.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời đó, Ánanda là Màtali và ta
là Ðế Thích Thiên chủ.
-ooOoo-
470. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền thân Kosiya)
Chuyện phú ông keo kiệt sẽ được kể trong số
535. Tiền thân Thực phẩm Thiên giới (Sudhàbhojana), Tập VI.
-ooOoo-
471. Chuyện Con Dê (Tiền thân Mendaka)
Chuyện con dê sẽ được kể trong số 546, Tiền
thân Ðường Hầm Lớn (Mahà Ummagga). Tập VII.
-ooOoo-
472. Chuyện Vương Tử Liên Hoa (Tiền thân Mahà - Paduma)
Vua chẳng nên trừng phạt tội hình...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tai Kỳ Viên về Ciddamànavikà
(người đã vu cáo
đức Phật về việc thông gian).
Khi đấng Thập Lực mới đạt Vô thượng Chánh
Ðẳng Giác, sau đó chúng đệ tử này
càng đông đảo, vô số chư Thiên và loài
người đã
được sinh lên Thiên giới, hạt duyên lành gieo rắc khắp nơi, nên Ngài
được uy danh lừng lẫy và lễ vật cúng
dường cao trọng. Bọn ngoại đạo tà giáo
chẳng khác nào bầy đom đóm sau buổi bình
minh, họ chẳng còn danh vọng, lợi dưỡng cúng dường nữa; họ liền ra giữa
đường hét lớn vào
đám dân chúng:
- Nay sao, Sa-môn Gotama là bậc Giác Ngộ à? Chúng ta cũng là những bậc
Giác Ngộ. Chỉ có các lễ vật cúng dường cho vị ấy mới mang lại kết quả lớn
sao? Những vật cúng dường cho chúng ta cũng mang lại kết quả lớn cho các
ngươi. Vậy các ngươi hãy cúng dường cho chúng ta, phục vụ chúng ta nữa chứ?
Song dù họ kêu gào mãi, họ cũng chẳng hưởng
được danh vọng lợi dưỡng nào cả. Sau đó
họ bí mật họp nhau lại, và bàn bạc vấn kế:
- Làm thế nào ta có thể gây ô nhục cho sa môn Gotama trước mặt công chúng
để chấm dứt danh vọng lợi dưỡng cúng dường của
ông ấy đây?
Lúc bấy giờ tại Xá-vệ có một cô gái kia tên là Cincamànavikà, vẻ
đẹp tuyệt trần, dáng kiều diễm mảnh mai, như
một nữ thần, ánh sáng như tỏa ra từ thân thể nàng. Có người bày mưu
kế ác độc như sau:
- Nhờ Cincamànavikà giúp sức, ta có thể gây ô nhục cho Sa-môn Gotama và
chấm dứt danh vọng lợi dưỡng mà ông đang hưởng.
- Phải lắm, cả bọn đồng ý. Ta phải làm
cách ấy đấy.
Khi nàng ấy đến chỗ tu hành của bọn
ngoại đạo tà giáo,
đảnh lễ họ rồi đứng yên, bọn tà
đạo sư không nói gì với nàng cả. Nàng
hỏi:
- Con có lỗi gì chăng? Con đã chào
các Tôn giả ba lần rồi.
Nàng lại bảo:
- Thưa các Tôn giả, tại sao các vị không nói gì với con?
Họ đáp:
- Này chị, chị có biết Sa-môn Gotama đang du
hành qua đây và làm hại chúng ta,
làm mất hết mọi danh vọng và lợi dưỡng cúng dường mà chúng ta
đã được
hưởng trước kia chăng?
- Thưa các Tôn giả, con không biết việc đó,
nhưng con có thể làm gì được?
- Này chị, nếu chị muốn chúng ta được tốt lành
thì hãy tự mình gây ô nhục cho Sa-môn Gotama để
chấm dứt danh vọng lợi dưỡng mà vị ấy
đang hưởng.
Nàng đáp:
- Thưa các Tôn giả, được lắm, xin để việc ấy
cho con đừng lo lắng gì nữa.
