Giới thiệu & Giảng giải Luận tạng
Tóm tắt Vi Diệu Pháp (Phần II)
26/07/2554 23:38 (GMT+7) Kích cỡ chữ:
A Comprehensive Manual of Abhidhamma - The Abhidhammattha Sangaha of Acariya Anuruddha
General editor Bhikkhu Bodhi
Pali Text originally edited and translated by::
Mahathera Narada Việt Dịch: Lê Văn Phúc - hiệu đính và trình bày: Minh Hạnh
Phần II
The Seven Books
A brief outline of the contents of the seven canonical Abhidhamma
books will provide some insight into the plethora of textual material to
be condensed and summarized by the Abhidhammattha Sangaha. The first book, the Dhammasangani,
is the fountainhead of the entire system. The title may be translated
"Enumeration of Phenomena," and the work does in fact undertake to
compile an exhaustive catalog of the ultimate constituents of existence.
|
Bảy Quyển Tạng Luận
Việc tóm tắt nội dung cuả bảy quyển trong kho tàng Tạng Luận sẽ cung
cấp một cái nhìn xuyên suốt vào khối văn bản đồ sộ này được cô đúc, tóm
lược trong Vi Diệu Pháp Toát Yếu Abhidhammattha Sangala. Quyển đầu tiên,
Bộ Pháp Tụ - Dhammasangani, là suối nguồn cuả toàn hệ thống. Tưạ đề có
thể dịch là “Pháp Tụ”, và tác phẩm làm công việc rõ ràng là soạn thảo
một bản thống kê hoàn chỉnh các yếu tố cấu thành tối thượng cuả hiện
thực.
|
Opening with the matika,
the schedule of categories which serves as the framework for the whole
Abhidhamma, the text proper is divided into four chapters. The first,
"States of Consciousness," takes up about half of the book and unfolds
as an analysis of the first triad in the matika, that of the
wholesome, the unwholesome, and the indeterminate. To supply that
analysis, the text enumerates 121 types of consciousness classified by
way of their ethical quality.9
Each type of consciousness is in turn dissected into its concomitant
mental factors, which are individually defined in full. The second
chapter, "On Matter," continues the inquiry into the ethically
indeterminate by enumerating and classifying the different types of
material phenomena. The third chapter, called "The Summary," offers
concise explanations of all the terms in the Abhidhamma matrix and the
Suttanta matrix as well. Finally, a concluding "Synopsis" provides a
more condensed explanation of the Abhidhamma matrix but omits the
Suttanta matrix.
|
Mở đầu với Mẫu Đề-Matika, bản lược đồ về các phạm trù làm khung cho toàn
bộ Luận, bản Chú Giải được chia thành bốn chương. Chương thứ nhất “Các
trạng thái cuả Ý thức,” chiếm khoảng nưả cuốn sách và mở ra như là một
bản phân tích bộ ba đầu tiên trong Mẫu Đề-Matika, an lành, không an
lành và cái giưã cuả hai cái đó. Để phân tích điều đó, bản Chú Giải liệt
kê 121 loại ý thức phân loại bằng phẩm chất đạo đức cuả chúng.9
Mỗi loại ý thức lại được phân ra các yếu tố tinh thần tuỳ thuộc, mà mỗi
cái được định nghiã đầy đủ. Chương hai, “Về Chất” , tiếp tục tìm hiểu
các yếu tố trung gian sẵn có bằng cách liệt kê và phân loại các loại
hiện tượng vật chất khác nhau. Chương ba, gọi là “Tóm tắt,” đưa ra các
giải thích về tất cả các thuật ngữ trong trận đồ Luận và cũng như trong
Tạng Kinh.
|
The Vibhanga, the
"Book of Analysis," consists of eighteen chapters, each a self-contained
dissertation, dealing in turn with the following: aggregates, sense
bases, elements, truths, faculties, dependent arising, foundations of
mindfulness, supreme efforts, means to accomplishment, factors of
enlightenment, the eightfold path, jhanas, illimitables, training rules,
analytical knowledges, kinds of knowledge, minor points (a numerical
inventory of defilements), and "the heart of the doctrine" (dhammahadaya), a psycho-cosmic topography of the Buddhist universe. Most of the chapters in the Vibhanga,
though not all, involve three sub-sections: an analysis according to
the methodology of the Suttas; an analysis according to the methodology
of the Abhidhamma proper; and an interrogation section, which applies
the categories of the matrix to the subject under investigation.
|
The Vibhanga, “quyển Phân tích”, gồm tám chương, mỗi chương là một chủ
đề trọn vẹn, lần lượt đề cập đến các vấn đề sau: uẩn, căn, đại, chân
lý, năng lưc, duyên sinh, cơ sở cuả trí, nỗ lực tối thượng, các yếu tố
cuả ngộ, bát chính đạo, các cảnh giới thiền, vô hạn, nguyên tắc rèn
luyện,tri kiến phân tích, các loại tri kiến, các tiểu tiết (liệt kê các
bất tịnh) và tâm cuả pháp (Dhammahadaya), và đồ hình tâm lý vũ trụ cuả
vũ trụ Phật giáo. Hầu hết các chương trong quy ển Phân Tích-Vihanga, mặc
dù không phải là tất cả, liên quan đến ba phần nhỏ: phân tích theo
phương pháp luận cuả chư Kinh, phân tích theo phương pháp luận cuả chính
Luận; và phần tra vấn, áp dụng các phạm trù cuả trận đồ vào chủ đề
nghiên cứu.
|
The Dhatukatha, the
"Discourse on Elements," is written entirely in catechism form. It
discusses all phenomena with reference to the three schemata of
aggregates, sense bases, and elements, seeking to determine whether, and
to what extent, they are included or not included in them, and whether
they are associated with them or dissociated from them.
|
Dhatukatha, “Bộ Chất Ngữ” được viết dưới dạng tóm tắt hỏi đáp. Nó thảo
luận tất cả các hiện tượng với sự tham chiếu các sơ đồ uẩn, căn, đại,
tìm cách xét xem các hiện tượng ấy có bao gồm trong, hay quan hệ hay
không quan hệ với ba yếu tố đó và ở chừng múc nào
|
The Puggalapaññatti,
"Concepts of Individuals," is the one book of the Abhidhamma Pitaka that
is more akin to the method of the Suttas than to the Abhidhamma proper.
The work begins with a general enumeration of types of concepts, and
this suggests that it was originally intended as a supplement to the
other books in order to take account of the conceptual realities
excluded by the strict application of the Abhidhamma method. The bulk of
the work provides formal definitions of different types of individuals.
