Luật Tỳ Kheo
Hòa Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải
Đã cập nhật: 0 phút Kích cỡ chữ:
III. Tỷ-Kheo Giới:
III.1 Lời Mở Ðầu
Bạch chư đại đức, nay tôi sắp tụng
Ba-la-đề-mộc-xoa (Patimokkha). Chư vị Tỷ-kheo cùng tập hợp một
chỗ. Chư vị hãy lắng nghe, và nhớ nghĩ cho khéo. Nếu tự biết có phạm
giới thì phải tự sám hối, không phạm giới thì hãy im lặng. Vì im lặng mà
biết chư đại đức thanh tịnh. Nếu có ai hỏi thì cũng trả lời như vậy.
Thế nên vị Tỷ-kheo ở trong đại chúng được hỏi đến lần thứ 3, và nhớ nghĩ
mình có tội, mà không sám hối, thì bị tội cố ý nói dối. Mà nói dối thì
Phật đã dạy là sự cản trở thánh đạo (10) . Nếu vị Tỷ-kheo nhớ nghĩ mình
có tội và muốn được thanh tịnh thì phải sám hối. Sám hối thì yên vui.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh. Nay xin hỏi
chư đại đức, trong lời nói đầu ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần).
Bạch chư đại đức, trong lời nói đầu ấy chư vị thanh tịnh cả, vì chư vị
cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc (11) như vậy.
III.2 Bốn Giới Khí
Bạch chư đại đức, 4 giới Ba-la-di - Parajika (12) sau đây, cứ
mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong giới kinh.
Thứ 1, giới đại dâm dục.- Nếu Tỷ-kheo đồng giới pháp với
Tỷ-kheo khác (12b), không xả giới, nhưng giới kém mà không tự hối, phạm
vào sự bất tịnh (13) cho đến cùng với súc vật, thì phạm ba-la-di của
Tỷ-kheo, không còn được sống chung (14) với chư tăng.
Thứ 2, giới đại trộm cắp. - Nếu Tỷ-kheo ở trong xóm làng hay
nơi vắng vẻ, lấy của người ta không cho với ý thức ăn trộm; tùy tội lấy
của không cho mà bị vua, hay đại thần của vua, bắt, giết, trói, đuổi ra
khỏi xứ, mắng rằng anh là giặc, anh ngu si, anh không biết gì, thì phạm
ba-la-di của Tỷ-kheo, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 3, giới đại sát hại. - Nếu Tỷ-kheo cố ý tự tay sát hại
mạng người, hoặc cầm dao đưa cho người, hoặc khen ngợi sự chết, khuyến
khích sự chết, rằng quái lạ, anh kia, sống khốn nạn như vậy làm gì, thà
chết, đừng sống; với ý thức như vậy mà nghĩ mọi cách để khen ngợi sự
chết, khuyến khích sự chết, thì phạm ba-la-di của Tỷ-kheo, không còn
được sống chung với chư tăng.
Thứ 4, giới đại vọng ngữ.- Nếu Tỷ-kheo thật không biết gì mà
tự xưng tôi được pháp của bậc thượng nhân, tôi đã nhập vào pháp siêu
việt của thánh trí, tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy; qua thì gian
khác, hoặc được hỏi hoặc không được hỏi, mà muốn tự thanh tịnh nên nói
rằng tôi thật không thấy không biết gì mà nói biết nói thấy, thì, trừ
tăng thượng mạn (15), phạm ba-la-di của Tỷ-kheo, không còn được sống
chung với chư tăng.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 4 giới ba-la-di. Nếu Tỷ-kheo phạm vào
mỗi một ba-la-di, thì không còn được sống chung với chư tăng. Như khi
chưa thọ đại giới, thọ đại giới rồi mà vi phạm thì cũng vậy. Nên Tỷ-kheo
bị tội ba-la-di thì không nên sống chung với chư tăng. Vậy nay xin hỏi
chư đại đức, trong 4 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch
chư đại đức, trong 4 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im
lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.3 Mười Ba Giới Tăng Tàn
Bạch chư đại đức, 13 giới tăng-già bà-thi-sa - Sanghadisesa
(16) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong
Giới kinh.
Thứ 1, giới cố làm xuất tinh.- Nếu Tỷ-kheo cố ý lộng âm xuất
tinh (17) thì, trừ chiêm bao, phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 2, giới chạm thân nữ nhân.- Nếu Tỷ-kheo với ý thức dâm dục
mà chạm nhau với thân nữ nhân, hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc chạm
vào mỗi một thân phần, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 3, giới nói năng thô tục (18) .- Nếu Tỷ-kheo với ý thức
dâm dục mà nói năng thô tục dâm đãng với nữ nhân; nói năng thô tục dâm
đãng thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 4, giới đòi hiến dâm dục (19) .- Nếu Tỷ-kheo với ý thức
dâm dục mà đối diện với nữ nhân tự ca tụng mình, rằng cô em, tôi tu phạn
hạnh, giữ giới, tinh tiến, tu các thiện pháp; cô em hãy đem sự dâm dục
mà hiến cho tôi, hiến như vậy là hơn hết, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 5, giới làm người mai mối.- Nếu Tỷ-kheo qua lại đôi bên để
làm mai mối, đem ý người nam nói với người nữ, đem ý người nữ nói với
người nam, để làm cho họ lấy nhau hay tư thông với nhau, thì dầu chỉ
chốc lát cũng phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 6, giới làm nhà quá mức (20).- Nếu Tỷ-kheo tự tìm cách làm
nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, thì phải làm đúng mức. Mức ở
đây là dài bằng 12 gang tay của Phật, rộng bằng 7 gang tay của Ngài.
