Ðạo Phật và chữ Hiếu
Mỗi năm,
vào dịp lễ Vu Lan, chúng ta đều tập hợp đông đủ ở đây, để cùng đọc lại những
lời dạy của Ðức Phật về chữ Hiếu, thân tình nhắc nhủ nhau thực hiện những lời
dạy đó một cách trọn vẹn trong đời sống hàng ngày của chúng ta.
Trước hết, tôi xin phép nhắc lại
một đặc điểm của tôn giáo chúng ta là nói đi đôi với làm. Người Phật tử không
nói dối. Nói mà không làm là một hình thức nói dối. Ðức Phật từng dạy rằng, nói
lời hay mà không làm, cũng không khác gì hoa đẹp mà không có hương (Kinh Pháp
Cú). Ðối với cha mẹ, chúng ta phải hết lòng hiếu kính, phụng dưỡng, nhất là khi
cha mẹ tuổi già, đau ốm, cần tới sự săn sóc ân cần của chúng ta.
Ðức Phật từng dạy rằng, săn sóc
người ốm cũng như săn sóc Ðức Phật. Nếu người ốm đó lại chính là cha mẹ chúng
ta, thì sự săn sóc phải ân cần chu đáo gấp trăm ngàn lần. Ðáng tiếc rằng, ở thế
gian, người ta thường không làm được như vậy. Cha mẹ già, đau ốm thưòng bị con
cháu bỏ rơi. Chúng ta là Phật Tử, chúng ta tuyệt đối không được làm thế bởi vì
làm thế không những trái với đạo lý thông thường của thế gian mà cũng trái với
lời chính Ðức Phật dạy. Trái đến hai lần, trái lời Phật dạy phải săn sóc người
ốm, trái lời Phật dạy phải hiếu kính cha mẹ, phải săn sóc người ốm như chính là
săn sóc Ðức Phật.
Hiếu kính cha mẹ là một truyền
thống rất tốt đẹp và lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Truyền thống đó từ xa
xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến
ngày nay. Nhiều ca dao tục ngữ phản ảnh sinh động truyền thống đó:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ hiếu mới là đạo con"
Hoặc:
"Trải bao gian khổ không sờn
Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền."
Ðạo Phật vào Việt Nam, lại càng
củng cố thêm truyền thống tốt đẹp đó:
"Ðêm đêm khấn nguyện Phật trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con".
1. Ðức Phật tán thán công ơn cha mẹ là to lớn khó lòng đền đáp.
Ðó là những câu ca dao Việt Nam, mà hầu như
mọi người chúng ta đều thuộc lòng. Thế nhưng lời dạy của Ðức Phật về chữ Hiếu
còn cụ thể hơn nhiều, hình ảnh mà Ðức Phật dùng làm ví dụ sinh động hơn nhiều:
"Này các Tỳ kheo, cái này
là nhiều hơn, tức là sữa mẹ các người đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển
luân hồi trong một thời gian dài, chứng không phải là nước trong bốn biển"
(Tương Ưng II, 208).
Ðức Phật lại nói tiếp:
"Có hai hạng người, naỳ các
Tỳ kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và cha. Nếu một bên
vai cõng mẹ, này các Tỳ kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm
cho đến 100 tuổi. Như vậy, này các Tỳ kheo cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cho
mẹ và cha. Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dù tại đấy, mẹ cha có
vãi đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, này các Tỳ kheo cũng chưa làm đủ hay trả
ơn đủ mẹ và cha..." (Tăng Chi I, 75).
Rồi Ðức Phật giải thích, vì sao
công ơn cha mẹ đối với con cái to lớn đến thế.
"Vì cớ sao? Ví rằng, này
các Tỳ kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn,
giới thiệu chúng vào đời này" (Tăng Chi I, 75).
