Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ
Ðức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, đấng Chánh Biến Tri.
Tất cả những giáo lý hay những tín
ngưỡng ngoài Phật Giáo đều nằm trong hạng những giáo thuyết tin tưởng vào một
bản ngã trường tồn, attā. Họ chủ trương rằng có cái gì như một linh hồn, một
thực thể sống [thực thể sống: được phiên dịch từ Anh ngữ "living
entity"], thật sự nằm bên trong tất cả chúng sanh.
Giữa một thế gian vững vàng tin
chắc vào ý niệm về bản ngã hay linh hồn trường cửu, Ðức Phật tuyên ngôn rằng
"Attā, linh hồn hay thực thể sống, không phải là thực tại; đó chỉ là ngôn
từ chế định (tục đế). Trong ý nghĩa cùng tột (chân đế) thật sự chỉ có luồng
trôi chảy liên tục của tiến trình sắc và danh, những hiện tượng vô ngã".
Ðiều cốt yếu là cần phải thấu hiểu
rõ ràng và tường tận lý vô ngã, anattā, do Ðức Phật giáo truyền. Trước tiên
Ngài đề cập rộng rãi đến Bốn Chân Lý Thâm Diệu (Tứ Diệu Ðế) trong bài kinh
Dhammacakka Sutta, Chuyển Pháp Luân. Khi giảng kinh Hemavata Sutta, Ngài nhắc
trở lại và dạy rằng "với sự khởi sanh của lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý) cũng có một thế gian, một chúng sanh, phát khởi." Rồi Ðức Phật
trình bày cặn kẽ và rõ ràng lý thuyết vô ngã trong Anattalakkhaṇa
Sutta, Kinh Vô Ngã Tướng.
Phần Nhập Ðề Bài Kinh
Trong Kinh Ðiển Pāli, phẩm
Khandhavagga, của bộ Saṁyutta Nikāya, Tạp A Hàm, phần nhập
đề bài Kinh Vô Ngã Tướng được các vị Trưởng Lão ghi chép như sau nhân kỳ Kết
Tập Tam Tạng Lần Ðầu Tiên:
Evamme sutaṁ.
Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Bārāṇasiyaṁ
viharati Isipatane Migadāye. Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi,
"Bhikkhavo" ti. "Bhadante" ti te bhikkhū Bhagavato
paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca.
"Tôi, Ānanda, có nghe như
vầy", Ðức Ānanda bắt đầu, "Vào một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự trong khu
vườn Lộc Uyển tại Isipatana, gần thành Varanasi."
Bài kinh Dhammacakka Sutta, Chuyển
Pháp Luân, được giáo truyền vào đêm trăng tròn tháng Bảy DL. trước đây 2,552
năm [tức trước năm mà Ngài Tác Giả thuyết thời Pháp nầy]. Vào lúc bấy giờ thính
giả chỉ có nhóm Năm Ðạo Sĩ [*] . Ngài Koṇḍañña (Kiều Trần Như) chứng đắc tầng
Tuệ Giác Cao Siêu Ðầu Tiên và trở nên vị Thánh Nhập Lưu, Sotāpanna, hay Tu Ðà
Huờn. Ðã thấm nhuần Giáo Pháp đầy đủ, với niềm tin kiên cố bất thối chuyển nơi
Giáo Huấn của Ðức Phật, Ngài xin thọ lễ xuất gia với Phật và gia nhập vào Giáo
Hội Tăng Già (Saṅgha).
[*] 2 Nhóm Năm Ðạo Sĩ" tức năm
vị đạo sĩ thường được gọi là năm anh em Kiều Trần Như, trước đó đã có theo tu
với Bồ Tát trong khi Ngài thực hành pháp tu khổ hạnh. Về sau, năm vị nầy là năm
người đầu tiên trong cảnh người được nghe Ngài giảng Bài Pháp Ðầu Tiên và trở
thành năm vị đệ tử đầu tiên của Ðức Phật.
Bốn vị đạo sĩ còn lại, các Ngài
Vappa, Bhaddhiya, Mahānāma và Assaji chưa thành tựu Tuệ Giác Cao Siêu. Vì lẽ ấy
Ðức Thế Tôn khuyến khích nên tích cực chuyên cần thực hành Giáo Pháp (Dhamma)
dưới sự hướng dẫn của chính Ngài. Các vị đạo sĩ ở luôn một chỗ, không ra ngoài
dầu là để đi bát. Chính Ðức Thế Tôn cũng ở lại tại nơi để sách tấn và theo dõi
sự tiến bộ của các vị hành giả, giúp tháo gỡ các gút mắt, vượt qua mọi chướng
ngại, và loại trừ những ô nhiễm có thể phát sanh trong khi hành thiền. Như thế
ấy, do nhờ được chính Ðức Thế Tôn dạy dỗ và hướng dẫn, Ngài Vappa thành tựu Ðạo
và Quả trong ngày đầu sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL., Ngài Bhaddiya trong
ngày thứ nhì, Ngài Mahānāma trong ngày thứ ba và trong ngày thứ tư Ngài Assaji
chứng đắc Tuệ Giác Cao Siêu. Tất cả bốn vị đều trở thành bậc Thánh Tu Ðà Huờn.
Sư đã dài dòng đề cập đến những sự chứng ngộ nầy trong đoạn cuối của bài giảng
về Kinh Chuyển Pháp Luân [Dhammaccakka Sutta - Xem "The Great Discourse on
Turning of the Wheel of Dhamma", do tác giả Ngài Mahasi Sayadaw, bản dịch
của U Ko Lay; Buddhadhamma Foundation ấn hành]. Lúc ấy Sư nói rằng ngoại trừ
Ngài Koṇḍañña, bốn vị kia chưa đủ thuần thục tinh luyện để
thành tựu Tuệ Giác Cao Siêu liền tức khắc sau khi nghe thời Pháp, mà còn phải
tích cực chuyên cần tu niệm thêm. Vì lẽ ấy Ðức Bổn Sư luôn luôn ở bên cạnh để
đôn đốc các vị tận lực thực hành Giáo Pháp. Ðề cập đến sự kiện nầy Sư muốn đề
cao cảnh giác những vị hành giả bị các học thuyết vô trách nhiệm dẫn dắt sai
lầm, tin rằng có thể chứng đắc tầng Thánh Nhập Lưu chỉ bằng cách nghe thuyết
giảng một thời Pháp, không cần phải mất nhiều công phu tinh tấn hành thiền Minh
Sát.
