Chương IVb: Mâu Tử và Lý hoặc Luận
Cuộc đời và tên tuổi Mâu Tử
Trong phần mở đầu Lý hoặc luân, Mâu Tử có nói ít nhiều về quá trình học tập và chuyển hướng theo Phật giáo của mình, đồng thời trình bày lý do tại sao mình lại viết Lý hoặc luận. Phần này các nhà nghiên cứu thường gọi là phần tự truyện.
Phân tích phần này sẽ cho chúng ta những cột mốc niên đại khá chính xác về cuộc đời của Mâu Tử, và từo đó của Lý hoặc luận. Bắt đầu giới thiệu, Mâu Tử viết:
"Mâu Tử đã đọc kinh truyện Chư Tử, sách không kể lớn nhỏ, không sách gì là không thích. Tuy không ưa binh pháp, mà vẫn đọc nó. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, ông dẹp đi không tin, cho là dối trá.
Thời ấy, sau khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ có Giao Châu tạm yên. Người lạ phương Bắc đều đến để ở, phần lớn luyện phép tích cốc trường sinh cuả thần tiên. Người bấy giờ phần nhiều là kẻ có học. Mâu Tử thường đem năm kinh vặn hỏi. Đạo gia thuật sĩ không ai dám đáp, ví ông với Mạnh Kha cự Dương Chu Mặc Địch.
Trước thời ấy, Mâu Tử đem mẹ tránh nạn ở Giao Chỉ. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ. Thái thú nghe tiếng học giỏi, đến thăm và mời làm quan. Bấy giờ tuổi mới lớn, chỉ ham việc học, lại thấy đời loạn, không có ý làm quan, nên rốt cuộc không đến. Lúc ấy, các châu quận nghi nhau, cách trở không thông, thái thú cho ông học rộng biết nhiều, sai đi Kinh Châu dâng lễ. Mâu Tử cho vinh trước dễ nhượng, nhưng sứ mệnh khó từ. Bèn chuẩn bị lên đường, thì gặp lúc Châu mục ưu văn đãi sỹ, bổ làm quan. Ông lại cáo bệnh, không đến.
Ngưòi em Châu mục làm thái thú Dự Chương bị trung lang tướng Trước Dung giết. Bấy giờ Châu Mục sai kỵ đô úy Lưu Ngan đem binh đến đó, nhưng sợ cõi ngoài nghi ngờ, quân không tiến được. Châu mục mới mời Mâu Tử, nói: "Em tôi bị nghịch tặc ám hại, nỗi đau cốt nhục uất phát tim gan, phải sai kỵ đô uý Lưu đi, sợ cõi ngoài nghi nan, người đi không thông. Ngài văn võ gồm đủ, có tài chuyên đối. Nay muốn dẹp bỏ, mượn đường Linh Lăng Quế Dương để cho thông lộ, thì thế nào?". Mâu Tử nói: "Chịu nghĩa, thụ ân đãi ngộ lâu ngày, liệt sĩ quên mình, hứa chắc đi được" Bèn chuẩn bị ra đi, thì gặp mẹ mất bất ngờ, nên không đi được.
Lâu rồi, rút lui nghĩ: "Mình vì giỏi biết mà được giao sứ mạng. Đời nay nhiễu nhương, chẳng phải lúc làm rõ mình". Rồi than: "Lão Tử dứt thánh bỏ trí, tu thân giữ chân, vạn vậwt không ngăn chí ông, thiên hạ không đổi niềm vui ở ông, thiên tử không được bề tôi, chư hầu không được người bạn. Nên gọi là quí".
Do thế ông dốc chí vào đạo Phật gồm ngâm Lão Tử năm ngàn chữ, ngậm huyền diệu làm rượu ngon, chơi năm kinh làm đàn sáo. Bọn thế tục phần nhiều cho là không phải, bảo là bỏ năm kinh mà theo đạo khác. Muốn không phải đạo, mà muốn im thì không thể, nên đã lấy bút mực, gọn dẫn lời thánh hiền để chứng giải, đề tên Mâu Tử Lý hoặc luận"
Qua những lời tự sự vừa dịch ta thấy trong số các nhân vật liên hệ với cuộc đời cuả ông, Mâu Tử nêu rõ tên hai người; đó là trung lang tướng Trức Dung_1, và kỵ đô úy Lưu Ngạn. Về trung lang Trức Dung, đây là một nhân vật lịch sử có tiếng tăm thời Hán mạt. Tiểu sử của Trức Dung hiện được ghi kèm trong truyện Đào Khiêm của Ngô chí 4 tờ 2a10-b8. Hai bản tiểu sử này chủ yếu thống nhất với nhau, nhưng so ra bản của Ngô Chí đầy đủ chi tiết hơn, nên chúng tôi cho dịch lại ở đây để tìm hiểu về Trức Dung.
"Trức Dung người Đan Dương, ban đầu họp chúng được mấy trăm người, đến dựa vào Châu Mục Từ Châu Đào Khiêm. Khiêm sai coi vận tào Quảng lăng Bành Thành, bèn phóng túng tự do giết hại, ngồi quyết đoán việc bỏ hay thu thuế ba quận, để tự đem vào cho mình. Rồi dựng lớn chùa Phật, lấy đông đúc làm người, vàng ròng thếp mình, mặc dùng gấm màu, treo mâm đồng chín từng, dưới làm lầu đôi có bao lơon, có thể chứa tới hơn ba nghìn nguời. Tất cả từng buổi đọc kinh Phật, khiến người trong quận mình và các quận bên có ai thích Phật giáo, cho phép đến theo đạo, tha hết các phu dịch khác để lôi kéo họ. Nhờ vậy, xa gần, trước sau, người đến hơn năm nghìn hộ người. Mỗi lễ tắm Phật, thì phần nhiều dọn cơm rượu, trải chiếu giữa đường, dài mấy chục dặm. Người dân đến xem và tới ăn cả vạn người, phí tổn kể cả ức. Tào công đánh Đào Khiêm, đất từ dạo động. Dung đem trai gái một vạn khẩu, ngựa ba nghìn con, chạy đến Quảng Lăng. Thái thú Quảng Lăng là Triệu Dục lấy khách lễ đối đãi. Trước đó, tướng Bành Thành là Tiết Lễ bị Đào Khiêm ép qua đóng Mạt Lăng. Dung lợi dụng dân chúng Quảng Lăng nhân say rượu giết Dục, thả lính cướp sạch, nhân đó chở đi, qua giết Lễ, rồi sau giết Hạc.
Sau câu cuối "giết Hạo" này, Hậu Hán thơ thêm: "Vào chiếm thành của Hạo, sau bị thứ sử Dương Châu Lưu Do đánh phát, chạy vào trong núi, bị người ta giết" Chi tiết này Ngô chí 4 tờ 2a3-10 truyện Lưu Do nói rõ hơn: "Tôn Sách vượt sông về đông, đánh Trương Anh và Phàn Năng v.v... Lưu Do chạy tới Đan Đồ, rồi qua sông về nam giữ Dự Chương, đóng ở Bành Trạch, Trức Dung đến trước, giết thái thú Chu Hạo, vào ở trong quận. Do tiến quân đánh Dung, bị Dung đánh bại, lại tập hợp các huyện minh đánh Dug, Dung bại, chạy vào núi, bị dân giết".
Việc Lưu Do chạy về giữ Dự Chương, Hán ký của Viên Hoằng do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 4 tờ 2a3-6 nói: "Lưu Do sắp chạy qua Cối Kê. Hứa Tử Tương nói: "Cối Kê giàu có, là chỗ Sách tham. Hơn nữa, nó nằm kẹt ở góc biển, không thể đến được. Không chỉ bằng Dự Chương, bắc giáp đất Dự, tây tiếp Kinh Châu, nếu thu được quan dân, sai sứ cống hiến thì có thể liên lạc vào Tào Duyên châu. Tuy có Viên Công Lộ nằm cách ở giữa, nhưng người này sài lang, không thể tồn tại lâu. Túc hạ lại nhận lệnh vua, Mạnh Đức và Cảnh Thăg tất phải đến cứu" Do làm theo".
Khi đến Dự Chương, đóng tại Bành Trạch, theo Hiến đế xuân thu, của Viên Việp, mà Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 4 2a7-8 thì "nằm đó Do đồn Bành Trạch, lại sai Dung giúp Hạo đánh Gia Cát Huyền do Lưu Biểu dùng, Hứa Tử tương bảo Do: "Trức Dung ra quân, không quan tâm đến chính nghĩa, Chu Văn Minh khéo suỵ sự thành thật để tin người. Nên sai lén đề phòng". Dung đến, quả giết Hạo, thay nắm việc quận".
Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Tôn Sách cuả Ngô chí 4 8a4-10 kể rõ hơn quan hệ Tôn Sách, Lưu Do, Trức Dung, và Tiết Lễ như sau: "Sách vượt sông đánh doanh Ngưu Chữ của Do, lấy sạch kho lương gạo chiến cụ. Năm ấy là năm Hưng Bình thứ 1 (195). Bấy giờ tướng Bành Thành là Tiết Lễ, tướng Hạ Bì là Trức Dung, dựa Do làm minh chúa. Lễ cứu thành Mạt Lăng, Dung đồn huyện nam. Sách trước đến đánh Dung. Dung ra quân giao chiến. Sách chém được 500 thủ cấp. Dung bèn đóng cửa không dám hành động. Sách nhân đó vượt sông đánh Lễ. Lễ bỗng bỏ chạy. Nhưng Phàn Năng, Vu Mỹ v.v... lại tập hợp lính, tập kích, đoạt lại đồn Ngưu chữ, Sách nghe trở về, đánh phá được Năng v.v.. Bắt được trai gái hơn vạn người, lại trở xuống đánh Dung, bị tên bắn trúng thương bắp vế, không thể cỡi ngựa, nhân đó tự trở về doanh Ngưu Chữ. Hoặc có kẻ phản báo Dung: "Chàng Tôn bị tên đã chết". Dung rất mừng, liền sai tướng đi nghe ngóng Sách. Sách sai bộ kỵ mấy trăm khiêu chiến, đặt mai phục ở sau. Giặc ra đánh, gươm dao chưa chạm nhau thì giả bỏ chạy. Giặc đuổi theo vào trong chỗ mai phục, bèn đánh lớn, chém hơn một ngàn thủ cấp. Sách nhân đó đi đến dưới doanh của Dung, ra lệnh cho tả hữu hô lớn: "Chàng Tôn cuối cùng thế nào rồi?". Giặc do thế kinh sợ, ban đêm trốn đi. Dung nghe Sách vẫn còn, càng xây dựng hào sâu, luỹ cao, sửa soạn đê giữ. Sách cho thế chỗ đất chỗ Dung đồn hiểm trở, vững chắc, bèn bỏ đi đánh một tướng khác của Do ở Hải Lăng, rồi chuyển qua đánh Hồ Thục, Giang Thừa đều hạ cả".
Qua những tư liệu vừa dẫn, ta thấy trự truyện của Mâu Tử nói tới "người em cuả Châu Mục làm thái thú Dự Chương, bị trung lang tướng Trức Dung giết", thì người em này không ai khác hơn là Chu Hạo. Truyện Chu Tuấn trong Hậu Hán thơ 101 tờ 11a10-11 xác nhận Hạo là con của Tuấn "cũng có tài hạnh là quan tới thái thú Dự Chương" Hiến đế Xuân thu ghi thêm tên Chu Văn Minh. Văn Minh như vậy là tự của Hạo. Tạ thị Hậu Hán thơ bổ đi 5 nhận xét: "(Hạo) đức hạnh thuần tốt, văn học xuất sắc".
Thế thì Trúc Dung giết Chu Hạo vào thời điểm nào? Truyện Gia Cát Lượng trong Thục chí 5 tờ 1a 6-12 viết: "Lượng sớm mồ côi, tùng phụ Huyền được Viên Thuật bổ làm thái thú Dự Chương. Huyền đem Lưọng và em Lượng là Quân đến chỗ làm quan. Gặp lúc triều Hán lại chọn Chu Hạo thay Huyền, Huyền vốn có quen biết cũ với Kinh Châu mục Lưu Biểu, đến dựa vào Biểu". Ở đây, Bùi Tùng Chi dẫn Hiến đế xuân thu nói: "Trước đó thái thú Dự Chương là Châu Thuật bệnh chết. Lưu Biểu dâng sớ cử Gia Cát Huyền làm thái thú Dự Chương đóng ở Nam Xương. Triều Hán nghe Châu Thuật chết, sai Chu Hạo thay Huyền. Hạo theo thái thú Dương Châu Lưu Do xin lính đánh Huyền. Huyền rút về đóng Tây thành. Hạo vào Nam Xương. Tháng giêng năm Kiến An thứ 2 (197) dân Tây Thành phản, giết Huyền, đưa đầu đến Do".
Vậy, theo Giang biểu truyện, Tôn Sách vượt sôgn đánh Lưu Do vào năm Hưng Bình thứ 2 (195), Lưu Do mới chạy đến Dự Chương, vì ngoài lời khuyên của Hứa Tử Tương còn có liên hệ với Chu Hạo, khi Hạo xin Do quân để đánh Gia Cát Huyền. Việc xin quân này chắc chắn phải xảy ra trước khi Tôn Sách vượt sông vào năm Sách vượt sông đánh Do, cho nên Do không thể đưa quân chi viện cho Hạo, vậy Hạo phải xin Do vào khoảng năm 193-194, nhân đó, Do sai Trức Dung đem quân đến giúp Chu Hạo. Nhưng khi tới, Dung đã giết Hạo và nắm lấy quân Dự Chương. Chính vì thế mà Ngô chi viết khi Lưu Do "qua sông về nam giữ Dự Chương đóng Bành trạch, Trức Dung đã đến trước, giết thái thú Chu Hạo vào ở trong quận".
Việc Trúc Dung giết Chu Hạo chắc phải xảy ra trước năm 195. Nhưng Trức Dung xuất thân là cấp dưói của Đào Khiêm. Truyện của Dung dẫn trên nói khi Tào Tháo đến đánh Khiêm, Dung đã "đem trai gái một vạn khẩu, ngựa chín con, chạy đến Quảng Lăng". Bản kỷ của Tào Tháo trong Ngụy chí 1 tờ 7a3 và 7a12 ghi Tào Tháo đem quân đánh Khiêm 2 lần. Một lần vào mùa thu năm Sơ Bình thứ 4 (193) và một vào mùa hè năm Hưng Bình thứ 1 (194). Truyện Đào Khiêm cũng trong Ngụy chí 8 tờ 7a 10-9a9 nói "Năm đó Khiêm bệnh chết, thọ 63 tuổi". Thế thì, Trức Dung có đến thờ Lưu Do làm minh chúa cùng với Tiết Lễ, như Giang biểu truyện đã ghi, việc này ít lắm cũng phải xảy ra vào mùa thu năm 193 và mùa hè năm 194, khi Tào Tháo bắt đầu đánh Từ châu và Đào Khiêm chết, nếu không phải từ mùa hè năm 194 trở đi_1.
Hơn nữa, khi Lưu Do được bổ làm thứ sử Dương Châu, thì châu lỵ ở Thọ Xuân đã bị Viên Thuật chiếm. Cho nên, theo truyện Tôn Sách trong Ngô chí 1 tờ 7b5-11, Do đã vượt sông qua đóng ở Khúc A. Truyện Lưu Do ở Ngô chí 4 tờ 1b11-12 nói cậu của Sách là Ngô Cảnh và anh chú bác Tôn Bí đã đón Bí là người của Viên Thuật bèn đuổi đi. Cảnh, Bí rút về Lịch Dương. Do sai Phàn Năng, Vu My, Trần Hoành đóng ở Giang Tân (Hay Giang Biên), Trương Anh đóng ở Dương Lợi khẩu. Cảnh và Bí đánh Phàn Năng, Trương Anh cả năm hơn vẫng không thắng. Cho đến năm 195, Tôn Sách vượt sông đánh dẹp Năng và Anh, Lưu Do mới qua Dự Chương. Vậy Chu Hạo nếu đến xin quân của Do, cũng phải đến lúc Do đang đóng ở Khúc A, tức trước năm 195. Có thể việc xin quân đã xảy ra năm 193 và chắc chắn năm 194 Trức Dung đã được Lưu Do gởi qua giúp cho Hạo. Và Dung đã giết Hạo vào năm 194 này, để đến năm 195 khi Lưu Do chạy đến Dự Chương, thì Hạo đã chết, và Do phải đem quân trừng phạt Dung.
Khi nghe tin Trức Dung giết Chu Hạo ở Dự Chương châu mục Giao Châu vì "nỗi đau cốt nhục" đã "sai kỵ đô uý Lưu Ngạn đem binh đến đó. Nhưng sợ cõi ngoài nghi ngờ, quân không đến được, nên châu mục mới mời Mâu Tử, nói: "Em tôi bị bọn nghịch tặc giết, nỗi đau cốt nhục dằn vặt tâm can, nay sắp sai Lưu Kỵ đô úy đi, lại sợ cõi ngoài nghi nan, người đi không thông. Ngài văn võ gồm đủ, có tài đối đáp, nay muốn dẹp bỏ nghi ngờ, để mượn đường thông lộ qua Linh Lăng, Quế Dương ngài nghĩ thế nào?" Mâu Tử đã hứa đi
Nhân vật kỵ đô uý Lưu Ngạn là người thứ hai, mà Lý hoặc Luận nêu rõ tên. Truyện Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ 7b7-10, khi ghi lại lá sớ của Tôn viết cho Tôn Quyền về việc chọn người gởi qua cai trị Giao Châu, có đoạn: "Lại cố thứ sử Chu Phù đất Cối Kê phần lớn dùng ngưòi cùng quê là bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân làm trưởng lại, xâm lược bá tánh, ép thuế lên dân. Một con cá vàng, thâu thuế gạo một hộc. Bá tánh oán phản, giặc núi cùng nổi lên, đánh châu phá quận. Phù chạy vào biển, lưu lạc chết mất".
Như thế, kỵ đô uý Lưu Ngạn là một thuộc hạ cuả thứ sử Giao Châu Chu Phù. Chu Phù do vậy là anh cùng cha của Chu Hạo và là con của Chu Tuấn. Truyện Tuấn trong Hậu hán thơ 101 tờ 7b1-9 nói năm Quang Hòa thứ 1 (178) Tuấn được bổ làm thứ sử Giao Châu, và ghi Hạo là con cuả Tuấn, nhưng không ghi Phù.
Truyện Tôn giả trong Hậu Hán thơ 6/1 tờ 14a1-b1 nói: "Năm Trung Bình thứ nhất (184) đồn binh Giao Chỉ nhân bắt thứ sử và thái thú Hiệp Phố, tự xưng Thiên Trụ tướng quân, Linh đế ra lệnh đặc biệt cho ba phủ tỉnh tuyển quan có năng lực. Hữu ty đề cử Tôn làm thứ sử Giao Chỉ".
Truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 7a5-11 chép: "Em (Nhiếp) là Nhất trước làm đốc bưu của quận. Thứ sử Đinh Cung được gọi về kinh đô, Nhất hầu hạ đưa tiễn ân cần. Cung cảm động. Đến khi chia tay, gọi bảo: "Thứ sử nếu được đãi làm tam công, thì sẽ bổ niệm cho". Sau Cung làm tư đồ, bèn bổ nhiệm Nhất. Nhất vừa đến, Cung đã miễn quan. Hoàng Uyển thấy Cung làm tư đồ, đãi ngộ Nhất rất có lễ. Đổng Trác làm loạn, Nhất trốn về quê. Thứ sử Giao Châu Chu Phù bị giặc mọi giết. Châu quận nhiễu loạn, Nhiếp dâng biểu xin cho Nhất giữ thái thú Hiệp phố, em kế Từ văn lịnh Vỹ giữ thái thú Cửu Chân, và em Vỹ là Vũ giữ thái thú Hải Nam.
Vậy, Chu Tuấn được bổ làm thứ sử Giao Châu năm 178, thì người kế nhiệm là Giả Tôn rồi Đinh Cung. Và Đinh Cung làm thứ sử cho khoảng tới năm 187, thì ông trở về Lạc Dương làm tư đồ. Sau Cung chắc hẳn phải là Chu Phù. Dẫu sao đi nữa, cho đến năm 193-194, Chu Phù đang làm châu mục Giao Châu. Nên khi được tin Chu Hạo bị Trức Dung giết, Chu Phù vì lý do cốt nhục đã cử Lưu Ngạn đem quân đi trả thù. Nhưng do đường sá cách trở, Chu Phù đã nhờ đến Mâu Tử, một con người "văn võ kiêm bị, là có tài ăn nói".
Mâu Tử đồng ý giúp Chu Phù và chuẩn bị ra đi, thì gặp lúc mẹ mất nên chuyến đi không thành. Việc Chu Phù nhờ Mâu Tử như vậy phải xảy ra trong khoảng những năm 194-195. Năm 195 này cũng chắc chắn là năm mất của mẹ Mâu Tử. Sau biến cố mẹ mất này, Mâu Tử lâu rồi rút lui nghĩ: "Mình vì giỏi giang, hiểu biết, mà bị sai khiến. Nay đời nhiễu nhương, chẳng phải lúc làm rõ mình". Rồi than: "Lão Tử dứt thánh bỏ trí, tu thân giữ chân, vạn vật không ngăn chi mình, thiên hạ không đổi niềm vui mình, thiên tử không có được bề tôi, chư hầu không có được người bạn, nên mới gọi là quí". Từ đó, ông dốc chí học Phật, nghiền ngẫm thêm Lão Tử và ngũ kinh. Khi ông dốc trí như thế, "bọn thế tục phần lớn cho ông bỏ năm kinh, mà theo đạo khác". Cho nên, ông đã viết Lý hoặc luận để trả lời.
Rõ ràng, việc viết Lý hoặc luận xảy ra không lâu sau đám tang của mẹ Mâu Tử, có thể vào khoảng năm 198, vì Mâu Tử với tư cách một người con có hiếu chắc chắn phải dành 3 năm cư tang cho mẹ mình. Cho nên, khi tự truyện viết: "Lâu rồi rút nghĩ (cửu chi thối niệm), chữ "lâu" trong câu ấy hẳn để chỉ thời gian cư tang vừa nói. Sự thực, đúng theo tập tục thời đó, mà ta thấy qua trường hợp của Ngu Phiên ở Ngô chí 12 tờ 1a8-9, Mâu Tử phải dành một thời gian mặc áo tang cho mẹ mình. Vì thế, hẳn không có việc viết sách tranh luận với người khác, trong lúc cư tang. Do vậy, Lý hoặc luận khó mà ra đời trước năm 198 vừa nói được.