Nói vậy xong nàng từ giã ra đi.
Sau đó nàng dùng mọi xảo thuật của nữ
nhân để đánh lừa người đời. Khi dân chúng ở
Xá-vệ nghe Pháp xong và ra về từ Kỳ Viên, nàng lại thường
đi về phía Kỳ Viên, khoác chiếc y nhuộm
màu đỏ yên chi, tay cầm vòng hoa thơm
ngát. Khi có ai hỏi nàng:
- Ði đâu vào giờ này?
Nàng thưởng trả lời:
- Các vị có liên quan gì đến việc tôi di,
tôi về mà hỏi?
Nàng cứ ở lại ban đêm trong am thất
của bọn tà đạo sư ấy, sát gần Kỳ Viên,
rồi đến sáng sớm mai, khi các cư sĩ cận sự của
Tăng chúng từ kinh thành đến đảnh lễ
Tăng chúng buổi sáng, nàng thường hay gặp gỡ họ như thể nàng
đã ở lại ban
đêm tại Kỳ Viên rồi
đi về kinh thành. Nếu có ai hỏi nàng
đã ở lại nơi
đâu, nàng liền trả lời:
- Tôi ở lại nơi đâu thì có việc gì
đến các vị?
Song sau chừng sáu tuần lễ, nàng đáp:
- Tôi ở ban đêm tại Kỳ Viên với
Sa-môn Gotama trong Hương phòng.
Các người ngoại đạo bắt đầu thắc mắc không
biết việc ấy có đúng chăng. Sau chừng ba bốn tháng, nàng lại quấn
nhiều lớp vải quanh bụng, làm vẻ như thể nàng
đang có thai, và khoác áo choàng đỏ ra
ngoài. Rồi nàng tuyên bố là nàng có thai với Sa-môn Gotama khiến cho
đám người ngu si mù quáng tin theo lời.
Sau chừng tám chín tháng nàng cột quanh người những miếng gỗ cuộn thành bó,
khoác áo đỏ phủ lên, lấy xương hàm của
bò đập vào tay chân thân thể cho sưng
phồng to, và làm ra dáng mệt mỏi.
Một buổi chiều khi đức Như Lai đang ngồi trên
bảo tọa thuyết Pháp, nàng bước vào giữa hội chúng,
đứng trước mặt đức Như Lai và nói:
- Này Ðại sa-môn, quả thực Ngài đang thuyết
Pháp cho nhiều hội chúng; giọng nói của Ngài thật êm ái, nhưng Ngài
đã làm cho tiện thiếp có thai và ngày
sanh đã gần kề, tuy thế Ngài không sắp
đặt phòng bảo sanh cho thiếp, Ngài không
cho thiếp bơ tươi hay dầu ăn gì cả.
Những việc tự Ngài không muốn làm, Ngài cũng không nhờ một người cư sĩ nào
làm thay thế, như vua Kosala, Ông Cấp Cô Ðộc hay nữ cận sự Visàkhà. Tại sao
Ngài không bảo một người trong các vị ấy làm những việc cần cho thiếp? Ngài
biết cách hưởng dục lạc, song lại không biết cách chăm
sóc cái kết quả sẽ phát sinh từ đó!
Thế là nàng ta phỉ báng đức như Lai giữa đại
chúng như một người cố ném bùn làm vấy bẩn mặt trăng.
Ðức Như Lai ngưng thuyết giảng và thét lên như tiếng rống sư tử vang
dội khắp nơi:
- Này chị, những điều chị vừa nói đúng hay
sai, chỉ mình Ta và chị biết thôi.
Nàng đáp:
- Ðúng thế, quả thực vậy, việc này xảy ra như thế nào, chỉ mình Ngài và
thiếp biết thôi.
Ngay lúc ấy chiếc ngai vàng của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên.
