TẬP III
101. KINH DEVADAHA
(Devadaha Sutta)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở giữa các Sakka (Thích ca). Devadaha là một thị
trấn các Sakka. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo".
"--Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói
như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lý thuyết như sau,
có
tri kiến như sau: "Phàm cảm giác gì con người này lãnh thọ, lạc thọ,
khổ thọ
hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp quá khứ; với
sự đốt
cháy, đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với sự không tạo tác các nghiệp
mới, sẽ
không có diễn tiến đến tương lai. Do không có diễn tiến đến tương
lai,
nghiệp đoạn diệt; do nghiệp đoạn diệt, khổ được đoạn diệt; do khổ
đoạn diệt,
cảm thọ được đoạn diệt; do cảm thọ được đoạn diệt, tất cả khổ sẽ
diệt tận".
Nầy các Tỷ-kheo, lý thuyết các Nigantha (Ni kiền tử) là vậy. Nầy các
Tỷ-kheo, Ta nói như vậy, Ta đi đến các Nigantha và nói như sau:
"-- Chư Hiền Nigantha, có đúng sự thật chăng, các Ông có lý thuyết
như
sau, có tri kiến như sau: "Phàm cảm giác gì con người này lãnh thọ,
lạc thọ,
khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp quá
khứ; với
sự đốt cháy, đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với sự không tạo tác các
nghiệp
mới, sẽ không có diễn tiến đến tương lai. Do không có diễn tiến đến
tương
lai, nghiệp được đoạn diệt, do nghiệp đoạn diệt khổ được đoạn diệt;
do khổ
đoạn diệt, cảm thọ được đoạn diệt; do cảm thọ được đoạn diệt, tất cả
khổ sẽ
được diệt tận?"
Này các Tỷ-kheo, nếu các Nigantha ấy, khi được Ta hỏi, tự nhận có nói
như
vậy, Ta liền nói như sau:
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông có biết: "Trong quá khứ, chúng tôi có
hiện
hữu, chúng tôi không hiện hữu?"
"-- Thưa Hiền giả, không như vậy.
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông có biết: "Trong quá khứ, chúng tôi có
tạo
ác nghiệp, chúng tôi không tạo ác nghiệp?"
"-- Thưa Hiền giả, không như vậy.
"-- Chư Hiền Nigantha, các ông có biết: "Chúng tôi có tạo ác nghiệp
như
thế này hay như thế kia?"
"-- Thưa Hiền giả, không như vậy.
"-- Chư Hiền Nigantha, các ông có biết: "Khổ mức độ như thế này đã
được
diệt tận hay khổ mức độ như thế này cần phải được diệt tận, hay với
sự diệt
tận khổ mức độ như thế này, tất cả khổ sẽ được diệt tận?"
"-- Thưa Hiền giả, không như vậy.
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông có biết: "Sự đoạn tận các bất thiện
pháp
ngay trong hiện tại hay sự thành tựu các thiện pháp?"
"-- Thưa Hiền giả, không như vậy.
"-- Chư Hiền Nigantha, như các Ông đã nói, các Ông không biết: "Trong
quá
khứ, chúng tôi có hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các Ông không
biết:
"Trong quá khứ, chúng tôi có tạo ác nghiệp, chúng tôi không tạo ác
nghiệp";
các Ông không biết: "Chúng tôi có tạo ác nghiệp như thế này, hay như
thế
kia"; các Ông không biết: "Khổ mức độ như thế này đã được diệt tận,
khổ mức
độ như thế này cần phải được diệt tận, hay với sự diệt tận khổ mức
độ như
thế này, tất cả khổ sẽ được diệt tận"; các Ông không biết: "Sự đoạn
tận các
bất thiện pháp ngay trong hiện tại hay sự thành tựu các thiện pháp";
sự tình
là như vậy, thời có hợp lý chăng, khi các Tôn giả Nigantha lại trả
lời:
"Phàm cảm giác gì con người này lãnh thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất
khổ bất
lạc thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp quá khứ, với sự đốt cháy,
đoạn diệt
các nghiệp quá khứ, với sự không tạo các nghiệp mới, sẽ không có
diễn tiến
đến tương lai. Do không có diễn tiến đến tương lai, nghiệp được đoạn
diệt;
do nghiệp được đoạn diệt, khổ được đoạn diệt; do khổ đoạn diệt, cảm
thọ được
đoạn diệt; do cảm thọ được đoạn diệt tất cả khổ thọ sẽ được diệt
tận?".
