MỤC LỤC
Lời giới
thiệu
Lời nói
đầu
George
Turnour
F. Max
Muller
Edwin
Arnold
R. C.
Childers
T.W.
Rhys Davids
C.A.F.
Rhys Davids
Robert
Chalmers
Edward
Joseph Thomas
Bhikkhu
Silacara
F. L.
Woodward
Ananda
Metteyya
Ven.
Ernest hunt
W. F.
Stede
E.M.
Hare
I. B.
Horner
Christmas
Humphreys
Dr. Edward
Conze
Nanamoli
Thera
Francis
Story
Ven.
Sangharakshita
Tài liệu
tham khảo
LỜI GIỚI
THIỆU
Tác phẩm
“Các học giả Anh quốc và Phật giáo Âu Mỹ”
của HT. Thích Trí Chơn là tác phẩm đầu tiên về thể tài này ở Việt Nam, phác
thảo bức tranh về những đóng góp tri thức của giới học giả Anh quốc cho sự
hoằng truyền và mở rộng Phật giáo ở phương Tây.
Mặc dù tác giả khiêm tốn xác
định phạm vi ảnh hưởng trong các châu lục Âu Mỹ, sự đóng góp của 20 tác giả và
dịch giả Phật học nổi tiếng được nêu trong tác phẩm này vượt xa các giới hạn
địa lý và châu lục. Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả
Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được
con đường minh triết cũng như các giá trị văn hoá, đạo đức và tâm linh đặc sắc
của đạo Phật vốn đã tồn tại ở châu Á gần 26 thế kỷ. Các đóng góp này đã làm
thay đổi cục diện tôn giáo toàn cầu, đánh tan các lập luận thiếu thiện chí như
đức Phật chỉ là một huyền thoại, không phải là nhân vật lịch sử; học thuyết của
đức Phật chỉ là sự tích hợp tâm linh của Bà-la-môn giáo.
Hàng trăm các dịch phẩm từ kinh
tạng Pàli và các tác phẩm giới thiệu về tư tưởng, triết lý và lịch sử đạo Phật
của các học giả trong quyển sách này đã làm thay đổi nhận thức của giới lãnh
đạo chính trị, triết học và tôn giáo toàn cầu từ hậu bán thế kỷ XIX trở đi. Nhờ
các nỗ lực khai thông trí thức, con đường truyền bá Phật giáo cho cộng đồng
quốc tế ngoài châu Á ngày càng được rộng mở. Nhờ đó, Phật giáo trong bối cảnh
toàn cầu hoá được xem là tôn giáo ngoại lai phát triển nhanh nhất và mạnh nhất
trong thế giới Âu Mỹ. Điều đáng ngạc nhiên và thán phục, con đường truyền bá
Phật giáo thực ra là sự đánh thức lương tâm, thuyết phục trí thức và tâm linh
phương Tây; khác hoàn toàn với lịch sử truyền giáo của các đạo Công giáo, Tin
Lành và Hồi giáo ở châu Á vốn gắn liền với dấu giày thực dân xâm lược.
Trong số 20 tác giả và dịch giả
nổi tiếng, đã có 5 vị là Hòa thượng bao gồm Silacara, Ananda Metteya, Ernet
Hunt, Nanamoli, Sangharakshita và một nữ học giả trở thành Tỳ- kheo ni cuối đời
là I.B. Horner. Để tiện bề tra khảo về phương diện lịch sử và các đóng góp, HT.
Thích Trí Chơn đã sắp xếp các tác giả và dịch giả Phật học theo niên đại thời
gian, bắt đầu từ George Turnour (1799-1843) và kết thúc ở Sangha- rashita
(1925-), người còn sống duy nhất trong các học giả tên tuổi đóng góp to lớn cho
nền Phật học phương Tây.
Mỗi nhân vật trong tác phẩm được
biết đến qua hai gốc độ: thân thế sự nghiệp và các tác phẩm/dịch phẩm. Giới
thiệu một cách ngắn gọn, tác giả đã phác hoạ chân dung của các nhà Phật học Anh
quốc tầm cỡ, trong số đó cũng có những người theo Thiên Chúa giáo và Tin Lành
giáo từ khi biết đạo Phật đến lúc qua đời. Điều đó cho thấy các giá trị minh
triết của Phật giáo vượt khỏi các rào cản của tôn giáo, địa lý và thời gian,
tiếp tục tồn tại đến ngày hôm nay, phục vụ cho lợi ích của số đông, mang lại an
vui hạnh phúc cho con người.
Tôi tin tưởng rằng tác phẩm này
không chỉ là tài liệu tham khảo có giá trị cho ngành lịch sử truyền bá Phật
giáo quốc tế mà còn là những bài học về sự đóng góp và hy sinh. Nói cách khác,
các đóng góp về hoằng pháp càng gặp nhiều thách đố và khó khăn chừng nào càng
tỏa sáng các giá trị phục vụ nhân sinh.