Lại phải thỉnh chư Tỷ-kheo chỉ định nơi chỗ. Chư Tỷ-kheo chỉ định nơi
chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu Tỷ-kheo nơi chỗ tai nạn và
chướng ngại mà tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho
mình, không thỉnh chư Tỷ-kheo chỉ định nơi chỗ, lại làm quá mức, thì
phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 7, giới không thỉnh chỉ định (21) .- Nếu Tỷ-kheo muốn làm
nhà lớn mà có thí chủ, làm cho mình, thì phải thỉnh chư Tỷ-kheo đến chỉ
định nơi chỗ. Chư Tỷ-kheo nên chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không
chướng ngại. Nếu Tỷ-kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà làm nhà lớn,
có thí chủ, làm cho mình, nhưng không thỉnh chư Tỷ-kheo đến chỉ định nơi
chỗ, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 8, giới vu khống phỉ báng (22) .- Nếu Tỷ-kheo vì tức giận,
đối với vị Tỷ-kheo không phạm tội ba-la-di mà, một cách vô căn cứ, phỉ
báng vị ấy phạm tội ba-la-di, phỉ báng với ý thức muốn phá hoại sự thanh
tịnh của vị ấy; rồi trong thì gian khác, được hỏi hay không được hỏi,
Tỷ-kheo biết đó là sự phỉ báng vô căn cứ, và nói rằng vì tôi tức giận
nên phỉ báng như vậy. Tỷ-kheo phỉ báng như vậy thì phạm tăng-già
bà-thi-sa.
Thứ 9, giới xuyên tạc phỉ báng (23) .- Nếu Tỷ-kheo vì tức giận
nên lấy một cạnh khía của việc khác, đối với vị Tỷ-kheo không phạm
ba-la-di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng rằng phạm tội ba-la-di, với ý
thức phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; đến thì gian khác, được hỏi hay
không được hỏi, Tỷ-kheo ấy biết mình lấy một cạnh khía của việc khác, tự
nói vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 10, giới phá tăng hòa hợp (24) .- Nếu Tỷ-kheo muốn phá
hoại tăng hòa hợp (25) nên hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp,
chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Các vị
Tỷ-kheo nên can gián Tỷ-kheo ấy, rằng đại đức, đừng phá hoại tăng hòa
hợp, đừng hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, đừng chấp nhận mọi
cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Ðại đức, hãy cùng tăng
hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa
hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Tỷ-kheo
ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị
Tỷ-kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy
đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng-già
bà-thi-sa.
Thứ 11, giới hỗ trợ phá tăng (26) .- Nếu Tỷ-kheo ấy có phe
cánh, một Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo, ba Tỷ-kheo cho đến vô số Tỷ-kheo; những
Tỷ-kheo phe cánh này nói với các vị Tỷ-kheo, rằng chư đại đức, xin đừng
can gián Tỷ-kheo ấy, Tỷ-kheo ấy là Tỷ-kheo nói đúng giáo pháp, Tỷ-kheo
nói đúng giới luật, Tỷ-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỷ-kheo ấy nói
chúng tôi chấp nhận. Các vị Tỷ-kheo trả lời: các đại đức, đừng nói như
vậy, rằng Tỷ-kheo ấy là Tỷ-kheo nói đúng giáo pháp, Tỷ-kheo nói đúng
giới luật, Tỷ-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỷ-kheo ấy nói chúng tôi
chấp nhận. Bởi vì Tỷ-kheo ấy không phải là Tỷ-kheo nói đúng giáo pháp,
không phải là Tỷ-kheo nói đúng giới luật. Các đại đức, đừng có ý muốn
phá hoại tăng hòa hợp; các đại đức, hãy thích thú tăng hòa hợp. Các
đại đức, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng
học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời
sống tăng ích, yên vui. Những Tỷ-kheo ấy khi được can gián như vậy mà
vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỷ-kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì
để những Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ
thì tốt, không bỏ thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 12, giới hoen ố tín đồ (27) .- Nếu Tỷ-kheo sống trong xóm
làng hay thành thị mà làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu (28), làm
hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe.
Các vị Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo ấy, rằng đại đức, đại đức đã làm hoen ố
tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm
những việc xấu ai cũng thấy nghe; đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm
những việc xấu thì nay hãy đi xa khỏi xóm làng này, đừng nên ở đây nữa.
Tỷ-kheo ấy nói với các vị Tỷ-kheo, với lời nói như vầy: chư đại đức, các
vị có tham, có sân, có si, có sợ; có cái việc những Tỷ-kheo đồng tội mà
người bị đuổi người không bị đuổi. Các vị Tỷ-kheo can rằng, đại đức,
đừng nói như vậy, rằng chư Tỷ-kheo có tham, có sân, có si, có
sợ, có cái việc những Tỷ-kheo đồng tội mà người bị đuổi người
không bị đuổi. Bởi vì chư Tỷ-kheo không tham, không sân, không si, không
sợ. Ðại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín
đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Tỷ-kheo ấy
khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỷ-kheo
nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can
gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Thứ 13, giới ngoan cố chống cự (29) .- Nếu Tỷ-kheo tính tình
ngoan cố, không nghe ai hết; trong giới luật, các vị Tỷ-kheo đã can gián
đúng phép mà bản thân Tỷ-kheo ấy không chịu sự can gián ấy, bằng cách
nói rằng: chư đại đức, đừng hướng về tôi mà nói tôi tốt hay tôi xấu, tôi
cũng không hướng về chư đại đức mà nói các ngài tốt hay các ngài xấu.