"-- Chư Hiền Nigantha, nếu các Ông được biết: "Trong quá khứ, chúng
tôi
có hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các Ông được biết: "Trong
quá khứ,
chúng tôi có tạo ác nghiệp, chúng tôi không tạo ác nghiệp"; các Ông
được
biết: "Chúng tôi có tạo ác nghiệp như thế này, hay như thế kia"; các
Ông
được biết: "Khổ mức độ như thế này đã được diệt tận, hay khổ mức độ
như thế
này cần phải được diệt tận, hay với sự diệt tận khổ mức độ như thế
này, tất
cả khổ sẽ được diệt tận"; các Ông được biết: "Sự đoạn tận các bất
thiện pháp
ngay trong hiện tại hay sự thành tựu các thiện pháp"; sự tình là như
vậy,
thời thật là hợp lý khi các Tôn giả Nigantha trả lời: "Phàm cảm giác
gì con
người này lãnh thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả
đều do
nhân các nghiệp quá khứ với sự đốt cháy, đoạn diệt các nghiệp quá
khứ; với
sự không tạo các nghiệp mới, sẽ không có diễn tiến đến tương lai. Do
không
có diễn tiến đến tương lai nghiệp được đoạn diệt; do nghiệp đoạn
diệt, khổ
được đoạn diệt; do khổ đoạn diệt, cảm thọ được đoạn diệt, do cảm thọ
được
đoạn diệt, tất cả khổ sẽ được diệt tận".
"-- Chư Hiền Nigantha, ví như một người bị mũi tên bắn, mũi tên được
tẩm
thuốc độc rất dày. Người ấy do nhân cảm xúc mũi tên, thọ lãnh các
cảm giác
đau đớn, cực khổ, thống khổ. Bạn bè, bà con huyết thống của người ấy
mời một
y sĩ giải phẫu đến. Vị y sĩ giải phẫu lấy dao cắt rộng miệng vết
thương.
Người ấy do nhân dao cắt miệng vết thương, thọ lãnh các cảm giác đau
đớn,
cực khổ, thống khổ. Vị y sĩ giải phẫu ấy dò tìm mũi tên với vật dụng
dò tìm.
Người ấy do nhân bị dò tìm mũi tên với vật dụng dò tìm, thọ lãnh các
cảm
giác đau đớn, cực khổ, thống khổ. Vị y sĩ giải phẫu rút mũi tên ra
khỏi
người ấy. Người ấy do nhân được rút mũi tên, thọ lãnh các cảm giác
đau đớn,
cực khổ, thống khổ. Vị y sĩ giải phẫu ấy cho đốt miệng vết thương
với than
đỏ (hay đắp miệng vết thương với vải nóng như than đỏ). Người ấy do
nhân
miệng vết thương bị than đỏ đốt, thọ lãnh các cảm giác đau đớn, cực
khổ,
thống khổ. Sau một thời gian, khi da đã bắt đầu lành trên miệng vết
thương,
người ấy không bệnh, an lạc, tự do, tự tại, và đi vào chỗ nào người
ấy muốn.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Trước kia ta bị mũi tên bắn, mũi tên
được tẩm
thuốc độc rất dày. Do nhân cảm xúc mũi tên, ta thọ lãnh các cảm giác
đau
đớn, cực khổ, thống khổ. Bạn bè bà con huyết thống của ta có mời một
y sĩ
giải phẩu đến. Vị y sĩ giải phẫu ấy lấy dao cắt rộng miệng vết
thương. Ta do
nhân dao cắt rộng miệng vết thương thọ lãnh các cảm giác đau đớn,
cực khổ,
thống khổ. Vị y sĩ giải phẩu ấy dò tìm mũi tên với vật dụng dò tìm.
Do nhân
bị dò tìm mũi tên với vật dụng dò tìm ta thọ lãnh các cảm giác đau
đớn, cực
khổ, thống khổ. Vị y sĩ giải phẫu ấy rút mũi tên ra khỏi ta. Do nhân
được
rút mũi tên, ta thọ lãnh các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ.
Vị y sĩ
giải phẫu ấy cho đốt miệng vết thương với than đỏ (hay đắp miệng vết
thương
với vải nóng như than đỏ?). Do nhân miệng vết thương bị than đỏ đốt,
ta thọ
lãnh các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ. Nay da đã bắt đầu
lành trên
miệng vết thương, ta không bệnh, an lạc, tự do, tự tại, và đi chỗ
nào ta
muốn".
"Như vậy, này chư Hiền Nigantha, nếu các Ông được biết: "Trong quá
khứ,
chúng tôi hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các Ông được biết:
"Trong quá
khứ, chúng tôi có tạo ác nghiệp, chúng tôi không tạo ác nghiệp", các
Ông
được biết: "Chúng tôi có tạo ác nghiệp, như thế này hay như thế
kia", các
Ông được biết: "Khổ mức độ như thế này đã được diệt tận, hay khổ mức
độ như
thế này cần phải được diệt tận; hay với sự diệt tận khổ mức độ như
thế này,
tất cả khổ sẽ được diệt tận"; các Ông được biết: "Sự đoạn tận các
bất thiện
pháp ngay trong hiện tại hay sự thành tựu các thiện pháp"; sự tình
là như
vậy, thời thật là hợp lý khi các Tôn giả Nigantha trả lời: "Phàm cảm
giác gì
con người này lãnh thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ,
tất cả
đều do nhân các nghiệp quá khứ; với sự đốt cháy, đoạn diệt các
nghiệp quá
khứ, với sự không tạo tác các nghiệp mới, sẽ không có diễn tiến đến
tương
lai. Do không có diễn tiến đến tương lai, nghiệp được đoạn diệt; do
nghiệp
đoạn diệt, khổ được đoạn diệt; do khổ đoạn diệt, cảm thọ được đoạn
diệt; do
cảm thọ được đoạn diệt, tất cả khổ sẽ được diệt tận".