2. Gia đình có con cái hiếu thảo với cha mẹ được Phật tán thán ngang bằng với Phạm
Thiên
Ðức Phật nhắc nhủ chúng ta hiếu
kính cha mẹ, săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ, bởi vì làm như vậy cũng không đủ để
trả ơn cha mẹ, nhưng theo đúng quy luật nhân quả của nhà Phật, công đức của
người con hiếu thảo cũng đã vô cùng to lớn rồi. Và Ðức Phật đã tán thán công
đức của những gia đình hiếu thuận, và những người con hiếu thuận như sau:
"Những gia đình nào, này
các Tỳ kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận ngang bằng với Phạm thiên. Những gia đình nào, này các Tỳ kheo, trong
ấy, các con cái kính lễ cha mẹ ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận
như các Ðạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỳ kheo, trong ấy các con
cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận là đáng được
cúng dường".
"Phạm Thiên, này các Tỳ
kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha; các Ðạo sư ngày xưa, này các Tỳ kheo, là đồng
nghĩa vói mẹ cha, đáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ
cha. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỳ kheo là mẹ cha đối với con cái,
nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời" (Tăng Chi I,
147).
Ðức Phật là bậc trí tuệ, bậc
giác ngộ lớn, không gì không biết, không gì không thấy. Nhân thế nào quả thế
nào, Ðức Phật biết rõ, thấy rõ như trong lòng bàn tay. Những điều Phật biết,
Phật thấy, chúng ta không biết không thấy, hoặc chỉ biết và thấy một cách đại
khái.
Công đức, quả báo cuả những gia
đình, những con cái hiếu thuận với cha mẹ, thực là lớn lao vô cùng, nhưng chỉ
có Ðức Phật mới thấy rõ, biết rõ và giảng giải lại cho tất cả chúng ta được
biết một cách thật là sinh động và cụ thể.
Thi hào Nguyễn Du tác giả truyện
Kiều, có câu:
"Dù xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người".
Thông hiểu lời Ðức Phật về chữ
Hiếu, chúng ta cũng có thể nói:
"Dù xây chín đợt phù đồ
Không bằng hiếu thuận mẹ cha một ngày".
Tất nhiên, đây là cách nói. Con
cái không phải hiếu thuận mẹ cha một ngày mà cả đời mình. "Một bên vai
cõng cha, một bên vai cõng mẹ, như vậy suốt 100 năm, cũng không đủ để đền đáp
công ơn sinh thành và dưỡng dục của mẹ cha" (Tăng Chi I, 75).
Phật dạy rằng gia đình nào hiếu
kính cha mẹ thì cũng không khác gì Phạm Thiên. Không khác gì bậc Ðạo sư thời
xưa, và xứng đáng được cúng dường. Ý nghĩa của những ví dụ ấy như thế nào?
Những người Ấn Ðộ giáo và Bà la
môn giáo, ngày xưa xem Phạm Thiên (Brahma) như là vị Thần tối thượng của họ,
còn theo đạo Phât, Phạm Thiên là cõi trời Dục giới và Sắc giới. Ðức Phật đánh
giá gia đình nào có con cái hiếu thuận với cha mẹ, cũng không khác gì cõi trời
Phạm Thiên vậy, và những người sống trong gia đình như thế cũng giống như chư
Thiên ở cõi trời Phạm Thiên vậy. Kính lễ, tán thán những người con hiếu thảo
không khác gì kính lễ, tán thán Phạm Thiên. Và sống trong những gia đình hiếu
thuận với cha mẹ, cũng tức là sống hạnh phúc, an lạc không khác gì sống ở cõi
trời Phạm Thiên. Các bậc Ðạo sư thời xưa được tôn quý như là các bậc Thầy hướng
dẫn đời sống đạo đức và tâm linh cho dân chúng. Ðức Phật tán thán những ngưòi
con hiếu thuận với cha mẹ, cũng không khác gì các bậc Ðạo sư thời xưa. Vì cớ
sao? Chính là vì, gương sáng hiếu thuận cha mẹ cũng là gương sáng của cuộc sống
tâm linh và đạo đức cao cả. Và bởi lẽ, những người con hiếu thảo với cha mẹ,
được Ðức Phật coi trọng như Phạm Thiên, như các bậc đạo sư thời xưa cho nên họ
cũng xứng đáng được cúng dường.