Tất nhiên, không phải đến khi mẹ mất, Mâu Tử mới biết Phật giáo. Ông đã biết Phật giáo từ trước, và biến cố ấy tạo cơ hội cho ông "dốc chí vào đạo Phật", sau khi đã quyết định là thời buổi nhiễu nhương không ra làm quan nữa. Cứ vào tự truyện, Mâu Tử là người hiếu học, "sách không kể lớn nhỏ, không gì là không đọc", đọc cả sách quân sự và thuật thần tiên trường sinh bất tử. Đối với thuật thần tiên này, điều 31 của chính Lý hoặc luận ghi lại lời tự thuật của Mâu Tử nói: "Tôi lúc chưa hiếu đạo lớn, cũng thường học phép tịch cốc có mấy ngàn trăm thuật, thực hành thì không hiệu nghiệm làm theo thì không kết quả, nên tôi bỏ. Xem ba ông thầy tôi theo học, mỗi ông hoặc tự xưng 700, 500, 300 tuổi. Nhưng tôi theo họ học chưa đầy 3 năm, thì mỗi một ông đã tự chết. Sở dĩ như vậy là do tuyệt cốc không ăn, mà lại đi ăn trăm thứ trái cây, nhậu thịt nướng thì nhiều mâm, uống rượu thì nhiều vò. Tinh thần hỗn loạn, cốc khí không đủ, mắt tai lầm lạc, dâm bậy không cấm. Tôi hỏi lý do vì sao, thì được đáp: "Lão Tử bảo bớt đi lại bớt, cho đến vô vi, trò phải ngày một bớt". Nhưng tôi thấy ngày chỉ một thêm chứ không bớt. Vì thế, họ mỗi người không đến tuổi tri thiên mạng (50 tuổi) mà đã chết. Vả lại, Nghiêu Thuấn Châu Khổng không một ai có thể sống đến trăm tuổi. Thế mà, đời sau ngu hoặc lại muốn ăn uống tịch cốc để tìm tuổi thọ vô cùng. Thương thay!".
Thế thì, trước khi "hiểu" Phật giáo, Mâu Tử đã từng học sách thần tiên, tịch cốc thần tiên bất tử 3 năm. Thời điểm xảy ra việc học này chắc chắn phải trước năm 26 tuổi, khi Mâu Tử trở về Thương Ngô lấy vợ. Phần tự truyện viết: "Thời ấy sau khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ Giao Châu tạm yên. Người tài phương bắc đều đến để ở, phần lớn học phép tịch cốc trường sinh cuả thần tiên. Người bấy giờ phần đông là có học. Mâu Tử thường đem năm kinh lại hỏi. Đạo gia thuật sĩ không ai dám trả lời, sánh ông với Mạnh Kha cự Dương Chu Mặc Địch. Trước thời ấy, Mâu Tử đem mẹ qua lánh nạn ở Giao Chỉ. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ".
Hán Linh đế băng hà vào năm Trung Bình thứ 6 (189). Vào năm này xảy ra một loạt các biến cố, đó là loạn Thập thường thị, dẫn đến cái chết của Hà Tiến, rồi Đổng Trác vào kinh đô, sau đó tư đồ Vưong Doãn nhờ Điêu Thuyền giết Đổng Trác năm 192, và sự xuất hiện trên vũ đài chính trị Trung Quốc 3 nhân vật sau này thành lập 3 triều đại kinh chống nhau, đó là Tào tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền. Đây là thời mà Mâu Tử gọi là "thiên hạ nhiễu loạn" Thời này, những người tài (dị nhân) phương bắc đổ dồn về sống ở Giao Chỉ. Tiểu sử của Sỹ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 7a12-13 viết: "Nhiếp tính khí khoan hậu, khiêm hư hạ sĩ, sĩ nhân Trung Quốc đến dựa tị nạn kể cả số trăm". Trong số này có những người đã làm nên sự nghiệp lớn ở Trung Quốc như Tiết Tôn, Hứa Tinh, Hứa Từ v.v... Điểm đặc biệt họ là những ngưòi có học và qua nước ta lại "học thuật thần tiên trường sinh bất tử".
Bản thân Mâu Tử "khi chưa hiểu đạo lớn" (Phật giáo) cũng từng bỏ ba năm học phép tịch cốc. Và Thần tiên truyện của Cát Hồng, mà Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 4 tờ 7b11-12 truyện Sĩ Nhiếp kể: "Nhiếp thường bệnh, chết đã 3 ngày. Tiên nhân Đổng Phụng đem co một viên thuốc, lấy nưóc ngậm uống, dở cổ lên lắc lắc. Uống một lúc, thì mở mắt động tay, nhan sắc dần dần phục hồi. Nửa ngày thì có thể đứng lên ngồi xuống. Bốn ngày thì nói năng lại được, rồi trở nên bình thuờng. Phụng, tự là Quân Dị, người Hầu Quan".
Thần Tiên truyện 6 hiện còn rõ thêm: "Sĩ Nhiếp được sống, nhân đó đứng dậy tạ ơn nói: "Rất đội ơn lớn, biết lấy gì đền đáp". Bèn dựng cho Phụng một tòa lầu trong sân. Như vậy hơn 1 năm, Phụng từ biệt Nhiếp mà đi. Nhiếp khóc lóc giữ lại không được... Phụng chết Nhiếp lấy hòm tẩn liệm đem chôn. Bảy ngày sau, phá quách mở hòm xem, chỉ còn một giải lụa, một mặt vẽ hình người, một mặt viết chữ đỏ làm bùa".
Đổng Phụng, ngưòi Hầu Quan, tức huyện Mân Hầu, tỉnh Phúc Kiến bây giờ, đã sang sống ở nước ta, để chữa bệnh cho Sĩ Nhiếp và sau đó được Sĩ Nhiếp chôn cất lúc chết. Trong khi còn ở Trung Quốc, Phụng đã từng dạy dỗ cho Bạch Hòa, như truyện Bạch Hòa trong Thần tiên truyện 7 chép. Tam động châu nang 1 nói rõ thêm: "Can quan người Bắc Hải mắc ung thư mấy chục năm, ông bán thuốc không thể chữa lành, thấy trong chợ một ông bán thuốc, họ Bạch, tên Hòa. Can quân đến hỏi; Ông nói: "Bệnh anh có thể chữa. Anh nếu muốn được lành, ngày mai lúc gà gáy, đến gặp dưới cây lan lớn phía bắc cầu lớn, ta sẽ dạy anh". Ngày mai gà gáy, Can quân đến chỗ hẹn, thì ông Bạch đã ở đó trước, giận nói: "Không muốn lành bệnh ư, sao lại đến sau?". Lại hẹn nửa đêm ngày mai. Do thế, Can quân lúc mặt trời lặn đến chỗ hẹn. Chốc lát ông đến, đem Tố thư 2 quyển trao cho Can quân.. Can quân vái hai vái nhận sách. Ông Bạch lại nói: "Anh trở về chép sách này thành 150 quyển". Can quân nghĩ được ý ông Bạch, trong để trị thân dưỡng tánh, ngoài để tiêu tai cứu bệnh, không ai là không chữa lành..."
Tiên uyển biên châu quyển trung do Vương Tùng Niên đời Hậu đường (thế kỷ thứ X) dưới mục thiên sư chánh nhất Can Cát Thái bình cũng kể lại truyện Can Cát được Thái bình kinh. Nhưng câu "Về chép sách này thành 150 quyển", thì nó sửa thành "Về chép sách này thành 170 quyển". Và thêm câu: "Đến nay có núi Thái Bình và khe Can ở đó".
Chí lâm của Ngu Hỷ do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12a12 nói: "Xưa thời Thuận đế, Cung Sùng đất Lang nha đến kinh đô dâng Thần thơ do thầy mình là Vu Cát được ở Tuyền thủy của Khúc Dương, giấy trắng bìa soon, gọi là Thái Bình thanh lĩnh đạo phàm trăm Hác Vương, Thiên Thất vì tật bệnh, cảm tới Lão quân dạy 180 giới cùng Thái bình kinh một trăm bảy mươi thiên".Thiên Thất đây là viết lầm cuả Can Thất, mà Hỗn nguyên thánh kỷ 7 của Tạ Thủ Hạo đời Nam Tống nói: "Can Thát, sau đổi tên là Cát_1. Truyện Cùng Sùng cuả Thần tiên truyện 10 chép: "Thiên tiên trao cho Cát Thái bình kinh 10 bộ lụa xanh chữ đỏ". Vân kíp thất thiêm 1 dưới điều Tam động kinh giáo bộ tứ phụ viết về Thái bình kinh chính kinh ghi: "Quyển sổ nó hoặc có chỗ không giống nhau. Nay giáp ất 10 bộ, hợp làm 170 quyển, nay thì còn lưu hành. Theo Chính nhất kinh, nói: "Có Thái Bình động cực một trăm bốn mươi quyển. Nay kinh này đã trôi mất đến gần hết". Mạnh An Bài đời Lương viết Đạo giáo nghĩa xu 2, sau câu vừa dẫn, nói thêm: "Đến thời Hán Thuận đế, Cung Sùng đến kinh đô dâng thần thơ một trăm mười quyển do thầy ông là Can Cát tìm được gọi là Thái bình kinh. Vua không tin, kinh ấy bèn ẩn".
Vậy, tiên nhân Đổng Phụng sống và chết ở nước ta đã có một liên hệ mật thiết với Bạch Hòa, thầy của Can Cát. Và Can Cát là ngưòi truyền bá thần thơ Thái Bình kinh 170 quyển. Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Tôn Sách của Ngô chí 1 tờ 12a5-11 kể chuyện Sách giết Can Cát. Sứu thần ký cũng do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 13b10-12 lại viết: "Sách đã giết Vu Cát. Mỗi khi ngồi một mình thì phảng phất thấy Cát ở bên phải bên trái mình, lòng rất ghét... Sau trị vết thương mới lành, đem gương soi mình, thấy Cát trong gương, nhìn kỹ thì không thấy. Như thế ba làn. Nhân đó vứt gương, kêu lớn. Vết thương lại vỡ ra, chốc lát thì chết".
Tôn Sách chết tháng tư năm Kiến An thứ 5 (200) Vậy Can Cát chắc cũng bị Sách giết vào năm này. Cả Chí lâm lẫn Đạo giáo nghĩa xu 2 đều nói học trò của Can Cát là Cung Sùng đem thần thơ Thái Bình kinh của Cát hơn một trăm quyển dâng cho vua Thuận đế nhà Hán trong khoảng những năm 130. Điều 29 của Lý hoặc luận cũng nhắc tới "Thần thơ một trăm bảy chục quyển" Việc này chứng tỏ một trong những văn kiện chính yếu của đạo giáo là Thái bình kinh đã lưu hành rộng rãi ở nước ta, khi Mâu Tử viết Lý hoặc Luận. Có thể chính Thái bình kinh là một trong các "Sách thần tiên bất tử" mà Mâu Tử đọc và "dẹp đi mà không tin, cho là dối trá".
Như thế, "Khi chưa hiểu đạo lớn", Mâu Tử đã từng đọc sách vở đạo giáo và bỏ ra ba năm luyện phép tịch cốc. Nhưng do không có hiệu quả, Mâu Tử sau đó đi đến kết luận các sách vở ấy là "dối trá". Tuy nhiên, phần lớn "Ngưòi tài" Trung Quốc sang tị nạn tại nước ta lại theo học đạo đó. Cho nên Mâu Tử đã đem "năm kinh" Nho giáo ra vặn hỏi. Đám "Đạo gia thuật sỹ" không ai dám trả lời. Dầu vậy, cần chú ý là dù họ không trả lời, không có nghĩa là họ khuất phục. Do đó, đến khi đã theo Phật giáo và viết Lý và luận, Mâu Tử phải dành 9 trong 37 điều của tác phẩm ấy để kích bác đám "đạo gia thuật sỹ" và những thuật "tịch cốc trường sinh bất tử" cuả họ, biểu thị một mối quan tâm đặc biệt đối với học thuyết và phương thức tu hành cuả đám ấy.
Sự kiện Mâu Tử đem "năm kinh" ra vặn hỏi đám này chứng tỏ họ không những "người có học" như Lý hoặc luận ghi, mà còn là những kẻ theo Nho giáo, những sỹ nhân, như truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí đã chép. Thời điểm xảy ra sự kiện ấy Mâu Tử nói là sau khi Hán Linh để băng hà, tức sau năm 189, một thời điểm hoàn toàn phù hợp với những tư liệu hiện có. Ngụy chí 1 tờ 36b9-11 dưới mục bản kỷ của Tào Tháo viết: "Trước đó Viên Trung làm tướng đất hải thưòng muốn dùng luật trị Thái Tổ. Hoàn Thiện nưóc Bái cũng khinh. Đến khi ở Duyện Châu, Biên Nhượng đất Trần Lưu ăn nói nhiều lần rất đụng chạm Thái Tổ. Bèn giết nhượng, tru di cả gia đình. Trung và Thiện đều tị nạn ở Giao Châu. Thái Tổ sai sứ đến thái thú Sỹ Nhiếp đều giết hết. Hoàn Thiện được đầu thú, ra vái tạ trong sân, Thái Tổ bảo: "Quỳ mà được thoát chết sao?". Bèn giết đi, Tào Tháo được bổ làm thứ sử Duyện Châu năm Sơ Bình thứ nhất (190), Viên Trung và Hoàn Thiện phải chạy đến nước ta năm đó.
Truyện Viên Trung trong Hậu Hán thơ 75 tờ 7a10-b4 chỉ nói: "Sau Tôn Sách phá Cối Kê, Trung v.v... vượt biển về nam đến Giao Chỉ. Hiến đế đóng đô ở Hứa, trưng làm vệ úy, chưa đến thì mất". Vậy, chưa hẳn Trung đã đến khoảng năm 190 và bị Sĩ Nhiếp giết. Viên Trung do thế đã sống ở nước ta một thời gian.
Nếu Hoàn Thiện không may mắn thì Hoàn Việp may mắn hơn. Việp là chắt của Hoàn Vinh, thầy học của Minh đế. Hậu Hán thơ 67 tờ 7b1-12 ghi truyện Việp: "Việp từ là Văn Lâm, một tên là Nghiêm, rất giữ ý chí. Cô ta là phu nhân của tư không Dương Tứ. Khi Loan (cha của Việp) chết, cô đi điếu. Sắp đến (nhà) thì nghỉ ở quán trọ, chỉnh đốn lại nhưĩng người đi theo, rồi sau mới vào. Lòng Việp cho là không phải, đến cô hỏi thăm Việp rốt cuộc không nói một lời, chỉ khóc lóc mà thôi. Tứ Sai quân lính dâng đồ cúng, nhân ra huyện lấy chén dĩa. Việp cự không nhận. Sau mỗi khi đến kinh, chưa từng đến ở nhà họ Dương. Kiên trinh là thế. Khách khứa di theo đều khâm phục chí hạnh của ông. Một bữa ăn không nhận ở ngưòi khác. Làm quan đến quận công tào. Sau cử hiếu liên hữu đạo phương chính mậu tài. Tam Công bổ ra làm quan, đều không nhận. Trong khoảng Sơ Bình (190-193) thiên hạ loạn lạc, lánh nạn Cối Kê, rồi vượt biển đến khách Giao Chỉ. Ngưòi Việt thay đổi khí tiết ông, đến xóm làng không hay tranh cãi. Ông bị ngưòi tù vu cáo, bèn chết ở ngục Hợp phố".
Hoàn Việp tuy mắn đến được nước ta, nhưng cuối cùng cũng chết trong ngục Hợp phố. Chỉ có Hứa Tinh là may mắn hơon. Truyện Hứa Tỉnh trong Thục chí 8 tờ 195-b9 nói: "Linh đế băng hà, Đổng Trác nắm quyền", Hứa Tỉnh cùng Châu Bí đề cử Hoàn Phúc làm châu mục Ký Châu, Lưu Đại làm thứ sử Duyện Châu v.v... Khi đến nhậm chức rồi, Phức cùng những người khác đem quân về đánh Trác. Trác giận chém Bí. Hứa Tịnh cùng tùng huynh Hứa Dương chạy đến thứ sử Dự Châu là Khổng Do. Do chết, lại qua nhờ thứ sử Dương Châu Trần Vĩ. Vĩ chết, Hứa Tĩnh lại đến chỗ quen biết trước là đô uý Ngô quận Hứa Công và thái thú Cối Kê Vương Lãng. Tôn Sách vượt sông về đông, họ đều chạy đến Giao Châu để tỵ nạn. Tỉnh ngồi trên bờ, trước cho chở bà con thân sơ theo đi hết, rồi sau mới theo đi. Đương thời ai thấy không ai là không khen ngợi. Khi đến Giao Chỉ, thái thú Sĩ Nhiếp kính đãi nồng hậu. Viên Huy đất Trần Quốc đã ngụ cư Giao Châu. Huy viết thư cho thượng thơ lệnh Tuân Hoắc nói: "Hứa Văn Hưu anh tài vĩ sĩ, trí lược đủ để gánh vác công việc, từ ngày lưu lạc đến nay đã cùng đám sỹ phu theo nhau. Mỗi có hoạn nạn thường trước giúp người, sau mới lo mình, cùng chín họ trong ngoài chịu đói, rét, kỷ cương với đồng loại, nhân thứ trắc ẩn, đều có kết quả, không thể đem một hai việc nói hết được".
Tôn Sách vượt sông về đông năm Hưng Bình thứ 2 (195) nên Hứa Tỉnh cũng phải chạy qua nước ta năm ấy. Và chạy qua năm ấy không phải một mình Hứa Tỉnh mà còn có Viên Bái, Đặng Tử Hiếu, Từ Nguyên Hiền v.v... ngoài bà con thân thuộc của Tinh, như lá thư cuả Tinh viết cho Tào Tháo năm 205 trong Thục chí 8 tờ 2a3-3b8 đã nói. Điểm đáng ghi nhận là khi Tỉnh đến nước ta năm 195, thì Viên Huy đã có mặt. Truyện Viên Hoán trong Ngụy chí 11 tờ 3b6-10, chỉ nói Huy gặp thiên hạ loạn, tỵ nạn Giao Châu nhưng không nói năm nào. Bây giờ ta biết là phải trước năm 195. Hẳn Huy qua một đợt với Hoàn Việp vào năm 190.
Ngoài Hứa Tỉnh, Viên Huy, Viên Bái... Thục chí 12 tờ 4a5-b4 còn ghi: "Hứa Từ tự Nhân Đốc, người Nam Dương, thờ Lưu Hy làm thầy, giỏi môn học họ Trịnh, trị Dịch, Thượng thơ, Tam lễ, Mao thi, Luận ngữ. Trong khoảng Kiến An (196-220) cùng Hứa Tỉnh v.v.. đều từ Giao Châu vào Thục". Ngô Chí 8 tờ 4b8-10 lại chép: "Trình Bỉnh, từ Đức Xu, người Nam Đốn, Nhử Nam, vốn thờ Trịnh Huyền, sau tỵ nạn Giao Châu, cùng Lưu Hy khảo luận đại nghĩa,nên bác thông năm kinh. Sĩ Nhiếp bổ làm trường sử. Tôn Quyền nghe tiếng danh nho, dùng lễ trưng Bình, Binh đến, phái làm thái tử thái phó" Cũng Ngô chí 8 tờ 6a7-4 chép thêm: "Tiết tôn, tự Kinh Văn, người Trúc Ấp, Bái quận, nhỏ theo ngưòi bà con, ty địa Giao Châu, theo Lưu Hy học, Sĩ Nhiếp đã theo Tôn Quyền, mời Tôn làm ngũ quan trung lang, rồi thái thú Hợp Phố, Giao Chỉ".
Thế thì, ngoài những người kể trên, ta còn có ba người học trò cuả Lưu Hy là Hứa Từ, Trình Bình và Tiết Tôn, và bản thân ngưòi thầy là Lưu Hy. Trình Bình trở về Trung Quốc, chắc chắn trước năm Hoàng Vũ thứ 4 (225) khi Tôn Quyền gả con gái của Chu Du cho Tôn Đăng làm vợ, và Bỉnh với tư cách thái tử thái phó đã răn dạy Đăng. Còn Tiết Tôn được triệu về Trung Quốc, khi Sĩ Nhiếp về theo phe Tôn Quyền và năm Kiến An thứ 1 (21), như truyện Sĩ Nhiếp cuả Ngô Chí 4 tờ 8a8 đã ghi. Về Hứa Từ, vì theo Hứa Tinh lên Thục, mà Hứa Tinh năm Kiến An 16 (211) từ thái thú Ba quận chuyển làm thái thú Thục quận, và năm Kiến An thứ 10 (205) đang còn ở Giao Châu viết thư cho Tào Tháo cho nên, Hứa Từ phải rời Giao Chỉ vào khoảng giữa những năm 205-210.
Do vậy, tuy ngày nay ta không biết chính xác Lưu Hy qua tỵ nạn nước ta vào năom nào điều chắc chắn là phải trước những năm 200 sdl. Nghiêm Khả Quân trong Toà Hậu Hán văn 86 và Diệp Đức Huy sau đó trong Chấp Mạnh Tử Lưu Hy chú đã nghiên cứu sự tích và công trình trước tác của Hy khá tường tận. Đặc biệt là Diệp Đức Huy đã viết Lưu Hy sự tích khảo và chép vào trong tác phẩm vừa kể. Kết quả là Lưu Hy "trong khoảng Trung Bình Trưng làm bác sĩ, đồng bổ làm An Nam thái thú, sau tránh giặc ở Giao Châu, nên Trình Bình, Tiết Tôn, Hứa Từ cùng theo để học. Hy chết vào năm Xích ô của nhà Ngô".