Chư đại đức hãy thôi đi, đừng luôn luôn can gián tôi. Các vị Tỷ-kheo can
gián Tỷ-kheo ấy, rằng đại đức, đừng nên chính mình không chịu ai can
gián. Ðại đức nên chính mình chịu can gián. Ðại đức hãy can gián chư
Tỷ-kheo một cách đúng phép, chư Tỷ-kheo cũng can gián đại đức một cách
đúng phép. Làm như vậy thì đệ tử của Phật được tăng ích nhờ can gián cho
nhau, chỉ dạy cho nhau, sám hối với nhau. Tỷ-kheo ấy khi được
can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỷ-kheo nên
can gián đến lần thứ 3, vì để Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián
đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng-già bà-thi-sa.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 13 giới tăng-già bà-thi-sa mà 9 giới
trước thì mới phạm là thành tội, 4 giới sau thì sau lần can gián thứ 3
mới thành tội. Nếu Tỷ-kheo phạm mỗi một giới, biết mình phạm mà cố che
giấu, thì chư tăng phải buộc Tỷ-kheo ấy thi hành phép sống riêng (30) .
Thi hành phép sống riêng rồi phải thi hành thêm phép hoan hỷ (31) trong 6
đêm ngày. Thi hành phép hoan hỷ rồi chư tăng giải tội cho. Phải giữa 20
vị Tỷ-kheo mà giải tội cho Tỷ-kheo ấy; nếu thiếu 1 vị, không đủ 20 vị
Tỷ-kheo, thì có giải tội đi nữa, tội của Tỷ-kheo ấy cũng không giải
được, mà chư tăng cũng đáng khiển trách. Ðó là trường hợp (32) này. Nay
xin hỏi chư đại đức, trong 13 giới tăng-già bà-thi-sa ấy có thanh tịnh
cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 13 giới ấy các vị
thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như
vậy.
III.4 Hai Giới Bất Ðịnh
Bạch chư đại đức, 2 giới bất định - Aniyata (33) sau đây, cứ
mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1, giới ngồi ở chỗ khuất .- Nếu Tỷ-kheo cùng nữ nhân ngồi
riêng ở chỗ khuất, chỗ che, chỗ ngăn, chỗ có thể hành dâm, mà nói những
lời phi giới pháp. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm (34), nói Tỷ-kheo
ấy phạm 1 trong 3 tội sau đây, tội ba-la-di, tội tăng-già bà-thi-sa, tội
ba-dật-đề; Tỷ-kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị
theo 1 trong 3 tội sau đây, tội ba-la-di, tội tăng-già bà-thi-sa, tội
ba-dật-đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội
Tỷ-kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.
Thứ 2, giới ngồi ở chỗ trống.- Nếu Tỷ-kheo cùng nữ nhân ngồi ở
chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, mà nói thô tục. Có người nữ tín đồ
đầy đủ tín tâm nói Tỷ-kheo ấy phạm 1 trong 2 tội sau đây, tội tăng-già
bà-thi-sa, tội ba-dật-đề; Tỷ-kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như
vậy thì phải trị theo 1 trong 2 tội sau đây, tội tăng-già bà-thi-sa, tội
ba-dật-đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội
Tỷ-kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 2 giới bất định. Nay xin hỏi chư đại
đức, trong 2 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại
đức, trong 2 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc
này tôi nắm chắc như vậy.
III.5 Ba Mươi Giới Xả Ðọa
Bạch chư đại đức, 30 giới ni-tát-kỳ ba-dật-đề - Nissaggiya
pacittiya (35) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và
được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1, giới cất y quá hạn.- Nếu Tỷ-kheo 3 y (36) đã hoàn
chỉnh, y công đức (37) đã xả, mà cất giữ trường y (38), thì không làm
tịnh thí (39) cũng được cất giữ, nhưng quá 10 ngày thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 2, giới rời y mà ngủ.- Nếu Tỷ-kheo 3 y hoàn chỉnh, y công
đức đã xả, mà trong 3 y rời 1 y ngủ khác chỗ (39b), thì, trừ được tăng
Kiết-ma (40) cho phép, phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 3, giới cất vải quá hạn.- Nếu Tỷ-kheo 3 y hoàn chỉnh (41),
y công đức đã xả, nhưng Tỷ-kheo ấy được vải phi thời, vậy cần thì cứ
nhận, nhận rồi may y cho mau thành. Nếu vải đủ thì tốt, nếu vải không đủ
thì được phép cất lại 1 tháng, chờ cho đủ vải. Nếu cất lại quá hạn ấy
thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 4, giới lấy y không thân (42) .- Nếu Tỷ-kheo lấy y của
Tỷ-kheo ni không phải thân quyến của mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 5, giới bảo giặt y cũ (43) .- Nếu Tỷ-kheo bảo Tỷ-kheo ni
không phải thân quyến của mình giặt y cũ, hoặc nhuộm hoặc vỗ, thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 6, giới xin người y mới (44) .- Nếu Tỷ-kheo xin y mới nơi
cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình, thì, trừ trường hợp
khác, phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Trường hợp khác là nếu y bị cướp, bị
mất, bị cháy, bị trôi, như vậy gọi là trường hợp khác.