Ngưòi Ấn Ðộ ngày xưa xem lửa như
một vị Thần mà họ gọi là thần Agni. Họ có tập tục tế lửa. Anh em ông Ca-Diếp,
trước khi quy y Phật, vốn là những người theo đạo tế Thần lửa. Nhưng Ðức Phật
dạy rằng, cha và mẹ chính là lửa đáng cung kính và cúng dường vì cha và mẹ đem
lại sự sống cho con cái, cũng như lửa đem lại ánh sánt ấm áp và sức sống cho
muôn loài. Ðức Phật dạy: "Thế nào là lửa đáng cung kính? Ở đây, này Bà la
môn, những người mẹ, những người cha của người ấy. Này, Bà la môn đáng gọi là
lửa đáng cung kính" (Tăng Chi I, 74).
Ðức Phật lại nói rằng, nguời con
hiếu thuận với cha mẹ, cung kính, tôn trọng, phụng dưỡng cha mẹ với của cải do
chính sức mình làm ra một cách hợp pháp, thì cha mẹ cũng thương mến lại người
con, và nói về con mình với những lời tốt đẹp: "Mong rằng, nó được sống
lâu! Mong rằng thọ mạng nó được che chở lâu dài!" (Tăng chi II, 106).
3. Con cái hiếu thuận với cha mẹ, sẽ
được sanh Thiên
Và Ðức Phật nói thêm là một
ngưòi con, được cha mẹ thương mến nhờ vậy, sẽ được hưởng hạnh phúc nhiều và lâu
dài. Những người con như thế sau khi mạng chung, sẽ được sanh lên các cõi Trời,
ở đây, sẽ được sống sung sướng, an lạc, một đời sống sung sướng an lạc mà loài
người chúng ta không tưởng tượng nổi:
"Thờ mẹ cha đúng pháp,
Buôn bán đúng, thật thà,
Gia chủ không phóng dật,
Ðược sanh Tự Quang Thiên" (Kinh Tập, Sutta Nipata).
Tự Quang Thiên là một cõi trời,
trong đó chúng sanh có thân hình đẹp đẽ chói sáng. Trong bài kệ trên của kinh
Sutta Nipata, chúng ta chú ý câu:
"Thờ cha mẹ đúng pháp,
Buôn bán đúng, thật thà...".
4. Thờ kính, phụng dưỡng cha mẹ đúng
pháp.
Hiếu thuận, thờ kính cha mẹ là
điều tốt lành, như Ðức Phật tán thán, nhưng phải thờ kính, hiếu thuận, phụng
dưỡng cha mẹ với của cải do tự mình làm ra đúng pháp chứ không phải là phi
pháp, phi đạo đức. Sát sinh, lấy của không cho, nói dối, nói ác, nói chia rẽ,
làm các tà hạnh để có nhiều tiền của đem phụng dưỡng mẹ cha, đó là điều rất
không tốt đẹp mà Ðức Phật cũng như các vị đệ tử của Ngài khuyên răn đừng có
làm. Chúng ta chú ý lời sau đây của Ðức Phật nói với thanh niên Bà la môn
Mahànàma:
"Ở đây, này Mahànàma, vị
thiện nam tử, với những tài sản do nổ lực tinh tấn thu hoạch được, do sức mạnh
của cánh tay gom góp lại, phải trả bằng những giọt mồ hôi đổ ra, làm một cách
hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường cha mẹ..." (Tăng Chi
II, 106).
Ngài Xá Lợi Phất, trong kinh
Dhananjàni (Trung Bộ II, 540), cũng nói rõ ý tứ của Phật là phải làm điều lành,
không làm điều ác để phụng dưỡng cha mẹ:
"Này Dharanjàni, nhà người
nghĩ thế nào? Một người vì cha mẹ, làm các điều phi pháp, làm các điều bất
chánh, hay là một ngưòi vì cha mẹ, làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn
chánh, thì ai tốt đẹp hơn?".