Khi xem xét kỹ, ngài thấy rõ lý do: "Nàng Cincamànavikà
đang vu cáo đức Như Lai về một việc không có
thực." Ngài quyết định làm sáng
tỏ vấn đề này, liền cùng bốn Thiên thần
đi đến đó. Các Thiên thần giả dạng bầy
chuột đồng lập tức cắn sợi dây cột bó gỗ kia,
rồi một cơn gió thổi tốc lên chiếc y đỏ
nàng mặc, bó gỗ lộ ra và rơi xuống chân nàng, các ngón chân nàng
đều bị đứt lìa cả. Ðại chúng la lớn:
- Một con mụ phù thủy đang vu cáo bậc Chánh
Ðẳng Giác.
Ðại chúng liền khạc nhổ lên đầu nàng,
lấy gậy gộc, đất đá xua đuổi nàng ra
khỏi Tinh xá Kỳ Viên. Khi nàng đi khuất tầm mắt
của đức Như Lai, đại địa liền há miệng ra thành một
đường nứt khổng lồ, đám lửa từ dưới địa ngục
thấp nhất bốc lên khiến nàng bị bao vây giữa
đám lửa như thể trong chiếc hồng y hôn lễ mà
đám bạn sẽ phủ lên nàng, rồi nàng rơi
xuống tầng địa ngục thấp nhất, và tái
sinh tại đó. Danh vọng và lợi dưỡng của
đám tà sư vẫn tiêu tan, còn danh và lợi
dưỡng của đấng Thập Lực lại tăng trưởng dồi dào
hơn nữa.
Ngày hôm sau, Tăng chúng bàn luận
trong Chánh pháp đường:
- Này hiền hữu Tỷ-kheo, cô ả Cincamànavikà đã
vu cáo đức Phật Chánh Giác với công đức cao cả
xứng đáng mọi lễ vật cúng dường, và cô ả
đã bị đọa đày khủng khiếp!
Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi Tăng
chúng đang nói chuyện gì khi ngồi tại
đây. Ðại chúng trình với Ngài. Ngài bảo:
- Không phải chỉ bây giờ nữ nhân này mới vu cáo Ta rồi bị tiêu diệt thảm
khốc, mà ngày xưa cũng vậy.
Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta. trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm vương tử
của chánh hậu. Vì thấy dung mạo của Bồ-tát đầy
đủ phước lành như đóa sen nở, vua đặt tên
Ngài là Paduma-Kumara nghĩa là vương tử Liên Hoa. Khi lớn lên ngài
được dạy đầy đủ mọi ngành học thuật. Lúc
đó bà chánh hậu qua
đời, vua lại sắc phong một vương hậu khác và
phong cho ngài làm phó vương.
Sau đó vua sắp sửa lên
đường đi dẹp loạn ở biên
địa liền phán bảo vương hậu:
- Này ái khanh, hãy ở lại đây trong lúc trẫm
đi dẹp loạn biên cương.
Song nàng đáp:
- Tâu Chúa thượng, không được đâu, thiếp
không muốn ở lại mà thiếp xin đi theo
hầu Chúa thượng.
Vua liền chỉ cho nàng thấy nỗi nguy hiểm ở chiến trường và nói thêm:
- Nàng hãy ở lại đây đừng lo buồn vì
cho đến khi trẫm hồi cung, trẫm sẽ giao phó
thái tử Paduma trọng trách chăm sóc mọi việc cần làm cho ái khanh rồi
trẫm sẽ đi.
Nói vậy xong vua lên đường.
Khi ngài đã
đánh tan kẻ thù, bình
định đất nước, ngài trở về cắm trại
ngoài kinh thành. Bồ-tát biết tin vua cha trở về liền trang hoàng kinh thành
thật rực rỡ, rồi canh phòng cẩn mật cung điện,
xong xuôi một mình ngài lên đường đón
phụ vương. Vương hậu quan sát diện mạo khôi ngô của ngài, liền
đem lòng say mê ngài. Khi giã từ vương
hậu, ngài bảo:
- Tâu mẫu hậu, vương nhi có thể làm gì cho mẫu hậu
được chăng?
Nàng bảo:
- Chàng gọi thiếp là mẫu hậu ư?