It has ten chapters: the first deals with single types of individuals;
the second with pairs; the third with groups of three, etc.
|
Puggalapannatti, “Bộ Nhơn Chế Định” là một quyển trong Luận Tạng có
phương pháp giống Tạng Kinh hơn là Luận. Tác phẩm bắt đầu với việc đếm
tổng quát các loại khái niệm, và điều này cho thấy rằng khởi thuỷ nó
đươc dự định làm bổ sung cho các quyển khác để tính đến các thực thể
khái niệm bị loại ra khi áp dụng khắc khe phương pháp cuả Luận. Công
việc đồ sộ này cho những định nghiã chính thức cuả các loại cá thể khác
nhau. Có 10 chương:chương đầu đề cập các loại đơn lẻ cuả các cá thể;
chương hai về các căp; chương ba về các nhóm ba, v.v.
|
The Kathavatthu,
"Points of Controversy," is a polemical treatise ascribed to the Elder
Moggaliputta Tissa. He is said to have compiled it during the time of
Emperor Asoka, 218 years after the Buddha's Parinibbana, in order to
refute the heterodox opinions of the Buddhist schools outside the
Theravadin fold. The Commentaries defend its inclusion in the Canon by
holding that the Buddha himself, foreseeing the errors that would arise,
laid down the outline of rebuttal, which Moggaliputta Tissa merely
filled in according to the Master's intention.
|
Kathavatthu”Bộ Ngữ Tông” là những luận đề biện luận được cho là cuả
Trưởng lão Moggaliputta Tissa. Ông được cho là đã soạn nó vào thời Hoàng
đế Asoka, 218 sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để phản bác các ý kiến
không chính thống cuả các trường phái Phật giáo bên ngoài phạm vi cuả
phái Nguy ên Thủy Therevada. Các Bản Chú Giải cho rằng chúng cũng thuộc
vào các kho tàng kinh điển bằng cách lập luận rằng chính Đức Phật, thấy
trước rằng các sai lầm sẽ phát sinh, đã đưa ra khung cuả các câu trả
lời, mà Moggaliputta Tissa chỉ cần điền thêm vào theo định hướng cuả Đức
Phật.
|
The Yamaka, the "Book
of Pairs," has the purpose of resolving ambiguities and defining the
precise usage of technical terms. It is so called owing to its method of
treatment, which throughout employs the dual grouping of a question and
its converse formulation. For instance, the first pair of questions in
the first chapter runs thus: "Are all wholesome phenomena wholesome
roots? And are all wholesome roots wholesome phenomena?" The book
contains ten chapters: roots, aggregates, sense bases, elements, truths,
formations, latent dispositions, consciousness, phenomena, and
faculties.
|
Yamaka, “Bộ Song Đôi” nhằm mục đích giải quyết các sư hàm hồ và xác định
công dụng chính xác cuả các thuật ngữ. Nó được gọi bằng cái tên như vậy
do phương pháp giải quyết cuả nó, sử dụng xuyên suốt sự nhóm đôi cú một
vấn đề và phương thức đàm luận cuả nó. Chẳng hạn cặp các vấn đề đầu
tiên trong chương thứ nhất như sau: “Có phải tất cả các hiện tượng an
lành là căn nguyên an lành? Và tất cả các căn nguyên an lành là hiện
tượng an lành? Quyển này có 10 chương: các căn nguyên, uẩn, căn, đại,
chân, sắc, bản chất tiềm ẩn, ý thức, hiện tượng, và khả năng.
|
The Patthana, the
"Book of Conditional Relations," is probably the most important work of
the Abhidhamma Pitaka and thus is traditionally designated the "Great
Treatise" (mahapakarana). Gigantic in extent as well as in
substance, the book comprises five volumes totalling 2500 pages in the
Burmese-script Sixth Council edition. The purpose of the Patthana
is to apply its scheme of twenty-four conditional relations to all the
phenomena incorporated in the Abhidhamma matrix. The main body of the
work has four great divisions: origination according to the positive
method, according to the negative method, according to the
positive-negative method, and according to the negative-positive method.
Each of these in turn has six sub-divisions: origination of triads, of
dyads, of dyads and triads combined, of triads and dyads combined, of
triads and triads combined, and of dyads and dyads combined. Within this
pattern of twenty-four sections, the twenty-four modes of
conditionality are applied in due order to all the phenomena of
existence in all their conceivable permutations. Despite its dry and
tabular format, even from a "profane" humanistic viewpoint the Patthana
can easily qualify as one of the truly monumental products of the human
mind, astounding in its breadth of vision, its rigorous consistency,
and its painstaking attention to detail. To Theravada orthodoxy, it is
the most eloquent testimony to the Buddha's unimpeded knowledge of
omniscience.
|
Patthana, “Bộ Vị Trí” (bị qui định, có điều kiện, trói buộc ><
giải thoát) có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất cuả Luận Tạng và do đó
theo truyền thống vẫn được gọi là “Đại Luận Đề” (mahapakarana). Khổng lồ
về qui mô cũng như thực chất, quyển này gồm 5 quyển tổng cộng 2500
trang, ấn bản Hội đồng thứ 6, chữ Myanmar. Mục đích cuả Bộ Vị
Trí-Patthana là áp dụng sơ đồ hai mươi bốn quan hệ ràng buộc cuả nó vào
tất cả các hiện tượng được thành lập trong trận đồ của Tạng Luận. Bộ
phận chính cuả tác phẩm gồm bốn phần vĩ đại: Khởi nguyên theo phương
pháp tích cực, theo phương pháp tiêu cực, theo phương pháp tiêu-tích
cực và theo phương pháp tích-tiêu cực. Mỗi trong bốn phần này lại có sáu
tiểu phần: khởi nguyên cuả nhóm 3, cuả nhóm 2, cuả nhóm 2 và 3 kết hợp,
nhóm 3 và nhóm 2 kết hợp, cuả nhóm 3 và nhóm 3 kết hợp, và cuả nhóm 2
và nhóm 2 kết hợp. Trong mô hình này có 24 phần, hai mươi bốn thức điều
kiện được vận dụng đúng trật tự đối với các hiện tượng cuả hiện thực
trong các dạng biến đổi nhận thức được cuả chúng. Dù có tính khô khan,
nặng chất bảng biểu, ngay cả trên quan điểm nhân văn “thế tục” Patthana
có thể dễ dàng được đánh giá như là một trong những sản phẩm thật sự
kỳ vĩ cuả trí tuệ con người, đáng kinh ngạc trong tầm nhìn rộng lớn, sự
chặt chẽ nghiêm ngặt, và sự quan tâm cẩn trọng đến chi tiết. Đối với
chính thống giáo Therevada, đó chính là bằng chứng hùng hồn nhất về trí
huệ chí tôn vô ngại của Đức Phật.
|
The Commentaries
The books of the Abhidhamma Pitaka have inspired a voluminous mass of
exegetical literature composed in order to fill out, by way of
explanation and exemplification, the scaffoldings erected by the
canonical texts. The most important works of this class are the
authorized commentaries of Acariya Buddhaghosa. These are three in
number: the Atthasalini, "The Expositor," the commentary to the Dhammasangani; the Sammohavinodani, "The Dispeller of Delusion," the commentary to the Vibhanga; and the Pañcappakarana Atthakatha, the combined commentary to the other five treatises. To this same stratum of literature also belongs the Visuddhimagga,
"The Path of Purification," also composed by Buddhaghosa. Although this
last work is primarily an encyclopedic guide to meditation, its
chapters on "the soil of understanding" (XIV-XVII) lay out the theory to
be mastered prior to developing insight and thus constitute in effect a
compact dissertation on Abhidhamma. Each of the commentaries in turn
has its subcommentary (mulatika), by an elder of Sri Lanka named Acariya Ananda, and these in turn each have a sub-subcommentary (anutika), by Ananda's pupil Dhammapala (who is to be distinguished from the great Acariya Dhammapala, author of the tikas to Buddhaghosa's works).
|
Những bản chú giải
Các quyển cuả Luận Tạng đã tạo cảm hứng cho một khối lượng đồ sộ bài
viết có tính giảng giải được biên soạn nhằm lắp kín phần khung sườn do
bản văn cuả các kinh điển dựng nên, bằng cách giải thích nêu ví dụ.