Thứ 7, giới lấy vải quá phận.- Nếu Tỷ-kheo y bị mất, bị cướp,
bị cháy, bị trôi, và nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của
mình tự ý xin cho nhiều vải, thì Tỷ-kheo ấy nên nhận vải ấy theo sự biết
vừa đủ. Nếu nhận nhiều hơn thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 8, giới xin thêm tiền y (45) .- Nếu Tỷ-kheo có cư sĩ và vợ
cư sĩ sắm tiền may y cho Tỷ-kheo ấy, nói rằng sắm số tiền may y như vậy
để cúng cho Tỷ-kheo tên như vậy. Tỷ-kheo ấy trước không có nhận lời xin
tùy ý (45b) vậy mà vì muốn được y tốt nên đến nhà cư sĩ, nói như thế
này: tốt lắm, cư sĩ, hãy vì tôi mà mua sắm cái y như vậy cho tôi. Như
vậy mà được y thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 9, giới khuyên chung tiền lại (46) .- Nếu Tỷ-kheo có 2 cư
sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỷ-kheo ấy, nói rằng mua y như vậy để
cúng cho Tỷ-kheo tên như vậy. Tỷ-kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy
ý, vậy mà vì muốn được y tốt nên đến 2 nhà cư sĩ nói như vầy: tốt lắm,
cư sĩ, hãy sắm tiền mua y như vậy, chung nhau mà mua cho tôi 1 cái y.
Như vậy mà được y thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 10, giới đòi y quá hạn.- Nếu Tỷ-kheo có vua, đại thần, bà
la môn, cư sĩ và vợ cư sĩ, phái người đưa số tiền sắm y đến cho Tỷ-kheo
ấy, nói rằng hãy cầm tiền sắm y này đến đưa cho vị Tỷ-kheo tên như vậy.
Người được phái đến chỗ Tỷ-kheo ấy, nói với Tỷ-kheo ấy, rằng bạch đại
đức, nay con đem tiền sắm y đến cho ngài, xin ngài nhận lấy. Tỷ-kheo ấy
nói như thế này với người được phái, rằng tôi không nên nhận số tiền sắm
y này; nếu khi tôi cần y thì phải đúng và thanh tịnh mới nhận được.
Người được phái nói với Tỷ-kheo ấy, rằng bạch đại đức, ngài có người
giúp việc không? Tỷ-kheo ấy nói có; có người ở trong chùa kia, có người
nam cư sĩ kia, họ là những người giúp việc của các Tỷ-kheo, thường giúp
việc cho các ngài. Bấy giờ người được phái đi đến nơi người
giúp việc, giao số tiền sắm y, rồi trở lại chỗ Tỷ-kheo ấy, nói như
vầy: bạch đại đức, người giúp việc tên như vậy, mà ngài đã chỉ, con đã
giao cho người ấy số tiền sắm y. Khi nào đại đức thấy đúng lúc thì xin
ngài đến người ấy, sẽ sắm được y. Tỷ-kheo ấy khi cần y thì nên đến người
giúp việc mà, lần thứ hai và lần thứ ba, nhắc cho người ấy nhớ, bằng
cách nói rằng tôi cần y; nếu lần thứ hai và lần thứ ba nhắc cho người ấy
nhớ mà được y thì tốt. Nếu không được y thì lần thứ tư, lần thứ năm,
lần thứ sáu, hãy yên lặng đứng trước người ấy; nếu lần thứ tư, lần thứ
năm, lần thứ sáu, yên lặng đứng trước người ấy mà được y thì tốt. Nếu
không được y mà đòi quá giới hạn nói trên để cho được y, thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Nếu không được y thì tự mình đi hay phái người đi,
đến nơi người cho tiền sắm y mà nói, rằng trước đây người phái
người đem tiền sắm y đến cho tôi, Tỷ-kheo tên như vậy; nhưng rốt cuộc
tôi không được y, vậy người hãy đi lấy về, đừng để mất đi. Ðó là trường
hợp có thể làm.
Thứ 11, giới ngọa cụ tơ tằm.- Nếu Tỷ-kheo kiếm tơ tằm xen với
tơ lụa mà làm ngọa cụ mới, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 12, giới ngọa cụ lông đen.- Nếu Tỷ-kheo lấy lông dê mới và
toàn đen mà làm ngọa cụ mới, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 13, giới ngọa cụ lông trắng.- Nếu Tỷ-kheo làm ngọa cụ mới
thì nên dùng lông dê mà 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu
lẫn lộn; nếu Tỷ-kheo ấy không dùng 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4
phần màu lẫn lộn (46b) mà làm ngọa cụ mới, thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 14, giới ngọa cụ còn mới (47) .- Nếu Tỷ-kheo thì làm ngọa
cụ mới, phải dùng đến 6 năm. Nếu dưới 6 năm, không xả bỏ cái cũ mà thay
vào đó làm cái mới, thì, trừ tăng Kiết-ma cho phép, phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 15, giới tọa cụ toàn mới (48) .- Nếu Tỷ-kheo làm tọa cụ
mới thì phải lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên
trên tọa cụ mới để làm cho hỏng màu sắc đi. Nếu làm tọa cụ mới mà không
lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ
mới để làm cho hỏng màu sắc đi, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 16, giới cầm lông quá hạn (49) .- Nếu Tỷ-kheo đi đường
được lông dê, không có ai cầm giúp, thì mình được phép cầm lấy, nhưng
cầm đi cho đến 3 do tuần mà thôi. Nếu không có ai cầm giúp, mình tự cầm
lấy mà đi quá 3 do tuần, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 17, giới nhờ giặt lông dê (50) .- Nếu Tỷ-kheo bảo Tỷ-kheo
ni không phải thân quyến giặt, nhuộm và vỗ giúp lông dê, thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 18, giới cầm lấy tiền của (51) .- Nếu Tỷ-kheo tự tay cầm
lấy tiền, cầm lấy bạc vàng, hoặc bảo người cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng
cách bảo để xuống mặt đất, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 19, giới đổi chác tiền của (52) .- Nếu Tỷ-kheo mà đổi chác
(53) các thứ tiền và của báu, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 20, giới buôn bán các thứ.- Nếu Tỷ-kheo mà mua rẻ bán đắt
mọi thứ, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 21, giới cất bát quá hạn.- Nếu Tỷ-kheo cất giữ trường bát
(53b) mà không tịnh thí, thì chỉ được phép cất giữ 10 ngày. Quá thì hạn
ấy thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 22, giới kiếm bát quá phận.- Nếu Tỷ-kheo dùng cái bát chưa
đủ 5 chỗ hàn bịt, bát ấy cũng chưa rỉ nước, vậy mà thay vào đó đi tìm
bát mới cho đẹp, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Tỷ-kheo ấy nên đến giữa
chư tăng mà xả bỏ bát mới ấy, và chư tăng tuần tự lấy cái bát của người
thấp nhất (53c) đưa cho Tỷ-kheo ấy dùng, và dùng cho đến bể. Ðó là đúng
trường hợp.