Các Bản Chú Giải ghi rằng sau khi
tất cả năm vị đạo sĩ đã thành tựu tầng Thánh Nhập Lưu và xuất gia, thọ giới tỳ
khưu, trở thành Hội Viên của Giáo Hội Tăng Già, Ðức Phật thuyết giảng thời Pháp
Anattalakkhaṇa Sutta, Kinh Vô Ngã Tướng, trong
ngày thứ Năm sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL.
Như vậy, khi Ðức Ānanda tuyên ngôn
"Vào một thuở nọ", thì "thuở" ấy là ngày thứ 5 sau đêm
trăng tròn tháng Bảy, trong khi Ðức Thế Tôn ngự trong vườn nai (Lộc Uyển) gần
thành phố Varanasi.
"Vào lúc bấy giờ, khi Ðức Thế Tôn ngự tại Lộc Uyển, trong thành Varanasi,
Ngài mở lời kêu gọi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, "Nầy chư Tỳ Khưu" và Nhóm
Năm Vị Sư trả lời, "Bạch Ðức Thế Tôn". Rồi Ðức Thế Tôn truyền dạy:
Lời Dạy Của Ðức Phật: Bắt Ðầu Bài Kinh
Rūpaṁ bhikkhave
anattā. Rūpañca hidaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ
rūpaṁ ābādhāya saṁvatteya; labbhetha ca rūpe evaṁ
me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ
mā ahosīti.
Nầy chư tỳ khưu, cơ thể vật chất
không phải là tự ngã, linh hồn thường còn, hay thực thể sống."
Thông thường người ta xem chính mình và những người khác là những thực thể
sống, mỗi thực thể sống nầy có một linh hồn, hay tự ngã, được gọi trong tiếng
Pāli là attā, tương đương với danh từ Sanskrit ātman. Attā cũng được biết là
jīva, sự sống, như vậy attā hàm xúc khái niệm về sự sống, sinh lực, linh hồn,
hay thực thể sống. Ôm ấp ý niệm tin tưởng rằng có một linh hồn hay một thực thể
sống bên trong con người được biết là một khái niệm sai lầm, hay tà kiến về tự
ngã (attādiṭṭhi). Người thế gian bình thường bị
dính kẹt trong tà kiến về tự ngã nầy; sự khác biệt giữa người nầy với người kia
chỉ là tình trạng dính mắc ấy chặt chẽ và hiển hiện như thế nào, nhiều hay ít.
Người hành thiền Minh Sát,
vipassanā, đã phát triển quan kiến của mình về tiến trình danh và sắc với tuệ
minh sát sắc bén và đã suy niệm về sự kiện không có một tự ngã, một cái
"ta", hay thực thể sống, đã vượt thoát ra khỏi tình trạng dính mắc
vào ý niệm sai lầm về tự ngã, nhưng chỉ thoát khỏi như vậy trong thời gian ghi
nhận sự khởi sanh và hoại diệt của danh và sắc (tức trong khi hành thiền). Thế
thường, khái niệm sai lầm về tự ngã ấy chưa dứt khoát chấm dứt mà sẽ còn trở đi
trở lại.
Nhằm loại trừ khái niệm sai lầm về
tự ngã và làm sáng tỏ rằng không có cái gì như linh hồn hay thực thể sống trong
danh và sắc, dầu ở bên trong thân ta hay trong thân ai khác, Ðức Thế Tôn bắt
đầu bài kinh với lời tuyên ngôn: "Rūpaṁ bhikkhave anattā: Nầy chư tỳ khưu,
rūpa, sắc không phải tự ngã, linh hồn hay thực thể sống."
Lầm Tưởng Thân Là Tự Ngã
Cơ thể vật chất nầy mà ta quan niệm
sai lầm là tự ngã, vốn thật là gì? Những đặc tính vật chất sau đây hợp thành
nền tảng của hình thể vật chất: phần nhạy của mắt làm cho ta thấy đối tượng;
phần nhạy của tai làm cho ta nghe âm thanh; phần nhạy của mũi làm cho ta biết
mùi; phần nhạy của lưỡi làm cho ta hay biết vị; phần nhạy của thân làm cho ta cảm
giác sự xúc chạm; "ý căn" (hadāya vatthu), là căn môn của thức; và
đặc tính vật chất của mạng căn hay sinh lực.
Nếu thận trọng quán sát ta thấy
rằng nhãn thức khởi sanh (tức có sự thấy) vì có phần nhạy của mắt, và với nhãn
thức, phát khởi khái niệm về một thực thể sống hay tự ngã. Cùng thế ấy, vì có
phần nhạy của tai, mũi, lưỡi, và thân ta có nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, và
thân thức. Ý căn, căn môn của thức do đó có những tư tưởng và sự suy tư đưa đến
ý niệm về một cái "ta", tự ngã, hay thực thể sống. Mạng căn là sinh
lực khơi động sinh khí vào cơ thể vật chất và bảo trì không để cho cơ thể vật
chất hư hoại và tan rã. Mạng căn nầy chỉ là đặc tính của sắc, phần vật chất, mà
người đời thường lầm tưởng là linh hồn, một thực thể sống.
Nếu không có phần nhạy của các giác
quan thì không có gì để lầm hiểu là linh hồn hay thực thể sống. Chẳng hạn như
ta thử quan sát một tượng người bằng gỗ, nhìn vào giống hệt một người nhưng
không có giác quan nào làm khởi phát sự hay biết. Ta không bao giờ có thể lầm
hiểu đó là một chúng sanh có linh hồn hay một thực thể sống. Cùng thế ấy trong
một xác chết ta sẽ không bao giờ lầm tưởng là có một linh hồn hay một thực thể
sống trong đó bởi vì các giác quan không có phần nhạy. Khi phần nhạy hiện hữu
thì những chuyển hóa của sắc, những đặc tính phụ thuộc và đồng thời phát sanh
cùng sắc pháp, những đặc tính nhạy của sắc pháp như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
-- sự tiếp chạm của những nguyên tố đất (paṭhavī), lửa (tejo), gió (vāyo), đặc
tính lỏng và làm dính liền của nguyên tố nước (āpo), cùng với tánh nam hay tánh
nữ của sắc pháp cũng được khái niệm lầm lạc là có một tự ngã [Lời người dịch:
Xin xem Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch quyển A Manual of Abhidhamma, của tác
giả Cố Ðại Ðức Nārada, chương VI, từ trang 339 trở lên].