Những tác phẩm quan trọng nhất thuộc loại này là các chú giải được công
nhận cuả Acariya Buddhaghosa. Có ba tác phẩm: Atthasalini, “Phát lộ”,
luận văn về Dhammasagani; Sammohavinodani, “ Loại trừ Vọng tưởng”, luận
văn về Vibhanga; và Pancappakarana Atthakatha, luận văn kết hợp cho 5
luận đề khác Visuddhimagga, “Thanh Tịnh Đạo” cũng thuộc bình diện văn
bản này cũng cuả Buddhaghosa. Tuy nhiên tác phẩm cuối này chủ yếu là sự
hướng dẫn bách khoa về thiền, các chương cuả nó về “ kiến giải” (XIV
-XVII) trình bày lý thuyết cần nắm vững trước khi tiến đến kiến chiếu
nội quan và do đó hình thành cách hiệu quả luận đề cô đọng về Luận. Mỗi
luận văn lại có tiểu luận văn (mulatika), do Trưởng lão cuả Sri Lanka
tên là Acariya Ananda, và những tiểu luận này lại có tiểu tiểu luận
(anutika), do học trò cuả Ananda là Dhammapala (khác với Acariya
Dhammapala tôn kính, tác giả cuả các luận văn về các tác phẩm cuả
Buddhaghosa).
|
When the authorship of the
Commentaries is ascribed to Acariya Buddhaghosa, it should not be
supposed that they are in any way original compositions, or even
original attempts to interpret traditional material. They are, rather,
carefully edited versions of the vast body of accumulated exegetical
material that Buddhaghosa found at the Mahavihara in Anuradhapura. This
material must have preceded the great commentator by centuries,
representing the collective efforts of generations of erudite Buddhist
teachers to elucidate the meaning of the canonical Abhidhamma. While it
is tempting to try to discern evidence of historical development in the
Commentaries over and beyond the ideas embedded in the Abhidhamma
Pitaka, it is risky to push this line too far, for a great deal of the
canonical Abhidhamma seems to require the Commentaries to contribute the
unifying context in which the individual elements hang together as
parts of a systematic whole and without which they lose important
dimensions of meaning. It is thus not unreasonable to assume that a
substantial portion of the commentarial apparatus originated in close
proximity to the canonical Abhidhamma and was transmitted concurrently
with the latter, though lacking the stamp of finality it was open to
modification and amplification in a way that the canonical texts were
not.
|
Khi tác quyền cuả các chú giải được cho là cuả Acariya Buddhaghosa, thì
không nên cho rằng, theo cách nào đó dù chúng là các bài luận gốc, hoặc
là nỗ lực gốc để diễn đạt các tư liệu truyền thống. Mà thực ra, chúng
là những bản được hiệu đính cẩn thận từ khối lượng lớn bao la cuả các tư
liệu giải thích mà Ngài Buddhaghosa tìm thấy ở Mahavihara ở
Anuradhapura. Tư liệu này ắt hẳn có trước nhà viết luận vĩ đại nhiều thế
kỷ, đại diện cho nỗ lực tập hợp cuả các thế hệ các nhà giảng dạy Phật
học uyên bác nhằm tìm hiểu ý nghiã cuả kho tàng kinh điển Luận Tạng.
Trong khi cố gắng làm rõ bằng cứ cuả sự phát triển có tính lịch sử trong
các Luận văn trên và vượt các ý tưởng gắn chặt trong Luận Tạng có sức
cuốn hút hấp dẫn, thì việc đẩy việc làm này đi quá xa cũng là nguy hiểm,
bởi vì phần nhiều Luận kinh điển dường như đòi hỏi các Luận văn đóng
góp các điều kiện quan hệ thống nhất trong đó mọi yếu tố riêng lẻ gắn
kết vào nhau như là các thành phần cuả toàn thể hệ thống và không có
điều đó chúng sẽ mất các chiều kích quan trọng cuả ý nghiã. Do đó mà
không phải không hợp lý khi cho rằng phần đáng kể cuả toàn bộ khối các
bản chú giải là bắt nguồn thật gần guĩ với Tạng Luận kinh điển và được
truyền bá đồng thời với Tạng Luận kinh điển, nhưng thiếu dấu ấn khoá sổ
nên nó để ngỏ cho sự thay đổi và đào sâu theo cách mà các chú giải kinh
điển không được như vậy.
|
Bearing this in mind, we
might briefly note a few of the Abhidhammic conceptions that are
characteristic of the Commentaries but either unknown or recessive in
the Abhidhamma Pitaka itself. One is the detailed account of the
cognitive process (cittavithi). While this conception seems to be
tacitly recognized in the canonical books, it now comes to be drawn out
for use as an explanatory tool in its own right. The functions of the cittas, the different types of consciousness, are specified, and in time the cittas themselves come to be designated by way of their functions. The term khana, "moment," replaces the canonical samaya,
"occasion," as the basic unit for delimiting the occurrence of events,
and the duration of a material phenomenon is determined to be seventeen
moments of mental phenomena. The division of a moment into three
sub-moments — arising, presence, and dissolution — also seems to be new
to the Commentaries.10 The organization of material phenomena into groups (kalapa),
though implied by the distinction between the primary elements of
matter and derived matter, is first spelled out in the Commentaries, as
is the specification of the heart-base (hadayavatthu) as the material basis for mind element and mind-consciousness element.
|
Xin lưu ý điều này, chúng ta có thể ghi nhận ngắn gọn một ít khái niệm
cuả Luận Tạng mang tính chất cuả các Luận văn nhưng hoặc là không được
biết đến hay là ẩn chưá trong chính Luận Tạng. Một trong số đó là bài về
quá trình nhận thức (cittavithi) Trong khi khái niệm này có vẻ như được
ngầm công nhận trong các kinh điển, bây giờ nó được đem ra sử dụng như
là công cụ giải thích vì yêu cầu cuả chính nó. Các chức năng cuả các
citta, các loại khác nhau cuả ý thức, được nêu cụ thể, và theo thời gian
chính các citta được gọi tên bằng chức năng cuả chúng. Thuật ngữ khana,
khoảnh khắc”, thay cho samaya (“cơ hội”) cuả kinh điển như là đơn vị cơ
bản gở bỏ giới hạn sự xuất hiện cuả các sự kiện, và khoản thời gian cuả
một hiện tượng vật chất được xác định bằng 17 khỏanh khắc cuả các hiện
tượng tinh thần. Sự phân chia một khoảnh khắc thành ba tiểu khoảnh khắc
- sinh, dị, diệt - có vẻ như cũng mới mẻ đối với các bản chú giải. Việc
tổ chức các hiện tượng vật chất thành các nhóm (kalapa), dù được hàm ý
bởi sự phân biệt giưã các yếu tố nguyên sơ cuả vật chất và những chất
phái sinh, lần đầu tiên được nêu rõ trong các bản chú giải, như là đặc
điểm cuả cơ sở tâm (hadayavatthu) như là cơ sở vật chất cuả các yếu tố
thuộc tâm về yếu tố tâm-thức.
|
The Commentaries introduce
many (though not all) of the categories for classifying kamma, and work
out the detailed correlations between kamma and its results. They also
close off the total number of mental factors (cetasika). The phrase in the Dhammasangani,
"or whatever other (unmentioned) conditionally arisen immaterial
phenomena there are on that occasion," apparently envisages an
open-ended universe of mental factors, which the Commentaries delimit by
specifying the "or-whatever states" (yevapanaka dhamma). Again,
the Commentaries consummate the dhamma theory by supplying the formal
definition of dhammas as "things which bear their own intrinsic nature" (attano sabhavam dharenti ti dhamma).