Thứ 23, giới kiếm chỉ dệt y (54) .- Nếu Tỷ-kheo tự xin chỉ
dệt, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt y giúp, thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 24, giới bảo thợ dệt thêm (55) .- Nếu Tỷ-kheo có cư sĩ và
vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y cho Tỷ-kheo ấy. Tỷ-kheo ấy trước không có
nhận lời xin tùy ý, lại đi đến chỗ thợ dệt, bảo rằng y này là dệt cho
tôi, vậy anh dệt giúp cho thật đẹp, dệt cho rộng và bền, tốn thêm nhiều
ít gì tôi cũng sẽ trả cho anh. Tỷ-kheo ấy trả thêm tiền dầu chỉ đáng giá
một bữa ăn mà được y, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 25, giới đoạt lấy y lại.- Nếu Tỷ-kheo trước cho y Tỷ-kheo
khác, sau vì tức giận nên tự đoạt lại, hay bảo người đoạt, và rằng hãy
trả y lại cho tôi, tôi không cho ông nữa. Tỷ-kheo kia trả y, mà Tỷ-kheo
ấy lấy y, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 26, giới cất thuốc quá hạn (56) .- Nếu Tỷ-kheo có bịnh,
thì thuốc dư như sữa tô, dầu, sữa tô tươi, mật ong, đường phèn, được
dùng trong thì hạn 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà còn dùng thì phạm ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
Thứ 27, giới khăn tắm trước hạn (57) .- Nếu Tỷ-kheo thì mùa
xuân còn 1 tháng nên kiếm khăn tắm mưa, còn nửa tháng nên dùng mà tắm.
Nếu Tỷ-kheo mà trước kiết hạ hơn 1 tháng đã kiếm khăn tắm mưa, trước
kiết hạ hơn nửa tháng đã dùng mà tắm (58), thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 28, giới cất y cúng gấp (59) .- Nếu Tỷ-kheo còn 10 ngày
nữa thì hết kiết hạ 3 tháng (60), chư Tỷ-kheo được phép nhận y cúng vội
vàng. Tỷ-kheo ấy biết là y cúng vội vàng thì nên nhận, nhận rồi được cất
giữ trong thì hạn của y ấy (61) . Nếu cất giữ quá thì hạn ấy thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 29, giới rời y quá hạn (62) .- Nếu Tỷ-kheo kiết hạ 3 tháng
đã xong, sau đó 1 tháng ca-đề (63) cũng hết, đến ở chỗ a-lan-nhã (64),
mà là chỗ có sự nghi ngại, khiếp sợ. Tỷ-kheo ấy ở chỗ như vậy, thì trong
3 y, muốn thì gửi để 1 y trong nhà thôn xóm. Tỷ-kheo ấy có lý do như
vậy thì được phép rời y mà ngủ đến 6 đêm. Rời quá thì hạn ấy thì phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Thứ 30, giới xoay vật chư tăng (65) .- Nếu Tỷ-kheo biết đó là
vật người ta muốn hiến cúng cho chư tăng, mà mình tìm cách xoay lại hiến
cúng cho mình, thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 30 giới ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Nay xin hỏi
chư đại đức, trong 30 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch
chư đại đức, trong 30 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị im lặng.
Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.6 Chín Mươi Giới Ðọa
Bạch chư đại đức, 90 giới ba-dật-đề - Pacittiya (66) sau đây,
cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1, giới cố ý nói dối.- Nếu Tỷ-kheo biết (67) mà nói dối,
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 2, giới chưởi mắng thành phần (68) .- Nếu Tỷ-kheo đem
thành phần xã hội ra mà chưởi mắng, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 3, giới nói để ly gián (69) .- Nếu Tỷ-kheo nói ly gián thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 4, giới ngủ cùng một nhà (70) .- Nếu Tỷ-kheo cùng nữ nhân
ngủ một nhà thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 5, giới ngủ quá thì hạn (71) .- Nếu Tỷ-kheo cùng ngủ với
người chưa thọ đại giới mà quá 2 đêm, đến đêm thứ 3 thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 6, giới đọc tụng ồn náo (72) .- Nếu Tỷ-kheo cùng với người
chưa thọ đại giới đọc tụng kinh pháp một cách ồn náo thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 7, giới nói tội lỗi nặng.- Nếu Tỷ-kheo biết người có tội
lỗi nặng mà đem nói với người chưa thọ đại giới, thì, trừ tăng Kiết-ma
sai bảo, phạm ba-dật-đề.
Thứ 8, giới nói thật đắc đạo (73) .- Nếu Tỷ-kheo nói với người
chưa thọ đại giới, rằng tôi được cái pháp hơn người, tôi thấy như vậy,
tôi biết như vậy; nói thật như vậy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 9, giới một mình thuyết pháp (74) .- Nếu Tỷ-kheo thuyết
pháp cho nữ nhân mà quá năm sáu lời (75), thì, trừ sự có mặt của nam tử
trí thức, phạm ba-dật-đề.