Những đặc tính của sắc như sự thấy,
sự nghe, sự hửi, đồng phát sanh với những phần nhạy của mắt, tai và mũi cũng
được quan niệm sai lầm là có một linh hồn hay một thực thể sống: tôi thấy, tôi
nghe, tôi hửi. Tóm tắt, toàn thể thế gian vật chất đồng thời hiện hữu với phần
nhạy của sự hay biết được lầm xem là một thực thể sống, một linh hồn.
Trong ngôn ngữ thông thường cũng
vậy, thân nầy -- tức sự kết hợp của những đặc tính vật chất -- được nói là tôi,
tự ngã. Nói như vậy không sai lầm, mà thích hợp với sự hiểu biết chế định của
thế gian (tục đế), nhưng nhìn theo quan điểm cùng tột, hay thực tại tuyệt đối
(chân đế), thì không có gì của cơ thể vật chất nầy là tự ngã. Nó chỉ là những
uẩn, tức sự kết hợp những đặc tính của sắc. Vì lẽ ấy Ðức Thế Tôn tuyên ngôn một
cách rõ ràng và minh tường rằng, Ṁặc dầu thông thường người ta quan
niệm rằng các uẩn, hay các nhóm đặc tính của sắc là một chúng sanh, trong thực
tế đó không phải là tự ngã mà chỉ giản dị là những hiện tượng vật lý."
Tuy nhiên, những người theo học
thuyết chủ trương rằng thân nầy là "ta", là tự ngã của ta, sẽ nêu lên
thắc mắc, "Tại sao thân nầy không phải là tự ngã?"
Ðức Thế Tôn cung ứng giải đáp như
sau:
Tại Sao Thân Nầy Không Phải Là Tự
Ngã?
-- Nầy chư Tỳ Khưu, nếu thân nầy là
tự ngã, là chính ta, ắt nó sẽ không có khuynh hướng làm cho ta đau khổ hay sầu
muộn, và ta phải có khả năng sai bảo, 'Thân tôi phải như thế nầy (tức phải ở
trong những điều kiện tốt đẹp nhất); thân tôi phải không như thế kia (trong một
tình trạng tồi tệ bi đát).' Ta phải có thể ảnh hưởng đến thân như thế đó."
Nếu thân nầy là tự ngã, là chính
ta, ắt nó không làm cho ta đau đớn, nhưng trong thực tế thân nầy bắt buộc ta
phải chịu đau khổ bằng nhiều cách. Nó không tồn tại trẻ trung và khoẻ mạnh, nó
trở nên già nua, bệnh hoạn và chết. Nếu không có thân ắt ta không bị đau khổ vì
tóc bạc, răng long, lưng khòm, tai điếc, mắt mờ, chân mỏi, gối dùn, tàn tật.
Chính thân nầy làm cho ta chịu đau khổ.
Lại nữa, bởi có thân nên ta phải
chịu đau đớn: đau mắt, đau tai, đau răng, đau lưng, đau bụng, phải chịu nóng, chịu
lạnh, chịu đau và chịu nhức, và những chứng bệnh máu, bệnh da, bệnh bao tử và
bọng đái. Những chứng bệnh nầy phát sanh bởi vì có thân. Bởi có thân nên chúng
ta đau khổ vì đói, vì khát, vì bị muổi mồng và những loại rắn rít v.v... chích
cắn. Cũng vì có thân nên ta đau khổ khi ở trong những cảnh giới bất hạnh. Tóm
tắt, chúng ta phải chịu những hoàn cảnh đau đớn và sầu khổ cũng vì có thân.
Cũng do nơi thân nên trong kiếp sống làm người ta phải chịu những hiện tượng
như chết chóc. Khi những thành phần của sắc pháp trong thân biến chuyển, suy
đồi và hư hoại thì cái chết đến. Có thể nói rằng cơ thể vật chất nầy làm cho ta
đau khổ vì nó hoại diệt.
Như vậy ta có thể suy gẫm rằng nếu
cơ thể vật chất nầy thật sự là chính ta ắt nó không làm cho ta đau khổ vì già, bệnh
và chết. Ta có thể làm cho người khác đau khổ nhưng sẽ không làm cho chính mình
đau khổ. Nếu thân nầy là chính nó ắt nó sẽ không làm cho nó đau khổ vì già nua,
bệnh hoạn v.v...
Lại nữa, dầu trước khi bắt đầu già,
bệnh và chết, thân nầy cũng không ngớt gây cho ta đủ loại sầu muộn dưới nhiều
hình thức. Mặc dầu còn trẻ trung, tương đối cường tráng và dồi dào sức khoẻ, ta
cũng không thể ở yên không động đậy một thời gian lâu dài trong một tư thế như
ngồi, đứng, hay đi. Phải luôn luôn xoay trở, luôn luôn cử động. Tất cả chúng ta
đều biết rằng ở yên lâu dài trong một oai nghi là khó như thế nào. Chúng ta
biết rằng ngồi yên trong nửa giờ hay một giờ không cử động, hoặc nằm yên trong
hai hoặc ba tiếng đồng hồ mà không nhúc nhích là khó như thế nào. Ta phải thường
xuyên thay đổi tư thế vì sẽ cảm nghe đau nhức hay bực bội ở chân sau một thời
gian ở yên không cử động. Tất cả những trạng thái khó chịu ấy khởi sanh vì cơ
thể vật chất nầy; nói cách khác chính cái thân nầy làm cho ta khó chịu.
Vậy, ta có thể suy tư rằng nếu thân
nầy là chính ta, là tự ngã của ta, ắt nó không gây đau khổ cho ta như vậy.
Lại nữa, ṅếu
thân nầy là chính ta thì ta phải có thể sai bảo, "Thân phải như thế nầy,
thân phải không như thế kia." Tất cả chúng sanh đều muốn thấy thân mình
luôn luôn khoẻ mạnh và trẻ trung cường tráng, không già nua, không bệnh hoạn,
và không chết. Nhưng cơ thể vật chất nầy không bao giờ vâng lời, nó từ chối,
không làm theo ý ta muốn. Thời xuân xanh son trẻ vững bước đi dần đến tuổi già,
sức cường tráng khoẻ mạnh từ từ giảm sút, suy đồi, và đưa dần đến bệnh hoạn,
rồi sau cùng đến bại hoại và chết.