Niên hiệu Trung Bình của Hán Linh để bắt đầu vào năm 184 đến 189. Nếu trong khoảng những năm này Lưu Hy được trưng làm bác sĩ, thì việc tránh nạn sang nước ta cũng có thể xảy ra să năm 189, tức như Mâu Tử nói: "Sau khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ Giao Châu tạm yên, người tài phương Bắc đều đến để ở" Sự thật, ngay từ khi Linh đế đang sống, tức trước năm 189, một số người Trung Quốc đã muốn đến tỵ nạn Giao Châu. Truyện Lưu Yên trong Thục chí 1 tờ 1a9-12 đ4 chép: "Yên thấy chính trị Linh đế suy khuyết, nhà vua nhiều nạn, bèn kiến nghị nói thứ sử thái thú dùng tiền của hối lộ để làm quan, nên cắt lột bá tánh, làm cho họ ly phản, vậy nên chọn trọng thần tiếng tốt để làm mục bá, trấn an đất nước. Yên bên trong xin làm châu mục Giao Chỉ, muốn trán nạn đời". Rõ ràng, không chỉ sau năm 189, mà trước đó những "dị nhân" phương Bắc đã tìm về nước ta. Và sau năm ấy, dòng chảy "dị nhân" về phương nam càng dồn dập hơn. Số "dị nhân" này đến nước ta, theo Mâu Tử, "phần lớn thực hành thuật thần tiên tịch cốc trường sinh" Mâu Tử đã dùng "Ngũ kinh" để vặn hỏi và họ đã "không dám trả lời".
Trước năm 189, Mâu Tử nói ông đem mẹ qua tỵ nạn ở Giao Chỉ, năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ. Việc đem mẹ qua nước ta và việc trở về Thương Ngô lấy vợ như thế chắc chắn xảy ra trước năm 189. Gỉả như năm 189, ông về cưới vợ, thì Mâu Tử phải sinh vào khoảng năm 165, tức năm Diên Hy thứ 7 đời Hán Hoàn Đế. Tuy nhiên, vì Mâu Tử nói "trước thời đó", tức trước thời Linh đế băng hà năm 189, nên có khả năng Mâu Tử phải sinh vào khoảng những năm 160, tức Diên Hy thứ 2, và trở về Thương Ngô cưới vợ khoảng năm 186. Lý do cho giả thiết thời điểm này sẽ nói sau.
Khi về Thương Ngô cưới vợ, Mâu Tử kể tiếp là ông được "thái thú (Thương Ngô) nghe tiếng ông học giỏi, mời đến thăm và bổ làm quan. Nhưng "lúc ấy tuổi đang cường tráng, chí lãm việc học, lại thấy đời loạn, Mâu Tử không có ý làm quan", nên Mâu Tử từ chối không nhận. Tuy không nhận quan tước với thái thú Thương Ngô, song khi ông này nhờ ông đi Kinh Châu "trí kỉnh", Mâu Tử đã nhận lời. Truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô Chí 4 tờ 7a13-8a10 ghi nhận quan hệ giữa Thương Ngô và Kinh Châu như sau:
"Chu Phù chết, Hậu Hán sai Trương Tân làm thứ sử Giao Châu. Tan sau đó lại bị tướng của mình là Khu Cảnh giết; châu mục Kinh Châu Lưu Biểu sai Lại Cung đất Linh Lăng thay Tân. Lúc ấy, thái thú Thương Ngô Sứ Hoàng chết, Biểu lại sai Ngô Cự thay Hoàng, cùng Cung đi đến. Nhà Hán nghe Trương Tân chết, ban tí thơ cho Nhiếp nói: "Giao Châu đất xa, nam tiếp sông biển, ăn trên không tuyên, nghĩa dưới ùn tắc, biết nghịch tặc Lưu Biểu lại sai Lại Cung dòm ngó đất Nam. Nay cho Nhiếp làm Tuy nam trung lang tướng, tổng đốc bảy quận, giữ thái thú Giao Chỉ như cũ". Sau Nhiếp lại sai Trương Văn dâng cống đến kinh đô. Lúc ấy thiên hạ tán loạn, đường sá cắt đứt, mà Nhiếp không bỏ chức cống, nên đặc biệt lại hạ chiếu phái làm An viễn tướng quân, phong Long độ đình hầu. Sau Cự với Cung mất lòng nhau. Cự đem quân đuổi Cung. Cung chạy về Linh lăng. Năm Kiến An 15 (210) Tôn Quyền sai Bộ Chất làm thứ sử Giao Châu. Chất đến, Nhiếp đem anh em vâng nhận sự điều khiển, nhưng Ngô Cự có dị tâm, Chất chém Cự".
Qua lời sớ của Tiết Tôn và truyện Sĩ Nhiếp dẫn trước, ta biết Chu Phù đã sử dụng đám "hương nhân" của mình là Ngu Bảo và Lưu Ngạn di "Xâm ngược bá tánh", nên bị nhân dân ta, mà Trần Thọ gọi là "giặc mọi" (di tặc) giết. Giết vào năm nào? Chắc chắn là sau năm 194, năm Chu Hạo bị Trức Dung giết và Chu Phù nhờ Mâu Tử đi mở đường. Chu Phù cô thế bị giết khoảng năm 195 trở đi cho đến 197.
Sau khi Phù bị giết, triều Hán cử Trương Tân qua làm thứ sử. Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô Chí 1 tờ 12a 5-11 nói: "Bấy giờ có đạo sĩ Vu Cát đất Lang Nha, ngụ cư phương đông, đi lại Ngô Hội, lập tịnh xá, đốt hương, đọc sách đạo, chế làm nước bùa (phù thủy) để trị bịnh. Người Ngô Hội phần nhiều thờ ông. Sách thường ở trên lầu cửa thành quận, tập họp khách khứa các tướng. Cát bèn ăm mặc xum xoe, chống gậy nhỏ_1 sơn vẽ gọi là gậy người tiên, đi qua dưới cửa. Khách khứa các tường hai phần ba xuống lầu đón lạy. Quan chướng tân cấm la, cũng không thể ngăn. Sách liền hạ lệnh bắt Cát. những người thờ Cát sai vợ và con gái vào gặp mẹ Sách xin cứu Cát. Bà mẹ gọi Sách nói: "Vu tiên sinh giúp quân làm phước, chữa giúp tướng sĩ, không nên giết". Sách nói: "Tên này yêu vọng, có thể huyễn hoặc lòng người, xa khiến các tướng không còn quan tâm đến lễ nghĩa vua tôi, đều bỏ Sách, xuống lầu lạy nó, không thể không trừ nó". Các tướng lại liên danh trình bày sự việc xin tha Sách nói: "Xưa Trương Tân đất Nam Dương làm thứ sử Giao Châu, vứt điển huấn thánh trước, bỏ pháp luật nhà Hán, thường mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục, bảo để giúp giáo hóa, cuối cùng bị mọi nam giết. Điều đó rất vô ích, các vị chỉ chưa hiểu thôi. Nay tên này đả ở trong sách cũ, đừng tốn thêm giấy bút với nó". Liền lôi ra chém, treo đầu ở chợ. Những người thờ Cát vẫn không nói là chết, mà bảo là thi giải, rồi cúng vái cầu phước."
Ngu Hỷ viết Chí Lân dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12b1-3 đã nhận xét: "Hỷ khảo cứu Hoàn Vương chết ngày 4 tháng 4 năm Kiến An thứ năm (200). Lúc ấy Tào, Viên đánh nhau chưa có thắng bại. Cứ thơ của Hạ Hầu Nguyên Nhượng viết cho Thạch Uy Tắc sau khi phá Viên Thiệu, thơ nói: "Đem Trường Sa trao cho Tôn Bí, lấy Linh Quế làm cơ nghiệp cho Trương Tân". Điều này là chỉ Hoàn Vương mất trước, Trương Tân chết sau, không được nhượng, nói vì ý Tân chết".
Bùi Tùng Chí trong Ngô Chí 1 tờ 12b3-4 nói rõ ra là Giang biểu truyện sai, khi bảo Trương Tân chết trước Tôn Sách: "Theo Giao Quảng nhị châu xuân thu do đại trung chính Quảng Châu Vương Phạm dâng lên vào năm Thái Khương thứ 8 (287), thì Kiến An năm thứ 6 (201) Trương Tân còn làm châu mục Giao Châu. Giang biểu truyện sai, như Chí lâm đã nói".
Fukui_1 bình luận về báo cáo cuả Giang biểu truyện, dẫn thêm Địa lý chí hạ của Tấn thơ 15 nói Trương Tân làm thứ sử Giao Châu năm Kiến An thứ 8 (203), mà Hồ Tam Tỉnh đã tán đồng khi chú thích Tư trị thông giám 66, rồi kết luận: "Trương Tân làm thứ sử Giao Châu trong khoảng năm Kiến An thứ 6 (201), còn năm Chu Phù bị giết là trước năm Kiến An thứ 5 (200)". Điểm đáng ngạc nhiên là trong khi nhận ra nhân vật, mà Tôn Sách dẫn ra trên, dứt khoát không phải Trương Tân, vì Tân còn làm thứ sử Giao Châu sau khi Sách chết, thế mà Fukui vẫn bình luận tiếp về lối sống "vứt điển huấn thánh trưóc, bỏ pháp luật Hán gia, thường mặc áo đỏ gạch, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách tà đạo tà tục" là của Trương Tân, mà không tìm thử xem ngưòi sống lối sống đó là ai.
Theo chúng tôi, thứ nhất, ngoài chứng cứ cuả Chí lâm, Giao Quảng nhị châu xuân thu và Tấn thơ địa lý chí, xác nhận Trương Tân còn làm thứ sử Giao Châu sau khi Tôn Sách chết vào năm 200, ta còn có lá thư của Hứa Tinh viết cho Tào Tháo vào năm 205, mà truyện Hứa Tỉnh trong Thục Chí 8 tờ 203-3b7 đã chép lại, nói: "Đường đời gai góc, họa loạn cùng hợp, khủng khiếp lén sống, tự trốn mọi rợ, thanh hết mười năm.. Lại có Trương Tử Vân xưa ở kinh đô, chí phò vương thất, nay tuy đến cõi hoang, không được tham dự bản triều, thì cũng là phiên trấn cuả quốc gia, ngoại viện cuả túc hạ...". Sau câu vừa dẫn, Bùi Tùng Chi chua: "Tử Vân, tên Tân, ngưòi Nam Dương, làm thứ sử Giao Châu. Xem Ngô chí".
Vậy, sau khi Hứa Tinh đến Giao Châu năm 195 và ở đó "thành hết mười năm", mới viết thư cho Tào Tháo, và trong thư có nhắc đến vai trò của Trương Tân đang còn sống đối với Tháo, thì rõ ràng đến năm 205, khi lá thơ viết, Trương Tân đang còn là thứ sử Giao Châu. Như thế, nhân vật mà Tôn Sách nêu ra trong lời nói của ông trong Giang biểu truyện dứt khoát không phải là Trương Tân đất Nam Dương. Ấy thì, ngưòi đó là ai?
Đây là điểm thứ hai chúng tôi muốn đề cập tới. Thật ra, người đó không ai xa lạ hơn là Chu Phù. Đáng lẽ, Giang biểu truyện phải viết Cối Kê Chu Phù, thay vì Nam Dương Trương Tân, mới hợp với cái chết của Tôn Sách vào năm 200. Lý do cho chúng tôi nghĩ nhân vật ấy là Chu Phù gồm hai yếu tố. Một là Hậu Hán thơ im lặn không nói tới quan hệ của Chu Phù với Chu Tuấn và Chu Hạo. Đây là một hình thức bào hiếm mà bút pháp viết sử Trung Quốc thường vận dụng đối với các nhân vật mà người viết sử có những vấn đề không tán thành. Mà trong trường hợp này nếu lối sống "vứt điển huấn thánh trước, bỏ pháp luật Hán gia" quả là của Chu Phù, thì Chu Phù tất nhiên phải chịu một hình phạt tức cho quên lãng vào lịch sử bằng cách không được nhắc tới. Hai là quan hệ của Chu Phù với Mâu Tử. VÀo năm 194. Mâu Tử lúc ấy đã là một Phật tử thành tín. Sau khi Trức Dung giết Chu Hạo, Chu Phù đã nhờ Mâu Tử, một Phật tử, giúp mình đi trả thù cái chết của Chu Hạo. Quan hệ này phải nói không những có tính chính trị, mà còn có tính tôn giáo nữa, vào lúc ấy. Ta có trường hợp Trức Dung quan hệ với Triệu Dục của Quảng Lăng và Tiết Lễ cuả Bành Thành. Viết Dụ nghi luận vào cuối thế kỷ thứ IV, mà Tăng Hựu chép lại trong Xuất tam tạng ký tập 5 ĐTK 2145 tờ 41b-11. Tăng Duệ đã nhắc tới việc "Hán mạt Ngụy sơ, hai tướng Quảng Lăng và Bành Thành xuất gia".
Bản thân Trức Dung là một Phật tử nhiệt thành. Trong thời gian làm đốc vận tào ba quận Quảng Lăng, Bành Thành và Hạ Bì, Trức Dung đã cho xây chùa lớn, đúc tượng cao và gầy dựng một phong trào Phật giáo mạnh mẽ, không những ở Hạ Bì, mà các quận ở bên cạnh, như truyện Trức Dung dẫn trênn đã nói. Khi Tào Tháo đánh Đaò Khiêm vào năm 193, Dung rút quân về Quảng Lăng. Tướng Quảng Lăng là Triệu Dục đã đón tiếp Dung nồng hậu.
Truyện Trương Chiêu trong Ngô chí 7 tờ 1a6-b8 nói: "Trương Chiêu, tự Tử Bố, người Bành Thành, nhỏ hiếu học, giỏi chữ lệ, theo Bạch Hầu Tử Am học Tả thị xuân thu, rộng xem các sách, cùng Triệu Dục đất Lang Nha, Vương Lãng đất Đông Hải, đều nổi tiếng bạn tốt... Thứ sử Đaò Khiêm cử mậu tài, Chiêu không ứng. Khiêm cho là khinh mình, nên Chiêu bị bắt, Dục hết mình tìm cách cứu, Chiêu mới được miễn".
Triệu Dực cùng các danh nho Trương Chiêu (155-235), Vương Lăng (?-229) làm bạn, do thế xuất thân cũng là một nhà nho, và đã có cơ hội cứu Trương Chiêu khỏi hình phạt của Đào Khiêm. Điều này chứng tỏ Dục ra làm quan với Đào Khiêm tương đối sớm. Đến năm 193 Tào Tháo tấn công Đào Khiêm, Dục đã làm thái thú Quảng Lăng, để đón tiếp Trức Dung, lúc Dung rút quân tới. Tuy cuối cùng Dung đã giết Dục, việc Dung tìm tới Dục biểu thị một quan hệ mật thiết giữa họ đã được thiết lập từ trước. Quan hệ này là quan hệ chính trị, nhưng không loại trừ khả năng tôn giáo. Bản thân Trức Dung, như đã thấy, là một Phật tử nhiệt thành. Bây giờ qua Dụ nghi luận ta biết Quảng Lăng tướng Triệu Dục "xuất gia". Quan hệ giữa họ như vậy mang nặng dấu ấn Phật giáo.
Tất nhiên, Triệu Dục không "xuất gia", theo kiểu Nghiêm Phật Điều, người Trung Quốc đầu tiên được lịch sử Phật giáo Trung Quốc xác nhận là "xuất gia". Trái lại, ông "xuất gia" theo kiểu Giang biểu truyện mô tả về Chu Phù nói trên theo lời của Tôn Sách, đó là "vứt điển huấn của thánh trước, bỏ pháp luật của Hán gia, mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục, bao để giúp giáo hóa". Ý nghĩa chữ "xuất gia" đã được mở rộng và qui chiếu theo một số tiêu chuẩn mới: Thứ nhất là khước từ những tư tưởng khuôn phép cũ, biểu thị ở đây bằng việc "vứt điển huấn cuả thánh trước, bỏ pháp luật cuả Hán gia". Và thứ hai là chấp nhận những tư tưởng lối sống mới, thể hiện bằng việc "mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục".
Sự kiện "mặc áo đỏ, bịt đầu" này đối với người Trung Quốc là một truyện lạ, như truyện Lưu Bằng của Thần tiên truyên 5 đã ghi: "Điện hạ có chuyện lạ (quái), rồi có mấy mươi người áo đỏ bịt tóc". Và chỉ có những ngưòi "lập dị" mới làm như truyện Hướng Hú cuả Hậu Hán thơ 111 tờ 19a7-8 đã nói: "Lại giống như kẻ cuồng, thích cắt tóc, bịt đầu" là không đúng với "phép tắc nhà Hán" và chỉ "cuồng sanh" mới làm. Trong khi đó, ở nước ta điều 11 của Lý hoặc luận nói: "Nay sa môn cạo tóc đầu, mặc áo đỏ, thấy người không có lễ nghi qui đứng, không có dung mạo đoan trang, sai trái với phép mạo phục, sai với cách ăn mặc vậy".
Đó là về hình thức lối sống. Còn về tư tưởng, thì "đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục". Sách đạo tà tục (tà tục đạo thơ) nói ở đây không chỉ và không có nghĩa là kinh sách đạo giáo, mà chỉ kinh sách Phật giáo. Hậu Hán thơ 118 tờ 18b6-7 trong phần Tây Vực truyện khi bình luận về kinh Phật đã nói: "(Kinh Phật) làm rõ lời dạy lắng lòng cởi lụy, làm rõ tôn chỉ về không hữu gồm sai, thuộc dòng sách đạo" (đạo thơ chi lưu). Vậy "đọc sách tà tục" đây chính là đọc sách kinh Phật giáo.
Như thế, khi đọc kinh Chu Phù đã "mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương", thì về ngoại hình, thực không khác gì một nhà sư. Có lẽ, lúc kinh Phật mới truyền vào Viễn Đông những thế kỷ đầu dương lịch, việc ăn mặc lúc đọc kinh của những người tại gia cũng như xuất giả không khác nhau lắm. Chính vì vậy, Dụ nghi luận mới nói tới sự xuất gia cuả Triệu Dục và Tiết Lễ.
Việc thế Chu Phù vào nhân vật Trương Tân của câu nói Tôn Sách dẫn trên, như vậy, không những phù hợp với thời điểm Tôn Sách chết, mà còn hoàn toàn được lý giải qua quan hệ của Chu Phù với Mâu Tử do Lý hoặc Luận ghi lại. Tôn Sách mất năm 200, mà Giao Quảng nhị châu xuân thu của Vương Phạm lại nói năm 201 "Trương Tân còn làm thứ sử Giao Châu". Thế thì Trương Tân đã làm thứ sử Giao Châu trước năm 201, tức ít lắm là vào năm Tôn Sách mất, nếu không là sớm hơn.
Theo chúng tôi, Trương Tân qua làm thứ sử Giao Châu sớm hơn nhiều, có thể là vào năm 197, sau khi Chu Phù bị "mọi man" giết vào khoảng năm ấy, như đã giả thiết ở trên. Giả thiết này là dựa trên câu nói cuả Tôn Sách trong Giang biểu truyện dẫn trước. Sách nói: "Xưa Trương Tân đến Nam Dương làm thứ sử Giao Châu, vứt điển huấn của thánh trước, bỏ pháp luật của Hán gia..." Bây giờ ta đã biết: "Nam Dương Trương Tân" là một chép lộn của "Cối Kê Chu Phù", thì việc Chu Phù chết phải xảy ra trước năm Tôn Sách mất một thời gian đáng kể, để cho Tôn Sách dùng chữ "xưa" (tích), khi đề cập đến Chu Phù. Và ta cũng biết Chu Phù không thể mất trước năm 195, khi Chu Hạo bị Trức Dung giết và Chu Phù đã yêu cầu Mâu Tử giúp đỡ. Vậy, nếu Tôn Sách mất vào năm 200, thì năm 197 có khả năng là thời điểm Chu Phù bị giết, để ba năm sau đó, khi kể lại sự kiện Chu Phù, Tôn Sách đã dùng chữ "xưa" (tích).
Chu Phù mất năm 197, Trương Tân qua làm thứ sử thế, cho đến ít lắm là năm 205, khi Hứa Tinh viết thư giới thiệu Tân với Tào Tháo, như đã thấy. Đồng thời, Tân phải mất trước năm 208, năm Lưu Biểu mất, như truyện Lưu Biểu trong Hậu Hán thơ 104 hạ tờ 10a8-9 và Ngụy chí 6 tờ 12b2 đã ghi, để cho Lưu Biểu cử Lại Cung làm thứ sử Giao Châu thay Tân và Ngô Cự làm thứ sử Thương Ngô thay Sử Hoàng. Năm Kiến An thứ 13 (208) Lưu Bị ở với Lưu Biểu khuyên Biểu đánh Hứa. Biểu không nghe. Tào Tháo lại dẫn quân nam chinh thì Biểu mất, nhân đó lấy được Kinh Châu.
Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Lưu Bị cuả Thục chí 1 tờ 6a12-b4 nói: "(Khi Biểu mất) Tôn Quyền sai Lỗ Túc đi điếu Lưu Biểu, thăm hai con Biểu, cùng lệnh kết liên với Lưu Bị. Túc chưa đến, mà Tào Công đã vượt qua Hán Tân. Túc cố tiến về trước để gặp Bị ở Đương Dương, nhân nói ý của Quyền, bàn sự thế thiên hạ, tỏ lòng ân cần, đồng thời hỏi Bị: "Dự châu nay muốn đi đâu?". Bị đáp: "Vì có quen với thái thú Thương Ngô, Ngô Thần, nên muốn đi đến đó". Túc nói: "Tôn Thảo lặc thông minh nhân huệ, kính hiền đãi sỹ, anh hào Giang Biểu đều về qui phục, đã chiếm sáu quận, quân giỏi, lương nhiều đủ để dựng việc. Nay vì ngài đưa kế thì không còn gì hơn là sai ngưòi phúc tâm, khiến tự liên kết với phía đông, tôn trọng sự liên hòa, cùng cứu cơ nghiệp mấy đời. Còn nói muốn đến Ngô Thần, thì Thần là một người tầm thường làm việc tại một quận xa, sắp bị người ta thôn tính, há đủ để dựa vào ư?" Bị rất mừng, tiến đến ở Ngạc huyện, liền sai Gia Cát Lượng theo Túc đến Tôn Quyền thề kết đồng minh".
Rõ ràng, Ngô Thần mà Lưu Bị muốn đến nương tựa ở đây, là Ngô Cự của truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí dẫn trước, như Thục chí quyển nhị khảo chứng tờ 1b2-3 đã nhận ra. Và năm mất của Lưu Biểu phải là năm Kiến an 13 (208), chứ không phải 12, như truyện Lưu Bị ở đây đã có. Vậy, Lưu Biểu mất năm 208 và Trương Tân còn sống tới năm 205, thì việc Trương Tân và Sử Hoàng mất chắc phải vào năm 206 và Lại Cung cùng Ngô Cự xuống thế năm 207. Để năm sau khi Lưu Biểu mất, Lưu Bị đã có ý đến ở nhờ Ngô Cự, lúc ấy đã thay Sử Hoàng làm thái thú Thương Ngô.
