iên Thọ đại sư, tự Xung
Huyền, người đời Tống, con của họ Vương ở Tiền Đường. Lúc thiếu thời,
Ngài thích tụng kinh Pháp Hoa, cảm đến bầy dê quỳ mọp nghe kinh.
Lớn
lên, Xung Huyền được Văn Mục Vương tuyển dụng, cho làm quan trông nom về
thuế vụ. Nhiều lần Ngài lấy tiền công quỹ đến Tây Hồ mua cá trạnh phóng
sinh. Việc phát giác ra, bị Pháp ty thẩm định, xử Ngài vào tội tử hình.
Lúc sắp đem đi chém, Văn Mục Vương bí mật cho người rình xem, nếu thấy
Ngài nhan sắc thản nhiên, không tỏ về buồn rầu lo sợ, thì phải đem về
trình lại. Thấy Ngài trước sau vẫn an điềm, Sứ giả trao sắc chỉ cho quan
Giám trảm, rồi dẫn về diện kiến vua. Khi Vương hỏi duyên cớ, Ngài đáp:
“Tôi tự dụng của công, đáng tội chết. Nhưng toàn số tiền đó, tôi dùng
mua cứu được muôn ức sinh mạng, thì dù thân này có chết, cũng được vãng
sinh về cõi Liên Bang, vì thế nên tôi không lo sợ”. Văn Mục Vương nghe
qua cảm động, ra lệnh tha bổng. Ngài xin xuất gia, Vương bằng lòng.
Sau
đó, Ngài đến quy đầu với Thúy Nham thiền sư ở Tứ Minh. Kế lại tham học
với Thiều Quốc Sư ở Thiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc sư ấn khả.
Ngài từng tu Pháp Hoa Sám ở chùa Quốc Thanh. Trong lúc thiền quán, thấy
đức Quán Thế Âm Bồ-tát rưới nước cam lồ vào miệng, từ đó được biện tài
vô ngại. Do túc nguyện muốn chuyên chủ về Thiền hoặc Tịnh mà chưa quyết
định, Ngài đến thiền viện của Trí Giả đại sư, làm hai lá thăm: một lá đề
Nhất Tâm Thiền Định, còn lá kia là Trang Nghiêm Tịnh Độ. Kế lại chí tâm
đảnh lễ Tam Bảo sám hối, cầu xin gia bị. Đến khi rút thăm, luôn bảy lần
đều nhằm lá Trang Nghiêm Tịnh Độ. Từ đây, Ngài nhất ý tu về Tịnh
nghiệp.
Năm
Kiến Long thứ Hai đời Tống, Trung Ý Vương thỉnh Ngài trụ trì chùa Vĩnh
Minh, tôn hiệu là Trí Giác Thiền Sư. Ngài ở đây trước sau mười lăm năm,
độ được một ngàn bảy trăm vị Tăng.
Đại
sư lập công khóa, mỗi ngày đêm hành trì một trăm lẻ tám điều và hai điều
đặc biệt trong đó, là tụng một bộ kinh Pháp Hoa, niệm mười muôn câu
Phật hiệu. Ban đêm, khi Ngài qua gộp núi khác niệm Phật, những người ở
gần nghe tiếng loa pháp cùng thiên nhạc trầm bổng du dương.
Về
kinh Pháp Hoa, trọn đời Ngài tụng được một muôn ba ngàn bộ.
Đại
sư thường truyền giới Bồ-tát, mua chim cá phóng sinh, thí thực cho quỷ
thần, tất cả công đức đều hồi hướng về Tịnh độ. Ngài có trước tác một
trăm quyển Tông Cảnh Lục, hội chỉ thú dị đồng của ba tông: Hoa Nghiêm,
Pháp Hoa và Duy Thức.