Nếu thân nầy là chính ta nó sẽ
không gây đau khổ cho ta và nó phải vâng theo ý muốn của ta. Trong khi người
khác có thể không tùng phục vâng lời ta thì ít ra thân nầy -- tức chính ta --
phải làm theo ý muốn của ta vì nó là chính ta. Nhưng thực tế không phải vậy.
Ðiều nầy cho thấy rằng thân nầy không phải là tự ngã, là chính ta. Vì lẽ ấy nó
triền miên gây đau khổ cho ta và không nằm dưới quyền kiểm soát của ta. Ðức Thế
Tôn tiếp tục giải thích sự kiện nầy như sau:
Yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ
ābādhāya saṁvattati, na ca labbhati rūpe evaṁ
me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ
mā ahosī' ti.
Nầy chư Tỳ Khưu, trong thực tế thân
nầy không phải là ta. Vì không phải là ta nên nó có khuynh hướng làm cho ta đau
khổ và sầu muộn, và ta không thể sai bảo thân, 'Hãy như thế nầy, hãy không phải
như thế kia.' Ta không thể gieo ảnh hưởng và điều khiển thân như vậy".
Jīva Attā Và Parama Attā
Những người tin theo chủ thuyết có
tự ngã nói rằng có hai loại bản ngã: jīva attā và parama attā. Theo những người
nầy mỗi cá nhân được cấu tạo, người, trời (deva), hay thú đều có một tự ngã,
một linh hồn hay thể chất gọi là jīva attā, khởi nguyên của đời sống. Khởi
nguyên của đời sống ấy thường được tin tưởng là do Thần Linh Tạo Hóa sáng tạo,
và vài giáo thuyết chủ trương rằng những khởi nguyên đời sống cá nhân ấy, hay
tiểu hồn, là một phần nhỏ của attā to lớn (đại hồn) và xuất phát từ đại hồn của
đấng Thần Linh.
Parama attā là "Ðại Ngã",
hay "Ðại Hồn", của đấng Thần Linh Tạo Hóa, người tạo nên thế gian
cùng với tất cả những sinh vật. Theo vài người thì "Ðại Hồn" ấy thấm
nhuần toàn thể thế gian, nhưng có những người khác chủ trương rằng đấng Thần
Linh Tạo Hóa ngự trên một Cảnh Trời. Những ý niệm về tiểu hồn và Ðại Hồn dĩ
nhiên là giả thuyết. Không ai đã gặp hay đã thấy vị Thần Linh hiện thân của Ðại
Hồn. Niềm tin nơi sự hiện hữu của một Thần Linh, một đấng Tạo Hóa tạo nên muôn
loài vạn vật, đã có trước khi Ðức Phật chứng đắc Ðạo Quả Phật. Niềm tin nầy rõ
ràng xuất nguyên từ câu chuyện vị Phạm Thiên Baka.
Vào một thời nọ, Ðức Thế Tôn ngự
đến cảnh giới Phạm Thiên để rọi sáng niềm tin sai lầm của Ðức Phạm Thiên Baka.
Khi Ðức Phật đến thì Phạm Thiên Baka đón mừng và tán dương, "Tôi xin tôn
kính chào mừng Ðức Gotama, Ngài đến đây là một điều rất tốt mặc dầu đã muộn
màng. Cảnh giới Phạm Thiên nầy là thường còn, là ổn định vững bền, vĩnh cửu
trường tồn, toàn hảo trên mọi phương diện. Và ở đây không có người chết hay
viên tịch, qua đời."
Ðáp lời tuyên ngôn nầy Ðức Thế Tôn
sửa sai vị Phạm Thiên Baka như sau: -- Nầy chư Phạm Thiên! Phạm Thiên Baka quả
thật lầm lạc. Trong trạng thái lầm lạc si mê, Phạm Thiên Baka mô tả cảnh giới
vô thường của mình là thường còn và ổn định." Vào lúc ấy một vị Phạm Thiên
tùy tùng của Ðức Phạm Thiên Baka phẩn nộ trả lời, Nầy Ðức Gotama, không nên nói
nghịch với Phạm Thiên Baka, không nên sửa sai Ngài. Ðức Phạm Thiên Baka là vị
Ðại Phạm Thiên, là vị lãnh đạo của chư Phạm Thiên, Người Chinh Phục Tất Cả,
Người Không Thể Chiến Bại, bậc Toàn Giác, Toàn Tri, thấy và hiểu biết tất cả;
Ngài có nhiều oai lực và cầm quyền tối thượng trên tất cả tạo vật; Ngài là
người tạo nên thế gian, người sáng tạo toàn thể thế gian, là bậc Thánh cao
thượng hơn tất cả; Ngài định đoạt số phận của mọi người -- vua chúa, Phạm
Thiên, người, Trời, và thú -- những địa vị trong thế gian; Ngài thành tựu mọi
chứng đắc, là Cha của tất cả chúng sanh trong quá khứ và vị lai!" Vị Phạm
Thiên ca tụng những phẩm hạnh của Phạm Thiên Baka như thế.
Trong kinh Brahmajāla Sutta, Phạm Võng,
khi giải thích căn nguyên của tà kiến thường còn (thường kiến), Ðức Phật thuật
lại một câu chuyện tương tợ về Phạm Thiên.
Căn Nguyên Của Niềm Tin Có Tạo Hóa
Theo bài kinh nầy, khi một hệ thống
thế gian trôi qua, vào một lúc sau đó một hệ thống thế gian mới sẽ bắt đầu vận
chuyển đến. Vị Phạm Thiên của hệ thống thế gian trước xuất hiện và nghĩ:
"Ta là Phạm Thiên, Ðại Phạm Thiên, Người Chinh Phục Không Thể Chiến Bại,
bậc Toàn Giác, Toàn Tri, là Chúa, là người Làm Ra, người Tạo Nên, bậc Thánh Cao
Thượng Hơn Tất Cả, là người Ðịnh Ðoạt Số Phần của tất cả, người đã thành tựu
mọi chứng đắc, là Cha của tất cả chúng sanh trong quá khứ và vị lai."