"Chư Hiền Nigantha, và vì rằng các Ông không được biết: "Trong quá
khứ,
chúng tôi có hiện hữu, chúng tôi không hiện hữu"; các Ông không được
biết:
"Chúng tôi có tạo ác nghiệp, chúng tôi không tạo ác nghiệp"; các Ông
không
được biết: "Chúng tôi có tạo ác nghiệp như thế này, hay như thế
kia"; các
Ông không được biết: "Khổ mức độ như thế này đã được diệt tận, hay
khổ mức
độ như thế này cần phải được diệt tận, hay với sự diệt tận khổ mức
độ như
thế này, tất cả khổ sẽ được diệt tận"; các Ông không được biết: "Sự
đoạn tận
các bất thiện pháp ngay trong hiện tại hay sự thành tựu các thiện
pháp";
thời thật là không hợp lý khi các Tôn giả Nigantha trả lời: "Phàm
cảm giác
gì con người lãnh thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ,
tất cả đều
do nhân các nghiệp quá khứ; với sự đốt cháy, đoạn diệt các nghiệp
quá khứ;
với sự không tạo các nghiệp mới, sẽ không có diễn tiến đến tương
lai. Do
không có diễn tiến đến tương lai, nghiệp được đoạn diệt; do nghiệp
đoạn
diệt, khổ được đoạn diệt; do khổ đoạn diệt, cảm thọ được đoạn diệt;
do cảm
thọ được đoạn diệt, tất cả khổ sẽ được diệt tận".
Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, các Nigantha ấy nói với Ta:
"-- Thưa Hiền giả, Nigantha Nataputta là bậc toàn tri, toàn kiến, tự
xưng
là có tri kiến toàn diện như sau: "Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và
có thức,
tri kiến luôn luôn được tồn tại liên tục ở nơi ta". Vị ấy nói như
sau: "Này
các Nigantha, nếu xưa kia các Ông có làm ác nghiệp, hãy làm cho
nghiệp ấy
tiêu mòn bằng khổ hạnh thống khổ này. Chính do hộ trì thân, hộ trì
lời nói,
hộ trì ý ở đây, ngay trong hiện tại nên không làm các nghiệp trong
tương
lai. Với sự đốt cháy, đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với sự không tạo
các
nghiệp mới, sẽ không có diễn tiến đến tương lai. Do không có diễn
tiến đến
tương lai, nghiệp được đoạn diệt; do nghiệp đoạn diệt, khổ được đoạn
diệt;
do khổ đoạn diệt, cảm thọ được đoạn diệt; do cảm thọ được đoạn diệt,
tất cả
khổ sẽ được diệt tận". Và vì chúng tôi chấp nhận và chúng tôi kham
nhẫn điều
ấy, nên chúng tôi được hoan hỷ".
Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói với các vị Nigantha ấy:
"-- Chư Hiền Nigantha, có năm pháp này, ngay trong hiện tại có hai
quả
báo. Thế nào là năm? Tín, hỷ, tùy văn, thẩm định lý do
(akaraparivitakka),
kham nhẫn chấp thọ (tà) kiến. Này chư Hiền Nigantha, năm pháp này
ngay trong
hiện tại có hai quả báo. Ở đây, thế nào là lòng tin các Tôn giả
Nigantha ấy
đối với bậc Ðạo sư trong quá khứ? Thế nào là sự hoan hỷ, thế nào là
sự tùy
văn, thế nào là thẩm định lý do, thế nào là kham nhẫn chấp thọ (tà)
kiến các
vị ấy?"
Này các Tỷ-kheo, nói như vậy, Ta không thấy một câu trả lời hợp pháp
nào
giữa các vị Nigantha. Và lại nữa này các Tỷ-kheo, Ta nói với các vị
Nigantha
ấy như sau:
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế nào? Khi các Ông tha thiết
tinh
tấn, tha thiết tinh cần, khi ấy có phải các Ông thọ lãnh những cảm
giác
thống khổ, đột khởi, đau đớn, cực khổ, thống khổ? Còn trong khi các
Ông
không tha thiết tinh tấn, không tha thiết tinh cần, khi ấy có phải
các Ông
không thọ lãnh những cảm giác thống khổ, đột khởi, đau đớn, cực khổ,
thống
khổ?
"-- Thưa Hiền giả Gotama, khi chúng tôi tha thiết tinh tấn, tha thiết
tinh cần, khi ấy chúng tôi thọ lãnh những cảm giác thống khổ, đột
khởi, đau
đớn, cực khổ, thống khổ. Còn trong khi chúng tôi không tha thiết
tinh tấn,
không tha thiết tinh cần, khi ấy chúng tôi không thọ lãnh những cảm
giác
thống khổ, đột khởi, đau đớn, cực khổ, thống khổ.