"Thưa Tôn giả Sàriputta,
người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không
tốt đẹp. Và thưa Tôn giả Sàriputta, người vì cha mẹ làm các điều đúng pháp, làm
các điều chân chánh, người ấy tốt đẹp hơn".
Và ngài Sàriputta kết luận:
"Này, Dhananjàni, có những hành động khác, có nhận, đúng pháp, với những
hành động này, có thể phụng dưỡng cha mẹ, không làm các điều ác, làm các điều
ác, làm các điều lành. Những người làm các điều ác để nuôi dưỡng cha mẹ, cũng
không thể tránh khỏi quả báo của những hành vi bất thiện của mình. Và như vậy,
không thể lấy lý do nuôi dưỡng cha mẹ để tự cứu mình và bào chữa cho những hành
vi bất chánh của mình".
Kinh Dhananjani tiếp đó, giải
thích rõ, các con cái, vì mẹ cha mà làm điều ác, điều bất thiện thì cũng sẽ
chịu quả báo, kể cả đọa địa ngục, và không thể viện lý do rằng, mình làm điều
ác để phụng dưỡng cha mẹ, cho nên không chịu quả báo, không đọa địa ngục.
5. Khuyến khích cha mẹ có lòng tin chơn chánh, giới hạnh chân chánh, bố thí và trí tuệ
chân chánh.
Một vấn đề được đặt ra là, theo
đạo Phật, con cái làm thế nào để trả ơn đầy đủ cho cha mẹ? Bởi vì, như Ðức Phật
dạy, con cái dù mộg bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, dù có làm 100 năm đi
nữa, thì cũng không đủ để đền đáp công ơn cha mẹ, tuy rằng người con hiếu thảo
vẫn được quả báo lớn và sau khi mệnh chung, sẽ sanh lên cõi trời. Ðức Phật trả
lời rõ ràng vấn đề này trong Tăng Chi bộ kinh, tập I, trang 75:
"Những ai đền ơn bằng cách
nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với cuả cải vật chất, tiền bạc thời không bao giờ
đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng
tin, thì khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác
giới thì khuyến khích, hướng dẫn an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan
tham, thì khuyến khích, hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí
tuệ, thì khuyến khích, an trú vào trí tuệ, cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là
làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha".
Vì sao Ðức Phật lại dạy như vậy?
Ðấy là do công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái như trời,
như biển, cho nên không thể nào lấy của cải vật chất để bù đắp lại được. Vả
chăng, mọi của cải vật chất, đều vô thường biến hoại, nay còn mai mất, không có
giá trị trường cửu. Trái lại, cha mẹ không có lòng tin đối với Tam Bảo, dối với
chánh pháp, mà con cái biết hưóng dẫn, khuyến khích cha mẹ có được lòng tin;
nếu cha mẹ làm điều ác, mà con cái biết hướng dẫn, khuyến khích cha mẹ làm điều
lành, nếu cha mẹ keo kiệt, xan tham mà con cái biết hướng dẫn, khuyến khích cha
mẹ bố thí; nếu cha mẹ có ác kiến, tà kiến và sống theo ác kiến, tà kiến mà con
cái biết hướng dẫn, khuyến khích cha mẹ từ bỏ ác kiến; tà kiến, có được chánh
tri kiến và sống theo chánh tri kiến thì những con cái đó đã làm đủ và trả ơn
đủ cho mẹ và cha.
Tất nhiên, con cái muốn làm được
như vậy, tự mình phải có đức tin chân chánh, tin ở Tam Bảo, tin ở chánh pháp;
tự mình phải là ngưòi tốt lành và làm các điều tốt lành, tự mình thực hành các
pháp bố thí: bố thí tài sản, bố thí pháp, bố thí vô úy (tức là sẵn sàng bảo vệ
và giúp đỡ người khác để họ khỏi sợ hãi), và bố thí tùy hỉ (tức là luôn luôn
làm cho người khác vui vẻ, và chia xẻ niềm vui với họ), tự mình học, tu đúng
pháp để có trí tuệ chân chánh, hiểu biết chân chánh, khuyến khích cha mẹ bỏ
điều ác làm điều lành, hoan hỷ bố thí và có trí tuệ chân chánh, một người con
như vậy được Ðức Phật tán thán là đã trả ơn đủ cho cha và mẹ.