Thứ 10, giới đào cuốc đất đai.- Nếu Tỷ-kheo tự tay đào đất hay
bảo người đào đất thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 11, giới chặt phá cây sống.- Nếu Tỷ-kheo chặt phá cây cối,
có nghĩa phá hủy chỗ ở của quỉ thần và sinh vật (76), thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 12, giới nói làm bực mình.- Nếu Tỷ-kheo bày đặt nói quanh
để làm người khác bực mình, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 13, giới ghét mắng tri sự.- Nếu Tỷ-kheo ghét mắng chức sự
của chư tăng thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 14, giới trải đồ đất trống (77) .- Nếu Tỷ-kheo đem đồ của
chư tăng như giường giây (78), giường cây, đồ nằm và nệm ngồi, tự sắp ra
trên mặt đất trống, hay bảo người sắp ra, dùng rồi bỏ đó mà đi, không
tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 15, giới trải đồ chỗ che (79) .- Nếu Tỷ-kheo sắp đồ nằm
của chư tăng ra trong tăng phòng, tự mình sắp ra hay bảo người sắp ra,
rồi hoặc ngồi hoặc nằm, nhưng khi đi thì không tự xếp cất, cũng không
bảo ai xếp cất, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 16, giới cưỡng chiếm chỗ nằm (80) .- Nếu Tỷ-kheo biết chỗ
của Tỷ-kheo ở trước, mình đến sau mà cưỡng chiếm ở giữa, trải đồ nằm ra
ngủ nghỉ, với ý nghĩ rằng nếu Tỷ-kheo ở trước hiềm chật quá thì sẽ tự
tránh mình mà đi. Ấy là muốn làm như thế chứ không có lý do gì khác. Phi
uy nghi như vậy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 17, giới lôi ra khỏi phòng.- Nếu Tỷ-kheo tức giận, không
ưa Tỷ-kheo khác, nên trong phòng hay trong nhà của chư tăng mà tự mình
lôi ra hay bảo người lôi ra, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 18, giới ngồi giường sút chân.- Nếu Tỷ-kheo ở trong phòng
hay trên gác, mà ngồi hay nằm trên giường giây hay giường cây sút chân,
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 19, giới dùng nước có trùng.- Nếu Tỷ-kheo biết nước có
trùng mà tự đem dội trên đất trên cỏ, hay bảo người dội, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 20, giới lợp nhà quá mức.- Nếu Tỷ-kheo làm phòng hay nhà
lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và những đồ trang trí khác, thì chỉ bảo lợp
tranh chừng hai hay ba lớp. Lợp quá thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 21, giới tự đi dạy ni.- Nếu Tỷ-kheo chư tăng không sai
phái mà tự đi giáo thọ cho Tỷ-kheo ni, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 22, giới thuyết pháp đến tối (81) .- Nếu Tỷ-kheo được chư
tăng sai phái đi giáo thọ cho Tỷ-kheo ni, mà đi đến trời tối thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 23, giới phỉ báng giáo thọ.- Nếu Tỷ-kheo nói với các
Tỷ-kheo khác bằng lời nói như vầy: các Tỷ-kheo chỉ vì sự ăn uống mà đi
giáo thọ cho Tỷ-kheo ni, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 24, giới đem y cho ni (82) .- Nếu Tỷ-kheo đem y cho
Tỷ-kheo ni không phải thân quyến của mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm
ba-dật-đề.
Thứ 25, giới may y cho ni (83) .- Nếu Tỷ-kheo may y cho
Tỷ-kheo ni không phải thân quyến của mình thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 26, giới cùng ngồi với ni.- Nếu Tỷ-kheo cùng với Tỷ-kheo
ni ngồi ở chỗ khuất, ngăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 27, giới hẹn ni cùng đi.- Nếu Tỷ-kheo hẹn với Tỷ-kheo ni
đi chung một đường, thì dầu chỉ từ một xóm đến một xóm, cũng vẫn, trừ
trường hợp khác, phạm ba-dật-đề. Trường hợp khác là đi với người đi
buôn, hoặc đi mà có sự nghi ngại sợ hãi, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 28, giới cùng ni đi thuyền.- Nếu Tỷ-kheo cùng Tỷ-kheo ni
hẹn nhau đi chung một thuyền ngược dòng hay xuôi dòng thì, trừ trường
hợp đi đò ngang qua sông, phạm ba-dật-đề.
Thứ 29, giới ăn của ni khuyên.- Nếu Tỷ-kheo biết đồ ăn do
Tỷ-kheo ni ca tụng khuyến hóa mà có, mà vẫn ăn, thì, trừ trường hợp thí
chủ có ý thỉnh trước, phạm ba-dật-đề.
Thứ 30, giới đi với nữ nhân.- Nếu Tỷ-kheo cùng nữ nhân hẹn
nhau đi một đường, thì dầu chỉ đi đến một xóm cũng vẫn phạm ba-dật-đề.
Thứ 31, giới ăn quá một bữa.- Nếu Tỷ-kheo có thí chủ chỉ cúng
một bữa ăn, Tỷ-kheo ấy không bịnh thì nên ăn một bữa thôi. Nếu ăn quá đi
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 32, giới ăn nhiều lần ăn.- Nếu Tỷ-kheo ăn nhiều lần thì,
trừ trường hợp khác, phạm ba-dật-đề. Trường hợp khác là khi mình bị
bịnh, khi có người dâng y, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 33, giới ăn riêng tăng chúng.- Nếu Tỷ-kheo ăn riêng tăng
chúng thì, trừ các trường hợp khác, phạm ba-dật-đề. Các trường hợp khác
là khi bịnh, khi may y gấp, khi có người dâng y, khi đi đường, khi đi
thuyền, khi đại chúng tập hợp, khi sa môn của ngoại đạo mời ăn, đó gọi
là các trường hợp khác.