"-- Như vậy, này chư Hiền Nigantha, khi các Ông tha thiết tinh tấn,
tha
thiết tinh cần, khi ấy các Ông thọ lãnh những cảm giác thống khổ,
đột khởi,
đau đớn, cực khổ, thống khổ. Còn trong khi các Ông không tha thiết
tinh tấn,
không tha thiết tinh cần, khi ấy các Ông không thọ lãnh những cảm
giác thống
khổ, đột khởi, đau đớn, cực khổ, thống khổ. Sự tình là như vậy, thời
thật là
hợp lý khi các Tôn giả Nigantha trả lời: "Phàm cảm giác gì con người
này
lãnh thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả đều do
nhân các
nghiệp quá khứ; với sự đốt cháy, đoạn diệt các nghiệp quá khứ, với
sự không
tạo các nghiệp mới, sẽ không có diễn tiến đến tương lai. Do không có
diễn
tiến đến tương lai, nghiệp được đoạn diệt; do nghiệp được đoạn diệt,
khổ
được đoạn diệt; do khổ đoạn diệt, cảm thọ được đoạn diệt; do cảm thọ
được
đoạn diệt, tất cả khổ sẽ được diệt tận".
"Này chư Hiền Nigantha, nếu trong khi các Ông tha thiết tinh tấn, tha
thiết tinh cần, khi ấy các cảm giác thống khổ, đột khởi, đau đớn,
cực khổ,
thống khổ được tồn tại. Còn trong khi các Ông không tha thiết tinh
tấn,
không tha thiết tinh cần, khi ấy các cảm giác thống khổ, đột khởi,
đau đớn,
cực khổ, thống khổ cũng được tồn tại. Sự tình là như vậy, thời thật
là hợp
lý khi các Tôn giả Nigantha trả lời: "Phàm cảm giác gì con người này
lãnh
thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, tất cả đều do nhân
các
nghiệp quá khứ, với sự đốt cháy, đoạn diệt các nghiệp quá khứ...
(như
trên)... tất cả khổ được diệt tận".
"Và vì rằng, chư Hiền Nigantha, trong khi các Ông tha thiết tinh tấn,
tha
thiết tinh cần, khi ấy các Ông lãnh thọ những cảm giác thống khổ,
đột khởi,
đau đớn, cực khổ thống khổ, còn trong khi các Ông không tha thiết
tinh tấn,
không tha thiết tinh cần, khi ấy các Ông không lãnh thọ những cảm
giác thống
khổ, đột khởi, đau đớn, cực khổ, thống khổ. Như vậy, thật chính các
Ông
trong khi lãnh thọ những cảm giác thống khổ, đột khởi, đau đớn, cực
khổ,
thống khổ, tự bị lừa dối bởi vô minh, vô trí, ngu muội, khi các Ông
nói:
"Phàm cảm giác gì con người này lãnh thọ, lạc thọ, khổ thọ, hay bất
khổ bất
lạc thọ, tất cả đều do nhân các nghiệp quá khứ; với sự đốt cháy,
đoạn diệt
các nghiệp quá khứ, với sự không tạo tác các nghiệp mới, sẽ không có
diễn
tiến đến tương lai. Do không có diễn tiến đến tương lai, nghiệp được
đoạn
diệt; do nghiệp được đoạn diệt, khổ được đoạn diệt; do khổ được đoạn
diệt;
cảm thọ được đoạn diệt; do cảm thọ được đoạn diệt, tất cả khổ sẽ
được diệt
tận".
Này các Tỷ-kheo, nói như vậy, Ta không thấy một câu trả lời hợp lý
nào
giữa các vị Nigantha. Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, Ta nói với các vị
Nigantha ấy như sau:
"-- Chư Hiền Nigantha, các ông nghĩ thế nào? Có thể được chăng: "Mong
rằng nghiệp được thọ quả hiện tại này, do tinh tấn, hay do tinh cần
có thể
khiến được thọ quả tương lai?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Có thể được chăng: "Mong rằng nghiệp được thọ quả tương lai này
do
tinh tấn hay do tinh cần có thể khiến được thọ quả hiện tại?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế nào? Có thể được chăng: "Mong
rằng nghiệp được lãnh lạc thọ này, do tinh tấn hay tinh cần có thể
được lãnh
khổ thọ?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Có thể được chăng: "Mong rằng nghiệp được lãnh khổ thọ này, do
tinh
tấn hay tinh cần có thể được lãnh lạc thọ?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế nào? Có thể được chăng: "Mong
rằng nghiệp mà quả lãnh thọ đã được thuần thục này do tinh tấn hay
tinh cần,
có thể trở thành không thuần thục?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Có thể được chăng: "Mong rằng nghiệp mà quả lãnh thọ chưa được
thuần
thục này, do tinh tấn hay tinh cần, có thể trở thành thuần thục?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế nào? Có thể được chăng: "Mong
rằng nghiệp đa sở thọ này do tinh tấn hay tinh cần trở thành thiểu
sở thọ?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Có thể nói được chăng: "Mong rằng nghiệp thiểu sở thọ này do tinh
tấn
hay do tinh cần trở thành đã sở thọ?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Chư Hiền Nigantha, các Ông nghĩ thế nào? Có thể được chăng: "Mong
rằng nghiệp có sở thọ này do tinh tấn hay tinh cần trở thành nghiệp
không có
sở thọ?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Có thể được chăng: "Mong rằng nghiệp không có sở thọ này, do tinh
tấn
hay tinh cần trở thành nghiệp có sở thọ?"