Vậy thì, nếu Mâu Tử về Thương Ngô cưới vợ vào khoảng những năm 186, thời điểm đó Sử Hoàng đã làm thái thú thương Ngô chưa? Câu hỏi này ta hiện không thể trả lời dứt khoát. Tuy nhiên, giống như trường hợp Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ hơn 40 năm, tức từ khoảng năm 180 đến năm Hoàng Vũ thứ 5 (226), ta có thể giả thiết Sử Hoàng cũng làm thái thú Thương Ngô trong khoảng từ 180 đến khi mất khoảng 207. Nếu chấp nhận giả thiết này, thì vị thái thú muốn mời Mâu Tử làm quan ở Thương Ngô, không ai khác hơn là Sử Hoàng.
Chúng tôi phải nêu lên giả thiết vì lá thư do Hứa Tih viết cho Tào Tháo trong truyện Hứa Tịnh cho Thục chí 8 tờ 2a12-b3 nói là năn Hứa Tinh chạy qua nước ta có ghé lại Nam Hải, nghe tin Tháo phò vua Hán bèn "Vừa buồn vừa vui, liền với Viên Bái, Từ Nguyên Hiền lại cùng chuẩn bị, tính lên Kinh Châu phía bắc. Gặp lúc các huyện Thương Ngô, mọi Việt nổi lên như ong, châu phủ đổ nhào, đường sá cắt đứt, Nguyên Hiền bị hại, già trẻ đều bị giết. Tinh lần theo bờ mé, 500 dặm hơn, lại gặp đau ốm, bác gái mất mạng cùng với những người đi theo và vợ con, một lúc chết sạch. Lại phải bồng bế nhau, đi về phía trước thì đến quận này" (tức Giao Chỉ). Vậy ngay năm 195, ở Thương Ngô đã xảy ra cuộc khởi nghĩa của những người Việt, "lật nhào châu phủ", thì không biết thái thú lúc ấy Sử Hoàng hay một người khác nữa. Nay cứ tạm cho là Sử Hoàng vẫ làm thái thú_1.
Sau khi Mâu Tử từ chối làm quan, Sử Hoàng lại nhờ Mâu Tử đi Kinh Châu để "trí kinh". Truyện Lưu Biểu trong Ngụy chí 6 tờ 12a1-b2 nói Lưu Biểu làm thứ sử Kinh Châu từ năm 190.
Hiến đế kỷ trong Hậu Hán thơ 9 tờ 2b13 đều nói thái thú Trường Sa Tôn Kiên giết thứ sử Kinh Châu Vương Duệ vào mùa đông năm Sơ Bình thứ nhất (190), trong khi truyện Lưu Biểu cũng của Hậu Hán thơ 104 hạ tờ 7a13-8a2 lại nói: "Năm Sơ bình thứ nhất thái thú Trường Sa Tôn Kiên giết thứ sử Kinh Châu Vương Duệ, chiếu thư lấy Biểu làm thứ sử Kinh Châu". Truyện Biểu trong Ngụy chí 12 tờ 12a1 cũng nói thế. Truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 7a13-8a10 lại cho biết thêm Lưu Biểu đã từng có ý đồ riêng đối với Giao Châu, để sau này khi Trương Tân chết vào khoảng năm 205, Biểu đã cử Lại Cung đến thế Tân làm thứ sử, dẫn tới việc Tào Tháo coi Biểu là một tên "nghịch tặc".
Trước đây, vì ý đồ và hành động dòm ngó của Lưu Biểu, cộng thêm với việc coi câu nói của Tôn Sách trong Giang biểu truyện về Trương Tân chứ không phải về Chu Phù, Fukui_2 đã giải thích sự kiện thái thú Thương Ngô nhờ Mâu Tử đi "trí kinh" Kinh Châu, chính là đi "trí kinh" Lưu Biểu. Giải thích này không phải là không có những khó khăn của nó. Lý do là vi phần tự truyện của Lý hoặc luận nói việc Mâu Tử trở về Thương Ngô lấy vợ và được thái thú nhờ đi "trí kinh" Kinh Châu là phải xảy ra "trước lúc đó" (tiên thị thời), tức trước lúc Linh đế băng hà. Linh đế băng hà vào ngày Bính Thìn tháng tư năm Trung Bình thứ 6 (189). Vậy nếu Mâu Tử có được nhờ đi trí kinh Kinh Châu, thì cũng phải được nhờ vào khoảng trước năm 189. Mà năm này Vương Duệ chắc chắn phải còn làm thứ sử Kinh Châu, vì Duệ đến tháng 10 năm Sơ Bình thứ nhất (190), tức hơn một năm sau mới bị Tôn Kiên giết. Cho nên, không thể có chuyện Mâu Tử được nhờ đi Kinh Châu để "trí kinh" Lưu Biểu. Khi Biểu tới nhận chức, tình hình Kinh Châu cực kỳ rối loạn, đến nỗi "Biểu không thể đến được, bèn một ngựa vào Kinh Thành, cho mời Bằng Việt ngưòi Nam Quận, Thái Mạo người Tương Dương, cùng đến định mưu kế hoạch", như truyện Biểu trong Hậu Hán thơ 104 hạ tờ 8a3-5 đã ghi. Phải trải qua hơn 8 năm, sau khi đã dẹp bọn giặc Tôn, giết Tôn Kiên và Trương Sa Trương Tiện đem ba quận Linh Lăng, Quế Dương phản, Biểu sai lính đánh vây, phá Tiện, bình định được, do thế mở đất rộng ra, nam tiếp với Ngũ Lĩnh, bắc cứ Hán Xuyên, đất đai mấy ngàn dặm, quân đội mười vạn hơn.
Thế có nghĩa phải đến năm 198, tức hơn 8 năm sau khi nhậm chức, Kinh Châu của Lưu Biểu mới ổn định. Và đặc biệt vào những năm đầu, nhất là năm 190, khi mới đến, tình hình quá phức tạp đến nỗi Biểu phải "đơn mã" vào Nghi Thành, thì việc "Trí kinh Lưu Biểu" do thái thú Thương Ngô nhờ Mâu Tử không thể nào xảy ra được. Chính vì thế, việc đi "trí kinh" này, một mặt phải xảy ra trước năm 189, như tự truyện của Lý hoặc luận đã ghi, và mặt khác nhân vật được "trí kinh" không phải là Lưu Biểu, mà là Vương Duệ. Dẫu sao đi nữa, Mâu Tử đã không đi trí kinh Kinh Châu, và sau khi cưới vợ ở Thương Ngô đã đem vợ trở về Giao Chỉ để ở với mẹ mình.
Việc đem vợ trở về nay hẳn đã diễn ra trước những năm 189. Đây là thời điển bùng nổ hiện tượng các "dị nhân phương Bắc" đổ về nước ta để tránh nạn và đua nhau "thực hành thuật thần tiên tịch cốc trường sinh" đến nỗi Mâu Tử phải đóng vai Mạnh Kha chống lại phong trào học tập học thuật ấy như ta sẽ thấy ở dưới đây. Đó đồng thời cũng là lúc Chu Phù tiếp xúc với Mâu Tử, dẫn tới việc nhờ vả Mâu Tử sau này trong vụ Chu Hạo bị Trức Dung giết ở Dự Chương. Thế Chu Phù đến làm thứ sử nước ta lúc nào?
Hậu Hán thơ 63 tờ 1a6-6b5 có chép lại truyện của một người tên Chu Phù. Nhưng Chu Phù đây là đại tư không Chu Phù thời Lưu Tú, chứ không phải là Chu Phù làm thứ sử nước ta. Lá sớ của Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ 7b7-10 ngược lại có ghi tên một Chu Phù làm thứ sử Giao Châu, gốc người Cối Kê và có những "hương nhân" như Ngu Bào, Lưu Ngạn, Lưu Ngạn này, phần tự truyện của Lý hoặc luận có nhắc tới như kỵ đô uý Lưu Ngan và được Giao Châu mục giao cho nhiệm vụ mang quân qua Dự Chương đánh trả trung lang tướng Trức Dung để trả thù cho việc Dung đã giết "Người em của Châu mục" (Mục đệ) lúc ấy đang làm thái thú Dự Chương.
Chuyện của Trức Dung trong Hậu Hán thơ 103 tờ 11a3-12 và trong Ngô chí 4 tờ 2a 10-38 có chép việc Dung giết "Quận thú Dự Chương Chu Hạo" Và việc này phải xaỷ ra giữa những năm 193 và 194. Lý do là vì truyện Đào Khiêm trong Hậu Hán thơ 103 tờ 10b7-11a3 nói: "Năm Sơ Bình thứ 4 (193) Tào Tháo đánh Khiêm, phá huyện Phó Dương của Bành Thành. Khiêm lui giữ Diệm, Tháo đánh không thể thắng, bèn trở về đi qua đánh lấy Thủ Lự, Thư Lăng, Hạ Khưu, đều giết hết, phàm giết trai gái mấy chục vạn người, gà chó không còn. Sông Tứ vì thế không chảy (...) Hưng Binh năm thứ nhất (194) Tào Tháo lại đánh Khiêm, lược định Lang Nha, Đông Hải các huyện, Khiêm sợ không thoát, muốn chạy về Đan Dương (...). Năm đó Khiêm bệnh chết".
Trong khi đó, truyện Trước Dung lại chépl: "Đến khi Tào Tháo đánh Khiêm, vùng Từ không yên, Dung bèn đem trai gái vạn người, ngựa ba nghìn con, chạy đến Quảng Lăng. Thái Thú Quảng Lăng Triệu Dục dùng tân lễ đãi Dung. Dung ham lợi của cải của Quảng Lăng, bèn thừa lúc say rượu giết Dục, thả lính cướp hết, nhân đó qua sông chạy về ở Dự Chương, giết quận thú Chu Hạo, vào chiếm lấy thành. Sau bị thứ sử Dương Châu Lưu Do đánh bại. Dung chạy vào trong núi, bi người ta giết".
Truyện Do trong Hậu Hán thơ 106 tờ 14b8-11 nói: "Trong khoảng Hưng Bình Do làm chấn uy tướng quân Dương Châu Mục. Bấy giờ Viên Thuật chiếm Hoài Nam Do bèn dời đến ở Khúc A. Gặp lúc Trung Quốc tán loạn, sĩ phu phần lớn chạy về nam. Do nhận tiếp đãi nuôi dưỡng, cùng họ lo lắng, rất được tiếng khen. Viên Thuật sai Tôn Sách đánh thắng Do. Do nhân thế chạy đến Dự chương, bệnh chết". Truyện Do trong Ngô Chí 4 tờ 2a3-10 nói chi ly hơn: "Tôn Sách vượt sông về đông, đánh Trương Anh và Phàn Năng v.v... Lưu Do tới Đan Đồ, rồi qua sôg về nam giữ Dự Chương, đóng ở Bành Trạch. Trức Dung đến trước, giết thái thú Chu Hạo, vào ở trong quận. Do tiến quân đánh Dung, bị Dung đánh bại, lại tập hợp các huyện thuộc quyền mình đánh Dung. Dung bại, chạy vào núi, bị dân giết"
Còn Hậu Hán thơ 9 tờ 5b10 dưới mục năm Hưng Bình thứ nhất (194) viết: "Năm đó thứ sử Dương Châu Lưu Do cùng với tướng Viên Thuật là Tôn Sách đánh ở Khúc A, quân Do Bại tích, Tôn Sách chiếm cứ Sơn Đông".
Bùi Tùng Chi lại dẫn Giang biểu truyện chú thích truyện Tôn Sách, nói Sách "Vượt sông" đánh Lưu Do vào năm Hưng Bình thứ 2 (195). Điều này có nghĩa là Do đến Dự Chương không thể chậm hơn 195. Chính tại Dự Chương này, Do hẳn đã đánh Trức Dung. Do thế, Trức Dung có thể bị đánh và sau chết năm 195. Cho nên, việc Dung đánh Chu Hạo không thể xảy ra chậm hơn năm 195 và có khả năng xảy ra vào năm 194, vì đó là năm Tào Tháo đánh Đào Khiêm tại hai quận Bành Thành và Hạ Bì do Dung cai trị. Từ âý Dung chạy qua Quảng Lăng giết Triệu Dục, rồi đến Dự Chương giết Chu Hạo. Việc Hạo chết phải xảy ra như thế vào khoảng năm 194 đã gây cho Chu Phù "nỗi đau cốt nhục, uất phát tim gan", khiến Phù phải sai kỵ đô uý Lưu Ngạn đen quân trả thù và nhờ Mâu Tử đi mở đường.
Vào khoảng những năm 193-195 Chu Phù đã có mặt tại nước ta với tư cách châu mục. Thế Phù đến nước ta lúc nào? Năm 178, cha của Chu Phù là Chu Tuấn đã được cử làm thứ sử Giao Chỉ để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Lương Long. Đến năm 184 Giả Tôn lại được cử làm thứ sử để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa cuả Trụ Thiên tướng quân. Đó là theo truyện của Chu Tuấn và Giả Tôn trong Hậu Hán thơ 101 tờ 7b1-9 và 61 tờ 14a1-b1. Ba năm sau, Giả Tôn được gọi về, tức năm 186. Cứ truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô Chí 4 tờ 7a5-11 nói thì em Sĩ Nhiếp là Sĩ Nhất đã quen biết Đình Cung khi Cung làm thứ sử Giao Chỉ. Cứ Linh đế kỷ của Hậu Hán thơ 8 tờ 11b2 và 12b8, tháng 5 năm Trung Bình thứ 4 (187) Đinh Cung làm tư không, tháng 8 năm sau (188) cung được cử làm tư đồ. Như thế, nếu Cung có làm thứ sử Giao Chỉ, thì cũng chỉ làm trong một thời gian ngắn, tức khoảng giữa năm 186 đến giữa năm 187.
Chính trong thời gian ấy, cũng theo truyện của Giả Tôn đã xảy ra một cuộc "sa thải thứ sử hai ngàn thạch, lại chọn các quan lại trong sạch có khả năng". Hẳn qua cuộc thanh lọc này, Chu Phù như một thành phần quan lại trẻ đã được đề bạt làm thứ sử Giao chỉ. Hơn nữa, đó cũng là thời điểm cha của Phù là Chu Tuấn đang có uy tín lớn do những chiến công trong việc đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân và các cuộc khởi nghĩa khác như Trương Phi Yến, Trương Bạch Kỵ v.v... Đến lúc Đổng Trác nắm quyền vào tháng 8 năm Trung Bình thứ 6 (189), sau cuộc nổi loạn Thập thưòng thị của Trương Nhượng Đoàn Khuê, Chu Tuấn đã được Trác mời làm phó tướng quốc cho Trác, nhưng Tuấn từ chối. Đào Khiêm, Khổng Dung và những người khác đã tôn Tuấn làm thái sư để đánh Trác. Chưa thực hiện, thì Vương Doãn đã giết Trác vào tháng tư năm Sơ Bình thứ 3 (192). Tháng 5 sau (193) Chu Tuấn được trưng bày làm thái uý. Tháng 7 năm Hưng Bình thứ nhất (194) miễn làm thái uý, trao lại cho Dương Bưu, Tuấn được chiếu cùng Dương Bưu và 10 người khác đi hòa giải Lý Thôi Quách PHiếm. Năm đó Tuấn mất.
Vậy Chu Phù hẳn đã đến làm thứ sử nước ta khoảng năm 187 trở đi, cho Đinh Cung về Lạc Dương làm tư không. Điểm đáng nói là truyện Chu Tuấn trong Hậu Hán thơ 101 tờ 11a10-11, sau khi Chu Tuấn mất đã viết: "Con Hạo cũng có tài hạnh, làm quan đến thái thú Dự chương". Thế phải chăng Chu Phù không phải là con của Chu Tuấn? Tất nhiên, việc Phạm Việp không kể tên Chu Phù vào những người con của Tuấn không có nghĩa Phù không phải là con Tuấn, mà chỉ phản ảnh một quan điểm đánh giá lịch sử đối với từng nhân vật như chính Việp đã chủ trương trong lời Tư tự của mình là "dĩ văn truyền ý" Ý của Phạm Việp thế nào, để dẫn đến việc loại bỏ tên Chu Phù, chúng ta ngày nay khó có thể biết được.
Nhưng cứ vào câu nói của Tôn Sách dẫn trước về sự kiện Phù "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia, thường mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục", ta có thể đoán ra một phần nào. Đó là việc Phù đã chối bỏ toàn bộ hệ ý thức, mà ông có chức năng phải đại diện, để đi theo Phật giáo, và quan hệ thân thiết với những phần tử, mà "đám thế tục" cho là "quay lưng với năm kinh, mà đi theo đạo khác", như là Phật tử Mâu Tử. Một khi đã thế, có thể trong quan điểm của Việp, Phù không còn xứng đáng để ghi vào sử sách Trung Quốc, đặc biệt ghi vào bản tên những người con của một danh tướng như Chu Tuấn, mà Việp bình luận là "đem thao lược cuả thượng tướng, nhân đánh dẹp vào lúc thảng thốt, đến khi công thành quân thắng, tiếng uy đồn thiên hạ..." (Hậu Hán thơ tờ 11a 12-b1)
Như thế, Chu Phù sang làm thứ tử Giao Châu khoảng những năm 187-188. Năm sau khi đem vợ từ Thương Ngô về Giao Chỉ, Mâu Tử đã gặp Chu Phù, một con người "ưu văn xử sĩ" biết trân trọng chất xám nhân tài và có ý mời Mâu Tử làm quan. Một lần nữa ông lấy cớ bệnh tật, mà không ra (xưng tật bất khởi). Tuy nhiên, một quan hệ tốt đẹp đã được duy trì giữa hai người. Và quan hệ này đã trở nên gắn bó hơn, khi Phù thực hiện việc "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia" để đọc sách "đạo tà tục" của Phật giáo, để đi theo Phật giáo và sống đời sống cuả một Phật tử. Chính việc ấy của Chu Phù đã tạo môi trường thuận lợi cho mối quan hệ mật thiết giữa hai ngưòi, mà sau đó Mâu Tử phải thú nhận là đã diễn ra trong một thời gian dài (bị mạt phục dịch, kiến ngộ nhật cửu).
Thời gian dài này có thể đôi ba năm hay hơn nữa, Mâu Tử tuy không ra làm quan, Chu Phù vẫn đãi ngộ một cách trọng hậu. Điều này có nghĩa dù không công khai cộng tác, Mâu Tử vẫn có quan hệ với Phù. Quan hệ này do thế phải dựa trên một cơ sở riêng tư, cơ sở niềm tin Phật giáo, mà cả hai người đều chia sẻ. Cho nên, khoảng những năm 193, 194, khi em mình là Chu Hạo bị Trức Dung giết ở Dự Chương, Chu Phù liền sai kỵ đô úy Lưu Ngạn đến đó, song sợ cõi ngoài nghi nhau, binh không được tiến. Châu mục bèn mời Mâu Tử nói: "Em ruột bị nghịch tặc giết hại, nỗi đau cốt nhục, uất phát tim gan, phải sai Lưu Đô úy đi nhưng sợ cõi ngoài nghi ngờ, người đi không thông. Ngài văn võ gồm đủ, có tài chuyên đối phó. Nay muốn giúp nhau, mượn đường Linh Lăng Quế Dương, lộ trình được thông suốt (Ngài nghĩ) thế nào?" Mâu Tử trả lời: "Chịu nhờ ơn nghĩa, đãi ngộ lâu ngày, liệt sĩ quên mình, hẹn dứt khoát ra đi". Thế là dù không làm quan với Chu Phù, khi Phù có việc nhờ vả, Mâu Tử đã nồng nhiệt đáp ứng. Sự tình này cho phép ta giả thiết Mâu Tử và Chu Phù đã có những quan hệ thân tình đặc biệt, vượt ra ngoài quan hệ bình thường cấp trên cấp dưới. Không những thế, Chu Phù đánh giá cao khả năng của Mâu Tử, một người "văn võ kiêm bị, có tài chuyên đối". Và thực tế, việc Mâu Tử đem mẹ từ Thương Ngô xuống ty thế ở nước ta, rồi về Thương Ngô lấy vợ, chứng tỏ ông là người có khả năng như thế. Cho nên, việc mượn đường để dẫn quân đi, trong tình hình các địa phương châu quận nghi ngờ nhau, Chu Phù tất phải chọn một nhân vật tầm cỡ "văn võ kiêm bị, có tài chuyên đối" mới thực hiện chu toàn nhiệm vụ, Phù đã chọn Mâu Tử và mời (thỉnh) ông.
Quả vậy, con đường từ nước ta đi lên phía bắc Trung Quốc, khoan nói tới tình hình chính trị bất ổn "châu quận nghi nan" thời Chu Phù, đã đưa ra không ít khó khăn cho những ai không thông thuộc nó. Truyện Trịnh Hoằng trong Hậu Hán thơ 63 tờ 12b11-13a3 nói: "Năm Kiến Sơ thứ 8 (83) Hoằng sai Trịnh Chúng làm đại tư nông. Ngày trước bảy quận Giao Chỉ cống hiến, chuyển vận đều do Đông dã vượt biển mà đến, sóng gió gian hiểm, chết chìm nối nhau. Hoằng tâu mở đường núi Linh Lăng Quế Dương, do thế suốt thông, đến nay trở thành thường lộ". Con đường Linh Lăng Quế Dương, mà Chu Phù nhờ Mâu Tử đi mượn, chính là con đường này. Tuy gọi là "suốt thông" (di thông) và "thường lộ", nó không phải không đầy hiểm nguy và trắc trở.
Chỉ cần đọc lại truyện Hứa Tinh trong Thục chí 9 tờ 2a12-b3, chúng ta không cần đợi lâu để thấy thực tế đó xảy ra ngay vào thời Mâu Tử. Hứa Tinh kể sau khi Vương Lăng thât thủ ở Cối Kê vào năm 195, Hứa Tinh đã cùng gia đình thân thuộc với một số bạn bè như Viên Bái, Từ Nguyên Hiền xuống thuyền chạy về nam. Đến Quảng Châu, được tin Tào Tháo phò Hiến Đế, Tinh bèn tìm đường trở về bắc. Đến Thương Ngô, gặp "mọi Việt" (di Việt) khởi nghĩa đánh Thương Ngô. Một số thân thuộc và bạn bè bị mất mạng. Tinh bấy giờ mới tìm đường xuôi về Nam, đến nước ta. Rõ ràng con đường lên phía Bắc không phải bình thường chút nào, vào thời Mâu Tử. Nó không phải là một "thường lộ" như Phạm Việp đã nhận xét vào thời mình, mà đầy bất trắc và hiểm nguy chết người.