Những vị Phạm Thiên đến sau cũng
nghĩ rằng mình là vị Ðại Phạm Thiên. Trong số những vị Phạm Thiên đã viên tịch
từ cảnh giới Phạm Thiên và tái sanh vào cảnh người, có vài vị còn có thể hồi
nhớ kiếp sống của mình trong cảnh Phạm Thiên. Những vị nầy bạo dạn quả quyết
rằng "Ðại Phạm Thiên tạo chúng sanh trong thế gian. Chính vị Tạo Hóa, vị
Ðại Phạm Thiên, là thường còn, vĩnh viển trường tồn; nhưng những tạo vật mà
Ngài đã tạo nên thì không thường còn, họ phải qua đời, chết." Những người
nghe lời bạo dạn được tuyên ngôn xuyên qua kinh nghiệm bản thân ấy, sẵn sàng
tin tưởng và chấp nhận. Ðức Thế Tôn giải thích rằng đó là nguyên do vì sao có ý
niệm rằng "chỉ có vị Tạo Hóa, người tạo nên sự vật, là thường còn".
Từ những đoạn vừa trích dẫn trên ta
có thể phỏng đoán rằng cái được gọi là Ðấng Thượng Ðế, vị Thần Linh đã tạo nên
tất cả chúng sanh, vị Tạo Hóa được nói là ở trên một Cảnh Trời, có thể là vị
Ðại Phạm Thiên đã xuất hiện đầu tiên ở cảnh giới Phạm Thiên vào lúc sơ khai của
hệ thống thế gian. Ta cũng có thể nói rằng parama attā, Ðại Ngã, hay Ðại Hồn,
là tự ngã, cái "ta" của vị Ðại Phạm Thiên ấy. Lời dạy của Ðức Phật
cho thấy rõ ràng rằng parama attā, cái Ðại Hồn ấy của vị Ðại Phạm Thiên, trên
căn bản là một với cái jīva attā, tiểu hồn, của những chúng sanh khác; đó chỉ
là luồng trôi chảy liên tục của tiến trình danh và sắc được khái niệm một cách
sai lầm. Trong thực tế không có gì như tự ngã, một cái "ta" hay một
linh hồn vĩnh cửu trường tồn, ngoài hiện tượng tâm-vật lý; đó chỉ là một giả
thuyết do trí tưởng tượng tạo nên.
Lại nữa, những đặc tính tâm-vật lý của vị Ðại Phạm Thiên cũng như đặc tính
tâm-vật lý của các chúng sanh khác, đều nằm trong định luật vô thường. Khi tuổi
thọ khô cạn thì vị Ðại Phạm Thiên cũng phải đối diện với cái chết và tịch diệt.
Trong thực tế vị Ðại Phạm Thiên không thể viên mãn thành tựu tất cả những gì
mình muốn; Ngài không thể bảo trì những đặc tính vật lý của thân theo ý muốn.
Do đó, thân của vị Ðại Phạm Thiên cũng là vô ngã, anattā.
Luyến Ái Bám Vào Tự Ngã
Thông thường người ta tin tưởng
mạnh mẽ rằng mỗi cá nhân có một linh hồn, một thực thể sống, tồn tại suốt trọn
cuộc đời. Ðó là quan điểm của những người theo giáo thuyết đoạn kiến, chủ
trương rằng sau khi chết thì không còn gì, chết là hết. Những người tin theo
thuyết thường kiến thì trái lại, tin rằng linh hồn của mỗi cá nhân là bất diệt,
sẽ không bị tiêu diệt sau khi chết mà sẽ sống trong những cơ thể mới.
Ðối với người theo thuyết thường
kiến, thân nầy do hai thành phần cấu hợp: cơ thể thô kịch và cơ thể vi tế. Vào
lúc cuối cùng của kiếp sống, cơ thể thô kịch bị tiêu diệt nhưng cơ thể vi tế
thì bỏ xác chết nầy nhập vào một thân mới, và như vậy không bao giờ tiêu diệt
mà sống vĩnh viễn đời đời. Quan điểm thường kiến nầy được trích dẫn nguyên văn,
trọn vẹn và đầy đủ trong Phụ Chú Giải (tức chú giải của Bản Chú Giải) sách
Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga).
Sư mô tả với đầy đủ chi tiết những
niềm tin khác nhau về một tự ngã, và tự ngã ấy xuất nguyên như thế nào, nhằm
mục đích trình bày một cách rõ ràng hơn ý niệm vô ngã (anattā). Trong những
người tự xưng là Phật tử, có nhiều vị còn thật sự tin vào sự hiện hữu của một
linh hồn thường còn, một thực thể đơn thuần nguyên vẹn, hay thực thể sống, mặc
dầu họ không nói nhiều về niềm tin nầy. Họ tin rằng vào lúc lâm chung sự sống
tách rời cái thân chết qua đường lỗ mũi hay miệng. Khi được thọ thai, sự sống
ấy cũng nhập vào thai bào xuyên qua mũi, miệng, hay bụng của bà mẹ. Và từ khi
được sanh ra chí đến lúc chết, sự sống ấy bám sát dính liền theo cơ thể mới
nầy. Tất cả những quan điểm trên đều liên quan đến niềm tin có một linh hồn
nguyên vẹn, một thực thể sống.
Trong thực tế, cái chết chỉ là sự
chấm dứt của tiến trình tâm-vật lý, sự không-phát-sanh trở lại của tiến trình
tâm-vật lý sau khi "tử tâm" chấm dứt. Không có gì như một linh hồn
hay một thực thể sống ra đi. Một trở thành mới (tức chúng sanh mới) có nghĩa là
sự phát sanh của một tâm thức mới ở một nơi mới cùng với nền tảng vật lý mà
thức ấy dựa vào. Vừa trước khi tử tâm chấm dứt vào lúc lâm chung, thức bám vào
một trong ba: hoặc kamma, nghiệp, kamma nimitta, biểu tượng của nghiệp, hoặc
gati nimitta, biểu tượng lâm chung, tức dấu hiệu của kiếp sống sắp đến [Lời người
dịch: Xem sách Vi Diệu Pháp Toát Yếu, tác giả Ð.Ð. Nārada, chương V, trang
321-322]. Do những đối tượng ấy trợ duyên (bám sát vào khoảnh khắc cuối cùng
của chặp tử tâm), một chặp thức mới phát sanh ở một nơi mới trong một kiếp sống
mới. Ðây là thức-tái-sanh hay thức-nối-liền, vì đây là chặp tâm nối liền giữa
hai kiếp sống -- kiếp trước và kiếp sau.