The task of defining specific dhammas is finally rounded off by the
extensive employment of the fourfold defining device of characteristic,
function, manifestation, and proximate cause, a device derived from a
pair of old exegetical texts, the Petakopadesa and the Nettipakarana.
|
Các bản chú giải giới thiệu nhiều (dù không hết) các phạm trù để phân
loại kamma (nghiệp), và đưa ra các mối quan hệ hỗ tương giưã kamma và
kết quả cuả nó. Chúng cũng chốt lải tổng số các yếu tố tinh thần. Cụm từ
trong Dhammasangani, “ hoặc bất cứ các hiện tượng phi vật chất duyên
sinh khác (chưa đề cập) có vào dịp đó,” rõ ràng hình dung một vũ trụ mở
cuả các yếu tinh thần, mà các bản chú giải đã gỡ bỏ giới hạn bằng cách
nêu rõ “ hoặc bất cứ trạng thái nào” (yevapanaka dhamma). Một lần nưã,
các bản chú giải hoàn chỉnh pháp luận bằng cách cung cấp định nghiã chư
pháp như là “ những sự vật mang bản chất tự thân” (attano sabhavam
dharenti ti dhamma). Nhiệm vụ định nghiã chư pháp cụ thể cuối cùng được
chỉnh chu bằng cách sử dụng chuyên sâu công cụ định nghiã bốn lớp về
tính chất, chức năng, biểu hiện và nguyên nhân gần kề, một công cụ xuất
phát từ hai bản văn giải thích cổ là Petakopadesa và Nettipakarana.
|
The Abhidhammattha Sangaha
As the Abhidhamma system, already massive in its canonical version,
grew in volume and complexity, it must have become increasingly unwieldy
for purposes of study and comprehension. Thus at a certain stage in the
evolution of Theravada Buddhist thought the need must have become felt
for concise summaries of the Abhidhamma as a whole in order to provide
the novice student of the subject with a clear picture of its main
outlines — faithfully and thoroughly, yet without an unmanageable mass
of detail.
|
Vi Diệu Pháp toát yếu
Khi hệ thống Luận, về mặt phiên bản kinh điển cuả nó đã là đồ sộ rồi,
phát triển thêm về dung lượng và độ phức tạp, thì việc nghiên cứu, lãnh
hội nó ắt hẳn phải càng trở nên khó khăn, nặng nề. Do đó ở một giai đoạn
tiến hoá nào đó cuả tư tưởng Phật giáo Therevada, người ta ắt phải cảm
thấy nhu cầu cần có những tóm tắt chính xác cuả Luận như là một tổng thể
để cung cấp cho những tân sinh về chủ đề này một cái nhìn rõ ràng về sơ
nét cấu tạo chính cuả nó - một cách thấu suốt và thành tín mà không
cần những chi tiết đồ sộ khó kham nổi.
|
To meet this need there began
to appear, perhaps as early as the fifth century and continuing well
through the twelfth, short manuals or compendia of the Abhidhamma. In
Burma these are called let-than or "little-finger manuals," of which there are nine:
|
Để đáp ứng nhu cầu này, đã bắt đầu xuất hiện, có lẽ sớm khoảng thế kỷ
15 và tiếp tục qua thế kỷ 12, các sổ tay ngắn gọn hay yếu lược cuả Luận.
Ở Miến Điện Myanmar, những quyển loại này được gọi là let-than hay là
“sổ tay ngón út”, trong có có chín như sau:
|
- Abhidhammattha Sangaha, by Acariya Anuruddha;
- Namarupa-pariccheda, by the same;
- Paramattha-vinicchaya, by the same (?);
- Abhidhammavatara, by Acariya Buddhadatta (a senior contemporary of Buddhaghosa);
- Ruparupa-vibhaga, by the same;
- Sacca-sankhepa, by Bhadanta Dhammapala (probably Sri Lankan; different from the great subcommentator);
- Moha-vicchedani, by Bhadanta Kassapa (South Indian or Sri Lankan);
- Khema-pakarana, by Bhadanta Khema (Sri Lankan);
- Namacara-dipaka, by Bhadanta Saddhamma Jotipala (Burman).
|
1) Abhidhammattha, cuả Acariya Anuruddha;
2) Namarupa-pariccheda, cùng tác giả
3) Paramattha-vinicchaya, cùng tác giả (?);
4) Abhidhammavatara cuả Acariya Buddhadatta ( một bậc trưởng thượng đồng thời với Buddhaghosa);
5) Ruparupa-vibhaga, cùng tác giả
6) Sacca-sankhepa, cuả Bhadanta Dhammapala (có lẽ người Sri Lanka; khác với nhà viết tiểu luận văn vĩ đại);
7) Moha-vicchedani, cuả Bhadanta Kassapa (Người Nam Ấn hoặc Sri Lanka);
8) Khema-pankarana, cuả Bhadanta Khema (người Sri Lanka);
9) Namacara-dipaka, cuả Bhadanta Saddhamma Jotipala (Người Myanmar).
|
Among these, the work that
has dominated Abhidhamma studies from about the twelfth century to the
present day is the first mentioned, the Abhidhammattha Sangaha,
"The Compendium of Things contained in the Abhidhamma." Its popularity
may be accounted for by its remarkable balance between concision and
comprehensiveness. Within its short scope all the essentials of the
Abhidhamma are briefly and carefully summarized. Although the book's
manner of treatment is extremely terse even to the point of obscurity
when read alone, when studied under a qualified teacher or with the aid
of an explanatory guide, it leads the student confidently through the
winding maze of the system to a clear perception of its entire
structure. For this reason throughout the Theravada Buddhist world the Abhidhammattha Sangaha
is always used as the first textbook in Abhidhamma studies. In Buddhist
monasteries, especially in Burma, novices and young bhikkhus are
required to learn the Sangaha by heart before they are permitted to study the books of the Abhidhamma Pitaka and its Commentaries.
|
Trong số đó, tác phẩm đã thống ngự việc tu học, nghiên cứu Luận từ khoản
thế kỷ 12 cho đến hiện nay là quyển được đề cập trước tiên, quyển
Abhidhammattha Sangaha, ( Vi Diệu Pháp toát yếu ). Nó được phổ biến có
lẽ do sự quân bình đáng khó bì cuả nó giưã tính chính xác và tính lĩnh
hội. Trong phạm vi ngắn gọn cuả nó mọi điều cốt yếu cuả Luân đã được tóm
gọn cẩn trọng. Dù rằng cách xử lý cuả sách thật ngắn gọn ngay cả với
những điểm không rõ ràng nếu đọc riêng lẻ, nhưng khi học tập, nghiên cứu
dưới sự hướng dẫn cuả một thầy có năng lực hoặc với sự hỗ trợ cuả người
hướng dẫn giải thích, nó dẫn dắt người học tự tin đi qua mê cung khúc
khuỷu cuả hệ thống để đạt đến sự nhận thức minh bạch về toàn bộ cấu trúc
cuả nó.Vì lý do đó, trong toàn bộ thế giới Phật giáo Therevada, Vi Diệu
Pháp toái yếu - Abhidhammattha Sangaha luôn được dùng như quyển sách
giáo khoa đầu tiên trong việc tu học Luận. Trong các tu viện Phật giáo,
đặc biệt là ở Miến Điện - Myanmar, tân sinh và các tỳ kheo trẻ được yêu
cầu học thuộc lòng Sangaha trước khi nghiên cứu các quyển thuộc Luận
Tạng và các Luận văn cuả nó.
|
Detailed information about
the author of the manual, Acariya Anuruddha, is virtually non-existent.