Rồi nàng đứng lên nắm hai tay ngài
bảo:
- Chàng hãy nằm trên vương sàng của thiếp.
- Ðể làm gì? Ngài hỏi.
- Chúng ta hãy tận hưởng lạc thú ái ân cho
đến khi đức vua trở về.
- Tâu mẫu hậu, mẫu hậu là mẹ của thần nhi, và mẫu hậu
đang còn có phụ vương
đây. Chưa bao giờ thần nhi nghe chuyện một nữ
nhân, một kế mẫu, lại phá bỏ đạo lý đi theo dục lạc xác thịt như thế. Làm
sao thần nhi có thể phạm tội lỗi ô uế như vậy với mẫu hậu
được?
Nàng nài nỉ ngài hai ba lần, ngài vẫn từ chối, nàng liền bảo:
- Thế ngươi không chịu làm như ta bảo ư?
- Quả thật thần nhi không chịu!
- Vậy thì ta sẽ tâu trình vua cha ra lệnh chém
đầu ngươi đi!
Bồ-tát bảo:
- Xin cứ làm như ý mẫu hậu.
Rồi Ngài bỏ đi, để nàng lại
đó, lòng
đầy hổ thẹn nhục nhã. Rồi trong lúc qua kinh hoàng, nàng suy nghĩ:
"Nếu vương tử đi nói chuyện với vua cha trước
ta thì ta sẽ không sống nổi đâu. Vậy
chính ta phải lo nói trước với ngài."
Thế là nàng không đụng tới các món ngự
thiện, mà khoác vào chiếc hoàng y lấm lem, lại lấy móng tay cào sướt
cả người, rồi ra lệnh cho cung nữ:
- Hễ giờ nào đức vua hỏi vương hậu ở đâu thì
hãy tâu là lệnh bà bị bệnh.
Rồi nàng nằm xuống, giả vờ đau ốm.
Lúc bấy giờ vua uy nghi diễu quanh kinh thành theo hướng bên hữu rồi vào
cung thất. Khi ngài không thấy nàng, ngài hỏi:
- Chánh hậu đâu rồi?
Chúng đáp:
- Muôn tâu, lệnh bà đang bị bệnh.
Ngài liền vào nội cung, hỏi nàng:
- Ái hậu có việc gì bất an chăng?
Nàng cứ làm như thể không nghe gì cả. Vua hỏi
đến đôi ba lần nàng mới
đáp:
- Tâu Ðại vương, ngài hỏi làm gì thế? Xin Ðại vương hãy im lặng: phụ nữ
xuất giá đều phải chịu cảnh như thân thiếp cả.
- Ai đã làm phiền lòng ái hậu? Vua
bảo: - Nói nhanh lên rồi trẫm sẽ hạ lệnh chém
đầu nó.
- Thế Ðại vương đã
để lại kẻ nào thay Ðại vương trong kinh
thành này, khi Ðại vương ra đi?
- Vương tử Paduma.
Nàng nói tiếp:
- Và thế là vương tử vào phòng của thiếp, thiếp liền hỏi: "Này vương nhi
đừng làm vậy, ta là mẫu hậu của vương
nhi".
Nhưng vương tử kêu lên: "Không ai là đức vua
ở đây trừ ta. Vậy ta sẽ đưa nàng về cung thất của ta và hưởng ái ân
với nàng".
Rồi vương tử nắm lấy tóc thiếp cứ kéo nhổ ra mãi, và do thiếp không chiều
theo ý vương tử nên vương tử đánh đập thiếp
trọng thương rồi bỏ đi.
Vua không cần điều tra sự việc mà nổi
cơn thịnh nộ lên như con mãnh xà, liền ra lệnh cho quân sĩ:
- Bây đãu
đi trói vương tử Paduma rồi đem lại đây cho
trẫm.