Chúng ta cần chú ý là: Tự mình
không tin thì làm sao xây dựng được lòng tin cho cha mẹ hay người khác được? Tự
mình không làm điều lành, không bố thí, không có trí tuệt thì làm sao khuyến
khích cha mẹ và người khác làm điều lành, bố thí và có trí tuệ được?
6. Những người con xuất gia đều là con
cái chí hiếu.
Ở đây, luôn tiện tôi muốn trả lời
một thắc mắc, mà những theo đạo Nho thừng hay nêu lên đối với đạo Phật. Họ cho
rằng, những người xuất gia, từ bỏ gia đình, cầu đạo giải thoát, đều là những
người con bất hiếu. Ðó là những thắc mắc của những người không hiểu gì về lý
tưởng xuất gia của đạo Phật.
Xuất gia không phải là từ bỏ cha
mẹ và người thân, xuất gia chỉ có nghĩa là từ bỏ danh lợi thế gian, từ bỏ những
tình cảm hẹp hòi vị kỷ gắn liền với danh lợi thế gian, từ bỏ tham, sân, si.
Xuất gia là chấp nhận tất cả chúng sinh, tất cả mọi người trong xã hội, không
phân biệt thân, sơ, đều là người thân tất cả, đều là cha mẹ, anh, em, con cái
ruột thịt của mình, đức Phật, được tôn gọi là đấng từ phụ, nghĩa là Cha lành,
vì Ngài yêu thương tất cả chúng sinh như người mẹ thương yêu người con một của mình.
Người xuất gia cũng vậy, noi gương Ðức Phật, xem toàn bộ xã hội như là gia đình
của mình, mọi ngưòi trong xã hội đều là bà con thân thiết, đều như cha mẹ, anh
em, con cái ruột thịt của mình.
Nhưng điều quan trọng là người
xuất gia báo hiếu bằng cách xây dựng đức tin cho cha mẹ thiếu đức tin, khuyến
khích cha mẹ bỏ ác làm lành, bố thí và tu học chánh pháp, có được trí tuệ chân
chánh. Và như vậy, theo lời Phật dạy, chính là báo hiếu cha mẹ một cách đầy đủ,
trọn vẹn nhất.
Ðức Phật dạy rằng, lòng tin là sức
mạnh. Vì vậy, đem lại cho cha mẹ lòng tin, tức là đem lại cho cha mẹ sức mạnh.
Ðức Phật dạy:
"Dựa trên thiện nam tử có
lòng tin, các người trong gia đình được lớn lên về năm phương diện: thế nào là
năm? Lớn lên về lòng tin lớn lên về giới, lớn lên về học hỏi, lớn lên về bố
thí, lớn lên về trí tuệ. Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia
đình được lớn lên vì năm sự lớn lên này" (Tăng Chi II, 49)
Cần chú ý là Ðức Phật tán thán
lòng tin không phải vì lòng tin, mà vì lòng tin dẫn tới giới hạnh, học hỏi, bố
thí và trí tuệ. Con cái đem lại lòng tin cho cha mẹ, cũng tức là đem lại cho
cha mẹ giới hạnh, học hỏi, bố thí và trí tuệ.
7. Truyện dân gian "Nam Hải Quan
Âm": Diệu Thiện trả ơn cha mẹ bằng cách độ thoát cho cha mẹ.