Đại
sư lại soạn ra tập Vạn Thiện Đồng Quy. Trong đây, lời lẽ chỉ dạy về Tịnh
độ rất thiết yếu, đại lược như sau:
Hỗi:
Cảnh Duy tâm Tịnh độ đầy khắp mười phương, sao
không hướng nhập mà lại khởi lòng thủ xả, cầu về Cực Lạc gởi chất ở đài
sen. Như thế, đâu hợp với lý Vô sinh, và đã có tâm chán uế ưa tịnh thì
đâu thành bình đẳng?
ấp:
Sinh Duy tâm Tịnh độ là phần của các bậc đã liễu
ngộ tự tâm, chứng được Pháp thân vô tướng. Tuy nhiên, theo kinh Như Lai
Bất Từ Nghị Cảnh Giới thì những bậc chứng Sơ địa vào Duy tâm Tịnh độ
cũng nguyện xả thân để mau sinh về Cực Lạc. Thế thì biết ngoài tâm không
pháp, cảnh Cực Lạc đâu ngoài Duy tâm? Còn về Phần “Lý Vô sinh mà môn
bình đẳng”, tuy lý thuyết là như thế, nhưng kẻ lực lượng chưa đủ, trí
cạn tâm thô, tập nhiễm nặng, lại gặp cảnh trần lôi cuốn mạnh mẽ, dễ gì
mà chứng nhập được! Những kẻ ấy cần phải cầu sinh Cực Lạc, nhờ cảnh
duyên thắng diệu ở đó mới mau chứng vào Tịnh độ Duy tâm và thực hành
Bồ-tát.
Thập
Nghi Luận cũng nói: “Bậc trí tuy liễu Vô sinh, song vẫn hăng hái cầu về
Tịnh độ, vì thấu suốt sinh thể như huyễn không thể tìm được. Đó mới thật
là chân Vô sinh. Còn kẻ ngu không hiểu lý ấy, bị nghĩa sinh ràng buộc
nghe nói sinh thì nghĩ rằng thật có tướng sinh, nghe nói Vô sinh lại
tưởng lầm là không sinh về đâu cả. Do đó, họ mới khởi niệm thị phi chê
bai lẫn nhau, gây thành nghiệp tà kiến báng pháp. Đáng thương thay!”.
Hỗi:
Kinh luận nói: “Ngoài tâm không pháp, Phật
không khứ lai”. Nhưng sao người tu Tịnh độ lại thấy Thánh tướng và việc
Phật đến rước là như thế nào?
ấp:
Kinh Bát Chu nói: “Như người nằm mơ thấy bảy thứ
báu, hàng thân thuộc đều cùng vui mừng. Đến lúc thức tỉnh nghĩ lại,
chẳng biết cảnh sang giàu ấy ở đâu? Sự việc niệm Phật cũng như vậy”. Thế
thì biết các cảnh đều như huyễn do duy tâm hiện, tức có mà không, tuy
hiện tướng khứ lai song thật không có đến đi. Cho nên, Thánh cảnh tuy
như huyễn, song chẳng phải không có huyễn tướng; việc đến đi tuy không
thật, song chẳng ngại gì có tướng khứ lai. Đó là lý trung đạo. Huyễn sắc
tức chân không chính huyễn sắc, có và không đều vô ngại. Tất cả sự và
cảnh chúng sinh đang sống ở thế gian này cũng đều như thế.
Thật
ra, chân cảnh của duy tâm, không có Đông Tây cùng phương hướng, không có
đến đi qua lại, cũng không có một pháp nào ngoài tâm. Nhưng với bậc đã
dứt trừ nghiệp hoặc, chứng Vô sinh nhẫn, vào Thật tướng của Pháp thân,
mới dám đương sánh huyền lý trên đây. Còn hàng sơ tâm mới tu, chớ nên
lầm tự nhận.
Hỗi:
Theo Quán kinh thì phải nhiếp tâm vào định,
quán y báo chánh báo cõi Cực Lạc rõ ràng, mới có thể về Tịnh độ. Tại sao
kẻ chưa vào định, tu môn Trì danh cũng được vãng sinh?