Họ liền đi đến cung thất của ngài,
đông đảo lũ lượt kéo qua kinh thành,
trói ngài lại, đánh đập, cột chặt hai tay ngài
ra sau lưng, quấn quanh cổ ngài một vòng hoa đỏ
của một tên tử tội, rồi dẫn ngài đến
cung, vừa đi vừa đánh đập. Ngài biết rõ việc này là do vương hậu gây
ra, nên trong khi ngài vừa đi, ngài vừa
kêu lớn:
- Này các ngươi, ta không làm tội gì chống lại
đức vua cả. Ta vô tội.
Cả kinh thành vang dội tin dữ: "Chúng bảo vua sắp hành hình thài tử theo
lệnh một nữ nhân đấy!"
Dân chúng ùa tới quỳ dưới chân thái tử mà kêu khóc vang lừng:
- Chúa công ơi! Ngài không đáng bị trừng
phạt như thế này!
Cuối cùng họ đem ngài
đến trước vua. Vừa chợt thấy mặt ngài,
vua không đè nén
được những gì
đang chất chứa trong lòng, liền kêu lớn:
- Kẻ này không phải là vua, song đã
làm thế công việc của vua cha rất hoàn hảo, đó
là vương nhi của ta, tuy vậy nó đã
xúc phạm vương hậu. Bây hãy lôi cổ nó đi, đem
thả xuống vực của bọn trộm cướp cho nó chết đi.
Nhưng vương tử tâu:
- Tâu phụ vương, con không hề phạm tội ấy. Xin
đừng giết con vì lời của một nữ nhân.
Vua vẫn không nghe theo ngài, rồi toàn thể mười sáu ngàn cung phi ở chốn
hậu cung đồng cất tiếng khóc than vang dội:
- Ôi vương tử Paduma thân yêu, vương tử Paduma hùng dũng, ngài không
đáng bị đối xử như thế này.
Kế đó tất cả các tướng quân và các
lãnh chúa, cùng các vị đại thần đều kêu
lớn:
- Tâu Chúa thượng, vương tử là người hiền thiện và
đức hạnh, vẫn giữ đúng truyền thống của dòng
dõi ngài, là bậc kế vị trên ngai. Xin đừng giết
ngài theo lời một nữ nhân mà không chịu nghe tâu trình gì cả. Phận sự
một minh quân là phải hành động hết sức cẩn
trọng.
Nói vậy xong, hội chúng liền ngâm bảo vần kệ:
1. Vua chẳng nên trừng phạt tội hình
Mà không nghe lý lẽ phân minh,
Cũng không tự xét suy cho kỹ
Mọi mặt, dù to, nhỏ thật tình.
2. Tướng quân trừng phạt lỗi lầm sai
Trước lúc đem ra xử hẳn hòi,
Giống kẻ sinh ra mù cặp mắt,
Ăn toàn xương xẩu lẫn
đàn ruồi.
3. Ai phạt kẻ không có tội gì,
Ðể người có tội lọt qua đi,
Khác gì hơn một người mù mắt
Bụi trên đường cái quá gồ ghề.
4. Người xét xem toàn thể sự tình
Trong việc dù to, nhỏ thật rành,
Cai trị nước nhà theo cách ấy
Xứng ngôi chúa tể giữa quần sinh.
5. Người nào ở địa vị cao sang
Xử sự không nên quá dễ dàng,
Cũng chẳng nên làm khe khắt quá,
Song song thực hiện cả đôi đàng.
6. Quá dễ dàng hay bị miệt khinh,
Khắt khe thường nổi trận lôi đình,
Giữa hai điều ấy cần thông hiểu
Và giữ đường trung chính hợp tình.
7. Người đang nổi giận, hỡi Quân vương,
Cũng nói nhiều như kẻ bất lương,
Và thế là đừng vì phụ nữ,
Giết vương nhi nối dõi tông đường.
Song dù nói hết mọi cách, quần thần vẫn không thuyết phục
được vua theo lời họ. Bồ-tát cũng vậy, đã
dùng hết mọi lời lẽ van xin nhưng không làm vua cha nghe theo ngài; không,
vua thật ngu si mù quáng phán bảo:
- Lôi cổ nó đi thả xuống vực sâu dành
cho bọn trộm cướp.