Ngay hai chục năm sau khi Trịnh Hoằng mở đường, vào năm Nguyên Hưng thứ 1 (106) trưởng huyện Lâm Vũ là Đường Khương, nhân việc "lệ cũ Nam Hải dâng long nhãn, lệ chi, 10 dặm đặt một trí, 5 dặm đặt một hầu, đi lại hiểm trở, người chết nối nhau dọc đường. Bấy giờ trưởng huyện Lâm Vũ là Đường Khương, người Nhữ Nam, có huyện mình tiếp giáp với Nam Hải, bèn dâng thơ bày tỏ tình trạng, vua xuống chiếu, nói: "Vật quí lạ nước xa vốn để dâng cúng tôn miếu. Nếu có thương hại, há đó là gốc thương dân. Ra lệnh thái quan không được nhận đồ dâng". Đó là theo Hậu Hán thơ 4 tờ 15b8-b1 do Phạm Việp ghi lại.
Chú thích đoạn văn vừa dẫn ở tờ 15a1-5, Lý Hiền đã cho dẫn Hậu Hán thơ của Tạ Thừa nói càng rõ hơn: "Đường Khương tự là Bá Du, giao việc công, bổ làm trưởng huyện Lâm Vũ. Huyện tiếp Giao Châu. Xưa dâng long nhãn, lệ chi và đồ tươi sống. Dâng rồi, ngày đêm chạy ngựa chuyển đưa, đến nỗi có người gặp cọp sói độc hại gục ngã tử vong không dứt. Con đường đi qua Lâm Vũ. Khương bèn dâng thơ can vua nói: "Thần nghe trên không lấy việc nếm mùi ngon làm đức, dưới không đem việc dâng thức ngon làm công. Nên thiên tử ăn thì thịt bê là cao nhất, không lấy quả hạt làm quí. Nép thấy bảy quận Giao Chỉ dâng long nhãn tươi v.v... thì chim sợ, gió nổi. Đất đai nam châu, trùng độc thú dữ không hết ở dọc đường đến nỗi xúc phạm, gây hại chết chóc. Người chết rồi thì không thể sống lại, nhưng kẻ sắp chết thì có thể cứu được. Hai món ấy (tức long nhãn và lệ chi) dâng lên đền thì vua chưa chắc dài năm thêm thọ" Vua nghe theo.
Ngay trong giai đoạn đang còn tương đối ổn định như thế, và chỉ cách thời gian Trịnh Hoằng mở đường mới 20 năm, mà con đường Quế Dương Linh Lăng đi từ nước ta đã gây ra không biết bao nhiêu chết chóc kinh hoàng, đến nỗi một ngưòi huyện trưởng có lương tri như Đường Khương phải viết thư xin bỏ lệ cống long nhãn lệ chi của Giao Chỉ. Huống nữa là đến giữa những năm 193-195, khi toàn bộ đất nước Trung Quốc đang kinh qua một loạt các bạo loạn và khởi nghĩa khắp nơi. Từ Viên Thiệu, Viên Thuật, Tào Tháo phía Bắc, đến Tôn Sách, Tôn Quyền phía Nam, Trương Hổ, Hàn Toại, Mã Đằng, Mã Siêu và Lưu Bị phía tây. Trung Quốc đang sục sôi trong biến động.
Cho nên, để thực hiện việc đưa quân lên Dự Chương, nhằm trả thù cho Chu Hạo, Chu Phù phải nhờ đến Mâu Tử. Trong khi Mâu Tử chuẩn bị lên đường, thì mẹ mất. Thế là ông phải ở nhà chịu tang và cuộc hành trình lên phía Bắc từ đó không thành. Sự thật, không hẳn chỉ vì tang mẹ, mà Mâu Tử đành đình chỉ cuộc đi. Thực tế, vào thời ông có những người có tang cha hay tang mẹ, mà vẫn tiếp tục thi hành nhiệm vụ do tình hình chính trị hay quân sự cấp bách đòi hỏi, chứ không ở nhà cư tang. Ta có trường hợp điển hình Ngu Phiên, mà Ngô chí 12 tờ 1a8-9 đã ghi lại.
Ngu Phiên làm công tào cho Vương Lãng ở Cối Kê. Khi Tôn Sách vựơt sông tiến đánh. Lăng thất thủ xuống thuyền cùng bạn bè như Hứa Cống định chạy về nam đến nước ta. Ngu Phiên dù cha vừa mất cũg xuống thuyền đi theo, bàn với Lãng không nên chạy về Giao Chỉ. Lãng nghe theo, lên phía bắc đầu quân với Tào Tháo. Còn Ngu Phiên bèn trở về Diêu Du tiếp tục cư tang cha, rồi sau này ra làm việc với Tôn Sách và Tôn Quyền. Điều này rõ ràng chứng tỏ dù có tang cha hay mẹ, khi việc nước cấp bách, người ta phải tạm lo việc nước trước, rồi sau mới tính đến chuyện để tang. Cho nên, nếu công tác tiến quân đi Dự Chương có tính cấp bách, hẳn Mâu Tử có thể tạm thời hoãn việc cư tang, để thi hành nhiệm vụ mà Chu Phù đã nhờ vả ông đã hứa với lời hứa: "Liệt sĩ quên mình, hẹn dứt khoát ra đi" (Liệt sĩ vong thân, kỳ tất sinh hiện).
Song, khi xảy ra tang mẹ, tính cấp bách của việc tiến quân đi Dự Chương có lẽ không còn nữa, nên Mâu Tử quyết định ở nhà cư tang. Cuộc đi lên phía Bắc do thế không thành. Lý do cho sự mất tính cấp bách này, ngoài việc cư tang mẹ của Mâu Tử về mặt khách quan, ta có thể truy ra ít nhất về hai biến cố, tác động trực tiếp đến quyết định của Mâu Tử và Chu Phù chuẩn bị xong quân đội và phương tiện, họ chắc đã nhận được tin Trức Dung đã bị giết, nên không còn lý do chính đáng để ra đi. Thứ hai, cũng trong khoảng năm 195 người Việt ở Thương Ngô đã khởi nghĩa, chận đường về bắc của Hứa Tinh. Tình hình Thương Ngô, cửa ngõ đi lên phía Bắc không an toàn. Do thế, Mâu Tử có thêm lý do để đình chỉ.
Ngoài ra, về phía chủ quan của bản thân Chu Phù, theo Tôn Sách ta biết Phù "cuối cùng bị man di giết", như Giang biểu truyện nói, mà Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12a5-11 và Lý Hiền dẫn trong Hậu Hán thơ 60 hạ tờ 19b11-20a3, song không biết tại sao truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 7a9 cũng nói Phù bị đánh "chạy vào biển" nhưng không nói lý do. Lá sớ của Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ 7b7-10 mới nói rõ cho biết Chu Phù tin dùng đám người cùng quê với mình (hương nhân) như Lưu Ngạn sách nhiễu dân chúng, đánh thuế quá cao. Do thế, dân chúng cuối cùng đã nổi lên đánh đuổi Chu Phù phải chạy vào biển mà chết: "Lại cố thứ sử Chu Phù đất Cối Kê phần nhiều dùng người cùng quê là bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân làm trưởng lại, xâm ngược bá tánh, ép thuế lân dân. Cá vàng một con, thâu thuế gạo một hộc. Bá tánh oán phản, giặc núi cùng nổi lên đánh phá châu quận. Phù chạy vào biển lưu lạc chết mất".
Như vậy, bản thân Chu Phù lúc ở nước ta vẫn có nhiều vấn đề, mà một trong đó là sự tin dùng hương nhân của Phù và sự sách nhiễu của đám này. Có thể là một trong những lý do tại sao Mâu Tử đã không chịu ra làm quan với Chu Phù, dù Phù vẫn đối đãi trọng hậu với Mâu Tử. Dẫu không làm việc với Phù, ông hẳn đã tham mưu cho Phù nhiều việc, đặc biệt là việc "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia", để đi theo Phật giáo của Phù. Sự việc này cho phép chúng ta khẳng định chính quyền Chu Phù Sĩ Nhiếp trong khoảng những năm 187-197 là một chính quyền độc lập thực sự Việt Nam mang tính Phật giáo. Có thể nói đó là chính quyền Phật giáo Việt Nam đầu tiên được thành lập. Nói là một chính quyền Việt Nam, vì người đứng đầu chính quyền này, dù thuộc Hán tộc, đã "bỏ pháp luật cuả Hán gia", do thế phải dùng tới pháp luật của người Việt hay Việt Luật. Và là một chính quyền mang tính chất Phật giáo, vì người đứng đầu ấy đã "vứt điển huấn của tiền thánh" người Hán, do thế tất phải dùng điển huấn của người Việt. Mà điển huấn của người Việt lúc đó đã được hoá thân trong điển huấn của Phật giáo. Dù chính quyền Chu Phù là một chính quyền Việt Nam độc lập và Phật giáo như vậy, Mâu Tử vẫn không ra phò trì. Lý do bây giờ đã rõ. Đó là sự có mặt của đám hương nhân cuả Chu Phù, một đám hương nhân chỉ biết đi sách nhiễu và gây bất mãn trong dân chúng bằng sưu cao thuế nặng. Đám này vào khoảng năm 195, để có tiền và lương cho việc chuẩn bị gởi quân đi Dự Chương, hẳn đã đặt ra nhiều loại thuế, cụ thể là việc một con cá chép lấy một hột gạo, mà Tiết Tôn đã nói tới, là một thí dụ điển hình. Chính những loại thuế như thế này đã gây phẩn nộ trong dân, dẫn cuối cùng tới việc đánh đuổi không chỉ đám hương nhân này, mà cả Chu Phù nữa.
Điểm khá lý thú là trong khi Chu Phù bị đánh đuổi, Sĩ Nhiếp với tư cách là thái thú của quận Giao Chi vẫn tiếp tục công việc cai trị của mình, coi như không có một sự biến gì xảy ra. Truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 8b3-4 nói Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ "hơn bốn mươi năm" tức khoảng giữa những năm 185-226. Trong hơn bốn mươi năm này, nó cũng nói tiếp "cương trường vô sự", nghĩa là không có sự việc gì đáng kể đã xảy ra. Do thế, việc đánh đuổi Chu Phù và đám hương nhân hẳn không phải là một biến cố gì ghê gớm và chắc chắn có sự tham gia của Nhiếp. Bởi nếu Nhiếp không tham gia, thì khi Chu Phù bị đánh đuổi, chính quyền của Nhiếp tất không thể tồn tại.
Sự tình này cho phép ta rút ra một kết luận khá lôi cuốn về các chính quyền thứ sử và thái thú Trung Quốc ở nước ta, sau năm 43 sdl khi Hai Bà Trưng bị đánh bại và trước khi Chu Phù Sĩ Nhiếp dựng nên một chính quyền Việt Nam độc lập. Đó là sự tồn tại một hệ thống chính quyền hai đâù, một đầu do các quan lại Trung Quốc bổ nhiệm sang, và một đầu do chính các quan lại người Việt nắm giữ. Hệ thống chính quyền do các quan lại người Việt nắm giữ. Hệ thống chính quyền do các quan lại người Việt nắm giữ đóng vai trò ngưòi đại diện và bảo vệ thực sự quyền lợi cuả ngưòi Việt, còn hệ thống thứ sử và thái thú Trung Quô1c chỉ đóng vai trò tượng trưng cho quyền hành Trung Quốc. Và vai trò này trong thời gian từ năm 43 đến năm 43 đến năm 190, tức 150 năm, các quan lại Trung Quốc đã không thực hiện một cách nghiêm túc, như ta sẽ thấy dưới đây, đến nỗi Tiết Tôn phải than là "trưởng lại đặt ra, tuy có cũng như không".
Tới đây, ta thấy khi mất mẹ vào khoảng năm 195 và cư tang với một thời gian lâu (cửu chi) cho tới lúc Chu Phù bị đánh đuổi vào khoảng năm 197 và cũng là lúc Mâu Tử vừa cư tang mẹ xong. Mâu Tử đi đến một quyết định là không bao giờ ra làm quan nữa. Quyết định này được đưa ra qua một phân tích tỉ mỉ tìn hình chính trị thời ông và một sự cân nhắc kỹ càng và những mặt lợi hại. Mâu Tử viết: "Lâu (sauS) đó rút lui nghĩ rằng: "Vì lý do thông giỏi, mà được giao sứ mạng, nay đời nhiễu nhương, chẳng phải là lúc làm rõ mình". Bèn than nói: "Lão Tử dứt thánh bỏ trí, sửa thân, giữ chân, muôn vật không ngăn chí ông, thiên hạ không đổi niềm vui của ông, thiên tử không được bề tôi, chư hầu không được kết bạn, nên mới có thể quí". Do thế, ông dốc chí vào đạo Phật, gồm nghiền ngẫm Lão Tử năm ngàn lời, ngậm huyền diệu làm rượu ngon, chơi năm kinh làm đàn sáo. Bọn thế tục phần nhiều cho không phải, cho ông quay lưng với năm kinh mà đi theo đạo khác".
Viết như thế, phải chăng Mâu Tử muốn nó sau ba năm cư tang mẹ xong, nhân lúc Chu Phù bị đánh đuổi phải chạy vào biển, Mâu Tử mới "đi theo đạo khác", mới đi theo Phật giáo? Nghĩa là, phải chăng Mâu Tử đi theo Phật giáo vào khoảng năm 197? Tất nhiên là không phải. Năm 197 đấy là thời điểm ông "dốc chí vào đạo Phật" (nhuệ chí ư Phật đạo) chứ không phải bắt đầu tin hiểu và đi theo Phật giáo, như chính ông đã xác nhận. Vậy, ông bắt đầu theo Phật giáo từ bao giờ và tại sao ông đi theo Phật giáo? Đây là những câu hỏi khó trả lời nhất, đặc biệt là trả lời một cách chính xác và có cơ sở, do tình hình tư liệu hạn chế và thiếu thốn.
Tuy nhiên, nếu phân tích những gì chính Mâu Tử ghi lại trong Lý hoặc luận, ta có thể biết một phần nào câu trả lời cho những vấn nạn vừa nêu. Mở đầu phần tự truyện, Mâu Tử nói:
"Mâu Tử đã học kinh truyện, chư tử, sách không kể lớn nhỏ, không có gì là không ham. Tuy không thích binh pháp, song vẫn đọc. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, dẹp mà không tin, cho là dối trá". Thế là khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã đọc kinh truyện, chư tử cùng binh pháp và sách thần tiên bất tử. Vậy, Mâu Tử bắt đầu học kinh truyện, chư tử từ bao giờ?
Điều 14, 25 và 31 xác nhận là Mâu Tử đã học kinh truyện, chư tử cũng như binh pháp thần tiên, trướ khi ông biết đến Phật giáo. Điều 14 Mâu Tử viết: "Chúng ta tuổi trẻ học đạo Nghiêu Thuấn Châau Khổng, mà nay bỏ nó, lại học thuật mọi rợ, không lầm lắm sao? Chữ "tuổi trẻ" dùng ở đây để chỉ dịch chữ "nhược quán" của Mâu Tử. "Nhược quán" là "mũ yếu" . Theo Lễ ký con trai 20 tuổi làm lễ đội mũ, và mũ đây là thuộc dạng "mũ yếu". Cho nên, nói "Nhược quán", học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, Mâu Tử hẳn lúc đó đã 20 tuổi. Do đó, Mâu Tử viết thêm, sau câu vừa dẫn: "Đó là dư ngữ của tôi lúc chưa hiểu đạo lớn". Đạo lớn đây là Phật giáo. Vậy khoảng lúc 20 tuổi Mâu Tử biết đến sự có mặt của Phật giáo, những vẫn chưa chấp nhận đi theo, thậm chí còn công kích là mọi rợ là đằng khác.
Từ công kích, lại do thói ham đọc sách, "sách không kể lớn nhỏ, không sách gì là không thích", Mâu Tử tiến sâu vào việc tìm hiểu và đọc sách vở Phật giáo, mới phát hiện một sự thật. Đó là Phật giáo không phải là một đạo mọi rợ, mà còn là một thuật làm cho con người "thấy rộng" (kiến bác) Điều 25 Mâu Tử viết: "Thấy rộng có thuật không? Mâu Tử nói: Do kinh Phật.Tôi khi chưa hiểu kinh Phật, lầm còn hơn ông nhiều. Tuy đọc năm kinh, hợp lấy làm ha mà chưa nên quả. Đến khi tôi đã xem học thuyết của kinh Phật, ngắm yếu lý của Lão Tử, giữ tính điềm đạm, xét hạnh vô vi, rồi về trông sự đời, như đến trời cao mà ngó xuống hang suối, lên Tung Đại mà thấy gò đống vậy. Tôi từ nghe đạo đến nay, như vén mây thấy mặt trời tỏ, cầm đuốc vào nhà tôi vậy".
Vậy là từ một quan điểm cho Phật giáo là một "thuật của mọi rợ" (di dịch chi thuật), Mâu Tử đã tìm hiểu và cuối cùng thấy còn hơn cả đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng của Hoa Hạ nhiều. Trong thời gian chưa đi theo Phật giaó này, Mâu Tử, ngoài việc học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, còn tìm nghiên cứu thuật tịch cốc trường sinh thần tiên. Điều 31 Mâu Tử viết: "Khi tôi chưa hiểu đạo lớn, cũng thường học phép tịnh cốc. Phép tịnh cốc kể ra ngàn trăm thuật, thực hành không có hiệu quả, làm không có chứng nghiệm, nên tôi bỏ. Xem ba người thầy tôi theo học, hoặc tự xưng bảy trăm, năm trăm, ba trăm tuổi. Nhưng tôi theo họ học, chưa đầy ba năm, ai nấy đều chết hết. Sở dĩ như thế là do nhịn gạo không ăn, mà đi ăn trăm quả. Nhậu thịt thì nhiều mâm, uống rượu thì nghiêng vò, tinh loạn thần mờ, hơi gạo không đủ, tai mắt lầm lạc, dâm tà không kiêng. Tôi hỏi lý do vì sao. Đáp rằng: "Lão Tử nói: bớt đi lại bớt, cho đến vô vi. Trò nên ngày bớt". Nhưng tôi thấy thì ngày chỉ thêm, mà không bớt. Vì thế, ai nấy đều không biết mệnh, mà đã chết".
Rõ ràng trước khi đến với Phật giáo, Mâu Tử đã không những học đạo "Nghiêu Thuấn Châu Khổng" mà còn học cả thuật thần tiên cuả đạo giáo. Ông đọc "Thần thơ" 170 quyển của Can Cát, như điều 29 đã ghi, và bỏ 3 năm thực hành phép tịch cốc trường sinh bất tử. Như thế, nếu vào tuổi "nhược quán", tức 20 tuổi, đã học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, và ba năm dành cho phép tịch cốc và đọc "Thần thơ" 170 quyển, thì có khả năng. Đây là thời điểm ông chính thức theo Phật giáo, chứ không phải thời điểm ông biết Phật giáo, mà tới thời ông đã phát triển mạnh và bắt đầu thâm nhập vào cung đình.
Truyện Tương Giai của Hậu Hán thơ 60 hạ tờ 14b8-19a4 chép lại lá sớ do Giai gởi lên cho Hoàng đế vào năm Diên Hy thứ 9 (167) có đoạn viết: "Lại nghe trong cung dựng miếu thờ Hoàng Lão Phù Đồ". Đạo đó thanh hư quí chuộng vô vi, hiếu sinh ghét giết, bớt dục bỏ xa xỉ. Nay bệ hạ ham muốn không bỏ, giết phạt quá lẽ, đã trái với đạo ấy, há nhận được phước ư? Lại nói Lão Tử đi vào mọi rợ mà thành Phù Đồ. Phù Đồ không nghỉ ba đêm dưới cây dâu, vì không muốn lâu sinh ra tình ân ái. Thiên thần đem gái đẹp gởi đến, Phù Đồ nói:"Đó là túi da dầy máu". Bèn không thèm nhìn. Phù Đồ thủ nhất như vậy, mới có thể thành đạo. Nay bệ hạ, gái dâm, bà đẹp, vượt hết vẻ đẹp của thiên hạ, đồ ngon thức ngọt, chót hết mùi của thiên hạ, thì làm sao mà muốn như Hoàng Lão ư?
Điểm lôi cuốn của lá sớ không chỉ nằm ở chỗ xác nhận tình trạng đang phát triển mạnh mẽ của Phật giáo ở Trung Quốc, đang xâm nhập sâu vào đời sống của cung đình của tầng lớp thượng lưu, nó còn chứa đựng hai câu trích từ kinh Tử thập nhị chương, mà chính Mâu Tử có nêu đích danh trong điều 21 Lý hoặc luận của ông. Đó là "Phù Đồ không nghỉ ba đêm dưới cây dâu, vì không muốn lâu sinh ra ân ái. Thiên thần đem gái đẹp gởi đến, Phù Đồ nói: "Đó là túi dơ đầy máu". Bèn không thèm nhìn. Câu về gái đẹp, ngay từ thời Lý Hiền (657-685) chú thích Hậu Hán thơ, đã biết là một trích dẫn từ kinh Tứ thập nhị chương, nên mới chua: "Kinh Tứ thập nhị chương: thiên thần dâng gái ngọc cho Phật, Phật bảo: "Đó là túi da đầy mọi thứ dơ".
Nhắc tới kinh Tứ thập nhị chương ở đây gọi cho ta một nhận định khá thú vị về những kinh sách Phật giáo, mà Mâu Tử có thể tiếp xúc và tìm hiểu, trước khi trở thành một người Phật giáo. Tất nhiên, để trở thành một Phật tử, Mâu Tử phải tìm đọc nhằm biết Phật giáo là gì và tại sao có sự tồn tại của nó. Thực tế, như đã thấy trên, điều 14 xác nhận là trong khi theo học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, Mâu Tử đã biết đến Phật giáo. Nhưng do quan điểm Khổng Mạnh hẹp hòi và kỳ thị về việc "Lấy Hạ để biến Di", chứ chưa bao giờ có việc "Lấy Di biến Hạ", Mâu Tử đã cho Phật giáo là một thứ "thuật di địch" nên không đáng học tập.