ấp: Chín phẩm
sen ở Cực Lạc gồm nhiếp tất cả công hạnh thấp cao, song không ngoài hai
điểm: Định tâm và Chuyên tâm.
1. Định tâm hay định thiện, là những vị
tu tập quán pháp thành công, hoặc trì danh hiệu được vào Tam-muội. Các
vị này sẽ sinh về Thượng phẩm.
2. Chuyên tâm hay tán thiện, là những
người chỉ niệm danh hiệu chưa được vào Tam-muội, hoặc tu các công đức
lành khác trợ giúp, rồi phát nguyện hồi hướng. Hạng người này cũng được
dự vào các phẩm thấp hơn, nhưng cần phải trọn đời quy mạng Tây Phương và
chuyên cần tu tập. Lúc ngồi nằm, thường xây mặt về Tây Phương. Khi niệm
Phật, lúc phát nguyện, phải chí thành không xao lãng. Tâm niệm khẩn
thiết ấy ví như kẻ bị gông xiềng tù ngục cầu mau thoát ly, người lâm
cảnh lửa cháy, nước trôi, hoặc giặc cướp rượt đuổi mong được thoát khỏi
nạn. Lại phải vì sự sống chết, phát lòng Bồ-đề, cầu sinh Tây Phương, mau
thành Thánh đạo để đền đáp bốn ân, nối thạnh Tam Bảo, độ khắp muôn
loài. Chí thành như thế, quyết chắc sẽ được kết quả.
Trái lại, nếu lời và hạnh không hợp
nhau, sức Tín Nguyện yếu kém, tâm không chuyên nhất, sự tu hành không
tương tục thì khó hy vọng thành công. Bởi kẻ biếng trễ như thế e khi lâm
chung bị nghiệp chướng trở ngăn, chẳng gặp bạn lành, lại thêm thân thể
đau nhức, tâm thức hôn mê, không thành chánh niệm. Vì sao? Bởi hiện tại
là nhân, khi lâm chung là quả. Cần phải nhân cho chắc thật, quả mới
không hư luống, như tiếng hòa nhã thì vang dịu dàng, hình ngay tất bóng
thẳng vậy. Nếu muốn khi sắp chết mười niệm thành công, thì ngay lúc hiện
tại phải một lòng chí thiết tinh tấn tu hành, tất không còn điều chi lo
ngại.
Đại khái, chúng sinh bởi tâm chia thiện
ác, nên báo có khổ vui. Do nơi ba nghiệp tạo thành, mới khiến sáu đường
luân chuyển. Nếu tâm sân hận, tà dâm, đó là nghiệp Địa ngục; tâm tham
lam, bỏn xẻn là nghiệp Ngạ quỷ; tâm ngu si, tà kiến là nghiệp Súc sinh;
tâm ngã mạn, tự cao là nghiệp Tu-la. Giữ bền Ngũ giới, là nghiệp người.
Tiến tu Thập Thiện là nghiệp Trời. Chứng ngộ nhân không, là nghiệp Duyên
giác. Tu trọn Lục độ, là nghiệp Bồ-tát. Chân từ bình đẳng là nghiệp
Phật.
Nếu tâm thanh tịnh niệm Phật thì hóa
sinh về Tịnh độ, ở nơi bảo các hương đài. Như ý mê tối đục nhơ, tất bởi
chất cõi uế bang, nương cảnh nổng gò hầm hố. Cho nên, lìa được tự tâm
không còn biệt thể, muốn được quả tịnh phải chủng nhân mầu. Như tánh
nước chảy xuống, tánh lửa bốc lên, lý thế tất nhiên, có chi mà ngờ vực!