Rồi vua ngâm vần kệ thứ tám:
8. Cả nước này đang đứng một bên,
Bên kia ái hậu một mình riêng,
Với nàng, tuy vậy, ta khăng khít,
Thả nó vào hang, hãy cút liền!
Nghe các lời lẽ ấy, không ai giữa đám mười
sáu ngàn phi tần đứng yên
được trong khi toàn thể thần dân
đưa tay lên vò
đầu bứt tóc và kêu than khóc lóc. Vua
phán:
- Ðừng để bọn này cản trở việc quẳng
tên kia xuống vực sâu.
Rồi giữa đám quần thần, và dân chúng
vây quanh than khóc, vua cứ ra lệnh tóm lấy vương tử quẳng lộn nhào xuống
vực sâu.
Lúc ấy vị thần trú ngụ ở trên đồi ấy dùng
uy lực nhân từ an ủi vương tử, bảo:
- Hỡi Paduma, xin ngài đừng sợ hãi.
Vị thần đưa cả hai tay ra đón lấy ngài,
ôm chặt ngài vào lòng mình, truyền qua thân thể ngài một niềm xúc
động kỳ diệu, đem ngài vào nơi cư trú
của bầy rắn gồm tám loại, dưới quyền của vị Xà vương. Vị rắn chúa
đón Bồ-tát vào hang rắn, song lại chia
cho ngài một nửa giang sơn vinh hiển, và ngài ở
đó một năm tròn. Rồi sau đó ngài
bảo:
- Ta muốn trở về cõi nhân gian.
Chúng hỏi:
- Ðến nơi đâu?
- Ðến Tuyết Sơn, nơi ta muốn sống đời tu hành.
Xà vương chấp thuận, mang ngài đi đến tận
nơi có loài người đi qua lại, trao cho
ngài đủ mọi vật dụng cần thiết của đời
tu hành, rồi trở về chốn cũ.
Thế là ngài tiến lên vùng Tuyết Sơn, đi theo
cuộc đời đạo hạnh, tu tập năng lực Thiền định đem đến an lạc, ngài ở
đó nuôi sống mình bằng các thứ củ quả
rừng.
Lúc bấy giớ có một người kiểm lâm ở Ba la nại,
đi đến chốn ấy, và nhận ra bậc Ðại Sĩ.
Gã bảo:
- Tâu Chúa công, có phải chăng ngài
là thái tử Paduma vĩ đại?
Ngài đáp:
- Chính phải, thưa tôn ông.
Kẻ kia đảnh lễ ngài và ở lại chơi vài
ngày. Sau đó y trở về Ba la nại, trình
với vua:
- Tâu Chúa thương, thái tử đã theo
cuộc đời tu hành ở vùng Tuyết Sơn, hiện
đang sống trong am lá. Hạ thần đã
đến tận đó ở với ngài và trở về
đây.
Vua hỏi:
- Ngươi chính mắt trông thấy thái tử chăng?
- Tâu Chúa thượng, chính phải.
Vua liền cùng đám đông tùy tùng
đến đó, đóng trại ở ven rừng rồi cùng
vài cận thần đi đến đảnh lễ bậc Ðại Sĩ
lúc ấy đang ngồi ở ngưỡng cửa am trong mọi vẻ
uy nghi rực rỡ, còn vua ngồi xuống một bên; các cận thần cũng
đảnh lễ ngài với lời lẽ rất thân ái,
xong cùng ngồi một bên cả. Về phần bậc Ðại Sĩ, ngài mời vua dùng trái rừng
và đàm đạo
rất vui vẻ với vua. Sau đó vua hỏi:
- Này vương nhi, con bị ta thả xuống vực sâu, làm cách nào mà còn sống
sót được?
Và vua ngâm vần kệ thứ chín để hỏi chuyện
đó:
9. Con bị thả vào miệng vực sâu,
Bên sườn núi dựng, dốc đèo cao,
Chẳng ai cứu giúp, rừng dừa rậm,
Con vẫn bình an bởi cách nào?