Thứ 34, giới nhận quá giới hạn (84) .- Nếu Tỷ-kheo đến nhà cư
sĩ có ý thỉnh Tỷ-kheo để cúng bánh, miến và cơm, Tỷ-kheo ấy nếu cần thì
nhận vài ba bát, đem về trong chùa nên chia cho các Tỷ-kheo khác cùng
ăn. Nếu Tỷ-kheo ấy không bịnh mà nhận quá vài ba bát, đem về trong chùa
cũng không chia cho các Tỷ-kheo khác cùng ăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 35, giới muốn ăn cho đủ.- Nếu Tỷ-kheo ăn xong rồi, mà có
khi nhận lời mời ăn nữa, nếu không làm phép ăn thừa (85) mà ăn, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 36, giới ép phạm ăn nữa.- Nếu Tỷ-kheo biết Tỷ-kheo khác ăn
đủ rồi, mình có nhận lời mời ăn nữa mà không làm phép ăn thừa, lại ân
cần mời Tỷ-kheo khác ấy cùng ăn với mình, và Tỷ-kheo khác ấy cùng ăn.
Tỷ-kheo ấy chỉ vì lý do muốn làm cho Tỷ-kheo khác ấy phạm giới, chứ
không có lý do gì khác nữa, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 37, giới ăn lúc phi thời.- Nếu Tỷ-kheo ăn lúc không phải
giờ ăn (86), ăn như vậy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 38, giới ăn đồ cách đêm.- Nếu Tỷ-kheo đồ ăn để cách đêm mà
ăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 39, giới ăn đồ không nhận (87) .- Nếu Tỷ-kheo đối với thức
ăn hay thuốc mình không nhận lời mời mà đã bỏ vào miệng (88) thì, trừ
nước và tăm, phạm ba-dật-đề.
Thứ 40, giới đòi đồ ăn ngon.- Nếu Tỷ-kheo được có những thức
ăn ngon như sữa, sữa lạc (89); Tỷ-kheo ấy có những thức ăn ngon ấy mà
vốn không bịnh, chỉ tự đòi cho mình, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 41, giới cho ngoại đạo ăn.- Nếu Tỷ-kheo đối với ngoại đạo
nam hay ngoại đạo nữ, mà mình tự tay cho họ thức ăn, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 42, giới đi mà không nói (90) .- Nếu Tỷ-kheo trước đã nhận
lời mời về bữa ăn trước hay bữa ăn sau, rồi đi đến nhà khác mà không
dặn lại cho các Tỷ-kheo, thì, trừ trường hợp khác, phạm ba-dật-đề.
Trường hợp khác là bịnh, may y, cho y, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 43, giới nhà ăn ngồi dai (91) .- Nếu Tỷ-kheo tại nhà ăn có
vật báu (92) mà mình miễn cưỡng ngồi dai thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 44, giới nhà ăn ngồi khuất (93) .- Nếu Tỷ-kheo tại nhà ăn
có vật báu mà mình ngồi chỗ khuất, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 45, giới ngồi với nữ nhân (94) .- Nếu Tỷ-kheo ngồi một
mình với nữ nhân ở chỗ đất trống, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 46, giới đuổi người đi đi.- Nếu Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo
khác như vầy, đại đức, đi với tôi đến xóm làng, sẽ có thức ăn cho đại
đức. Nhưng đến rồi, Tỷ-kheo ấy đã không khuyên cúng thức ăn cho Tỷ-kheo
khác này, mà lại bảo đại đức đi đi, tôi cùng đại đức ngồi hay nói với
nhau một chỗ thì tôi không ưa, tôi ngồi một mình nói một mình thì thích
hơn. Chỉ vì lý do như vậy, chứ không vì lý do gì khác hơn mà tìm cách
xua đuổi người khác đi đi, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 47, giới nhận thuốc quá hạn.- Nếu Tỷ-kheo được hứa cho
thuốc 4 tháng, Tỷ-kheo ấy không bịnh cũng nên nhận. Nhưng nếu nhận quá
thì hạn ấy, thì, trừ người ta xin cho luôn, xin cho thêm, xin chia mà
cho, xin cho suốt đời, phạm ba-dật-đề.
Thứ 48, giới đi coi quân trận.- Nếu Tỷ-kheo đi coi quân trận
thì, trừ trường hợp có lý do, phạm ba-dật-đề.
Thứ 49, giới trong quân quá hạn (95) .- Nếu Tỷ-kheo có lý do
thì được phép đến trong quân đội tá túc 2 đêm 3 đêm, quá thì hạn ấy thì
phạm ba-dật-đề.
Thứ 50, giới coi quân diễn tập.- Nếu Tỷ-kheo được phép tá túc
trong quân đội vài ba đêm mà hoặc coi quân đội dàn trận, hoặc coi lực
lượng tượng binh kỳ binh diễn tập, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 51, giới uống các thứ rượu.- Nếu Tỷ-kheo uống các thứ rượu
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 52, giới đùa giỡn dưới nước.- Nếu Tỷ-kheo đùa giỡn dưới
nước thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 53, giới thọc léc người khác.- Nếu Tỷ-kheo lấy ngón tay
ngón chân thọc léc lẫn nhau thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 54, giới không nhận khuyên can.- Nếu Tỷ-kheo không chấp
nhận mọi sự khuyên can thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 55, giới dọa cho người sợ.- Nếu Tỷ-kheo dọa cho Tỷ-kheo
khác sợ thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 56, giới tắm dưới nửa tháng.- Nếu Tỷ-kheo thì nửa tháng
tắm rửa. Tỷ-kheo không bịnh thì nên chấp nhận như vậy, không được nhiều
hơn, vì trừ trường hợp khác thì phạm ba-dật-đề. Trường hợp khác là khi
nóng, khi bịnh, khi làm việc, khi bị gió mưa, khi đi đường, đó gọi là
những trường hợp khác.