Khi thức-nối-liền chấm dứt, liền
sau đó là những chặp tâm của luồng hộ kiếp (bhavaṅga) tiếp tục
trọn suốt kiếp sống, thích ứng với nghiệp lực đã tạo. Khi có trần cảnh xuất
hiện ở các căn môn như hình sắc hay âm thanh chẳng hạn, thì tùy trường hợp,
chặp bhavaṅga được nhãn thức hay nhĩ thức thay thế. Sự phát
sanh của tâm thức mới trong một kiếp sống mới do nghiệp, kamma, của kiếp sống
quá khứ trợ duyên. Một cách chế định, hiện tượng nầy được gọi là chuyển sinh từ
kiếp trước sang kiếp sau, nhưng trong thực tế không có một linh hồn hay thực
thể sống di chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác. Trong ngôn ngữ thông thường,
theo tập tục trong dân gian, người ta gọi là đầu thai, thay vì là tái sanh.
Có những người không thể nắm vững
khái niệm vô ngã bởi vì họ không thông hiểu rành rẽ thuyết chủ trương có tự
ngã, hay một cái "ta", như được giải thích ở phần trên. Họ nghĩ rằng
nếu người kia thấy hình thể của một vật tức là bám vào tự ngã, là cảm nhận cái
ta của mình. Thí dụ như để nhận ra cái cây là một cái cây, viên đá là một viên
đá, cái nhà là một cái nhà, hay ngôi chùa là một ngôi chùa thì theo họ đó là
bám vào tự ngã: "tôi thấy".
Theo quan điểm của họ, chân lý vô
ngã chỉ rõ ràng được nhận thức khi ta đã vượt qua khỏi khái niệm về hình thể và
thay vào đó là sự cảm nhận sự vật qua chân lý cùng tột, chân đế.
Trong thực tế, chỉ nhận thức suông
hình thể là hình thể thì sẽ không dẫn đến sự bám níu vào tự ngã. Mà không còn
nhận thức hình thể nữa cũng không có nghĩa là tuệ giác về lý vô ngã đã phát
sanh, đã được thiết lập. Nhận ra những vật vô tri vô giác như cây cối, đá sỏi,
nhà cửa hay chùa chiền không phải là bám níu vào lý thuyết tự ngã, bám vào niềm
tin có tự ngã, đó chỉ là sự hiểu biết theo khái niệm chế định, tục đế.
Người dính mắc trong niềm tin có sự
hiện hữu của một tự ngã giả định rằng có một tự ngã, một linh hồn thường còn cố
hữu dính liền theo chúng sanh hữu giác. Khi ta giả định chính mình là một linh
hồn đang sống và những người khác cũng là những linh hồn, những thực thể sống,
thì đó là luyến ái bám níu vào niềm tin về tự ngã. Những vị Phạm Thiên trong
cảnh vô sắc giới (arūpa), vì không có cơ thể vật chất, không tự thấy mình theo
chân lý chế định, nhưng các vị Phạm Thiên chưa được giác ngộ chưa thoát ra khỏi
ảo kiến về tự ngã. Chỉ khi nào đã vượt qua khỏi niềm tin về sự hiện hữu của một
tự ngã, thân của chính ta và thân của người khác được nhận thức chỉ là những
hiện tượng tâm-vật lý, tuệ giác về lý vô ngã mới khởi sanh, và điều chánh yếu
là nên trau giồi và phát triển sự hiểu biết thật sự ấy.
Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã
Có bốn loại bám níu khởi sanh từ
niềm tin tự ngã:
1. Sāmi attā, chấp thủ vào "tự
ngã kiểm soát": tin tưởng rằng có một cái ta, một thực thể sống hay một
linh hồn bên trong cơ thể vật chất, thống trị, chi phối và điều khiển mọi ý
muốn và hành động, và chính cái linh hồn sống ấy đi, đứng, ngồi xuống, ngủ và
nói, mỗi khi muốn.
Ðức Thế Tôn dạy bài Kinh Vô Ngã
Tướng, Anatta-lakkhaṇa Sutta, đặc biệt để loại trừ sự
bám níu vào cái "tự ngã kiểm soát", sāmi attā nầy. Giờ đây, vì thời
Pháp nầy được thuyết giảng cho Ṅhóm Năm Ðạo Sĩ" mà trước đó đã
chứng đắc Ðạo Quả Nhập Lưu, có thể nào ta còn thắc mắc tự hỏi vậy một vị Tu Ðà
Huờn còn bám níu vào tự ngã, hay cái "ta" nữa không?
Ðến tầng Nhập Lưu vị Thánh Tu Ðà
Huờn đã hoàn toàn tận diệt ba thằng thúc: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi),
hoài nghi (vicikicchā), và giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa). Nhưng Ngài chưa
thoát hẳn ra khỏi thằng thúc ngã mạn (asmi-māna) [*], tức hãnh diện với cái ngã
của mình và so sánh với cái ngã của người khác. Hãnh diện với tài giỏi hay địa
vị của mình, "tôi có khả năng làm việc ấy, tôi là thánh nhân" -- là
ngã mạn. (Hãnh diện của vị Tu Ðà Huờn chỉ liên quan đến đặc tánh và phẩm hạnh
thật sự của mình, không phải giả dối hãnh diện với những đặc tính và phẩm hạnh
mà chính mình không có, và tự so sánh với ai khác.) Như vậy, vị thánh Nhập Lưu
còn phải tiếp tục hành thiền minh sát để tận diệt thằng thúc ngã mạn. Khi tuệ
minh sát (vipassanāñāṇa) được tích cực trau giồi và phát
triển, thằng thúc ngã mạn dần dần được tháo gỡ và tuần tự được loại trừ bằng Tư
Ðà Hàm Ðạo (Sakadāgami Magga, Nhất Lai Ðạo); A Na Hàm Ðạo (Anāgāmi Magga, Bất
Lai Ðạo) làm suy giảm thêm tâm sở ngã mạn, nhưng chỉ đến tầng Thánh cuối cùng
là A La Hán Ðạo (Arahatta Magga) mới hoàn toàn tận diệt thằng thúc ngã mạn. Như
vậy ta có thể xác định rằng Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh Vô Ngã Tướng
(Anattalakkhaṇa Sutta) nhằm giúp Ṅhóm
Năm Ðạo Sĩ" tận diệt thằng thúc ngã mạn.