Sau đây là những câu kệ còn lại gồm năm
vần xen kẽ nhau: ba vần do Bồ-tát ngâm và hai vần do vua ngâm.
Vương tử:
10. Một mãnh xà kia đủ lực hùng
Sinh ra sống dưới đất trong rừng,
Bắt con cuộn lấy trong mình rắn,
Con được bình an, thoát tử thần.
Vua cha:
11.Cha sẽ đưa con, hỡi thiếu nhi,
Quay về cung điện của cha đi,
Con làm gì nữa trong rừng núi,
Hạnh phúc con nay sẽ trị vì.
Vương tử:
12. Kẻ nào đã nuốt móc mồi câu,
Khi kéo móc ra, máu đỏ trào,
Kéo được móc rồi là hạnh phúc,
Lòng con hỷ lạc tuyệt thanh cao.
Vua cha:
13. Sao con nói đến móc mồi câu?
Con nói vậy sao đến máu đào?
Con lại nói sao về rút móc?
Cha nay muốn biết việc kia nào?
Vương tử:
14. Dục tham là chính móc mồi câu,
Con nói ngựa voi, chính máu đào,
Con rút ra nhờ lìa thế tục,
Cha cần biết chuyện ấy, muôn tâu.
- Tâu Ðại vương, như vậy việc làm vua không có nghĩa gì
đối vối con cả. Song Ðại vương phải chú
tâm đừng vi phạm Thập vương pháp mà phải
từ bỏ các ác nghiệp và trị dân thật chân chính.
Bậc Ðại Sĩ khuyến giáo vua cha qua những lời
đó. Vua vừa than khóc vừa từ giã ra đi,
và trên đường về kinh, vua hỏi các cận
thần:
- Vì ai mà ta phải chia lìa với một người con
đức độ như thế?
Hội chúng đáp:
- Chính vì vương hậu.
Vua liền ra lệnh băt vương hậu thả xuống vực
sâu dành cho bọn trộm cướp, rồi vào thành cai trị theo
đúng Chánh pháp.
*
Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:
- Này các Tỷ-kheo, như vậy nữ nhân này đã
vu cáo Ta thuở xưa, và phải chịu hủy diệt thương
đau.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân bằng cách ngâm vần kệ cuối cùng:
15. Kế mẫu ta là ả Cin-ca,
Ðề-bà-đạt, ấy chính vua cha,
Ta là thái tử Liên Hoa nọ,
Còn vị thần non thuở ấy là
Xá-lợi-phất giờ đây Trưởng lão,
Thiện xà chúa nọ A-nan-đà,
Và này Tăng chúng, Ta tuyên bố
Kết thúc Tiền thân ấy của ta.
-ooOoo-
473. Chuyện Bạn - Thù (Tiền thân Mitàmitta)
Làm sao người trí phải tinh cần...,
Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một vị triều thần
chánh trực của vua Kosala.
Tương truyền rằng vị quan này rất có công với vua, và sau
đó vua ban tặng ông vinh hiển tột bực. các vị
quan khác không thể nào chịu đựng việc
ấy được, nên vu cáo với vua đã
làm những việc xúc phạm đến vua. Ngài
cho điều tra về vị ấy và thấy ông không
có lỗi gì cả, liền suy nghĩ: "Ta không thấy người này phạm lỗi gì cả, làm
sao ta biết được đó là bạn hay thù?" Rồi
vua lại nghĩ: "Không có ai ngoài đức Như Lai có
đủ khả năng quyết đoán vấn đề này; vậy ta
đi tham vấn ngài xem sao."
Thế là sau khi điểm tâm xong, vua đến viếng
bậc Ðạo Sư và thưa:
- Bạch Thế Tôn, làm sao ta có thể phân biệt một người nào là bạn hay thù
của ta?