He is regarded as the author of two other manuals, cited above, and it
is believed in Buddhist countries that he wrote altogether nine
compendia, of which only these three have survived. The Paramattha-vinicchaya
is written in an elegant style of Pali and attains a high standard of
literary excellence. According to the colophon, its author was born in
Kaveri in the state of Kañcipura (Conjeevaram) in South India. Acariya
Buddhadatta and Acariya Buddhaghosa are also said to have resided in the
same area, and the subcommentator Acariya Dhammapala was probably a
native of the region. There is evidence that for several centuries
Kañcipura had been an important center of Theravada Buddhism from which
learned bhikkhus went to Sri Lanka for further study.
|
Những chi tiết về tác giả cuả quyển sổ tay này, Acariya Anuruddha, thật
ra không có. Ông được coi là tác giả cuả hai quyển sổ tay khác, như nêu
trên, và được các quốc gia Phật giáo tin rằng ngài đã viết cùng với chín
quyển yếu lược khác, trong đó chỉ có 3 quyển là còn sót lại. Quyển
Paramattha-vinicchaya được viết theo văn phong uyển chuyển cuả ngôn ngữ
Pali và đạt được đẳng cấp cao cuả văn chương tuyệt tác. Theo mấy dòng
ghi cuả nhà xuất bản, tác giả cuả nó sinh ra tại Kaveri, bang Kancipura
(Conjeevaram), Nam Ấn. Cả Acariya Buddhadatta và Acariya Buddhaghosa đều
được nói là ở cùng một vùng, và nhà viết tiểu luận văn Acariya
Dhammapala có lẻ là người bản điạ cuả vùng này. Có bằng cớ rằng trong
vòng mấy thế kỷ Kancipura đã là trung tâm quan trọng cuả Phật giáo
Therevada từ đó các tỳ kheo uyên bác đã đến Sri Lanka để tu học thêm.
|
It is not known exactly when
Acariya Anuruddha lived and wrote his manuals. An old monastic tradition
regards him as having been a fellow student of Acariya Buddhadatta
under the same teacher, which would place him in the fifth century.
According to this tradition, the two elders wrote their respective
books, the Abhidhammattha Sangaha and the Abhidhammavatara,
as gifts of gratitude to their teacher, who remarked: "Buddhadatta has
filled a room with all kinds of treasure and locked the door, while
Anuruddha has also filled a room with treasure but left the door open."11
Modern scholars, however, do not endorse this tradition, maintaining on
the basis of the style and content of Anuruddha's work that he could
not have lived earlier than the eighth century, more probably between
the tenth and early twelfth centuries.12
|
Không biết được chính xác Acariya Anuruddha sống vào thời gian nào và
viết các quyển sổ tay cuả ông khi nào. Truyền thuyết cổ trong tu viện
cho rằng ông từng là bạn học cùng thầy cuả Acariya Buddhadatta, điều này
đã đặt ông vào thế kỷ thứ năm. Theo truyền thuyết này, hai trưởng lão
viết các quyển sách tương ứng cuả mình, quyển Abhiddhammattha Sangaha và
quyển Abhidhammavatara, làm quà tạ ơn thầy mình, người nhận xét rằng:
“Buddhadatta đã chưá châu báu đầy phòng cuả mình và khoá cưả laị, trong
khi Anuruddha cũng chưá châu báu đầy phòng nhưng để cưả mở toang.” Tuy
nhiên các học giả hiện đại không xác nhận truyền tuyết này, cho rằng căn
cứ vào văn phong và nội dung cuả tác phẩm cuả Anuruddha thì ông không
thể nào sống sớm hơn thế kỷ thứ tám, có lẽ hơn là vào giưã thế kỷ mười
và đầu thế kỷ 9.
|
In the colophon to the Abhidhammattha Sangaha
Acariya Anuruddha states that he wrote the manual at the Mulasoma
Monastery, which all exegetical traditions place in Sri Lanka. There are
several ways to reconcile this fact with the concluding stanzas of the Paramattha-vinicchaya,
which state that he was born in Kañcipura. One hypothesis is that he
was of South Indian descent but came to Sri Lanka, where he wrote the Sangaha.
Another, advanced by G.P. Malalasekera, holds that he was a native of
Sri Lanka who spent time at Kañcipura (which, however, passes over his
statement that he was born in Kañcipura). Still a third
hypothesis, proposed by Ven. A.P. Buddhadatta Mahathera, asserts that
there were two different monks named Anuruddha, one in Sri Lanka who was
the author of the Abhidhammattha Sangaha, another in Kañcipura who wrote the Paramattha-vinicchaya.13
|
Trong dòng ghi cuả nhà xuất bản đối với quyển Abhidhammatta Sangaha,
Acariya Anuruddha nói rằng ông viết quyển sổ tay này tại tu viện
Mulasoma, mà tất cả các truyền thuyết giải thích cho rằng ở Sri Lanka.
Có mấy cách để dung hoà sự kiện này với các khổ thơ kết luận quyển
Paramattha-vinicchaya, nói rằng ông sinh ra tại Kancipura. Một giả
thuyết cho rằng ông là người gốc gác Nam Ấn nhưng di chuyển đến Sri
Lanka, nơi ông viết Sangaha. Một giả thuyết khác, do G.P.Malalasekera,
cho rằng ông là người bản điạ cuả Sri Lanka có trải qua thời gian ở
Kancipura (điều này tuy nhiên, bỏ qua xác nhận cuả ông là ông sinh ở
Kancipura). Vẫn còn giả thuyết thứ ba do Đại đức A.P. Buddhadatta
Mahathera đề xuất, khẳng định rằng có hai vị sư khác nhau tên Anuruddha,
một ở Sri Lanka, người là tác giả quyển Abhiddhammattha, và một người ở
Kancipura, viết quyển Paramattha-vinicchaya.
|
Commentaries on the Sangaha
Owing to its extreme concision, the Abhidhammattha Sangaha
cannot be easily understood without explanation. Therefore to elucidate
its terse and pithy synopsis of the Abhidhamma philosophy, a great
number of tikas or commentaries have been written upon it. In
fact, this work has probably stimulated more commentaries than any other
Pali text, written not only in the Pali language but also in Burmese,
Sinhala, Thai, etc. Since the fifteenth century Burma has been the
international center of Abhidhamma studies, and therefore we find many
commentaries written on it by Burmese scholars both in Pali and in
Burmese. Commentaries on the Sangaha in Pali alone number nineteen, of which the following are the most important:
|
Các Luận văn về Phân Loại - Sangaha
Vì vào tính cực kỳ cô động cuả nó, Vi Diệu Pháp toái yếu
-Abhidhammattha Sangaha không thể dễ dàng hiểu được nếu như không có sự
giảng giải. Vì thế làm sáng tỏ yếu lượt cô đúc đặc quánh cuả triết học
cuả Luận, một lượng rất lớn các tika hay là luận văn đã được viết về nó.