[*] Trích dẫn từ sách "Vi Diệu
Pháp Toát Yếu", tác giả ÐÐ Nārada: Khi chứng ngộ Niết Bàn lần đầu tiên vị
hành giả được gọi là Sotāpanna, Tu Ðà Huờn, hay Nhập Lưu, người lần đầu tiên
bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn. Vị ấy không còn là phàm nhân (putthujjana)
mà đã là Thánh Nhân, Ariya. Ngài đã cỡi bỏ ba Thằng Thúc (Saṁyojana,
tức dây trói buộc cột chặt chúng sanh vào vòng luân hồi) là Thân Kiến (sakkāya
diṭṭhi, ảo kiến về thân, xem là tự ngã của mình), Hoài Nghi
(vicikicchā) và Giới Cấm Thủ (sīlabbata parāmāsa, tin tưởng vào những nghi thức
và tế lễ lầm lạc). Muốn có thêm chi tiết xin đọc sách trên, trang 86-89.
2. Nivāsī attā , chấp thủ vào
"tự ngã liên tục": tin rằng có một thực thể sống thường trực nằm bên
trong thân mình. 3. Phần đông người ta tin tưởng rằng thường xuyên có một linh
hồn đơn thuần nguyên vẹn, hay một chúng sanh từ lúc sanh ra đến khi chết. Ðó là
nivāsi attā, sự bám níu vào một linh hồn, hay một tự ngã liên tục thường còn.
Vài người chủ trương rằng sau khi chết thì không còn gì hết; đó là quan kiến lầm
lạc gọi là đoạn kiến. Cũng có người lầm lạc tin tưởng vào thuyết thường kiến,
cho rằng cái thực thể sống trong thân, hay linh hồn, vẫn không tiêu diệt sau
khi chết mà tiếp tục được chuyển qua, sống trong một cái thân mới, trong kiếp
sống mới.
Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài
Anattalakkhaṇa Sutta, Kinh Vô Ngã Tướng, nhằm
loại trừ tình trạng bám níu vào tính ngã mạn, tức tận diệt, bứng nhổ tận gốc rễ
tính ngã mạn còn tiềm tàng bên trong Nhóm Năm Ðạo Sĩ và những vị Thánh Nhân
khác; và nhằm loại trừ hai quan kiến lầm lạc (về thân kiến, sakkāyadiṭṭhi,
và về sự bám níu vào nghi lễ và những nghi thức cúng tế sīlabbata-parāmāsa),
cùng với tính ngã mạn của người thường trong dân gian. Ngày nào còn bám vào một
thực thể sống hay một linh hồn đơn thuần nguyên vẹn thì chúng ta còn tin tưởng
rằng thân nầy phải phục tùng tùy thuộc theo quyền điều khiển của mình. Kinh
Anattalakkhaṇa, Vô Ngã Tướng, được thuyết giảng
nhằm loại trừ cả hai, sự bám níu vào sāmi attā "tự ngã kiểm soát" và
nivāsa attā, sự bám níu vào "tự ngã liên tục". Một khi sāmi attā, tự
ngã kiểm soát, đã bị loại trừ thì tất cả các loại bám níu khác vào tự ngã và tà
kiến, đồng thời cũng bị tận diệt.
3. Kāraka attā, chấp thủ vào
"tự ngã chủ động": tin rằng có một thực thể sống, một linh hồn, ảnh
hưởng đến mọi hành động bằng thân, khẩu hay ý. Chấp thủ vào tự ngã chủ động
liên quan nhiều đến saṅkhārakkhandha, hành uẩn. Chúng ta
sẽ trở lại với nhiều chi tiết khi đề cập đến ngũ uẩn.
4. Vedaka attā, chấp thủ vào
"tự ngã chứng nghiệm": tin rằng chính tự ngã, hay linh hồn nầy cảm
nhận những thọ cảm, thọ lạc hay thọ khổ. Hình thức chấp thủ nầy liên quan đến
vedanakkhandha, thọ uẩn, mà chúng ta sẽ đề cập đến đầy đủ trong chương tới. 6.
Ðến đây phần sắc pháp là vô ngã -- nói cách khác, sắc pháp, hay thân nầy, không
phải là tự ngã, hay một thực thể sống, một linh hồn đơn thuần nguyên vẹn thường
còn -- đã được giảng giải thích đáng, nhưng còn phần thực hành thiền minh sát,
vipassanā, đưa đến sự thông suốt bản chất không thể kiểm soát của thân.
Thân Quán Niệm Xứ
Thiền Minh Sát,Vipassanā cốt yếu là
suy niệm về upādānakkhandha, ngũ uẩn thủ, sự chấp thủ vào ngũ uẩn phát hiện vào
lúc thấy, nghe, hửi, nếm, đụng chạm và suy tư. Tuy nhiên đối với vị hành giả
còn sơ cơ ắt khó mà ghi nhận (niệm) kịp thời ngay vào lúc cảm thọ. Các vị ấy nên
chỉ bắt đầu với một vài loại thọ nào nổi bật hiển hiện nhất. Thí dụ như khi
ngồi xuống, hành giả có thể gom tâm chăm chú vào tánh chất cứng rắn và giãn ra
cưỡng lại của thân và ghi nhận ṅgồi, ngồi". Nếu hành giả thấy
hành như vậy là quá giản dị thì có thể ghi nhận thêm ṅgồi,
đụng; ngồi, đụng". Nhưng ghi nhận cái bụng phồng lên và xẹp xuống thì dễ
hơn. Vậy, chuyên chú ghi nhận "phồng" khi bụng phồng lên, và
"xẹp" khi bụng xẹp xuống ta sẽ bắt đầu nhận thấy rõ ràng những trạng
thái của bụng từ từ trở nên cứng rắn, giãn ra, phồng lên, rồi giảm bớt căng, và
xẹp xuống. Ðó là những đặc tính, cơ năng và nguyên nhân kế cận của nguyên tố
gió vāyo dhātu. Ghi nhận và suy niệm như thế là theo đúng sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Ðạo. Sách nầy dạy rằng "bản chất của những hiện tượng vật lý và
tâm linh phải được thông suốt bằng cách quan sát những đặc tính và cơ
năng" v.v...