Lúc bấy giờ bậc Ðạo Sư đáp:
- Thưa Ðại vương, những người khôn ngoan ngày xưa
đã suy nghĩ về vấn
đề này và đã
hỏi các bậc hiền trí, rồi theo lời khuyến giáo của các vị ấy mà tìm ra chân
lý, lánh xa các cừu nhân và chú tâm đến các bạn
lành.
Nói vậy xong, theo lời thỉnh cầu của vua, ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một thuở nọ, khu vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại, Bồ-tát là vị cận
thần khuyến giáo vua về thế sự cũng như thánh sự.
Thời ấy, đám triều thần kia vu cáo một vị
quan chính trực. Vua thấy vị ấy không có lỗi gì liền hỏi bậc Ðại Sĩ:
- Này, bằng cách nào ta có thể phân biệt bạn và thù?
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ nhất:
1. Làm sao người trí phải tinh cần,
Phân biệt làm sao được thực chân,
Những việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ rằng kẻ ấy chính cừu nhân?
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm măn vần kệ này
để giải thích các dấu hiệu của một kẻ thù:
2. Khi ngài thăm, nó chẳng tươi cười,
Nó chẳng tỏ ra muốn đón mời
Nó chẳng quay nhìn theo cách ấy,
Và trả lời không có với ngài.
3. Kẻ thù ngài, nó lại tôn vinh,
Bạn thiết của ngài, nó miệt khinh,
Nó cản người khen ngài tốt đẹp,
Những người phỉ báng, nó hoan nghênh.
4. Nó chẳng hề tâm sự mảy may,
Chuyện ngài tâm sự, nó phơi bày,
Việc ngài làm, chẳng hề khen tốt,
Cũng chẳng hề khen trí tuệ ngài.
5. Khi ngài hạnh phúc nó không mừng,
Ô nhục ngài mang, nó thỏa lòng,
Nếu được món ngon, không nghĩ tới
Tên ngài, trong dạ chẳng buồn thương,
Cũng không kêu lớn: ô này bạn,
Ta ước bạn ta cũng có phần!
6. Mười sáu điều trên, cớ rõ ràng
Cho ngài thấy được một cừu nhân,
Nếu người có trí nào nghe thấy,
Sẽ biết kẻ thù để nhận chân.
7. Làm sao người trí phải tinh cần
Phân biệt làm sao được thực chân,
Các việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ ra người ấy chính thân bằng?
Khi được hỏi qua lời kệ trên, vị quan
liền ngâm các vần kệ còn lại:
8. Kẻ ấy nhớ người lúc vắng xa,
Mừng vui khi bạn trở về nhà,
Trong lòng hoan hỷ lên cao độ,
Chàng cất tiếng liền đón rước ta.
9. Chàng chẳng tôn vinh kẻ chống ngài,
Chỉ ưa phụng sự bạn ngài thôi,
Những ai phỉ báng, chàng ngăn cản,
Ai tán tụng ngài, lại thấy vui.
10. Chàng kể nhiều tâm sự với ngài,
Chuyện ngài tâm sự, chẳng phơi bày,
Ðề cao những việc ngài làm được.
Khen ngợi tài năng bạn thật hay.
11. Chàng khổ lòng khi bạn ố danh
Chàng vui khi nghe bạn được an lành
Nếu được gì cao lương mỹ vị,
Chàng liền nghĩ đến bạn thân mình,
Cảm thương ngài quá, chàng kêu lớn:
Ta ước ao phần bạn được dành!
12. Mười sáu điều trên ấy chứng minh,
Rõ ràng xác định bạn thân tình,
Nếu người có trí nào nghe thấy,
Có thể nói ngay bạn chí thành.
Vua hoan hỷ nghe lời thuyết giảng của bậc Ðại Sĩ, nên ban tặng ngài vinh
quang tột đỉnh.
*
Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:
- Thưa Ðại vương, như vậy vấn đề này
nảy sinh từ ngàn xưa và các bậc trí nhân dạy bảo: Nhờ ba mươi hai biểu hiện
trên mà Ta có thể biết được bạn hay thù.
Cùng với các lời này Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy Ànanda là vua và Ta chính là vị triều thần hiền trí.