Thật ra, tác phẩm này có lẽ đã tạo ra cảm hứng cho nhiều luận văn hơn
bất cứ bản văn Pali nào khác, được viết không những bằng ngôn ngữ Pali
mà còn cả bằng tiếng Myamar, Sinhala, Thái v.v.Từ thế kỷ thứ 15, Myanmar
đã là trung tâm quốc tế về nghiên cứu Luận, và do đó chúng ta tìm thấy
nhiều luận văn viết về nó cuả các học giả Miến Điện (Myanmar) cả bằng
tiếng Pali và tiếng Myanmar.Các luận văn về Sangaha chỉ bằng tiếng Pali
không thôi cũng lên đến con số 19, trong đó quan trọng nhất là:
|
- Abhidhammatthasangaha-Tika, also known as the Porana-Tika, "the Old Commentary." This is a very small tika written in Sri Lanka in the twelfth century by an elder named Acariya Navavimalabuddhi.
|
Abhidhammatthasangaha - Tika, cũng còn biết đến như là Porona-Tika, “Cổ
Luận văn”. Đây là một tika nhỏ viết bằng tiếng Sri Lanka vào thế ky
12 bởi một trưởng lão tên là Acariya Navavimalabuddhi.
|
Abhidhammatthavibhavini-Tika, or in brief, the Vibhavini, written by Acariya Sumangalasami, pupil of the eminent Sri Lankan elder Sariputta Mahasami, also in the twelfth century. This tika quickly superceded the Old Commentary and is generally considered the most profound and reliable exegetical work on the Sangaha. In Burma this work is known as tika-gyaw,
"the Famous Commentary." The author is greatly respected for his
erudition and mastery of the Abhidhamma. He relies heavily on older
authorities such as the Abhidhamma-Anutika and the Visuddhimagga-Mahatika (also known as the Paramatthamanjusa). Although Ledi Sayadaw (see below) criticized the Vibhavini extensively in his own commentary on the Sangaha,
its popularity has not diminished but indeed has even increased, and
several Burmese scholars have risen to defend it against Ledi Sayadaw's
criticisms.
|
Abhidhammatthavibhavini - Tika, hay gọi tắt, Vibhavini, tác giả là
Acariya Sumangalasami, học trò cuả trưởng lão người Sri Lanka xuất
chúng, cũng vào thế kỷ 12. Tika này nhanh chóng thế chỗ Cổ Luận văn và
được nhìn nhận rộng rãi như là tác phẩm giải thích sâu sắc và đáng tin
cậy về Sangaha. Ở Myanmar, tác phẩm này có tên là tika-gyaw, “Luận văn
nổi tiếng”. Tác giả rất được kính trọng vì sự am tường và uyên bác cuả
ông về Luận. Ông dưạ nhiều vào các các phẩm có uy tín cổ như là
Abhidhamma-Anutika và Visuddhimagga-Mahatika (còn có tên là
Paramatthamanjusa) Mặc dù Ledi Sayadaw (xem bên dưới) phê bình mạnh mẽ
Vibhavini trong luận văn cuả mình về Sangaha, sự phổ biến cuả nó không
hề suy giảm mà thật sự còn tăng lên, và một số học giả Myanmar đã đứng
lên bảo vệ nó trước sự phê bình cuả Ladi Sayadaw.
|
Sankhepa-vannana,
written in the sixteenth century by Bhadanta Saddhamma Jotipala, also
known as Chapada Mahathera, a Burmese monk who visited Sri Lanka during
the reign of Parakramabahu VI of Kotte (fifteenth century).14
|
Sakhepa-vannana, được viết vào thế kỷ 16 do tác giả Bhadanta Saddhamma
Jotipala, còn có tên là Chapada Mahathera, một nhà sư Myanmar đã thăm
Sri Lanka trong thời trị vì cuả vua Parakramabahu VI cuạ triều đại Kotte
(thế kỷ 15).
|
Paramatthadipani-Tika,
"The Elucidation of the Ultimate Meaning," by Ledi Sayadaw. Ledi
Sayadaw of Burma (1846-1923) was one of the greatest scholar-monks and
meditation masters of the Theravada tradition in recent times. He was
the author of over seventy manuals on different aspects of Theravada
Buddhism, including philosophy, ethics, meditation practice, and Pali
grammar. His tika created a sensation in the field of Abhidhamma studies because he pointed out 325 places in the esteemed Vibhavini-tika
where he alleged that errors and misinterpretations had occurred,
though his criticisms also set off a reaction in defense of the older
work.
|
Paramatthadipani-Tika, “ Minh giảng vế Nghiã Tối thượng” cuả Ledi
Sayadaw cuả Myanmar (1845-1923) là một rong những nhà sư học giả và
thiền sư vĩ đại nhất cuả truyền thống Therevada thời cận đại. Ông là tác
giả cuả hơn 70 sổ tay về các phương diện khác nhau của Phật giáo
Therevada, gồm triết học, đạo đức học, tu tập thiền, và ngữ pháp Pali.
Tika cuả ông đã tạo nên một hiện tượng chấn động trong lĩnh vực nghiên
cứu Luận bởi vì ông chỉ ra 325 chỗ quan yếu trong Vibhavini-tika mà ông
cho là có sai lầm và hiểu sai, tuy nhiên sự phê bình cuả ông đã làm dấy
lên phản ứng bảo vệ tác phẩm cổ hơn đó.
|
Ankura-Tika, by Vimala Sayadaw. This tika was written fifteen years after the publication of the Paramatthadipani and supports the commonly accepted opinions of the Vibhavini against Ledi Sayadaw's criticisms.
|
Ankura-Tika, tác giả Vimala Sayadaw. Tika này đươc viết 15 năm sau khi
ấn hành quyển Paramatthadipani và ủng hộ các ý kiến được rộng rãi chấp
nhận về Vibhavini chống lại sư phê bình cuả Sayadaw,
|
Navanita-Tika, by the Indian scholar Dhammananda Kosambi, published originally in devanagari
script in 1933. The title of this work means literally "The Butter
Commentary," and it is so called probably because it explains the Sangaha in a smooth and simple manner, avoiding philosophical controversy.
|
Navanita-Tika, tác giả là học giả Ấn tên là Dhammananda Kosambi, thoạt
đầu xuất bản bằng chữ devanagari vào 1993. Tưạ quyển sách theo nghiã đen
là “Luận văn Bơ”, và được gọi như vậy có lẽ là do nó giải thích Sangal
bằng một cách trơn tru, gọn nhẹ, tránh những tranh cãi có tính triết học
|
Outline of the Sangaha
The Abhidhammattha Sangaha contains nine chapters. It opens by
enumerating the four ultimate realities — consciousness, mental
factors, matter, and Nibbana. The detailed analysis of these is the
project set for its first six chapters. Chapter I is the Compendium of
Consciousness, which defines and classifies the 89 and 121 cittas or types of consciousness. In scope this first chapter covers the same territory as the States of Consciousness chapter of the Dhammasangani, but it differs in approach. The canonical work begins with an analysis of the first triad in the matika,
and therefore initially classifies consciousness on the basis of the
three ethical qualities of wholesome, unwholesome, and indeterminate;
then within those categories it subdivides consciousness on the basis of
plane into the categories of sense sphere, fine-material sphere,
immaterial sphere, and supramundane. The Sangaha, on the other hand, not being bound to the matika, first divides consciousness on the basis of plane, and then subdivides it on the basis of ethical quality.