Trong chuyện dân gian Việt Nam, có truyện
thơ "Nam Hải Quan Âm" rất được ưa chuộng. Ðây là truyện một công chúa
xuất gia độ thoát cho vua cha là người rất hung ác, một công chúa ở nước Hùng
Lâm bên Ấn Ðộ nhưng lại sang tu ở núi Hương Tích của Việt Nam. Truyện mở
đầu bằng những câu thơ, tóm tắt toàn bộ ý tứ của truyện:
"Chân như Ðạo Phật rất mầu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân,
Hiếu là độ được song thân
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài".
Ðạo Phật có một quan niệm rất
rộng lớn, phóng khoáng đối với hiếu và nhân. Hiêu là độ thoát được cha mẹ,
hướng dẫn cha mẹ thoát khỏi vòng tội lỗi, mê lầm, đến với giới hạnh và trí tuệ.
Còn nhân là độ thoát tất cả mọi loài, mọi chúng sanh, hướng dẫn tất cả mọi
chúng sanh thoát khỏi vòng tội lỗi và mê lầm đến với giới hạnh và trí tuệ.
Truyện tả cảnh núi Hương Tích
nơi Phật khuyên công chúa Ấn Ðộ sang đấy tu hành:
"Ðức Phật mới chỉ đường tu
Rằng có một chùa tại Hương Tích sơn
Gần bể Nam Việt thanh nhàn
Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành
Núi cao ngân ngất mịt mù
Âm thanh cảnh vắng bốn mùa cỏ cây
Trên thì năm sắc từng mây
Dưới thì bể nước trong vầy như gương
Cá chim chầu tại tĩnh đường
Hạc thưòng hiếu quả, hươu thường dâng hoa".
Và chính tại núi Hương Tích naỳ,
công chúa đã tu hành thành đạo quả và:
"Trên thời hiếu báo sanh thành,
Dưới thời nhân cứu chúng sanh Ta Bà"
8. Truyện "Quan Âm Thị
Kính": Tiểu Kỉnh Tâm đối đãi với con Thị Mầu như con của mình.
Khác với truyện "Nam Hải
Quan Âm", truyện Quan Âm Thị Kính giới thiệu một nét khác của người xuất
gia theo đạo Phật: Tiểu Kỉnh Tâm xem con của Thị Mầu như là con của mình không
khác, bởi vì như Ðức Phật dạy, người xuất gia phải có lòng từ rộng lớn, phải
thương yêu tất cả mọi chúng sanh như là người mẹ thương yêu con một của mình
vậy. Tiểu Kính Tâm mặc dù bị Thị Mầu vu oan, nhưng lại hết lòng nuôi con Thị
Mầu, chu đáo tận tình như con đẻ. Kỉnh Tâm tuy xuất gia ở chùa nhưng lòng vẫn
nhớ cha mẹ vẫn không khuây:
"Bạch Vân khuất nẻo xa xa
Song thân ta đấy là nhà phải không? (Quan Âm Thị Kính).
Người xuất gia không phải cắt
đứt tình cảm đối với cha mẹ, gia đình, thân thuộc. Người xuất gia chỉ đặt tình
cảm dió trên một bình diện rộng lớn hơn, với một mức độ thắm thiết và sâu sắc
hơn. Chúng ta hãy nghe sư cụ chùa Vân, hát theo điệu kể hạnh, những lời ca về
Tiểu Kính Tâm thành Phật Quam Âm, độ được mẹ cha, cứu được con thơ:
"Nay bà Thị Kính hóa duyên
Nam
mô Phật độ vô biên hằng hà
Hóa thân được cả mẹ cha,
Kìa là bạn cũ, nọ là con thơ,
Thế gian trông thấy sờ sờ..."