Như vậy, trong giai đoạn đầu khi mới tiếp xúc với kinh sách Phật giáo, Mâu Tử còn bị quan điểm di địch lạc hậu của Khổng Mạnh khống chế. Dần dà về sau, do thính ham đọc sách, ông đã thoát ly khỏi sự khống chế của quan điểm di dịch sai lầm ấy và nhận chân được sự đứng đắn cao siêu của giáo lý Phật giáo, vượt lên trên những quan điểm Khổng Mạnh mang tính dân tộc hẹp hòi chủ quan. Quá trình vươn lên và vượt qua sự khống chế của Khổng Mạnh này chỉ có thể xảy ra sau ba năm theo học phép tịch cốc trường sinh của thuật thần tiên. Mà việc theo học thần tiên lúc đó đã trở thành một phong trào đang rầm rộ phát triển hẳn dưới sự lèo lái của Đổng Phụng với sự giúp đỡ ít nhiều để trả ơn của Sĩ Nhiếp do việc cứu sống Nhiếp tại nước ta.
Điều này có nghĩa, nếu Mâu Tử sinh vào khoảng năm 160, thì khoảng 178 đến 180 ông đã đem mẹ ông qua nước ta lánh nạn, để vào những năm trước sau 180 ông có dịp thấy được hào quang của đám thần tiên qua con người của Đổng Phụng lúc ấy đang sống ở Giao Châu. Từ đó, ông mới sẵn sàng dành ba năm của tuổi thanh xuân mình cho việc theo đuổi thực hành phép tịch cốc. Nhưng với cái chết của Phụng và "ba người thầy" của ông. Mâu Tử nhận ra tính "yêu vọng" của cái "đạo bất tử", giác ngộ được một sự thực là "con người đều phải chết, không ai có thể tránh được" (điều 37), do Phật giáo đem lại. Đây phải chăng là thời điểm Mâu Tử chính thức theo Phật giáo, sau những năm tháng tiếp xúc và tìm hiểu.
Đó là một có thể, đặc biệt nếu những nhận định trên của chúng ta về các hoạt động của Đổng Phụng được chấp nhận và nếu ta nhớ tới một biến cố Phật giáo có ý nghĩa lớn đang xảy ra ở Trung Quốc. Đó là việc vua Hoàng đế "trong cung dựng miếu thờ Hoàng Lão Phù Đồ", mà lá sớ viết năm Diên Hy thứ 9 (159) của Tương Giai nói tới. Phât giáo bây giờ đang trên đường trở thành một tôn giáo nhà nước qua sự tôn sùng công khai Phật giáo của người đứng đầu nhà nước ấy là Hoàng đế nhà Hán. Việc tôn sùng này tất nhiên phải tác động đến các hoạt động Phật giáo như dịch kinh, làm chùa, tổ chức lễ lược v.v... Cho nên, nếu những năm 181-183 Mâu Tử trở thành một Phật Tử ở nước ta, thì không có gì đáng ngạc nhiên lắm.
Thời gian sau khi theo Phật giáo này, Mâu Tử chắc tiếp tục đọc các kinh sách Phật giáo, mà chính ông ghi nhận là "quyển sổ kể tới vạn" (điều 5) trong đó "quyển lớn vạn lời trở xuống, quyển nhỏ ngàn lời trở lên" (điều 1). Những "cuốn kinh nhỏ" này có thể là kinh A ly niệm di, Sát vi vương, Kính diện vương v.v.... và cuốn lớn có thể là Lục độ tập kinh, Tạp thí dụ kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, Tứ thập nhị chương kinh v.v... Đặc biệt là cuốn Phật kinh chi yếu gồm 37 phẩm, mà Mâu Tử có niềm tôn kính và mến yêu lạ thường, để sau này khi viết Lý hoặc luận, ông đã lấy nó làm mẫu cùng với Đạo đức kinh của Lão Tử.
Từ sau năm 185 đến khoảng 187, ông trở về Thương Ngô cưới vợ. Đây phải nói là một "mối tình thế kỷ", bởi vì chỉ với một mối tình như thế, nó mới đủ sức mạnh thúc đẩy Mâu Tử vượt qua một khoảng không gian vời vợi từ nước ta về Thương Ngô, mà 10 năm sau Hứa Tinh trong lá thư viết cho Tào Tháo bảo là "hơn 5 nghìn dặm" và "đường thủy bộ không có, trạm ngựa cõi Giao dứt tuyệt", như Thục chí 8 tờ 2b3-5 đã ghi. Do thế, nếu Mâu Tử chỉ lấy vợ để có con, thì đã không cần phải trở về Thương Ngô làm gì. Nước ta thời ấy chắc không thiếu con gái cho Mâu Tử lấy. Việc về Thương Ngô vì vậy cho phép ta giả thiết Mâu Tử đã quen và yêu cô gái Thương Ngô trước khi đem mẹ đến nước ta. Và hẳn đã cùng cô hẹn ước thề nguyền.
Giả thiết này đưa ta đến ba nhận định lôi cuốn sau. Thứ nhất, vì đã yêu thương hẹn ước với một cô gái Thương Ngô, nên việc Mâu Tử đưa mẹ qua nước ta không thể trước 18 tuổi được. Năm Mâu Tử đưa mẹ xuống Giao Chỉ như thế có nghĩa là 178. Thứ hai, vì năm 178 này Mâu Tử chỉ đưa một mình mẹ xuống, điều ấy chứng tỏ cha Mâu Tử mất hay đã ly khai khỏi gia đình Mâu Tử. Thứ ba, để có thể tiến hanh cưới hỏi vợ mình ở Thương Ngô, phía nhà Mâu Tử cũng như nhà người vợ tương lai phải tối thiểu là khá giả về mặt kinh tế, nếu không nói là có tiếng tăm ở địa phương. Sự thật, khi Mâu Tử mới về Thương Ngô, thái thú Thương Ngô nghe tiếng sức học của Mâu Tử, đã đến thăm và mời Mâu Tử ra làm quan. Sự kiện này cho phép giả thiết gia đình Mâu Tử và có thể gia đình bên vợ là những vọng tộc của đất Thương Ngô, đến nỗi Mâu Tử chân ướt chân ráo từ Giao Chỉ tới đã có quan tâm vừa thấy của thái thú.
Chính tại Thương Ngô, sau khi từ chối ra làm quan, Mâu Tử được nhờ đi "trí kinh" Kinh Châu. Người nhờ đây là thái thú Thương Ngô, chứ không thể là thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp. Bởi vì thời gian này, tức khoảng năm 184-187 Giả Tôn và Đinh Cung đang làm thứ sử nước ta và Sỹ Nhiếp đang làm thái thú Giao Chỉ, thì bản thân Sĩ Nhiếp chưa có yêu cầu khách quan gì để tri "trí kinh" Kinh Châu cả. Trong khi đó, thái thú Thương Ngô lại có một yêu cầu như thế, bởi vì Thương Ngô tiếp giáp với đất của Kinh Châu là quận Quế Dương. Cho nên, để giữ cho quan hệ trị an giữa hai địa phương được tốt đẹp, thái thú Thương Ngô rõ ràng có một yêu cầu khách quan để đi "tri kinh" Kinh Châu.
Tất nhiên Mâu Tử lên Thương Ngô để cưới vợ. Vì thế, khi thái thú Thương Ngô nhờ ông đi "trí kinh" Kinh Châu và ông đã nhận lời, thì điều này không có nghĩa ông phải ra đi "trí kinh" từ Thương Ngô. Trái lại, ông phải đem vợ mình về Giao Chỉ để ra mắt mẹ và bà con ở Giao Chỉ. Chính trong khi đem vợ về Giao Chỉ ở với mẹ mình, và chuẩn bị lên Thương Ngô lại để thực hiện việc đi "trí kinh" Kinh Châu, Mâu Tử đã gặp Chu Phù khoảng những năm 187-189. Một lần nữa, Mâu Tử lại được Chu Phù mời ra làm quan. Vì từ chối không làm quan với Chu Phù, lẽ dĩ nhiên Mâu Tử không thể thực hiện việc đi "trí kinh" Kinh Châu được.
Dù không làm quan với Chu Phù, quan hệ giữa Phù và Mâu Tử vẫn thắm thiết và diễn ra trong một thời gian dài. Chữ mà Mâu Tử dùng để mô tả mối quan hệ này là "bị mạt phục lịch, kiến ngộ nhật cửu". Thế đã rõ, tuy không đáp lại lời mời làm quan, Mâu Tử vẫn có những ơn nghĩa với Phù. Trong những ơn nghĩa qua lại này nếu Mâu Tử "bị mạt phục lịch", thì hẳn Phù cũng nhận được những sự giúp đỡ khác của Mâu Tử, trong đó có cả việc giúp Phù "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia" và "đọc tà tục đạo thư". Nói cách khác, Mâu Tử đã lôi kéo Phù vào các sinh hoạt Phật giáo nước ta, tham gia các buổi thuyết giảng lễ lược v.v... Thông qua đó thực hiện chức năng "trợ hóa" sẵn có của Phật giáo, mà Tôn Sách bảo là chủ trương của Chu Phù đưa Chu Phù đi theo một lối sống mới.
Không chỉ Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia" để chấp nhận lối sống, mà Sĩ Nhiếp cũng thế. Truyện Sĩ Nhiếp của Ngô Chí 4 tờ 7a1-8b5 nói "Sỹ Nhiếp tự Uy Ngạn, người Quảng Tín, Thương Ngô, Tổ tiên vốn người Mẫn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng, tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời. Cha là Tứ, thời Hoàng đế (147-167) làm thái thú Nhật Nam. Nhiếp nhỏ du học ở kinh đô, thờ Lưu Tử Kỳ đất thư lang công sự, từ quan vì tang cha là Tứ. Sau đó cử mậu tài, bổ Vu Lịnh, đổi làm thái thú Giao Chỉ...".
Bản thân Sĩ Nhiếp như thế ngay từ nhỏ đã du học tại Lạc Dương được đào luyện trong nền giáo dục Trung Quốc tiêu chuẩn, chuyên giỏi về Tả thị xuân thu. Viên Huy viết thư cho Tuân Hoắc, dẫn trong truyện Sỹ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 7b1-7 nói: "Sĩ phù quân của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân. Tuy Đậu Dung giữ chức Hà Tây, há hơn được ư?
Việc quan chút rảnh, liền xem luyện thơ truyện. Xuân thu Tả thị truyện, lại càng luyện lựa tinh vi. Tôi nhiều lần đem những chỗ nghi trong Tả truyện ra hỏi, đều được trả lời có cơ sở, ý tứ rất chắc chắn. Còn Thượng thơ, ông gồm thông cổ và kim văn, ở Kinh đô cãi nhau phải trái kịch liệt, nay ông muốn liệt kê trường nghĩa của Tả thị và Thượng thư để dâng lên...".
Thế nhưng, Sĩ Nhiếp với anh em mình có một lối sống khá xa lạ với tập tục truyền thống Trung Quốc mà cũng truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 7b7-10 đã ghi lại như sau: "Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn lý, uy tôn võ thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèm sáo cổ xuý, xe ngựa đầy đường. Nguời Hồ theo sát xe đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quí trọng, chấn phục trăm mọi. Uý Đà cũng không đủ hơn".
Trước đây, việc có "người Hồ đi sát xe đốt hương" vừa thấy, Hồ Thích nghĩ những người Hồ của Giao Chỉ phải chăng là thương nhân Ấn Độ, Ba Tư.. tức đó là "những Sa môn cạo tóc đầu, mặc áo đỏ, ưa thích rượu ngon hoặc nuôi dưỡng vợ con, mua rẻ bán đắt, chuyên làm dối trá mà Mâu Tử tôi thấy". Sau đó, Fukui_1 thử so sánh với cách thức đi ra ngoài của vua chúa Nhật Na, mà Di mạch truyện thượng của Nam sử 78 đã ghi: "Vua có mặc áo pháp, có thêm anh lạc, như phục sức của tượng Phật đi ra thì cỡi voi, thổi la, đánh trống, che bằng lọng vỏ sò, lấy vỏ sò làm cờ quan" Fukui thấy phảng phất một số nét giống việc đi ra của Sỹ Nhiếp với vua Nhật Nam, và khác với phong tục của vua chúa Trung Quốc.
Tuy nhiên, còn vấn đề "người hồ đi sát xe, đốt hương" thì thế nào? Để trả lời, Fukui tiến xa thêm một bước so sánh lễ "hành tượng" do Pháp Hiền ghi lại trong Phật Quốc ký: "Pháp Hiển mong muốn xem hành tượng, dừng lại vào ngày tháng 3... Từ ngày mồng một tháng tư trong thành quét tưới đường sá, trang hoàng các đường xóm... Vua rất kính trọng nên trước hết để hành tượng thì cách thành ba bốn dặm, làm một chiếc xe bốn bánh, cao hơn ba trươ5ng, hình thù giống như hành điện, trang hoàng bảy bâu, treo phan lọng có dệt hình, để tượng đứng trong xe, hai bồ tát đứng hầu, làm hình chư thiên theo hầu.. Tượng cách cửa thành một trăm bộ, vua cất vương miện, thay mặc áo mới, đi chân không, cầm hoa hương, có người theo sau, ra thành đón tượng, đầu mặt lạy xuống, rải hoa, đốt hương. Tượng vào thành rồi, trên lầu cửa thành, phu nhân thể nữ vung rải các thứ hoa, lửng lờ bay xuống... Mỗi chùa hành tượng một ngày, bắt đầu từ ngày mồng một đầu tháng, đến ngày 14 thì hành tượng mới xong".
Đây là lễ hành tượng Pháp Hiển thấy ở Vu Chân. Còn ở thành Ba-liên-phất (Pataliputra) của Ấn Độ, Phật quốc ký tờ 862b ghi: "Hàng năm thường vào ngày mồng 8 tháng 2 thì hành tượng. Làm xe bốn bánh... hình nó giống như một chiếc tháp.. đều có Phật ngồi, Bồ Tát đứng hầu. Có thể có đến 20 xe.. Vào ngày đó, đạo tục trong nước đều tập hợp lại ca hát nhảy múa, cúng dường hương hoa".
Gần ba thế kỷ sau, Nghĩa Tịnh trong Nam Hải ký qui nội pháp truyện 1 tờ 210c dưới điều thọ trai phó thỉnh đã mô tả những lễ ấy với tình tiết sau: "Mười châu Biển nam cúng trai tăng càng thêm nồng hậu... Ngày thứ nhất... thau vàng đầy nước, phải trước làm sạch đất, để mời chúng Tăng. Ngày thứ hai,sau khi qua ngọ, thì đánh nhạc trống, bày hương hoa, thỉnh tượng Phật quí lên xe kiệu về, cờ phan rạng trời, đạo tục họp lại dẫn đến gia đình, trưng bày màn lọng, tượng quí vàng đồng, trang trọng rực rỡ [...] đến ngày thứ ba [...] các Tăng tắm rửa xong, đẫn đến nhà trai tăng [...] hương hoa trống nhạc gấp bội sáng qua [...] Ở hai bên tượng, mỗi bên có đồng nữ nghiêm trang đứng [...] Đó là cách thức nhận trai tăng ở một chỗ của mười châu Biên nam".
Còn về lễ Tự tứ, Nam hải ký qui nội pháp truyện 1 tờ 217c viết: "Vào giờ đó tục sĩ họp lại, đạo đồ vân tập, đốt đèn sáng tiếp, cúng dường hương hoa. Sáng hôm sau, tất cả cùng đi ra, nhiễu quanh phố xóm [...] rước tượng bằng xe, đánh nhạc dậy trời, phan lọng rợp đất, phất phới che cả ánh mặt trời, gọi là tam-ma-cận-ly (samagri), dịch là hòa tập. Hễ những ngày lễ lớn thảy đều làm thế, tức đó là phép hành thành của Thần Châu".
Dĩ nhiên, sử dụng tư liệu cách một sự việc hằng trăm năm để giải thích về sự việc đó tất không thể đạt được độ chính xác đáng muốn. Dẫu vậy, nó cho thấy việc Sỹ Nhiếp ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, đèn sáo cổ xuý, xe ngựa đầy đường, người Hồ theo sát xe đốt hương thưòng có mấy mươi, thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ có những quan hệ với các lễ nghi Phật giáo, đặc biệt khi có "người Hồ theo sát xe đốt hương thường có mấy mươi". Đấy có thể là một lễ rước Phật (hành tượng) theo kiểu Pháp Hiển đã thấy, mà cũng có thể là lễ Tự tứ hay đi trai tăng do Nghĩa Tịnh ghi lại.
Dù với trường hợp nào đi nữa, điểm đáng nói với chúng ta là Sỹ Nhiếp dẫu được đào luyện trong khuôn mẫu văn hóa Trung Quốc, đã có những hành xứ và lối sống xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Ông do thế cùng với Chu Phù, đã ít nhiều "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia" Nói rõ ra, ông đã được Phật giáo hóa và Việt hóa. Như vậy, vào giữa những năm 180-190 ở nước ta, cụ thể là ở Giao Chỉ đã hình thành hoàn tất một nền văn hóa mới, nền văn hóa Phật giáo Việt Nam, kết hợp thành công nền văn hóa Lạc Việt với nền văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ đưa vào . Đủ sức không những đánh trả lại bằng những đòn sấm sét, những đợt tấn công của nền văn hóa Trung Quốc đang dồn dập dội vào nước ta qua những tay như Lưu Hy, mà còn lôi cuốn và đồng hóa một bộ phận lớn ngưòi Trung Quốc đang sống và làm việc tại nước ta, mà cụ thể là Chu Phù.
Việc Chu Phù "vứt điển huấn cuả tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia", rồi "mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục" rõ ràng khẳng định quá trình đồng hóa đã thành công mỹ mãn. Và làm việc đó, Chu Phù không nghĩ là để thỏa mãn những nhu cầu tôn giáo trí thức cá nhân, mà thực tế là để nhằm "trợ hóa". "Trợ hóa" đây thực chất là để "giúp đỡ cho nền cai trị". Mà nền cai trị này không còn dựa vào "điển huấn của tiền thánh", "Pháp luật của Hán gia" nữa, trái lại đã dựa vào những điển huấn mới, pháp luật mới. Đó là điển huấn và pháp luật của nền văn hóa mới vừa Việt Nam đồng thời vừa Phật giáo.
Cũng chính vì xuất phát từ nền điển huấn và pháp luật mới này, Sĩ Nhiếp mới có các cuộc "rước tượng" "hành thành" khá xa lạ với phong tục Trung Quốc, có cả "ngưòi Hồ đi sát xe đốt hương". Và uy tín của Nhiếp đủ để "chấn phục trăm mọi", đến nỗi "Uý Đà không đủ để vượt qua Nhiếp". Việc Ngô Chí so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ đã độc lập tới mức nào. Thực tế, có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền của Chu Phù - Sĩ Nhiếp trong khoảng những năm 187-197 và trở về sau, khi Phù chết và Trương Tân đến thay. Ngay vào thời này, không chỉ nước ta, mà các địa phương khác của Trung Quốc cũng rơi vào tình trạng cát cứ, như Trần Thọ (233-297) trong Ích Châu kỳ cựu truyện dẫn trong Thục chí 8 tờ 3b12-13 đã nhận xét: "Lúc ấy, đưòng vua cách tuyệt, mục bá các châu giống như chư hầu bảy nước".
Sự thực, ngay tới năm 195, khi đến nước ta, Hứa Tinh phải thừa nhận : "Tình bèn với Viên Bái, Đặng Tư Hiệu v.v.. vượt biển xanh về nam đến Giao Châu, trải qua nước Đông Âu, Mâu Việt, đi qua muôn dặm, không thấy đất Hán, phiêu bạt sóng gió, hết lương ăn cỏ, đói kém tràn lan chết hơn phân nửa". Hứa Tinh qua muôn dặm "Không thấy đất Hán". Điều này phải chăng muốn nói Tỉnh không thấy chính quyền Hán tồn tại ở những vùng đất ấy. Hay muốn nói nơi vùng đất ấy nền văn hóa người Hán vắng bóng? Có thể cả hai trường hợp đều đúng.
Đối với nước ta, khi một người đại diện cho chính quyền nhà Hán như Chu Phù đã "vứt điển huấn cuả tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia", lại đi "mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách tà tục, bảo để trợ hóa", thì dứt khoát chính quyền ấy do Chu Phù đứng đầu không còn là chính quyền cuả nhà Hán nữa. Làm đầu không còn là chính quyền của nhà Hán, khi người đứng đầu nó lại "vứt bỏ pháp luật nhà Hán"? Chính quyền ấy phải nói là một chính quyền Việt Nam độc lập dựa trên những điển huấn và pháp luật mới, dựa trên một nền tảng lý luận chính trị mới phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của thời bấy giờ.
Có thể vì muốn xây dựng một chính quyền kiểu mới ấy, Chu Phù ngay từ đầu muốn mời Mâu Tử ra làm quan với mình, như tự truyện cuả Mâu Tử trong Lý hoặc luận đã ghi. Nhưng Mâu Tử đã từ chối. Lý do là đau yếu.Sự thực, khi được nhờ đi Linh Lăng vì vụ Chu Hạo, Mâu Tử lại nhận lời. Như thế, đau yếu chỉ là một cái cớ để từ chối. Còn lý do thật phải nói là Mâu Tử xưa đã chứng kiến cách dùng người cuả Chu Phù, mà sau đó không lâu Tiết Tôn đã nhận xét là "phần lớn dùng người cùng làng (hương nhân) là bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân làm trưởng lại, xem ngược bá tánh, ép thuế lên dân. Cá vàng một con, thâu thuế gạo một hộc", như đã nói trên.
Thấy cảnh dùng người này, Mâu Tử tất nhiên không thể đồng tình, lại càng không thể tham gia vào bộ máy chính quyền do Chu Phù dựng nên với những con người như bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn. Tuy vậy Mâu Tử sẵn sàng giúp Chu Phù trong các công tác có chính nghĩa, như cảm tình đặc biệt với Chu Phù. Và cơ sở cho mối cảm tình đấy hẳn là nổ lực "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia", sống và suy nghĩ theo lối sống và suy nghĩ mới của đất Giao Châu, mà Mâu Tử khởi xướng và tha thiết bảo vệ.
Rốt cuộc, việc đi Linh Lăng Quế Dương vẫn không thành, vì gặp lúc mẹ Mâu tử mất. Và sau đó không lâu trong năm 197, Chu Phù bị giết. Sau tang mẹ và cái chết của Chu Phù, "Mâu Tử càng dốc chí vào đạo Phật" và dứt khoát với tư tưởng ra làm quan, vị "nay đời nhiễu nhương, chẳng phải thời hiển kỷ". Trong khi ông lam thế, "bọn thế tục" cho ông bỏ năm kinh, mà theo đạo khác. Để trả lời cho họ, ông đã viết Lý hoặc luận.