Dù không trình bày hết những
đóng góp của các tác giả và dịch giả Phật học trong một quyển sách khái quát
này, HT. Thích Trí Chơn đã làm một công việc rất có ý nghĩa và giá trị tham
khảo cho các nhà Phật học Việt Nam. Giới thiệu và xuất bản tác phẩm này đến quý
độc giả như cách gián tiếp thể hiện lòng tôn kính và tri ân với các nhà hoằng
pháp tiền bối trong tác phẩm này nói riêng và trên toàn hành tinh nói chung.
Kính mong Phật pháp mãi trường
tồn và mỗi người con Phật đều là những ngọn đuốc soi đường cho công trình “Vì
lợi ích cho số đông, vì phúc lợi cho loài người” mà đức Phật đã kêu gọi ngay
sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề.
Thích
Nhật Từ
LỜI NÓI
ÐẦU
Kể từ sau
ngày đức Thế Tôn nhập diệt vào năm 543 trước Tây Lịch, theo cổ sử Phật Giáo,
vua A Dục (Asoka) của Ấn Ðộ (trị vì: 273-232 trước T.L.) là vị vua Phật tử đầu
tiên đã có công truyền bá Phật Giáo đến các nước Tích Lan (Sri Lanka), Miến
Ðiện và nhiều quốc gia Á Châu khác. Bia ký của A Dục cho biết rằng đức vua cũng
đã gửi các phái đoàn hoằng pháp đến Macedonia, một vương quốc Châu Âu thời cổ
(nay thuộc miền bắc Hy Lạp), Tiểu Á và Ai Cập. Nhưng rất tiếc ngày nay không
một sử liệu nào ghi chép về những phái đoàn truyền giáo của vua A Dục còn tìm
thấy tại các vùng nói trên.
Theo tài liệu của các học giả
Tây Phương, sự tiếp xúc giữa Châu Âu với Ấn Ðộ khởi đầu kể từ khi Alexander the
Great (A Lịch Sơn Ðại Ðế: 356-323 trước T.L.) của Macedonia (Hy Lạp) mang quân
sang xâm lăng phía bắc xứ này vào năm 326 trước Tây Lịch. Ông Megasthenes
(250-290 trước T.L.), sử gia Hy Lạp vào năm 300 trước Tây Lịch, với tư cách là
sứ thần đã đến viếng thăm kinh đô Pataliputra (Hoa Thị Thành) dưới triều vua
Chandragupta của Ấn Ðộ (324-300 trước T.L.). Năm trăm năm sau Megasthenes trong
cổ sử Hy Lạp, lần đầu tiên người ta thấy có ghi chép nhắc đến Phật Giáo.
Nhưng vào các thế kỷ sau đó, thế
giới Tây Phương hầu như không ai biết gì về Phật Giáo. Ðến thế kỷ 13, Marco
Polo (1271-1295) nhà du lịch Ý Ðại Lợi, sau khi đi vòng quanh viếng thăm nhiều
nước Á Châu trở về, trong cuốn du ký “Description
of the World” (Tường Thuật về Thế Giới), ông có trình bày qua về
lịch sử đức Phật cùng những sinh hoạt Phật Giáo ở Trung Hoa, Tây Tạng và Tích
Lan v.. v.. Năm 1497-98, Vasco da Gama (1460-1524), nhà hàng hải Bồ Ðào Nha du
hành bằng đường thủy sang Ấn Ðộ mở đầu một trang sử mới trong việc giao thương
giữa Á và Âu Châu.
Từ thế kỷ XVI đến XVIII nhiều
giáo đoàn Thiên Chúa đã sang truyền đạo ở các nước Ðông Phương. Một số giáo sĩ
vì muốn thuận lợi, thành công trong việc rao giảng đạo Chúa nên họ đã cố gắng
tìm hiểu các phong tục, tập quán và tín ngưỡng của dân chúng địa phương để
thích nghi. Do đó, họ thấy cần liên lạc, tiếp xúc học hỏi với các nhà Sư Nam
Tông ở Ấn Ðộ, Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Lào quốc lẫn Bắc Tông tại Trung
Hoa, Tây Tạng và Nhật Bản v.. v..
Chẳng hạn năm 1542, Franciscus
Xaverius (1506-1552), một giáo sĩ Dòng Tên (Jesuit) Tây Ban Nha đã qua Ấn Ðộ và
năm sau ông đế Goa (miền Tây Ấn). Tại đây, Xaverius gặp Yagiro, một thương gia
Nhật Bản và ông này đã giải thích cho Xaverius biết về lịch sử đức Phật, lễ
nghi và đời sống của chư Tăng theo Phật Giáo. Ngày 24-09-1714, giáo sĩ Dòng Tên
Ippolito Desideri (1684-1733) rời Delhi
(Ấn Ðộ) đi Lhasa (Tây Tạng) và ông tới đây ngày 18-03-1716. Linh mục Desideri
đã vào ở trong chùa năm năm để học tiếng Tây Tạng và nghiên cứu Phật Giáo.