"-- Thưa không vậy, Hiền giả.
"-- Như vậy, này chư Hiền Nigantha, không thể được: "Mong rằng nghiệp
được thọ quả hiện tại này, do tinh tấn hay tinh cần trở thành nghiệp
được
thọ quả tương lai". Không thể được: "Mong rằng nghiệp được thọ quả
tương lai
này, do tinh tấn hay do tinh cần, trở thành nghiệp được thọ quả hiện
tại".
Không thể được: "Mong rằng nghiệp được lãnh lạc thọ này, do tinh tấn
hay
tinh cần trở thành nghiệp được lãnh khổ thọ". Không thể được: "Mong
rằng
nghiệp được lãnh khổ thọ này, do tinh tấn hay tinh cần trở thành
nghiệp được
lãnh lạc thọ". Không thể được: "Mong rằng nghiệp mà quả lãnh thọ đã
được
thành thục này, do tinh tấn hay tinh cần có thể trở thành không
thành thục".
Không thể được: "Mong rằng nghiệp mà quả lãnh thọ không thành thục
này, do
tinh tấn hay tinh cần có trở thành thành thục". Không thể được:
"Mong rằng
nghiệp đa sở thọ này do tinh tấn hay tinh cần, trở thành thiểu sở
thọ".
Không thể được: "Mong rằng nghiệp thiểu sở thọ này, do tinh tấn hay
tinh cần
trở thành đa sở thọ". Không thể được: "Mong rằng nghiệp không có sở
thọ này,
do tinh tấn hay tinh cần trở thành có sở thọ". Không thể được: "Mong
rằng
nghiệp có sở thọ này, do tinh tấn hay tinh cần trở thành không có sở
thọ".
Sự tình là như vậy, thời sự tinh tấn của các Tôn giả Nigantha là
không có
kết quả, sự tinh cần của họ là không có kết quả".
Này các Tỷ-kheo, các Nigantha nói như vậy. Này các Tỷ-kheo, mười
thuyết
tùy thuyết (Tùy thuận thuyết Vadanuvada) hợp pháp do các Nigantha đã
nói như
vậy đưa đến sự chỉ trích:
(1) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân các việc làm quá khứ,
lãnh
thọ lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, các Nigantha thật sự đã làm những
ác hạnh
trong thời quá khứ, nên nay họ phải lãnh thọ những cảm giác đau đớn,
cực
khổ, thống khổ như vậy.
(2) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân một vị Tạo hóa tạo ra
lãnh
thọ những cảm giác lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, các Nigantha thật
sự được
tạo ra bởi một vị Tạo hóa ác độc, vì rằng nay họ lãnh thọ những cảm
giác đau
đớn, cực khổ, thống khổ.
(3) Như vậy, này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân kết hợp các
điều
kiện (sangatibhava), thọ lãnh lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, các
Nigantha
thật sự bị ác kết hợp, vì rằng nay họ lãnh thọ những cảm giác đau
đớn, cực
khổ, thống khổ như vậy.
(4) Này các Tỷ-kheo, nếu các loài hữu tình do nhân sanh loại
(ahbijati)
lãnh thọ những cảm giác lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, các Nigantha
thật sự
bị ác sinh loại, vì rằng nay họ lãnh thọ những cảm giác đau đớn, cực
khổ,
thống khổ như vậy.
(5) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân tinh tấn hiện tại, thọ
lãnh
lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, các Nigantha thật sự đã tạo ác tinh
tấn hiện
tại, vì rằng nay họ lãnh thọ những cảm giác đau đớn, cực khổ, thống
khổ.
(6) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân việc làm quá khứ thọ
lãnh
lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích. Nếu các hữu tình không do
nhân việc
làm quá khứ thọ lãnh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích.
(7) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân được một vị Tạo hóa tạo
ra
thọ lãnh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích. Nếu các hữu tình
không do
nhân được một vị Tạo hóa tạo ra thọ lãnh lạc khổ, các Nigantha đáng
bị chỉ
trích.
(8) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân kết hợp các điều kiện
thọ
lãnh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích. Nếu các hữu tình không
do nhân
kết hợp các điều kiện thọ lãnh lạc khổ các Nigantha đáng bị chỉ
trích.
(9) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân sanh loại thọ lãnh lạc
khổ,
các Nigantha đáng bị chỉ trích. Nếu các hữu tình không do nhân sanh
loại thọ
lãnh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích.