Kết thúc Lý hoặc luận, người đối thoại Mâu Tử đã thú nhận:
- Bỉ nhân lòa mù
- Sinh nơi tăm tối
- Dám thốt lời ngu
- Không lo họa phúc
- Nay được nghe dạy
- Chợt như tuyết sạch
- Xin được đổi tình
- Rửa lòng tự nhắc.
- Và đặc biệt xin:
- Nguyện nhận năm giới
- Làm Ưu-bà-tắc.
Thế phải chăng khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã xuất gia, để cho người đối thoại mình "xin nhận năm giới, làm Ưu-bà-tắc"? Đây là câu hỏi khó trả lời nhất. Có thể Mâu Tử xuất gia. Nếu vậy, việc ông quyết định không ra làm quan và "dốc chí vào đạo Phật" chắc là một cách nói bóng bẩy để diễn tả sự kiện ông xuất gia. Để trả lời, ta không thể khẳng định, nhưng vẫn có thể giả thiết. Dẫu sao, ông cũng vẫn phải cư tang mẹ xong, rồi sau đó đã viết Lý hoặc luận.
Vậy, Lý hoặc luận viết sau khi mẹ Mâu Tử mất vào năm 195, có thể vào năm 198 lúc thời gian cư tang xong. Bấy giờ, Mâu Tử khoảng 37, 38 tuổi. Ông sinh vào khoảng những năm 160-164. Có thể tại Quảng Tín, thủ phủ của quận Thương Ngô lúc bấy giờ trong một gia đình khá giả, nếu không là vọng tộc của vùng đất ấy. Cho nên, thưở nhỏ ông nhận được một nền giáo dục chính quy, theo học thi, thơ, lễ, nhạc ở Thương Ngô cho đến khoảng năm 18 (nhược quán) tuổi. Trong thời gian này, ông có ít nhiều tiếp xúc với Phật giáo. Nhưng do quan điểm "dĩ Hạ biến Di" của Khổng Mạnh, ông cho Phật giáo là một thứ "thuật mọi rợ" (di địch chi thuật). Đến khoảng năm 178 có lẽ sau khi cư tang cha xong, do tình hình Thương Ngô quá loạn lạc. Mâu Tử đem mẹ xuống tị nạn tại nước ta. Bấy giờ Đổng Phụng đang hoạt động mạnh ở Giao Chỉ và gây nên một phong trào thần tiên rầm rộ.
Mâu Tử hưởng ứng phong trào này. Sau ba năm theo học, ông nhận ra tính "yêu vọng" của đạo thần tiên bất tử và chính thức trở về với Phật giáo vào khoảng năm 183. Đến giữa những năm 185-186 ông trở về Thương Ngô cưới vợ. Người vợ này, nếu gia đình hai bên không đính ước với nhau trưóc, thì hẳng đã được Mâu Tử quen biết và thề nguyền từ lúc ở Thương Ngô. Chỉ một nhận định như thế mới giúp ta hiểu tại sao Mâu Tử đã phải vượt vạn dặm đường nguy hiểm để về Thương Ngô cưới vợ. Từ nhận định này ta mới hiểu thêm tại sao Mâu Tử đem mẹ qua nước ta khoảng năm ông 18 tuổi, lứa tuổi của tình yêu trong sáng và lý tưởng đang phát triển mạnh mẽ.
Gia đình Mâu Tử và có thể gia đình vợ Mâu Tử, nếu không là vọng tộc, thì hẳn là những gia đình khá giả đất Thương Ngô. Cho nên, khi mới chân ướt chân ráo về đến quê cũ, có thể là Quảng Tín, thái thú Thương Ngô là Sử Hoàng, nghe tiếng học vấn của ông đã đến thăm, muốn bổ làm quan, nhưng Mâu Tử từ chối. Sau đó, Sử Hoàng nhờ đi Kinh Châu "trí kinh", Mâu Tử nhận lời. Bèn đem vợ về nước ta khoảng năm 187 và chuẩn bị ra đi, thì gặp Chu Phù mời ra làm quan. Ông lại từ chối. Đến năm 194 Chu Hạo bị Trức Dung giết ở Dự Chương, Chu Phù đến nhờ Mâu Tử đi mượn đường. Một lần nữa, Mâu Tử nhận lời, nhưng lại gặp tang mẹ mất đột ngột khoảng năm 195. Từ đó ông dốc chí vào đạo Phật, viết Lý hoặc luận để trả lời cho "bọn thế tục cho ông bỏ năm kinh mà theo đạo khác" vào khoảng năm 198, sau thời gian cư tang xong. Sau năm 198 này, có lẽ Mâu Tử tiếp tục việc nghiên cứu Phật giáo của mình và đóng góp vào việc xây dựng một nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam tạo cơ sở đào luyện những con người sau này làm rạng rỡ cho lý tưởng, mà suốt cuộc đời Mâu Tử ôm ấp, như Khương Tăng Hội, Đạo Hinh v.v... Ông mất khoảng những năm 220-230. Và Khương Tăng Hội có thể đọc, nếu không là học với ông, qua Lý hoặc luận, mà dấu vết ảnh hưởng còn lộ rõ trong văn chương và tư tưởng của Hội sau này.
Thế Mâu Tử tên gì? Bản mục lục xưa nhất ghi lại Lý hoặc luận là Pháp luận của Lục Trừng trong Xuất tam tạng ký tập 12 ĐTK 2145 tờ 82c29 và 85a13 chỉ chép tên Mâu Tử, rồi chua thêm: "Một chỗ khác nói: thái thú Thương Ngô Mâu Tử Bác truyện". Đến Tăng Hựu soạn Hoằng Minh tập I ĐTK 2102 tờ 1a28-29 cũng chỉ ghi: "Mâu Tử lý hoặc luận, một chỗ nói thái thú Thương Ngô Mâu Tử Bác truyện". Qua đầu thế kỷ thứ VI Lưu Hiếu Tiêu chú Thế thuyết tân ngữ, Dữu Trọng Dung viết Tử sao và Đỗ Đài Khanh soạn Ngọc chúc bảo điển cũng chỉ dẫn tên Mâu Tử.
Tới thượng bản thế kỷ thứ VII, khi viết Biện chinh luận 4 ĐTK 2110, Pháp Lâm dẫn trực tiếp tên Mâu Dung: "Mâu Dung nói Hán Minh đế mơ thấy người vàng", trong khi Phá tà luận quyển thượng chỉ viết: "Tứ thơ Mâu Tử 2 quyển, thạnh luận Phật Pháp". Pháp Lâm mât năm 640. Năm sau Trình Quán thứ 15 (641), Kinh tịch chí của Tùy thư dưới mục Tứ bộ nho gia lại ghi: "Mâu Tứ 2 quyển, hậu Hán thái úy Mâu Dung soạn". Ghi chú này Tùy thư đến thế kỷ XVI đã trở thành khởi điểm cho những bàn luận của Hồ Nguyên Thụy trong Thiếu Thất sơn phòng bút tòng 32, dẫn tới các thuyết có "hai Mâu Dung", "Ngụy tá thời đông Tấn Lưu Tống" v.v... như ta đã thấy.
Tuy nhiên, Phá tà luận nói tới Tử thơ Mâu Tử 2 quyển và Biện chính luận lại dẫn Mâu Dung. Cho nên, Tuỳ thơ ghi Mâu Tử 2 quyển, Hậu Hán thái uý Mâu Dung soạn", thực tế không phải là không chỉ Mâu Tử và Mâu Dung cuả Pháp Lâm. Điểm gây hoang mang của Tùy thư là việc nó ghi chức thái uý của Mâu Dung. Hậu Hán thư 56 tờ 15a5b7 có truyện của Mâu Dung, nói Dung làm tới chức thái úy dưới thời Hán Minh đế và mất năm 79. Thái uý Mâu Dung này như vậy chắc chắn không thể viết. Lý hoặc luận được. Nhận định của Hồ Nguyên Thụy về điểm này do thế là hoàn toàn xác đáng.
Từ đó, phải có một Mâu Dung viết Lý hoặc luận như Biện chính luận đã ghi, và sau này Đạo Tuyên trong Quảng hoằng minh tập 5 ĐTK 2103 tờ dưới mục Biện hoặc mục lục đã lặp lại "Mâu Dung biện hoặc". Lục Trừng viết Pháp luận, dưới mục Mâu Tử, đã chua thêm: "Một chỗ khác nói thái thú Thương Ngô Mâu Tử Bác truyện". Lời chua này sau đó Tăng Hựu đã chép lại trong Hoằng Minh tập. Vậy, trước thời Pháp Lâm và Tuỳ thư đã lưu hành một truyền thuyết về chức vụ thái thú cuả Mâu Tử. Và Tuỳ thư ghi: "Hậu Hán thái uý Mâu Dung soạn", đúng ra phải ghi "Hậu Hán thái thú Mâu Dung soạn". Việc chép lộn thái thú thành thái uý đã gây nên hoang mang và bàn cãi của Hồ Nguyên Thụy. Thực chất không có một tác phẩm Mâu Tử do thái uý Mâu Dung viết. Ngược lại có Mâu Tử do thái thú Mâu Dung viết. Song nếu nói Mâu Dung làm thái thú, phần tự truyện Lý hoặc luận lại bảo Mâu Tử không bao giờ làm quan, càng không bao giờ làm thái thú Thương Ngô, Mâu Tử có về Thương Ngô cưới vợ, quả có được thái thú Thương Ngô cưới vợ, quả có được thái thú Thương Ngô mời ra làm quan, nhưng đã từ chối. Dĩ nhiên, văn cú của Lý hoặc luận hiện còn đã bị Tăng Hựu cho sao soạn lại, nên đã bị tước bỏ một phần nào, như phần nghiên cứu về tình trạng văn bản của nó sẽ cho thấy. Sự tước bỏ đó không chỉ xảy ra trong phần nội dung, mà ngay cả trong phần tự truyện. Cụ thể là Hoằng quyết ngoại điển sao 5 dẫn lại Tử sao của Dữu Trọng Dung về tự truyện của Mâu Tử, tới câu "tu thân giữ chân", nó có thêm hai câu "thần đạm bạc vi đức, quách nhiên tĩnh tư", trước khi tiếp câu "vạn vật không ngăn chí ông".
Giả như phần tự truyện có đầy đủ đi nữa và vẫn không có gì hết về chức thái thú Thương Ngô của Mâu Tử, thì truyền thuyết về chức ấy qua Mâu Tử vẫn có thể hiểu được. Ngay vào thời Mâu Tử, Lưu Hy, cứ theo những nghiên cứu cuả Diệp Đức Huy dẫn trước, lại có chức thái thú An Nam, mà về mặt chính sử không bao giờ thấy có ghi tất nhiên, Hán Ngụy bác sỹ khảo của Vương Quốc Dung_1 đã vạch ra là vào thời Hán Ngụy, nếu ai được trưng làm bác sĩ, thì khi bổ nhiệm ra ngoài, thưòng làm thú tươóng các quận quốc hoặc làm thái phó cho các vua chư hầu, rồi sau đó đổi làm thứ sử hay châu mục. Lưu Hy trong khoảng Trung bình được trưng làm bác sĩ, do thế được truyền tụng làm thái thú An Nam là một điều có thể tin được. Vì vậy, dù không có ghi nhận nào về việc Mâu Tử được trưng làm bác sĩ, nhưng với sở học cuả ông, mà cả thái thú Thương Ngô lẫn thứ sử Chu Phù đều cảm phục, thì việc đồn đại về chức thái thú Thương Ngô, là một chuyện bình thường. Cũng có thể, dù Mâu Tử không nhận, Chu Phù đã đề nghị Mâu Tử làm thái thú Thương Ngô khi nổ ra việc khởi nghĩa của những người Việt ở Thương Ngô "lật nhào châu Phủ" vào năm 195, mà lá thư Hứa Tinh viết cho Tào Tháo dẫn trên đã nói tới.
Dẫu với trường hợp nào đi nữa, bây giờ ta biết Mâu Tử tên Dung. Đạo Tuyên viết Quảng Hoằng minh tập 5, dưới mục Biện hoặc thiên mục lục, đã ghi: "Mâu Dung biện hoặc". Đến Kinh khê đại sư Trạm Nhiên trong Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết 5/1 ĐTK 1912 tờ 279a14-16 nói: "Sau khi Linh đế nhà Hậu Hán băng hà, vào thời Hiến đế có Mâu Tử, thâm tín đạo Phật, chê bai Trang Lão, viết luận 3 quyển 37 thiên". Kinh tịch chí của Cựu Đường thư và Nghệ văn chí của Tân Đường thư đều xếp Mâu Tử vào mục đạo gia, cả hai đều không ghi ai soạn. Lời chua của Tuỳ thư đã bị tước bỏ, có lẽ do các tác giả hai bộ sử ấy thấy được sự bất ổn của hai chữ "thái uý", nên mặc nhiên không ghi. Tới Chí Ban viết Phật tổ thống ký 35 ĐTK 2035 lại chép "Thương Ngô nho sanh Mâu Tử", mà không nói tên gì. Chỉ Hoằng quyết ngoại điển sao thấy ghi tên Mâu Quảng. Fukui_1 gợi ý đó có thể là một "viết lộn" (tả ngộ) của Mâu Dung, dù nó rất thích hợp với tự của Dung là Tử Bác.
Danh xưng Mâu Tử Bác, như đã thấy, xuất hiện khá sớm trong Pháp Luận của Lục Trừng và Hoằng minh tập của Tăng Hựu. Nếu Mâu Tử có tên là Dung, như Pháp Lâm, Đạo Tuyên và Tùy thư đã ghi, thì Tử Bác trong Mâu Tử bác là tự của Mâu Tử. Việc sử dụng tên chữ để viết thư cho nhau, thậm chí ghi vào sử sách là khá phổ biến vào thời Hậu Hán. Ta có trường hợp Viên Huy viết thư cho Tuân Hoắc, gọi Hứa Tỉnh là Hứa Văn Hưu . Hoặc truyện Sĩ Nhiếp ghi Nhiếp đã học với Lưu Tử Kỳ là tự của Lưu Đào.
Cuối cùng cần nói đôi lời về tên gọi Lý hoặc luận. Tên chính thức hiện nay trong bản in Đại Chính tân tụ Đại tạng kinh của Hoằng Minh tập là Mâu Tử lý hoặc luận. Đây cũng là tên Mâu Tử ghi lại trong phần tự truyện. Tuy nhiên, Pháp luận của Lục Trừng chỉ ghi tên Mâu Tử, rồi chua thêm: "Một chỗ nói Thương Ngô thái thú Mâu Tử bác truyện". Lời chua này, hiện nay bản Hoằng Minh tập cũng có. Vậy, ngoài tên Mâu Tử, Mâu Tử lý hoặc cũng có tên Thương Ngô thái thú Mâu Tử Bác truyện. Tên này, Dư Gia Tích trong Mâu Tử lý hoặc luận kiểm thảo dẫn trước đã ghi thêm một cách đứng đắn, đó là một tên gọi khác của Mâu Tử, rồi dẫn lời chú thích của Lưu Hiếu trong Thế thuyết tân ngữ về Mâu Tử truyện ký và Mâu truyện để làm chứng. Đến Quảng hoằng minh tập 5, Đạo Tuyên để làm chứng. Đến Quảng hoằng minh tập 5, Đạo Tuyên gọi Mâu Dung biện hoặc. Tử sao mục lục do Cao Tợ Tôn ghi lại mục lục Tử sao của Dưũ Trọng Dung lại ghi Mâu Tử trị hoặc luận. Một lần nữa Dư Gia Tích cho đó mới đúng là tên nguyên thủy của MâuTử, vì chữ "trị" đến đời Đường Cao Tôn, để tránh húy của Lý Trị, đã bị đổi thành "lý". Tới đời Tống, ngưòi ta "hối cải" lý thành trị, nhưng không hối cải hết nên bây giờ vẫn còn chữ lý của Lý hoặc luận và một số điều như 26, 37 v.v...
Nội dung Lý hoặc luận
Lý hoặc luận bao gồm những câu hỏi và trả lời, mà căn cứ vào chính qui định của Mâu Tử ở điều cuối cùng, là có cả thảy 37 điều. Phân tích 37 điều này, ta có thể chia thành 3 nhóm chính. Nhóm 1 gồm từ điều 1 đến 3 trình bày vài nét tổng quát về Phật giáo từ sự tích đức Phật (điều 1) đến Phật là gì (điều 2) và đạo thế nào (điều 3). Trong đó điều 1 không chỉ đơn thuần mô tả cuộc đời đức Phật, mà còn ghi nhận kinh điển do Ngài trước tác, "gồm 12 bộ, tập hợp tám ức bốn ngàn muôn quyển, quyển lớn vạn lời trở xuống, quyển nhỏ ngàn lời trở lên", và lối sống do Ngài thiết định cho những người tin theo. "Ngươi giữ 5 giới, một tháng sáu ngày chay, ngày chay chuyên tâm nhất ý, hối lỗi tự đổi mới; Sa môn giữ 250 giới, ngaỳ ngày đều chay, giới của họ, người ưu hà tác không được nghe".
Nhóm thứ 2 gồm điều 2 đến 28, tập trung bàn về quan hệ giữa Phật giáo và Nho giáo. Nhóm này có thể chia làm 3 phần. Phần I bắt đầu từ điều 4 đến điều 8 giải tỏa thắc mắc về tư tưởng chính yếu của Phật giáo và các kinh điển ghi chép nó. Điều 4 hỏi "con đường" Phật giáo là gì? Mâu Tử trả lời "con đường đó ở nhà thì có thể thờ cha mẹ, làm chủ nước thì có thể trị dân, ở một mình thì có thể trị thân". Điều 5 thắc mắc, nếu vậy sao kinh điển Phật giáo như sông biển, như "Ngũ nhạc", cao lớn mênh mông. Điều 6 ghi nhận kinh điển Phật quá nhiều, thế yếu chỉ nó là gì? Mâu Tử nói: "Phật kinh tuy nhiều, chỉ quy về một, giống bảy kinh tuy khác nhau, việc chúng quý đạo đức nhân nghĩa cũng là một". Điều 7 hỏi nếu đạo Phật chí tôn chí đại thì cần gì làm theo Nghiêu Thuấn Châu Khổng và sao không thấy bảy kinh ghi? Mâu Tử nói có nhiều việc bảy kinh không ghi, nhưng cũng nên học. Nhân đó nói đến 32 tướng tốt của Phật trong điều 8.
Phần 2 gồm từ điều 9 đến 19 xử lý nhiều thắc mắc về lối sống Phật giáo trong liện hệ các tiêu chuẩn lễ nghĩa Trung Quốc. Điều 9 giải tỏa quan hệ giữa việc cạo bỏ râu tóc cuả các nhà sư Phật giáo với quan điểm "thân thể tóc da nhận từ cha mẹ không dám tổn thương" của hiếu kinh. Điều 10 về tình trạng không vợ con của cả của sa môn với đạo lý vô hậu của Mạnh Tử. Điều 11 về lối phục sức "áo đỏ" và lễ nghi đi đứng khác thường của họ với các chế định của Hoàng đế, Lão Tử và Khổng Tử. Điều 12 về vấn đề "ngưòi chết sẽ lại sinh lại", vấn đề quỉ thần. Điều 13 dẫn quan điểm "chưa biết thờ người, làm sao thờ quỉ, chưa biết sự sống, sao biết sự chết" của Khổng tử và giải thích của Mâu Tử. Điều 14 giải quyết quan hệ Di Địch và Trung hạ của Khổng tử và Mạnh Tử với Phật giáo. Điều 15 đặt vấn đề bố thí của Tu Đại Noa trên cơ sở kinh Lễ, nhân đó phên phán lối sống "mua rẻ bán đắt, nuôi dưỡng vợ con" của các sa môn trái với đạo lý bố thí ở điều 16, dùng quan điểm Khổng Tử và Thúc Tôn phê phán bố thí là xa xỉ ở điều 17. Điều 18 chỉ trích lối nói dùng nhiều thí dụ của Phật giáo là không thành thật, khác với kinh điển Nho giáo. Điều 19 phê phán lối sống của Sa-môn "mặc áo đỏ, ngày một bữa ăn, đóng sáu tình, tự cắt đứt với đời".
Phần 3 gồm điều 20 đến 28 nêu vấn đề nếu Phật kinh hay đẹp, sao không thấy bàn ở triều đình, bằng hữu (kinh 20), nhân đó kể chuyện Phật giáo du nhập triều đình Trung Quốc do lệnh của Hán Minh đế (điều 21), và sao không thực hành đi, mà lại tranh luận (điều 22) do vậy đặt câu hỏi chỉ cần giỏi biện luận thôi ư? (điều 23). Nếu Phật giáo "chí tôn chí khoái" sao các học sỹ huỷ báng (điều 24), sao dùng kinh truyện để xử lý lời Phật (điều 25), dùng Thi Thơ để giải đáp thắc mắc (điều 26), ở kinh đô không ai nghe "tu đạo Phật là quí, tự tổn dung nhan là cao thượng", mà chỉ thấy tuấn sĩ nho lâm ở Thái học (điều 27) và sao dùng lời hoa lệ của kinh truyện để ca ngợi Phật (điều 28).
Nhóm 3 gồm từ điều 29 đến 37 tập trung phê phán Đạo giáo. Điều 29 đặt vấn đề Thần thơ 170 quyển trong quan hệ với kinh Phật qua nhận xét là "sách thần tiên nghe thì mênh mông đầy tai, nhưng tìm hiệu lực tì như nắm bóng bắt gió". Điều 30 đề cập vấn đề tịch cốc, nhân đó nêu lên câu hỏi có thể tịch cốc được không (điều 31), có trị được bệnh không (điều 32). Điều 33 nêu vấn đề tại sao phân biệt được Phật giáo và Đạo giáo, mà theo người hỏi là thống nhất với nhau. Điều 34 ghi nhận sự đồng ý của ngưòi hỏi với việc phê phán thần tiên bất tử, nhưng đặt câu hỏi tại sao Mâu Tử chỉ xem kinh sách Phật giáo mà tin Phật giáo là đúng, trong khi điều 35 nói ông đến Vu điền thuyết phục các nhà sư nưóc đó bỏ Phật giáo. Điều 36 đắt vấn đề với "thuật thu đông nhập thất không ăn của thần tiên". Điều 37 phê phán truyền thuyết "Nghiêu Thuấn Châu Khổng và 72 đệ tử đều bất tử thành tiên" và khẳng định theo "nhà Phật là người ai cũng sẽ chết, không ai miễn được". Điều cuối cùng trình bày lý do tại sao Mâu Tử tổ chức Lý và luận thành 37 phẩm, Đạo Kinh họ Lão cũng 37 thiên nên ông làm theo", và kết thúc bằng việc hỏi nhận ra sai lầm của mình, "nguyện thọ năm giới làm ưu bà tắc".