Tuy nhiên từ những thế kỷ đầu
công nguyên đến thế kỷ XVIII, đa số những người Châu Âu trong đó có các giáo sĩ
Thiên Chúa, thích tìm hiểu Phật Giáo chỉ vì lý do tò mò, hiếu kỳ hoặc mong
thành công trong việc giao thương buôn bán cũng như nhằm vào các mục tiêu vì
quyền lợi chính trị hay tôn giáo chứ không phải họ thực tâm muốn học hỏi, hành
trì đúng theo những lời dạy của đức Phật.
Có thể nói từ thế kỷ XIX trở về
sau các nhà trí thức Tây phương mới bắt đầu chú tâm nghiên cứu Phật Giáo qua
kinh tạng Nam Tông tiếng Pali hoặc Bắc Tông tiếng Phạn (Sanskrit). Các học giả
này bao gồm cả Phật tử và không Phật tử của nhiều quốc gia Âu-Mỹ từ Anh, Pháp,
Ðức, Ý, Bỉ, Hòa Lan, Ðan Mạch, Thụy Ðiển đến Hung Gia Lợi, Nga Sô và Hoa Kỳ v..
v..
Chẳng hạn hai nhà ngôn ngữ học
Pháp Eugene
Burnouf (1801-1852) và Ðức Christian Lassen (1800-1876) lần đầu tiên đã chung
soạn cuốn tiếng Pháp “Essai sur le Pali”
(Văn Phạm tiếng Pali) xuất bản vào năm 1826.
Học giả Ðức Karl Eugen Neumann
(1865-1915) tốt nghiệp Tiến Sĩ (Ph.D.) về cổ ngữ Pali và Phạn (Sanskrit) tại
đại học Leipzig
năm 1890. Năm 1894, ông sang nghiên cứu Phật Giáo nhiều năm tại Ấn Ðộ và Tích
Lan. Sau đó, ông đã dịch một số kinh Phật từ Pali ra tiếng Ðức như Kinh Trung
Bộ (Majjhima Nikaya) xuất bản
vào những năm 1896, 1902; và Trưởng Lão Tăng Kệ (Theragàthà), Trưởng Lão Ni Kệ (Therigàthà), ấn hành năm 1898.
Nhà ngữ học Ðan Mạch Michael
Viggo Fausboll (1824-1908), tốt nghiệp đại học Copenhagen và thông suốt Pali
lẫn Phạn Ngữ. Mặc dù không phải là Phật tử nhưng ông rất ngưỡng mộ đức Phật.
Fausboll đã phiên âm tiếng Pali theo mẫu tự La Tinh kinh Pháp Cú (Dhammapada), xuất bản năm 1855. Ông
cũng dịch từ Pali ra Anh văn những bài kinh trong Kinh Tập (Sutta Nipàta) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikàya) năm 1881 và hoàn tất
toàn tập năm 1884.
Louis de la Vallée Poussin
(1869-1939), nhà Phật Học Bỉ (Belgium), tốt nghiệp môn ngôn ngữ học tại đại học
Louvain (Bỉ) và Sorbonne (Pháp). Năm 1895, ông được mời làm giáo sư dạy tại đại
học Ghent (Bỉ) hơn 30 năm và trong thời gian này ông chuyên nghiên cứu Phật
Giáo, đặc biệt về phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin)
của Nam Tông. Công trình vĩ đại của giáo sư Poussin là ông đã dịch từ Phạn
(Sanskrit) ra tiếng Pháp Bộ Luận Câu Xá (Abhidharmakosa)
của ngài Thế Thân (Vasubandhu) vào những năm 1923-1931.
Nói tóm, sự đóng góp của các nhà
Phật Học Âu Mỹ cho nền Phật Giáo Tây Phương từ thế kỷ XIX đến nay qua những
công trình trước tác, dịch thuật của họ thật vô cùng to lớn. Rất khó cho chúng
tôi có thể trình bày, liệt kê hết tất cả những học giả của các quốc gia Âu-Mỹ
nói trên trong một cuốn sách. Do vậy, tác phẩm sau đây chúng tôi chỉ xin giới
thiệu với quý bạn đọc hai mươi (20) nhà Phật Học danh tiếng gồm cư sĩ lẫn chư
Tăng của Anh quốc mà thôi. Tương lai có dịp chúng tôi sẽ viết về sự đóng góp
cho nền Phật Giáo Âu Mỹ của các học giả ở những nước khác như Ðức, Pháp, Hòa
Lan, Ðan Mạch, Nga và Hoa Kỳ v.. v..
Mặc dù đã cố gắng hết sức tìm
tòi và tra cứu ở nhiều tài liệu kinh điển, sách báo Phật Giáo, chúng tôi chắc
chắn vẫn không tránh khỏi có những điều sai lầm, sơ sót. Chúng tôi kính mong
quý chư tôn thiền đức, và các bậc cao minh thức giả sẽ vui lòng bổ chính cho
những lỗi lầm thiếu sót nếu có, để sau này cuốn sách sẽ được hoàn chỉnh, đầy đủ
hơn trong kỳ tái bản.
Phật Học
Viện Quốc Tế
Ngày 15 tháng 08 năm 1996
Mùa An Cư năm Bính Tý
HT. THÍCH TRÍ CHƠN