Trên đây Sư dạy người hành thiền sơ
cơ thực hành thiền Minh Sát (Vipassanā) nên bắt đầu bằng cách quan sát cử động
phồng lên và xẹp xuống của bụng. Tuy nhiên chỉ tu tập ghi nhận cái bụng phồng
lên và xẹp xuống thì không đủ, đó không phải là tất cả những gì cần phải làm
khi hành thiền Minh Sát. Trong khi ghi nhận bụng phồng lên và xẹp xuống bất
luận những tư tưởng nào khởi lên cũng phải được ghi nhận. Khi có những cảm giác
như cứng, nóng, lạnh hay đau nhức người hành thiền phải niệm, tức ghi nhận,
những cảm thọ ấy vừa khi nó sanh khởi. Khi hành giả co tay hay co chân vào hoặc
duỗi tay, duỗi chân ra, những tác động ấy cũng phải được ghi nhận. Khi đang ngồi
mà đứng dậy hành giả phải chăm chú ghi nhận những tác động trong lúc đổi thay
tư thế ấy. Trong khi đi, tất cả những cử động trong mỗi bước phải được ghi
nhận, "dở lên, đưa tới, đạp xuống". Nếu có thể được, tất cả những
hoạt động của thân, chí đến khi nhắm mắt lại hay mở mí mắt ra, phải được thận
trọng quan sát. Khi không có gì đặc biệt để ghi nhận, hành giả đem sự chú tâm
trở về cử động phồng lên và xẹp xuống ở bụng. Ðó là mô tả một cách vắn tắt pháp
hành liên quan đến thiền Minh Sát.
Trong khi chăm lo ghi nhận trạng
thái phồng, xẹp, ngồi, đụng, đôi khi hành giả khởi tâm muốn thay đổi tư thế để
làm suy giảm những cảm thọ đau, nhức ở tay hay ở chân. Nên ghi nhận "ý
muốn" thay đổi tư thế ấy, nhưng vẫn phải ngồi yên, không vội xuôi lòng
chiều theo sự cám dỗ muốn duỗi tay duỗi chân ra. Hành giả nên chịu đựng tình
trạng thiếu tiện nghi ấy đến chừng nào không còn chịu được nữa, càng lâu càng
tốt. Nếu ý muốn duỗi chân ra khởi sanh trở lại, hành giả nên ghi nhận như trước
mà không thay đổi oai nghi. Chỉ đến khi không còn có thể chịu đau nhức được nữa
mới từ từ duỗi tay và chân ra, trong khi ấy phải thận trọng tỉ mỉ ghi nhận tác
động, "duỗi ra, duỗi ra".
Trong mỗi khóa thiền hành giả cần
phải thay đổi oai nghi nhiều lần vì tay chân bị đau nhức. Mãi cứ thay đổi và
điều chỉnh tư thế như vậy hành giả cảm nghe khó chịu, và bản chất của tình
trạng bực bội của cơ thể trở thành hiển nhiên. Dầu ý muốn của hành giả là ở
yên, ngồi tĩnh lặng không lay động trong thời gian một hay hai giờ, nhưng rõ
ràng không thể được. Hành giả nhận thức rằng thân nầy, với tình trạng khó chịu
đựng của nó, không phải là ta, không phải là tự ngã, linh hồn hay thực thể
sống, mà chỉ là những hiện tượng vật lý phát sanh tùy điều kiện. Sự nhận thức
nầy là tuệ giác phát sanh do công phu quán niệm tự ngã.
Ta không thể ở thật lâu trong một
tư thế nào, dầu là ngồi, nằm, hay đi. Vậy ta cũng nhận thức rằng mình không có
khả năng sai bảo thân nầy phải như thế nào theo ý muốn, nó không bao giờ chịu
phải như thế nào tùy theo ý muốn của ta. Nếu nó là chính ta thì ta có quyền
kiểm soát sai bảo nó phải như thế nào. Vì không thể kiểm soát, thân nầy ắt
không phải là ta mà chỉ là những hiện tượng vật lý sanh khởi tùy duyên. Sự nhận
thức nầy cũng vậy, là tuệ giác phát sanh do công phu quán niệm tự ngã.
Lại nữa chúng ta luôn luôn phải bận
rộn giải quyết những nhu cầu thường nhật như đại, tiểu tiện, rõ ràng thân nầy
không ổn thuận tuân theo ý muốn của ta, không nằm dưới sự điều khiển của ta, ắt
không phải là tự ngã của ta. Trong khi quán niệm về sinh hoạt của cơ thể vật
chất ta thấy rằng tánh chất khó chịu đựng của nó được phô bày hiển nhiên như
mũi vãi, đàm nhớt, nước mắt, mồ hôi, xuất ra từ thân. Ta không thể duy trì, gìn
giữ cho cơ thể nầy được sạch sẽ lâu dài theo ý muốn bởi vì không thể kiểm soát
bản chất thiên nhiên của nó. Do đó hiển nhiên thân nầy không phải là ta, là tự
ngã của ta.
Thêm vào đó, nhiều tình trạng khó
chịu như đói bụng, khát nước, hoàn cảnh già nua và bệnh hoạn cũng phát sanh do
thân nầy. Dầu là đối với người không quen quan sát, các tình trạng khó chịu nầy
cũng là những sự thật hiển nhiên, những thực tại mà ai ai cũng có kinh nghiệm.
Tuy nhiên những người chỉ thỉnh thoảng quan sát thoáng qua thường ý niệm rằng
có một tự ngã, một thực thể sống, một cái ta, hay một linh hồn thường còn đang
khó chịu. Chỉ khi thận trọng quán niệm mới nhận thức rằng đó chỉ là những hiện
tượng vật lý của thân, không phải là tự ngã hay một thực thể sống.
Như vậy, trong khi chuyên cần quán
niệm tất cả những hoạt động của thân và biết thân nầy đau khổ như thế nào mà ta
không có khả năng làm gì, không thể kiểm soát, không có quyền năng điều khiển
hay sai bảo nó phải như thế nào, xuyên qua kinh nghiệm bản thân người hành
thiền nhận định:
Mặc dầu hình thể vật chất nầy xem
hình như là chính ta nhưng vì nó áp bức gây phiền não mà ta không có khả năng
làm gì được, không thể điều khiển, không có quyền sai khiến nó làm theo ý muốn
của ta, như vậy ắt nó không phải là phần nòng cốt bên trong ta, không phải là
tự ngã như ta đã lầm lạc hiểu biết từ bấy lâu nay, chấp thủ rằng thân nầy là
chính ta". Ðó là tuệ giác thật sự phát sanh do công phu quán niệm thực
tướng vô ngã của sắc pháp.