Tóm lại sơ bộ 37 điều cuả Lý hoặc luận vừa thấy cho ta một số điểm thú vị. Thứ nhất, trong số 37 điều ấy, trừ 3 điều khởi đầu trình bày về Phật giáo, và 9 điều dành cho việc phê phán Đạo giáo và điều kết thúc cuối cùng, còn lại 25 điều hoàn toàn dành cho việc xử lý cùng, còn lại 25 điều hoàn toàn dành cho việc xử lý những thắc mắc về quan hệ giữa Phật giáo và Nho giáo. Thứ hai, với một số lượng lớn dành cho việc xử lý quan hệ ấy, ta thấy rõ đối tượng chính của Lý hoặc luận là Nho giáo, mà trong phần tự truyên Mâu Tử đã gọi là "bọn thế tục phần lớn chê bai ông, cho ông quay lưng với ngũ kinh để đi theo đạo khác", và chính vì bọn này ông đã phải viết Lý hoặc luận. Thứ ba, nếu trong 9 điều dành cho việc phê phán Đạo giáo, Mâu Tử đã có thái độ dứt khoát, không thừa nhận vị trí cuả giáo này, như chính ông đã nói trong phần tự truyện là "dẹp đi mà không tin, cho là dối trá", trong 25 điều xử lý Nho giáo, Mâu Tử ngược lại cố gắng chỉ vạch ra giới hạn của những điển huấn Nho giáo, thậm chí chỉ ra những chỗ yếu cũng như chỗ bất nhất, mâu thuẫn, thiếu sót của chúng, cần phải tăng cường bổ sung và điều chỉnh.
Để thực hiện công tác ấy, Mâu Tử sử dụng một số thủ pháp. Thủ pháp thứ nhất là vạch ra một số sự việc, mà ai cũng biết, nhưng kinh điển Nho giáo không thấy ghi. Thí dụ, điều 7 hỏi tại sao đạo Phật chí tôn chí đại, mà không thấy bảy kinh nói tới. Mâu Tử trả lời bằng cách dẫn việc "Nghiêu học với Doãn Thọ, Thuấn học với Vụ Thành, Đán học Lữ Vọng, Khâu học Lão Đam", mà bảy kinh đều không chép.
Thủ pháp thứ hai là nêu lên tính giới hạn của các qui định điển huấn. Thí dụ điển huấn 9 nêu vấn đề chữ hiếu với qui định "thân thể tóc da nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương", mà "nay sa môn cạo đầu, sao trái với lời thành nhân" Mâu Tử kể câu chuyện "người Tề đi thuyền, cha rơi xuống sông uống nước. Người con xách cha mình chúc đầu lộn ngược cho nước từ trong miệng chảy ra". Người cha sống được. Nhưng "chúc đầu cha lộn ngược thì không gì bất hiếu lớn hơn". Mà nếu không làm thế thì người cha sẽ chết. Qui định điển huấn như vậy có những giới hạn, mà nếu tuân thủ cứng nhắc sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại.
Thủ pháp thứ ba là khai thác tính mâu thuẫn vốn có của các điểm huấn. Cụ thể là điều 15 sử dụng qui định của kinh Lễ về của cải cha mẹ, người con không được lấy cho, để phê phán việc bố thí của Tu Đại Noa. Mâu Tử nêu lên ba qui định khác cũng của kinh Lễ để vạch ra rằng có những trường hợp của lịch sử Trung Quốc không tuân thủ chúng, mà vẫn đưa đến các kết quả tốt. Qui định thứ nhất là lập đích làm trưởng, nhưng Thái vương đã bỏ đích lập thứ "mà thành sự nghiệp nhà Châu, đưa đến Thái bình". Qui định thứ hai là cưới vợ phải thưa với cha mẹ, nhưng vua Thuấn lấy vợ không thưa vói cha mẹ, mà vẫn "thành mẫu mực lớn". Qui định thứ ba là trung sỹ hiền thần phải có mời mới ra làm quan, nhưng Y Doãn thì vác vạc, Ninh Thích thì gõ sừng mà ca để xin làm quan, mà đã thành được nghiệp lớn. Qui định thứ tư là "nam nữ thụ thụ bất thân", nhưng chị dâu chết đuối em chồng phải thò tay cứu".
Thủ pháp thứ tư là nhấn mạnh tính bổ sung điều chỉnh của kinh điển Phật giáo cho những thiếu sót, giới hạn và mâu thuẫn vừa nêu của hệ thống điển huấn Trung Quốc. Cụ thể là điều 25 hỏi vì sao biện luận được lưu loát, Mâu Tử nói mình nhờ thấy rộng thông qua việc xem kinh Phật.
Bốn thủ pháp trên Mâu Tử sử dụng lập đi lập lại, xen kẽ lẫn nhau để từng bước đánh vỡ từng mảng cảm thức tự tôn dân tộc của người Trung Quốc nói chung, và cảm thức tự tôn hệ tư tưởng Châu Khổng nói riêng. Điều 14 dẫn lời Khổng tử nói: "Di Địch có vua không bằng các Hạ mất vua", và lời Mạnh Tử tuyên bố: "Ta nghe dùng hạ biến Di, chứ chưa nghe dùng Di biến Hạ để đặt vấn đề theo Phật giáo phải chăng là "học thuật của Di Địch", là một "sai lầm". Trả lời câu hỏi, Mâu Tử một mặt đem chính một câu khác cũng của Khổng Tử nói: "Quân tử ở đó có xấu gì?", khi ông muốn sống với đám Di Địch, rồi mặt khác kể luôn việc vua Vũ lập nhà Hạ đến từ Tây Khương. Do Dư làm bá nước Tân "sinh ở nước mọi". Từ đó, dẫn một câu từ Tả truyện nói rằng : "Sao bắc đẩu ở trung tâm của trời, nhưng lại ở phía bắc của người", Mâu Tử nhận xét: "Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất".
Nhận xét này của Mâu Tử phải nói là một đòn đánh chí tử vào cảm thức tự tôn dân tộc của người Hán thời bấy giờ, đặc biệt lúc mà cụm từ "Trung Quốc", nước ở giữa, trung tâm không chỉ của con người, mà còn của "trời đất", được phổ biến và lưu hành rộng rãi để xác định vị trí của người Hán đối với các dân tộc khác. Ta đã thấy, để diễn tả việc người Hán đến nước ta tỵ nạn, truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 đã viết: "Sĩ nhân Trung Quốc đến dựa tỵ nạn lên đến số trăm". Trong khi đó, cùng mô tả sự kiện ấy, Mâu Tử xuất phát từ nhận xét trên chỉ đơn giản nói: "Dị nhân phương Bắc đều đến để ở".
Tất nhiên, một khi đã xác định "đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời (đất)", thì nó hẳn phải ở một phương nào đó, mà trong trường hợp này đối với Mâu Tử đang sống tại nước ta, phải là phương Bắc. Và khi đã gọi người Hán là người phương Bắc, Mâu Tử cũng như những người khac đang sống tại nước ta, tất phải nhận mình là người phương nam, dù trong Lý hoặc Luận không một lần đề cập tới. Xác định nam bắc này về sau đã trở thành một phạm trù chính trị xung yếu trong lịch sử dân tộc ta, mà đỉnh cao là sự xuất hiện cuả đế hiệu Nam Đế của Lý Bôn năm 544 và quốc hiệu Nam Quốc của bản tuyên ngôn độc lập năm 980 của Lê Đại Hành.
- Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
- Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
- Như hà nghịc lỗ lai xâm phạm
- Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Nó đòi hỏi một lối nhận thức mới, một đánh giá mới về vị trí của một quốc gia ở về phía Bắc nước ta, cũng như vị trí của dân tộc ta trong quan hệ với quốc gia đó. Điều này đánh dấu trình độ nhận thức chính trị cuả người Việt vào thời Mâu Tử đã đạt tới mức cao để vượt lên và định ra được vị trí của mình cũng như của kẻ thù mình và quan hệ tương tác của chúng. Nó thể hiện nổ lực kiên trì xây dựng một nền văn hóa mới, kết hợp nền văn hóa Hùng Vương với nền văn hóa Phật giáo mới đưa vào đã hoàn toàn thành công. Chính xuất phát từ nền văn hóa ấy, một hệ thống lý luận mới ra đời, tạo cơ sở cho một lối nhận thức chính trị mới, trong đó xác định Bắc Nam trở nên một phạm trù chính trị xung yếu.
Mâu Tử lý hoặc luận xuất hiện muộn tại Trung Quốc chứng tỏ đây là một tác phẩm Việt Nam cho nên Đạo An không biết đến để ghi vào trong Tổng lý chúng kinh mục lục của ông. Trong lúc có thể có những tác phẩm ca tụng Trung Quốc làm xong đưa lên phương bắc đẻ được khen thưởng, thì Lý hoặc luận của Mâu Tử lại cố ý xúc phạm đến văn hóa Trung Quốc, bài bác Nho Lão, cho Phật là hay hơn, ở vào buổi giao thời đó, cho nên trong một thời gian dài nói chỉ lưu hành tại đất nước ta. Phong trào lúc đó là phong trào Di Hạ, xem Phật giáo là mọi rợ không đáng để cho người theo, thế nên sự xuất hiện của một tác phẩm thuộc Phật giáo Việt Nam như Lý hoặc luận tất sẽ kéo theo nhiều phiền phức nên không ai dám dâng lên phương bắc. Cũng vì vậy mà những học giả nghiên cứu về Mâu Tử cứ thắc mắc mãi về lý do sự không có mặt của Lý hoặc luận trong Tổng lý chúng kinh mục lục của Đạo An để đi đến giả thiết là Lý hoặc luận được viết sau thời An.
Mâu Tử là người Việt. Cho nên khi đám "thế tục" phê phán Mâu Tử bỏ đạo năm kinh mà đi theo đạo khác, thì Mâu Tử đã thẳng thừng tuyên bố nơi điều 7: "Năm kinh chưa hẳn là lời thành hiền"! Khi người Hán có mặt trên đất Việt thì nhất định có một số người Hán đã Việt hóa, cũng như có một số người Việt đã Hán hóa như Lý Tiến, Lý Cầm đã cầu cạnh xin làm quan với nhà Hán. May mắn là đất nước ta chỉ có một số rất ít nhưng tên như bọn chúng,nếu trọn cả một dân tộc đều như thế thì có phải chúng ta đã mất nước từ lâu rồi không? Sử ta lại ghi những tên trí thức bán nước cầu vinh này là những người Việt ưu tú vì được Trung Quốc trọng dụng, trong khi đángl ý nếu chúng có một chút quan tâm cho quê hương thì phải biết đứng lên tranh đấu khi đất nước đang bị khổ đau dưới ách thống trị của phương bắc. Sao lại có chuyện cúi đầu xin vua Tàu để làm quan, tự đồng hóa mình thành ngưòi Tàu như bọn chúng?
Cho nên chuyện người Việt, đại biểu là Mâu Tử, kiên quyết chống lại chánh sách "đức giáo" nô dịch của người Tàu để đồng hóa dân tộc ta, bằng cách thẳng thừng vạch ra những thiếu sót trong năm kinh, là một cuộc chống đối quyết liệt, trực diện, để tổng kết một giai đoạn Phật giáo Việt Nam đấu tranh giành độc lập cho đất nước. Người Trung Quốc vì muốn áp đảo nước ta mà đem kinh Thi, kinh Thư ra dạy, chỉ với mục đích nô dịch văn hóa dân tộc ta. Tuy nhiên người Việt nói chung qua điển hình con người tri thức của Mâu Tử lại có lập trường khẳng định rằng chúng ta sẵn sàng kiên quyết và thẳng thắng chống lại chánh sách văn hóa nô dịch nhưng không bao giờ chống lại văn hóa tự nó. Người Việt bao giờ cũng cởi mở để đón nhận và tiếp thụ tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác. Trong lịch sử, bất cứ giai đoạn nào mà dân tộc ta rộng rãi mở cửa tiếp nhận văn hóa của những dân tộc khác thì trong giai đoạn đó dân tộc ta thường phát triển mạnh mẽ. Thỉnh thoảng trong giai đoạn mà nhà cầm quyền có chánh sách bài ngoại cực đoan thì thường dẫn đến những giờ phút lâm nguy cho đất nước và phải trả bằng máu bằng xương của dân tộc.
Cho nên khi có người nạn rằng tại sao Lý hoặc luận không nói gì đến Phật giáo cả, ta có thể khẳng định rằng mục đích của Lý hoặc luận là để "trị hoặc", để giải thích những sai lầm của Đạo giáo và Nho giáo. Trong 37 điều, trừ 5 điều đầu nói về Phật giáo và 7 điều nói về Lão giáo, còn lại 25 điều hoàn toàn nói về Nho Giáo, rằng Đạo giáo hay Nho giáo đều không quan hệ với Phật giáo và văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam thời Mâu Tử, Lý hoặc luận không phải viết để xiển dương Phật giáo, mà là một cuộc tổng kết cuộc đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương bắc, mà chủ yếu là Phật giáo đối với Nho giáo. Khi nói lên những câu bài bác Nho giáo, không phải là Mâu Tử không có tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt Phật giáo.
Điểm thứ nhất, Mâu Tử hiểu rất rõ về Phật giáo. Cụ thể là Mâu Tử đã tổ chức Lý hoặc luận thành 37 điều, không phải vì Trung Quốc có Lão Tử Đạo đức kinh có 37 điều, mà vì trong Phật giáo có "tam thập thất kinh chi yếu", 37 điểm trọng yếu của giáo lý đạo Phật. Quan điểm rằng toàn bộ kinh điển của Phật giáo tập trung trong 37 điều là quan điểm hết sức cơ bản cuả văn học A-tỳ-đám. A-tỳ-đạt-ma đại-tỳ bà-sa luận, quyể 183, ĐTK 1545 tờ 917b7-918a17 viết rất rõ: "Chánh pháp là gì? Đáp: là căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu [...]. Hỏi: Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, cũng là chánh pháp không? [...] Đáp: Kia cũng là chánh pháp [...]".
Quan điểm này sau đó ta sẽ thấy Mâu Tử đã truyền lại cho Khương Tăng Hội khi viết An ban thủ ý kinh chú giải. ĐTK 602 tờ 172c4-5: "Mười hai bộ kinh hảy đều nằm trong ba mươi bảy phẩm kinh, ví nhưi muôn suối bốn sông đều chảy về biển lớn". Viết thế, rõ ràng Khương Tăng Hội đã ghi nhận rằng kinh điển Phật giáo giống như biển, nhưng tập trung lại gồm 37 điều, đó là: bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy phần trợ Bồ Đề và tám thánh đạo. Tóm lại, Phật giáo tuy có rất nhiều lý thuyết, nhưng giáo lý cơ bản vẫn là 37 điều kể trên đây. Dự như tứ niệm xứ, 4 chủ đích mà người Phật tử phải nhớ nghĩ, là thân thể không trong sạch (quán thân bất tịnh), cảm thọ mình thường không vui (quán thọ thị khổ), lòng mình không bao giờ nằm một chỗ cả (quán tâm vô ngã) và mọi vật đều không có gì vững chãi (quán pháp vô thường), là căn bản cuả tất cả phương pháp thiền Phật giáo thuộc mọi trường phái cuả Nam lẫn Bắc tông.
Điểm thứ hai sau khi xác định cốt lõi của tư tưởng Phật giáo là gì rổi thì Mâu Tử xác định ngay lý tưởng mà Phật giáo phải đạt đến, đó là sự giác ngộ, tức là Phật. Bởi vì Phật là gì? Mâu Tử định nghĩa, theo điều 2: "Phật là nguyên tố của đạo đức, đầu mối của thần minh. Nói Phật nghĩa là giác, biến hóa nhanh chóng phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất, có thể lớn, có thể nhỏ, ẩn được hiện được, đạp lửa không bỏng, đi dao không đau...". Đây là một đức Phật có tất cả mọi quyền năng, không phải là Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Quan niệm về Phật của Mâu Tử do thế hoàn toàn phù hợp với cuộc tổng kết quá trình bản địa hóa giáo lý và bản địa hóa tư tưởng từ thời Chữ Đồng Tử thông qua Bát Nàn, cho đến Khâu Đà La với quá trình bản địa hóa Phật giáo tại Việt Nam. Cuộc tổng kết này thành hình trong bối cảnh giao lưu với những nền văn hóa khác.
Điểm thứ ba trong Mâu Tử là bình đẳng, "tất cả mọi loài hàm huyết đều thuộc về Phật cả, đều có Phật tánh cả" (điều 14). Dân tộc ta không sợ bất cứ nền văn hóa nào muốn áp đặt lên đất nước chúng ta, cũng không đi đến chỗ cực đoan là tự tiện kỳ thị những dân tộc khác, chính là vì quan niệm ai cũng có Phật tánh, ai đều thuộc về Phật này. Để trả lời câu của Lưu Hy, nói là dân tộc ta không có lễ nghĩa, vượt quá lễ nghĩa. Mâu Tử khẳng định tính bình đẳng của con người. Và dân tộc ta đã giữ vững quan điểm đó và chống lại bất kỳ một áp đảo nào.
Từ khái niệm bình đẳng đó phát sinh một khái niệm mới, là khái niệm bao dung. Vì tất cả mọi người đều có Phật cho nên ta phải bao dung, phải tôn trọng tánh Phật nơi người khác và chấp nhận họ một cách dễ dàng dừ hình thù, quan điểm, giới tính, ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa, tôn giáo v.v..., họ có khác ta. Trong lịch sử Việt Nam, dân tộc ta chưa bao giờ đi đến cực đoan về mọi phương diện; về phía Phật giáo lại càng không bao giờ có chủ trương cực đoan, loại bỏ những gì bất đồng chính kiến với đạo Phật. Dân tộc ta lớn mạnh cũng nhờ vào sự sẵn sàng chấp nhận và bao dung những người khác, những văn hóa khác. Đây có thể nói là ba đóng góp lớn cuả Mâu Tử đối với dân tộc ta.
Ngoài ra, từ quan điểm bao dung về Phật tính, xuất phát một quan điểm mới đối với phương bắc, là "Hán địa vị tất là trung tâm của trời (đất)". Mọi người đều bình đẳng như nhau thì không có lý do gì mà có một người ngồi chính giữa (trung tâm) để khinh rẽ những người chung quanh là man di mọi rợ; không thể có một nước xưng là trung tâm cuả trời đất để gọi nước ta là Nam Dao hay Nam Hoang, như Tiết Oánh, con Tiết Tôn, từng có thái đô, để phải bị Mâu Tử bài bác. Phải nhìn cái không khí dân tộc, đầy hận thù dân tộc, đầy kỳ thị văn minh như thế, ta mới thấy chuyện đề ra một khái niệm là "đất Hán không phải là trung tâm cuả trời đất" là một đóng góp to lớn đối với dân tộc ta. Không những đối với dân tộc ta vào thời đó mà ngay cả đến bây giờ và đối với các dân tộc khác. Tình hình học thuật thời Mâu Tử là như thế.
Tóm lại phải đặt những quan điểm của Mâu Tử qua Lý hoặc luận trong không khí học thuật thời đó mới thấy được giá trị của nó. Tách rời nó ra ngoài cái không khí học thuật và hoàn cảnh mà nó ra đời thì ta không hiểu gì được. Những sai lầm cuả các học giả trước đây là đã quên mất lợi điểm này, chỉ biết nhìn Lý hoặc luận từ góc độ cuả ngưòi Trung Quốc. Tuy có người như Fukui Kojun đã đề cập tới cái hoàn cảnh chính trị của Giao Châu thời đó, nhưng cũng chỉ qua loa mà không phân tích sâu, nên cũng không nhận định rõ giá trị đóng góp của Mâu Tử vào nền văn hóa của đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam. Những người khác đều không ai thấy được điểm này.
Chỉ khi đặt Mâu Tử vào trong không khí học thuật và hoàn cảnh thời đó, ta mới thấy rõ và mới có thể phục chế phần nào cái bối cảnh lịch sử và tình hình nước ta vào lúc đó. Phục chế tình hình chính trị, tình hình tư tưởng, tình hình học thuật, tình hình kinh tế, tình hình văn hóa, bên ngoài những sử liệu giới hạn hiện có. Một bên thì sách vở thời bấy giờ hết sức cực đoan. Thì Thư được dạy như là những lời dạy bất di bất dịch của thánh hiền, cộng thêm những người diễn giảng như Lưu Hy và Tiết Tôn bảo phải sùng bái Thi Thư như chân lý, và tôn kính "đất Hán là trung tâm của trời đất", ngoài đất Hán ra không còn đất nào khác. Một bên là Mâu Tử thẳng thừng tuyên bố: "Thi Thư chưa hẳn là lời thánh hiền" và "Đất Hán chưa hẳn là trung tâm cuả trời đất", làm nên những cú đánh sấm sét đả phá ngay quan niệm hẹp hòi, độc tôn đó.
Chỉ từ một quan điểm như thế, mới hiểu tại sao một dân tộc bé nhỏ như chúng ta có thể thành công trong công cuộc đối thảo với một dân tộc to nhiều như dân nhà Hán. Mâu Tử đã đạt được thành công, đến thời Khương Tăng Hội rồi sau này đến Đạo Thanh cũng đã thàn công qua việc đưa địa bàn văn chiến lên phương bắc. Khương Tăng Hội chống gậy bắc du giảng đạo, cùng đem sách vở dịch phẩm lên Trung Quốc; sau đó mấy mươi năm, Đạo Thanh lại tiếp nối cuộc văn chiến đó bằng cách đưa bản dịch Pháp Hoa tam muội kinh lên. Cả một cao trào khẳng định vị trí văn hóa cuả dân tộc ta, chống lại nền văn hóa nô dịch cuả phương Bắc, là như thế. Không thấy được điều này, không đặt Mâu Tử vào trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì ta không thể nào hiểu được Mâu Tử Lý hoặc luận và cứ cho đấy là tác phẩm của người Trung Hoa. Vì thế và những quan điểm lớn của Mâu Tử là thế. ( Trang 297)