Như vậy Kỉnh Tâm xuất gia tu đạo
Phật, đã đền đáp đầy đủ công ơn cha mẹ, giúp đời cứu người, chữ hiếu chữ nhân
đều vẹn toàn. Truyện "Quan Âm Thị Kính" kết thúc bằng hình ảnh Ðức
Phâạt Thiên Tôn hiện ra cho mọi người được thấy, phán truyền cho mọi người biết
tin Tiểu Kỉnh Tâm đã thành Phật Quan Âm, cha mẹ Kỉnh Tâm đều được độ thoát,
thậm chí cả chàng Thiện Sĩ, chồng cũ của Kỉnh Tâm và con của Thị Mầu cũng được
nhờ ơn:
"Giữa trời một đóa tường vân
Ðức Thế Tôn hiện toàn thân xuống đàn
Vần vần tỏ rạng tường loan
Tràng phan, bảo cái giao hoan âm thầm
Truyền cho nào tiểu Kỉnh Tâm
Thị thăng làm Phật Quân Âm tức thì
Lại thương đến đứa tiểu nhi,
Lên tay cho đứng liền bấy giờ
Kìa như Thiện Sĩ lờ đờ
Cho làm vẹt đứng nhờ một bên
Ðộ cho hai khóm xuân huyên,
Ra tay cầm quyết bước lên trên tòa.
Siêu thăng thoát cả một nhà
Từ đây phước đẳng hà sa vô cùng".
Truyện Quan Âm Nam Hải cũng như
truyện Quan Âm Thị Kính đều có nội dung báo hiếu, theo quan niệm đúng đắn và
rộng lớn của đạo Phật.
Ðạo Phật là đạo giải thoát. Con
cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật
chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính, giới hạnh chân chính,
trí tuệ chân cháng, hiểu biết thế nào là đạo giải thoát và sống theo nếp đạo
giải thoát.
Ðó là nghĩa chữ Hiếu theo đạo của chúng ta.
Là Phật tử, mọi người chúng ta
hãy cố gắng, sống trọn vẹn theo đạo Phật như lời đức Phật dạy. Không những
chúng ta nói như vậy mà chúng ta làm như vậy, sống như vậy. Không những bản
thân chúng ta sống như vậy, làm như vậy, mà chúng ta còn khuyến hkích, hướng
dẫn con cái, bạn bè, người thân, tất cả mọi người mọi đều biểu như vậy, sống
như vậy, làm như vậy.
Mọi gia đình Phật tử chúng ta
phải là những gia đình hiếu thuận, trong đó con cái hiếu thảo với cha mẹ, cha
mẹ săn sóc, dạy dỗ con cái, vợ chồng thương yêu, kính trọng lẫn nhau, anh chị
em sống hòa thuận vui vẻ với nhau. Mọi gia đình như vậy, Ðức Phật xem ngang
hàng với cõi trời Phạm Thiên, là cõi trời cao nhất của Dục giới và Sắc giới.
Những người sống trong những gia đình như thế, Ðức Phật xem ngang hàng với các
Phạm Thiên, sống ở cõi đời Phạm Thiên, xứng đáng được mọi người tán thán, cung
kính, cúng dường.
9. Số con cái không hiếu thảo nhiều
hơn số con cái hiếu thảo
Hiếu thảo với cha mẹ có công đức
lớn như vậy, lại phù hợp với đạo lý thế gian cũng như với đạo lý nhà Phật. Ấy
thế mà vô lý thay, ở đời:
"Mẹ nuôi con, như trời như bể,
Con nuôi mẹ, con kể từng ngày".
Ở đời, số người con hiếu thảo
thường ít hơn số con người con bất hiếu. Số người sống thuận với đạo lý thế
gian và Ðạo Phật thường ít hơn là số người sống ngược với đạo lý thế gian và
đạo lý nhà Phật. Chính vì vậy mà ở đời, số người bất hạnh có nhiều hơn số người
hạnh phúc.
Khi so sánh số người con bất
hiếu ở đời quá nhiều, và số người con có hiếu ở đời quá ít, Ðức Phật đã dùng ví
dụ sinh động sau đây:
"Rồi Thế Tôn lấy một ít đất
trên đầu móng tay mà bảo các bậc Tỳ kheo: "Các người nghĩ thế nào, này các
Tỳ kheo! Cái nào là nhiều hơn, một ít đất ta lấy trên đầu móng tay hay là quả
đất lớn này?