|
Sơ lược về Sangaha
Quyển Abhidhammattha Sangaha có chín chương. Nó mở đầu bằng cách liệt kê
bốn thực thể tối thượng - ý thức, các yếu tố tinh thần, vật chất và
Niết bàn. Phân tích chi tiết các yếu tố này được đặt ra cho 6 chương
đầu. Chương I là Khái quát về Ý thức, định nghiã và phân loại 89 và 121
loại ý thức. Tầm bao quát cuả chương thứ nhất cũng đề cập cùng lĩnh vực
như chương các Trạng thái cuả Ý thức cuả tác phẩm Dhammasangani, nhưng
khác về phương pháp. Tác phẩm kinh điển này bắt đầu với sự phân tích
nhóm ba đầu tiên trong matika, và do đó bắt đầu phân loại ý thức trên
cơ sở ba phẩm chất đạo đức cuả an lành (wholesome), không an lành, và
cái giưã hai cái trên (không quyết định); rồi trong phạm vi các phạm trù
đó nó phân nhỏ ý thức trên cơ sở bình diện thành những lĩnh vực giác
quan, lĩnh vực vật chất tế vi, lãnh vực phi vật chất và siêu phàm. Còn
Sangala, trái lại không bị ràng buộc vào matika, trước tiên chia ý thức
trên cơ sở bình diện và chia nhỏ nó trên cơ sở phẩm chất đạo đức.
|
The second chapter, the Compendium of Mental Factors, first enumerates the fifty-two cetasikas
or concomitants of consciousness, divided into four classes:
universals, occasionals, unwholesome factors, and beautiful factors.
Thereafter the factors are investigated by two complimentary methods:
first, the method of association (sampayoganaya), which takes the
mental factors as the unit of inquiry and elicits the types of
consciousness with which they are individually associated; and second,
the method of inclusion or combination (sangahanaya), which takes
the types of consciousness as the unit of inquiry and elicits the
mental factors that enter into the constitution of each. This chapter
again draws principally upon the first chapter of the Dhammasangani.
|
Chương hai, Khái quát vế các Yếu tố tinh thần, trước tiên liệt kê 52 tâm
sở - cetasika hay là các yếu tố tuỳ thuộc cuả ý thức, được chia ra làm 4
lớp chung nhất, cá biệt, các yếu tố không an lành (bất tịnh) và các yếu
tố tốt đẹp. Sau đó các yếu tố được nghiên cứu bằng hai phương pháp bổ
sung: trước tiên, phương pháp gắn kết (sampayoganaya), cho các yếu tố
tinh thần như là một đơn vị tra vấn và gợi mở các loại ý thức mà chúng
trực tiếp gắn kết; và thứ hai phương pháp bao gồm hay gộp (sangahanaya),
cho các loại ý thức là đơn vị tra vấn và gợi mở các yếu tố tinh thần
thâm nhập vào cơ cấu cuả nhau. Chương này cũng chủ yếu rút ra từ chương
thứ nhất cuả bộ Pháp Tụ - Dhammasagani.
|
The third chapter, entitled
Compendium of the Miscellaneous, classifies the types of consciousness
along with their factors with respect to six categories: root (hetu), feeling (vedana), function (kicca), door (dvara), object (arammana), and base (vatthu).
|
Chương ba, có tên là Khái quát các vấn đề linh tinh, xếp các loại ý thức
cùng với các yếu tố cuả nó theo 6 phạm trù: căn cội (hetu), cảm xúc
(feeling), chức năng (kicca), cưả (dvara), đối tượng (arammana), và cơ
sở (vatthu).
|
The first three chapters are
concerned principally with the structure of consciousness, both
internally and in relation to external variables. In contrast, the next
two chapters deal with the dynamics of consciousness, that is, with its
modes of occurrence. According to the Abhidhamma, consciousness occurs
in two distinct but intertwining modes — as active process and as
passive flow. Chapter IV explores the nature of the "cognitive process,"
Chapter V the passive "process-freed" flow, which it prefaces with a
survey of the traditional Buddhist cosmology. The exposition here is
largely based upon the Abhidhamma Commentaries. Chapter VI, Compendium
of Matter, turns from the mental realm to the material world. Based
primarily on the second chapter of the Dhammasangani, it
enumerates the types of material phenomena, classifies them in various
ways, and explains their modes of origination. It also introduces the
commentarial notion of material groups, which it treats in detail, and
describes the occurrence of material processes in the different realms
of existence. This chapter concludes with a short section on the fourth
ultimate reality, Nibbana, the only unconditioned element in the system.
|
Ba chương đầu liên quan chủ yếu đến cấu trúc cuả ý thức, cả nội tại và
trong mối quan hệ với các biến đổi bên ngoài. Trái lại hai chương tiếp
theo đề cập đến sự năng động cuả ý thức, tức là, với cách xuất hiện cuả
chúng. Theo Luận, ý thức xuất hiện theo hai cách riêng biệt nhưng xoắn
xuýt nhau - như quá trình tích cực và luồng tiêu cực (âm - dương).Chương
bốn nghiên cứu “quá trình cuả nhận thức” , Chương năm, luồng tiêu cực
“siêu quá trình”, được khai mào bằng một nghiên cứu về vũ trụ học truyền
thống Phật giáo. Việc trình bày ở đây phần lớn dưạ vào các bản chú giải
về Luận. Chương VI, Khái quát về vật chất, chuyển từ thế giới tinh thần
sang thế giới vật chất. Được căn cứ trụ yếu vào chương hai cuả Bộ Pháp
Tụ - Dhammasangani, nó liệt kê các loại hiện tượng vật chất, phân loại
chúng thành nhiều cách khác nhau, và giải thích các cách phát sinh cuả
chúng. Nó cũng giới thiệu các khái niệm có tính chất giải thích về các
nhóm vật chất, trình bày chi tiết, và mô tả sự xuất hiện cuả các quá
trình vật chất trong các cảnh giới khác nhau cuả hiện thực. Chương này
kết thúc với một phần nhỏ nói về bốn hiện thực tối thượng, Niết bàn, yếu
tố duy nhất không bị ràng buộc trong cả hệ thống.
|
With the sixth chapter,
Acariya Anuruddha has completed his analytical exposition of the four
ultimate realities, but there remain several important subjects which
must be explained to give a complete picture of the Abhidhamma. These
are taken up in the last three chapters. Chapter VII, the Compendium of
Categories, arranges the ultimate realities into a variety of
categorical schemes that fall under four broad headings: a compendium of
defilements; a compendium of mixed categories, which include items of
different ethical qualities; a compendium of the requisites of
enlightenment; and a compendium of the whole, an all-inclusive survey of
the Abhidhamma ontology. This chapter leans heavily upon the Vibhanga, and to some extent upon the Dhammasangani.
|
Với chương thứ sáu, Acariya Anuruddha đã hoàn tất việc trình bày phân
tích cuả mình về bốn thực thể tối thượng, nhưng vẫn hãy còn mấy vấn đề
quan trọng phải được giải thích để đem lại bức tranh toàn cảnh cuả Luận.