Đại sư lại vì người đương thời còn phân
vân giữa Thiền và Tịnh, chưa biết tu môn nào được kết quả chắc chắn, nên
làm kệ Tứ Liệu Giản để so sánh sự lợi hại như sau:
“Có Thiền không Tịnh
độ
Mười người, chín lạc lộ.
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ.
Vãng sinh thấy Di-đà
Lo gì chẳng khai ngộ?
Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ.
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật, Tổ.
Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa”.
Niện hiệu Khai Bảo thứ tám, ngày 26
tháng 02 vào buổi sáng sớm, Đại sư lên chánh điện đốt hương lễ Phật. Lễ
xong, Ngài họp đại chúng lại dặn dò khuyên bảo, rồi ngồi kiết già trên
pháp tòa mà tịch, thọ 72 tuổi.
Về sau, có vị Tăng từ Lâm Xuyên đến,
trọn năm kinh hành lễ tháp của Đại sư. Có người hỏi duyên cớ, vị Tăng
đáp: “Năm trước tôi bị bệnh nặng, thần thức vào cõi U minh, thấy bên tả
đại điện có thờ tượng một vị Hòa thượng, Minh Vương đang cung kính lễ
bái tượng ấy. Tôi thưa hỏi nguyên do, mới biết đó là tượng Diên Thọ
thiền sư ở chùa Vĩnh Minh tại Hàng Châu. Ngài đã vãng sinh về phẩm
Thượng thượng nơi cõi Cực Lạc. Minh Vương trọng đức nên kính thờ”.
Theo truyện ký, vào thời Ngô Việt Vương,
tại Hàng Châu có Hòa thượng Hành Tu, trụ trì chùa Pháp Tướng. Ngài vốn
con nhà họ Trần ở Tuyền Nam, sinh ra có tướng lạ, hai tai dài chấm tới
vai, đến bảy tuổi vẫn không nói. Một hôm, có người đùa hỏi, Ngài bỗng
ứng tiếng đáp: “Nếu không gặp bậc tác gia, nói cho lắm chỉ xô phá lầu
khói mà thôi!”.
Sau Ngài xuất gia ở chùa Ngõa Quan tại
Kim Lăng, tham phỏng với Tuyết Phong thiền sư, ngộ được tâm ấn. Từ đó,
mãnh thú gặp Ngài đều thuần thục, từng nổi tiếng là ông Tăng có nhiều sự
phi thường, linh dị. Có một Đại đức hỏi: “Thế nào ý nghĩa của đôi tai
dài?”. Ngài không đáp, chỉ kéo dài hai tai mà biểu thị. Lại hỏi: “Chót
núi phương Nam có khó đến chăng?”. Ngài đáp: “Chỉ tại chưa từng đi đến”.
Hỏi: “Sau khi đến rồi như thế nào?”. Đáp: “Một mình nằm nghỉ đỉnh non
cao”.
Ngô Việt Vương nhân khi đến chùa lễ
Phật, có hỏi ngài Vĩnh Minh: “Bạch tôn đức! Thời nay có bậc chân Tăng
nào khác chăng?”. Đại sư đáp: “Có Hòa thượng Hành Tu, đôi tai dài, chính
là Phật Định Quang ứng thân đấy!”. Vương tìm đến ngài Hành Tu cung kính
đảnh lễ, tôn xưng là Định Quang Như lai ra đời. Ngài bảo: “Vĩnh Minh
đại sư thật khéo nhiều lời. Ông ta cũng chính là Phật A-di-đà ứng thân
đó”. Nói xong, ngồi yên mà hóa. Ngô Việt Vương vội vã trở về chùa Vĩnh
Minh định gạn hỏi hết, thì Đại sư cũng đã thị tịch.
Do đó, người đương thời truyền nhau:
Vĩnh Minh đại sư là Phật A-di-đà ứng hóa. Và hàng Tăng tục mới lấy ngày
sinh nhật của Đại sư ngày 17 tháng 11 là lễ vía kỷ niệm Phật A-di-đà.