(10) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân tinh cần hiện tại thọ
lãnh
lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích. Nếu các hữu tình không do
nhân tinh
cần hiện tại thọ lãnh lạc khổ, các Nigantha đáng bị chỉ trích.
Này các Tỷ-kheo, các Nigantha nói như vậy. Này các Tỷ-kheo, mười
thuyết
tùy thuyết hợp pháp các Nigantha đã nói như vậy đưa đến sự chỉ
trích. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, sự tinh tấn của các Nigantha là không có kết
quả, sự
tinh cần của họ là không có kết quả.
-- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự tinh tấn có kết quả? Ở đây, này
các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo không để cho tự ngã chưa bị nhiếp phục, bị đau
khổ nhiếp
phục và không từ bỏ lạc thọ hợp pháp, và không để lạc thọ ấy chi
phối. Vị ấy
biết như sau: "Trong khi ta tinh cần chống lại nguyên nhân đau khổ
này, do
chống lại nguyên nhân đau khổ, ta không có tham dục. Nhưng trong khi
ta xả
đối với nguyên nhân đau khổ này, trong khi tu tập xả, ta không có
tham dục".
Khi (vị Tỷ-kheo) tinh cần chống lại nguyên nhân đau khổ, do tinh cần
chống
lại nguyên nhân đau khổ, vị ấy không có tham dục. Do vậy, ở đây, vị
ấy tinh
cần chống lại (nguyên nhân đau khổ). Nhưng trong khi vị ấy xả đối
với nguyên
nhân đau khổ, trong khi tu tập xả, vị ấy không có tham dục. Do vậy, ở
đây,
vị ấy tu tập xả. Trong khi vị ấy tinh cần chống lại nguyên nhân đau
khổ ấy,
do tinh cần chống lại nguyên nhân, vị ấy không có tham dục. Như vậy
sự đau
khổ ấy đối với vị ấy được diệt tận. Trong khi vị ấy xả đối với
nguyên nhân
đau khổ ấy, trong khi tu tập xả, vị ấy không có tham dục. Như vậy sự
đau khổ
ấy đối với vị ấy được diệt tân.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người luyến ái một nữ nhân, tâm tư say
đắm,
nhiệt tình ái mộ, nhiệt tình luyến mộ. Người ấy thấy nữ nhân này
đứng với
một người đàn ông khác, nói chuyện, đùa giỡn và cười cợt. Này các
Tỷ-kheo,
các Ông nghĩ thế nào? Người ấy, khi thấy nữ nhân này đứng với một
người đàn
ông khác, nói chuyện, đùa giỡn và cười cợt, có sanh sầu, bi, khổ,
ưu, não
không?
-- Thưa có vậy, bạch Thế Tôn. Vì sao vậy? Vì rằng người ấy luyến ái
nữ
nhân kia, tâm tư say đắm, nhiệt tình ái mộ, nhiệt tình luyến mộ. Do
vậy,
người ấy khi thấy nữ nhân kia đứng với một người đàn ông khác, nói
chuyện,
đùa giỡn và cười cợt, nên sanh sầu, bi, khổ, ưu, não.
-- Nhưng này các Tỷ-kheo, người ấy có thể suy nghĩ như sau: "Ta luyến
ái
nữ nhân này, tâm tư say đắm, nhiệt tình ái mộ, nhiệt tình luyến mộ.
Khi ta
thấy nữ nhân này đứng với một người đàn ông khác, nói chuyện đùa
giỡn và
cười cợt, ta sanh sầu, bi, khổ, ưu, não. Vậy ta hãy bỏ lòng tham
luyến đối
với nữ nhân này". Rồi người ấy bỏ lòng tham luyến đối với nữ nhân
kia. Sau
một thời gian, người ấy thấy nữ nhân kia đứng với một người đàn ông
khác,
nói chuyện, đùa giỡn và cười cợt. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế
nào?
Người ấy khi thấy nữ nhân kia đứng với một người đàn ông khác, nói
chuyện,
đùa giỡn và cười cợt, có sanh sầu, bi, khổ, ưu não, không?
-- Bạch Thế Tôn không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn vì rằng, người này
đối
với nữ nhân kia không còn tham luyến. Do vậy, khi thấy nữ nhân kia
đứng với
một người đàn ông khác, nói chuyện, đùa giỡn và cười cợt, người ấy
không
sanh sầu bi, khổ, ưu, não.
-- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, (một người) không để cho tự ngã chưa bị
nhiếp phục, bị đau khổ nhiếp phục và không từ bỏ lạc thọ hợp pháp,
và không
để lạc thọ ấy chi phối. Vị ấy biết như sau: "Trong khi ta tinh cần
chống lại
nguyên nhân đau khổ này, do chống lại nguyên nhân đau khổ, ta không
có tham
dục. Nhưng trong khi ta xả đối với nguyên nhân đau khổ này, trong
khi tu tập
xả, ta không có tham dục". Khi (vị ấy) tinh cần chống lại nguyên
nhân đau
khổ, do tinh cần chống lại nguyên nhân đau khổ, vị ấy không có tham
dục. Do
vậy, ở đây, vị ấy tinh cần chống lại (nguyên nhân đau khổ). Nhưng
trong khi
vị ấy xả đối với nguyên nhân đau khổ, trong khi tu tập xả, vị ấy
không có
tham dục. Do vậy, ở đây, vị ấy tu tập xả. Trong khi vị ấy tinh cần
chống lại
nguyên nhân đau khổ ấy, do tinh cần chống lại nguyên nhân, vị ấy
không có
tham dục. Như vậy, sự đau khổ đối với vị ấy được diệt tận. Trong khi
vị ấy
xả đối với nguyên nhân đau khổ ấy, trong khi tu tập xả, vị ấy không
có tham
dục. Như vậy, sự đau khổ đối với vị ấy được diệt tận. Như vậy, này
các
Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả, sự tinh cần có kết quả.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo lại suy nghĩ như sau: "Khi ta
trú
vào lạc, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp giảm thiểu. Nhưng
khi ta
tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã, các bất thiện pháp giảm
thiểu, các
thiện pháp tăng trưởng. Vậy ta hãy tinh cần dùng đau khổ chống với
tự ngã".
Vị ấy tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã. Do tinh cần dùng đau
khổ chống
với tự ngã, các bất thiện pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng
trưởng. Vị ấy
sau một thời gian, không tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã. Vì
sao vậy?
Vì mục đích vị Tỷ-kheo ấy tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã đã
thành
tựu. Do vậy, sau một thời gian vị ấy không tinh cần dùng đau khổ
chống với
tự ngã.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người làm tên, hơ nóng và đốt nóng thân
tên
giữa hai ngọn lửa, khiến thân tên được thẳng và dễ uốn nắn. Nhưng
này các
Tỷ-kheo, khi thân tên của người làm tên, đã được hơ nóng và đốt nóng
giữa
hai ngọn lửa trở thành thẳng và dễ uốn nắn, người ấy sau một thời
gian không
còn hơ nóng và đốt nóng thân tên giữa hai ngọn lửa, khiến thân tên
được
thẳng và dễ uốn nắn. Vì sao vậy? Vì mục đích người làm tên ấy hơ
nóng và đốt
nóng thân tên giữa hai ngọn lửa, khiến thân tên được thẳng và dễ uốn
nắn đã
được thành tựu. Do vậy, sau một thời gian, người ấy không còn hơ
nóng, đốt
nóng thân tên giữa hai ngọn lửa để trở thành thẳng và dễ uốn nắn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau: "Khi ta
trú
vào lạc, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp giảm thiểu. Nhưng
khi ta
tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã", các bất thiện pháp giảm
thiểu, các
thiện pháp tăng trưởng. Vậy ta hãy tinh cần dùng đau khổ chống với
tự ngã".
Vị ấy tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã. Do tinh cần dùng đau
khổ chống
với tự ngã, các bất thiện pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng
trưởng. Vị ấy
sau một thời gian, không tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã. Vì
sao vậy?
Vì mục đích vị Tỷ-kheo ấy tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã đã
thành
tựu. Do vậy, sau một thời gian, vị ấy không tinh cần dùng đau khổ
chống với
tự ngã. Như vậy, này các Tỷ-kheo là sự tinh cần có kết quả.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây, Như Lai sanh ra ở đời, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Ðiều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng
tự chứng
ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới,
gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố
điều
Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, đầy đủ
văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai
cấp
(hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín
ngưỡng Như
Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia
đình đầy
những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia
phóng
khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình
có thể
sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng
bạch như
vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia
đình,
sống không gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ,
hay bỏ tài
sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn,
cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình.
Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống các
Tỷ-kheo,
từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ,
sợ hãi,
có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài
hữu
tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ
mong
những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ
bỏ đời
sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly,
tránh xa
dâm dục hạ liệt.
Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật,
chắc
chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi,
tránh xa
nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh
chia rẽ
ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những
người này
để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa
hợp những
kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp,
thích thú
trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa
hợp. Vị ấy
từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu
hiền, đẹp
tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị
ấy nói
những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời
nói phù
phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói
luật, nói
những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, hợp lý có mạch lạc
hệ
thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng
một
ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ
không đi
xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa,
hương
liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng
giường cao và
giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt
sống; từ
bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ
không nhận
nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia
cầm và
heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận
ruộng
nương đất đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm
môi
giới; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc
và đo
lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không
làm
thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ ăn khất
thực
để nuôi sống, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Như con
chim
bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng
với tấm
y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi sống, đi tại chỗ nào cũng
mang
theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ
không khuyết
phạm.
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng
riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến
tham ái,
ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên
nhân ấy,
hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng...
mũi ngửi
hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy
không
nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân
gì, vì ý
căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp
khởi
lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì
ý căn.
Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này nội tâm hưởng lạc thọ không
uế
nhiễm.
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn
quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi
mang y kép,
bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh
giác;
khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm,
thức,
nói, yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn
này,
thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng,
như khu
rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời,
đống rơm.
Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng
thẳng
tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục
tham ở
đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ
sân
hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả
chúng
sanh hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị
ấy sống
thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh
niệm
tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối
quá, vị ấy
sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối
quá. Từ
bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng
lự, gột
rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Vị ấy, từ bỏ năm triền cái làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội
lược
này, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một
trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự
tinh
tấn có kết quả, là sự tinh cần có kết quả.
Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú
thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không
tứ, nội
tỉnh nhứt tâm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả,
là sự
tinh cần có kết quả.
Và lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và
trú thiền thứ ba. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết
quả, là sự
tinh cần có kết quả.
Và lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã
cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm
thanh
tịnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả, là sự
tinh cần có
kết quả.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy
hướng tâm
đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời,
hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời,
một trăm
đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành
kiếp. Vị
ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai
cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi
thọ đến
mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ.
Tại chỗ
ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế
này, ăn
uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này. Sau
khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy vị ấy nhớ đến
những đời
sống quá khứ, cũng với các nét đại cương và các chi tiết. Như vậy,
này các
Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả, là sự tinh cần có kết quả.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy
hướng tâm
đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân,
thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng
sanh người
hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh đều
do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh
này
thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói,
thành
tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo
các nghiệp
theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải
sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành
tựu
những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói,
thành tựu
những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh
kiến, tạo
các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng
chung,
được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này. Như vậy, vị
ấy với
thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh.
Vị ấy
tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ
kẻ thô
xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Như vậy,
này các
Tỷ-kheo, là sự tinh tấn có kết quả, là sự tinh cần có kết quả.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy
hướng tâm
đến lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ", tuệ tri như
thật:
"Ðây là Khổ tập", tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ diệt", tuệ tri như
thật:
"Ðây là con Ðường đưa đến khổ diệt" tuệ tri như thật: "Ðây là những
lậu
hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là nguyên nhân của các lậu hoặc", tuệ
tri như
thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là
con Ðường
đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát
khỏi
hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như
vậy khởi
lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận,
phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có trở lui
đời sống
này nữa". Như vậy, này các Tỷ-kheo là sự tinh tấn có kết quả, là sự
tinh cần
có kết quả.
Này các Tỷ-kheo, Như Lai nói như vậy. Này các Tỷ-kheo, mười thuyết
tùy
thuyết hợp pháp của Như Lai đã nói như vậy đưa đến sự tán thán:
(1) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân các việc đã làm trong
quá
khứ thọ lãnh lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, Như Lai thật sự đã làm
những
thiện hạnh trong thời quá khứ nên nay mới thọ lãnh vô lậu lạc thọ
như vậy.
(2) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân một vị Tạo hóa tạo ra,
thọ
lãnh lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, Như Lai thật sự được tạo ra bởi
một vị
Tạo hóa hiền thiện, nên nay mới thọ lãnh vô lậu lạc thọ như vậy.
(3) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân kết hợp các điều kiện,
thọ
lãnh lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, Như Lai thật sự được thiện kết
hợp, nên
nay mới thọ lãnh vô lậu lạc thọ như vậy.
(4) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân sanh loại, thọ lãnh lạc
khổ, thời này các Tỷ-kheo Như Lai thật sự được thiện sanh loại, nên
nay thọ
lãnh vô lậu lạc thọ như vậy.
(5) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân tinh tấn hiện tại thọ
lãnh
lạc khổ, thời này các Tỷ-kheo, Như Lai thật sư đã tạo thiện tinh tấn
hiện
tại, vì rằng nay thọ lãnh vô lậu lạc thọ như vậy.
(6) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân hành động quá khứ thọ
lãnh
lạc khổ, Như Lai đáng được tán thán. Nếu các hữu tình không do nhân
hành
động quá khứ thọ lãnh lạc khổ, Như Lai đáng được tán thán.
(7) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân được một vị Tạo hóa tạo
ra,
thọ lãnh lạc khổ, Như Lai đáng được tán thán. Nếu các hữu tình không
do nhân
được một vị Tạo hóa tạo ra, thọ lãnh lạc khổ, Như Lai đáng được tán
thán.
(8) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân kết hợp các điều kiện
thọ
lãnh lạc khổ, Như Lai đáng được tán thán. Nếu các hữu tình không do
nhân các
điều kiện kết hợp thọ lãnh lạc thọ khổ thọ, Như Lai đáng được tán
thán.
(9) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân sanh loại thọ lãnh lạc
khổ,
Như Lai đáng được tán thán. Nếu các hữu tình, không do nhân sanh
loại thọ
lãnh lạc khổ, Như Lai đáng được tán thán.
(10) Này các Tỷ-kheo, nếu các hữu tình do nhân tinh cần hiện tại thọ
lãnh
lạc khổ, Như Lai đáng được tán thán.
Này các Tỷ-kheo, Như Lai nói như vậy. Này các Tỷ-kheo, mười thuyết
tùy
thuyết hợp pháp này Như Lai đã nói như vậy đưa đến sự tán thán.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.