"Cái này là nhiều hơn, bạch
Thế Tôn, tức là quả đất lớn này: Còn ít hơn là một ít đất ta lấy trên đầu móng
tay hay quả đất lớn này?
"Cái này là nhiều hơn, bạch
Thế Tôn, tức là quả đất lớn này: còn ít hơn là một ít đất Thế Tôn lấy trên đầu
móng tay...
"Cũng vậy, này các Tỳ kheo!
Ít hơn là chúng sanh có hiếu kính với mẹ, và nhiều hơn là chúng sanh không hiếu
kính với mẹ. Cũng vậy, ít hơn là chúng sanh có hiếu kính với cha, và nhiều hơn
là chúng sanh không hiếu kính với cha...
10. Ðức Phật cũng nhắc nhủ người cha, người mẹ phải có bổn phận với con cái.
Khi Ðức Phật khuyên bảo con gái
phải hết lòng kính yêu phụng dưỡng cha mẹ, Ngài cũng không quên nhắc nhủ về bổn
phận của cha mẹ đối với con cái. Trong kinh "Giáo thọ Thi ca la việt"
(Trường bộ kinh IV, 188b) Ðức Phật dạy:
"Người con có năm bổn phận
đối với cha mẹ: nuôi dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, làm đủ bổn phận người con
đối với cha mẹ, giữ gìn truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản thừa tự và làm
tang lễ khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ cũng có năm bổn phận đối với con cái: ngăn
chặn con điều ác, khuyến khích con làm điều thiện, dạy con nghề nghiệp, cưới vợ
xứng đáng cho con, đúng thời trao của cải thừa tự cho con".
Với một bậc đại giác ngộ, đại
trí tuệ như Phật, những lời dạy của Ngài bao giờ cũng hết tình, hết nhẽ. Là
người cha, người mẹ, là con cái của các gia đình Phật Tử, chúng ta hãy suy
ngẫm, ôn kỹ những lời dạy chí lý chí tình của Ðức Phật về chữ Hiếu, và thực
hiện những lời dạy dỗ một cách trọn vẹn trong mọi gia đình chúng ta, trong đời
sống hàng ngày của chúng ta.
11.
Tất cả gia đình Phật tử phải là những gia đình hiếu thuận.
Vì sao Ðức Phật lại nói những
con bất hiếu là số nhiều, những nguời con hiếu thảo là số ít? Ðức Phật nói như
vậy là để răn dạy chúng sanh, cũng như bà mẹ Việt Nam thường nói: "Nước mắt chảy
xuôi, không bao giờ chảy ngược, cha mẹ bao giờ cũng thương con hơn là con
thương cha mẹ".
Nhưng các gia đình Phật tử chúng
ta không thể sống theo nếp sống tầm thường và phản đạo lý đó của thế gian được.
Không phải chỉ là số nhiều mà tất cả gia đình Phật tử hằng lui tới Thiền viện
Vạn Hạnh, Viện nghiên cứu Phật học và Trường Cao cấp Phật học này đều phải là
những gia đình hiếu thảo và hòa thuận, đều là những cõi Trời Phạm Thiên trên
cõi thế này, xứng đáng được mọi người tán thán, ngợi khen, được các gia đình
không phải Phật tử học tập, noi theo.
Nhân ngày lễ Vu Lan truyền
thống, tôi thành tâm cầu nguyện để cho trong xã hội đang gặp nhiều khó khăn
này, mọi gia đình Phật tử chúng ta phải là một điểm sáng, tỏa sáng, rực sáng vì
ánh sáng bao giờ cũng đẩy lui bóng tối, tình thương bao giờ cũng chiến thắng
tội ác, trí tuệ bao giờ cũng khuất phục dốt nát và si mê, hạnh phúc và đạo đức
bao giờ cũng vượt lên trên bất hạnh và phi đạo đức.
Chúc quý vị một mùa Vu Lan hoan
hỷ. Chúc các gia đình quý vị được an lạc và toả sáng như cõi trời Phạm Thiên.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tỳ kheo Thích Minh Châu