Điều này được thực hiện trong ba chương cuối. Chương VII, Khái quát về
các phạm trù, sắp xếp các thực thể tối thượng thành các bảng phạm trù đa
dạng dưới bốn tiêu đề: Khái quát về cấu (phiền não, bất tịnh); khái
quát về các phạm trù pha tạp, gồm các mục về các phẩm chất đạo đức khác
nhau; khái quát về tính nhất thiết cuả giác ngộ; và Khái quát về cái
toàn thể, một khảo sát toàn diện về bản thể học cuả Luận. Chương này dưạ
gần như hẳn vào tác phẩm Vibhamga và trong chừng mực nào đó vào bộ Pháp
Tụ - Dhammasangani.
|
Chapter VIII, the Compendium
of Conditionality, is introduced to include the Abhidhamma teaching on
the inter-relatedness of physical and mental phenomena, thereby
complementing the analytical treatment of the ultimate realities with a
synthetical treatment laying bare their functional correlations. The
exposition summarily presents two alternative approaches to
conditionality found in the Pali canon. One is the method of dependent
arising, prominent in the Suttas and analyzed from both Suttanta and
Abhidhamma angles in the Vibhanga (VI). This method examines conditionality in terms of the cause-and-result pattern that maintains bondage to samsara, the cycle of birth and death. The other is the method of the Patthana, with its twenty-four conditional relations. This chapter concludes with a brief account of concepts (paññatti), thereby drawing in the Puggalapaññatti, at least by implication.
|
Chương VIII, Khái quát về Sự qui định (Triền Phươc), được giới thiệu để
gồm giáo lý cuả Luận về mối quan hệ tương hỗ cuả các hiện tượng vật chất
tinh thần, theo đó hoàn thành việc đề cập mang tính phân tích về các
thực thể tối thượng với sự trình bày tổng hợp phơi bày trần trụi các mối
quan hệ tương hỗ chức năng cuả chúng. Sự trình bày tóm lược cho thấy
hai phuơng pháp luân phiên nhau đối với sự qui định được tìm thấy trong
kho tàng kinh điển Pali. Một là phương pháp duyên sinh (phát sinh tuỳ
thuộc), nổi bật trong Tạng Kinh và đươc phân tích dưới gốc độ Kinh và
Luận trong tác phẩm Vibhanga (chương VI).. Phương pháp này xem xét sự
qui định về phương diện mô hình nhân-và-quả cho rằng có sự ràng buộc với
samsara, vòng luân hồi sinh tử. Phương pháp khác là phương pháp
Pattana, với hai mươi bốn mối quan hệ qui định. Kết thúc chương này là
một bài ngắn về các khái niệm (pannatti), theo đó kéo theo cả
Puggalapannatti, ít nhất là hàm ý như vậy.
|
The ninth and final chapter of the Sangaha
is concerned, not with theory, but with practice. This is the
Compendium of Meditation Subjects. This chapter functions as a kind of
summary of the Visuddhimagga. It concisely surveys all the
methods of meditation exhaustively explained in the latter work, and it
sets forth condensed accounts of the stages of progress in both systems
of meditation, concentration and insight. Like the masterwork it
summarizes, it concludes with an account of the four types of
enlightened individuals and the attainments of fruition and cessation.
This arrangement of the Abhidhammattha Sangaha perhaps serves to
underscore the ultimate soteriological intent of the Abhidhamma. All the
theoretical analysis of mind and matter finally converges upon the
practice of meditation, and the practice culminates in the attainment of
the supreme goal of Buddhism, the liberation of the mind by
non-clinging.
|
Chương chín và chương cuối cùng, liên quan, không phải tới lý thuyết mà
là thưc hành. Đây là chương Khái quát về Các Chủ đề Thiền. Chương này
đóng vai trò như là tóm tắt Visuddhimagga. Nó khảo sát cô đọng các
phương pháp thiền đươc giảng giải cặn kẽ trong tác phẩm sau, và đưa ra
các bài viết cô động về các giai đoạn tiến bộ trong cả các hệ thống
thiền, tập trung và nội quan. Là tác phẩm chủ chốt , nó tóm tắt, nó kết
luận với một bài viết về bốn dạng người giác ngộ, các quả vị và chấm dứt
luân hồi. Cách trình bày cuả tác phẩm Abhidhammattha Sangaha có lẽ dùng
để nhấn mạnh việc cưú thế tối thượng cuả Luận. Tất cả phân tích lý
thuyết về tâm và vật cuối cùng hội tụ về thực hành thiền, và thực hành
đi đến tột đỉnh trong sự đạt mục tiêu tối thượng cuả đạo Phật, giải
thoát tâm bằng vô chấp.
|
Notes
1. Asl. 2; Expos., p. 3.
2. Asl. 2-3; Expos., pp. 3-4.
3. The Dhammasangani
also includes a Suttanta matrix consisting of forty-two dyads taken
from the Suttas. However, this is ancillary to the Abhidhamma proper,
and serves more as an appendix for providing succinct definitions of key
Suttanta terms. Moreover, the definitions themselves are not framed in
terms of Abhidhamma categories and the Suttanta matrix is not employed
in any subsequent books of the Abhidhamma Pitaka.
4. See, for example, the following: A.K. Warder, Indian Buddhism, 2nd rev. ed. (Delhi: Motilal Banarsidass, 1980), pp. 218-24; Fumimaro Watanabe, Philosophy and its Development in the Nikayas and Abhidhamma (Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), pp. 18-67; and the article "Abhidharma Literature" by Kogen Mizuno in Encyclopaedia of Buddhism, Fasc. 1 (Govt. of Ceylon, 1961).
5. Asl. 410; Expos., p. 519
6. Asl. 13; Expos., pp. 16-17
7. Asl. 16; Expos., p. 20
8. The first book of the Sarvastivadin Abhidharma, the Sangitiparyaya, is ascribed to Sariputta by Chinese sources (but not by Sanskrit and Tibetan sources), while the second book, the Dharmaskandha,
is ascribed to him by Sanskrit and Tibetan sources (but not by Chinese
sources). The Chinese canon also contains a work entitled the Shariputra Abhidharma-Shastra, the school of which is not known.
9.
These are reduced to the familiar eighty-nine cittas by grouping
together the five cittas into which each path and fruition consciousness
is divided by association with each of the five jhanas.
10. The Yamaka, in its chapter "Citta-yamaka," uses the term khana to refer to the subdivision of a moment and also introduces the uppada-khana and bhanga-khana,
the sub-moments of arising and dissolution. However, the threefold
scheme of sub-moments seems to appear first in the Commentaries.
11. Ven. A. Devananda Adhikarana Nayaka Thero, in Preface to Paramattha-vinicchaya and Paramattha-vibhavini-vyakhya (Colombo: Vidya Sagara Press, 1926), p. iii.
12. G.P. Malalasekera, The Pali Literature of Ceylon (Colombo: M.D. Gunasena, repr. 1958), pp. 168-70. Malalasekera points out that James Gray, in his edition of Buddhaghosuppatti,
gives a chronological list of saintly and learned men of Southern
India, taken from the Talaing records, and there we find Anuruddha
mentioned after authors who are supposed to have lived later than the
seventh or eighth century. Since Bhadanta Sariputta Mahasami compiled a
Sinhala paraphrase of the Abhidhammattha Sangaha during the reign of Parakrama-Bahu the Great (1164-97), this places Anuruddha earlier than the middle of the twelfth century.
13. See the article "Anuruddha (5)" in Encyclopaedia of Buddhism, Fasc. 4 (Govt. of Ceylon, 1965). Ven Buddhadatta's view is also accepted by Warder, Indian Buddhism, pp. 533-34.
14.
This author is commonly confused with another Burmese monk called
Chapada who came to Sri Lanka during the twelfth century and studied
under Bhadanta Sariputta. The case for two Chapadas is cogently argued
by Ven. A.P. Buddhadatta, Corrections of Geiger's Mahavamsa, Etc. (Ambalangoda: Ananda Book Co., 1957), pp. 198-209.
|
|
Source: minhhanhdp.brinkster.net
|