Thứ 57, giới đốt lửa đất trống.- Nếu Tỷ-kheo không bịnh, mà
chỉ vì sưởi ấm nên tự đốt lửa giữa đất trống hay bảo người đốt, thì, trừ
trường hợp có lý do, phạm ba-dật-đề.
Thứ 58, giới cất giấu vật dụng.- Nếu Tỷ-kheo cất giấu vật dụng
của Tỷ-kheo khác như y, bát, đồ ngồi, ống kim, mình tự cất giấu hay bảo
người cất giấu, ít nhất chỉ để giỡn chơi thôi, cũng phạm ba-dật-đề.
Thứ 59, giới cho rồi lấy lại (96) .- Nếu Tỷ-kheo đã đem y cho
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, thức xoa ma na, sa-di, sa-di ni rồi, sau đó không
nói với người chủ của y được cho, mà lấy lại dùng, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 60, giới dùng y mới nguyên.- Nếu Tỷ-kheo được có y mới
nguyên, thì trong 3 màu làm hỏng nguyên màu, tùy ý lấy 1 màu mà làm hỏng
nguyên màu đi, đó là màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mộc lan. Nếu
Tỷ-kheo ấy không lấy màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mộc lan, 3 màu
làm hỏng nguyên màu đi, mà dùng y mới nguyên, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 61, giới cố hại súc sinh.- Nếu Tỷ-kheo cố hại tính mạng
súc sinh, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 62, giới uống nước có trùng.- Nếu Tỷ-kheo biết nước có
trùng mà vẫn uống vẫn dùng, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 63, giới quấy rối người khác (97) .- Nếu Tỷ-kheo cố ý làm
bực mình Tỷ-kheo khác, thì dầu làm cho chốc lát không vui thôi cũng phạm
ba-dật-đề.
Thứ 64, giới che giấu tội người.- Nếu Tỷ-kheo biết Tỷ-kheo
khác phạm tội nặng mà che giấu, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 65, giới độ người thiếu tuổi (98) .- Tuổi đầy 20 mới nên
lãnh thọ đại giới. Nếu Tỷ-kheo biết người tuổi chưa đầy 20 mà cho lãnh
thọ đại giới, thì người ấy không được giới pháp, mà Tỷ-kheo ấy cũng đáng
trách vì ngu muội, nên phạm ba-dật-đề.
Thứ 66, giới khơi sự tranh cãi (99) .- Nếu Tỷ-kheo biết sự
tranh cãi đã sám hối đúng phép rồi, mà sau đó mình còn khơi dậy trở lại,
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 67, giới hẹn đi với giặc.- Nếu Tỷ-kheo biết là giặc mà hẹn
cùng đi một đường, thì dẫu đi chỉ bằng đến một thôn cũng phạm
ba-dật-đề.
Thứ 68, giới chống can nói càn (100) .- Nếu Tỷ-kheo nói như
vầy: theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự
chướng đạo. Tỷ-kheo khác can Tỷ-kheo ấy, rằng đại đức, đừng nói như vậy,
đừng phỉ báng Ðức Thế Tôn. Phỉ báng Ðức Thế Tôn thì không tốt. Ðức Thế
Tôn không nói như vậy. Ðức Thế Tôn đã dùng nhiều cách nói rằng phạm vào
sự dâm dục là điều chướng đạo. Tỷ-kheo khác can gián Tỷ-kheo ấy mà
Tỷ-kheo ấy kiên trì không bỏ, thì Tỷ-kheo khác phải can gián đến lần thứ
3 để Tỷ-kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Nếu can gián đến lần thứ 3 mà bỏ
thì tốt, nếu không bỏ thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 69, giới theo người có lỗi (101) .- Nếu Tỷ-kheo biết
Tỷ-kheo nói "theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì hành dâm không phải là
sự chướng đạo" đang bị cử tội mà chưa được tác pháp giải tội, sự thấy
biết sai lầm đến như vậy cũng không chịu từ bỏ; biết như vậy mà vẫn cung
cấp đồ dùng, vẫn chung cùng Kiết-ma, vẫn cùng ngủ nghỉ cùng nói chuyện,
thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 70, giới dung kẻ bị đuổi (102) .- Nếu Tỷ-kheo biết sa-di
nói như vầy: tôi nghe Phật nói hành dâm không phải là sự chướng đạo. Các
vị Tỷ-kheo can gián sa-di ấy, bằng cách nói rằng ông đừng phỉ báng Ðức
Thế Tôn, phỉ báng Ðức Thế Tôn thì không tốt; Ðức Thế Tôn không dạy như
ông nói. Này, sa-di, Ðức Thế Tôn đã dùng nhiều cách nói dâm dục là sự
chướng đạo. Các vị Tỷ-kheo can gián như vậy mà sa-di ấy kiên trì không
bỏ, thì các vị Tỷ-kheo nên can gián đến lần thứ 3 để sa-di ấy bỏ sự kiên
trì ấy đi. Nếu can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt. Nếu không bỏ thì
các vị Tỷ-kheo nên bảo sa-di ấy, rằng từ nay sắp đi ông không còn được
nói Đức Phật là đấng Thế tôn của con, không được theo các vị Tỷ-kheo,
các sa-di khác được ngủ một phòng với Tỷ-kheo vài ba đêm thì
ông không còn được sự ấy nữa: ông hãy đi ra đi, hãy đi mất đi,
không nên ở đây nữa. Nếu Tỷ-kheo biết sa-di ấy biể chư tăng đuổi như vậy
mà dụ dỗ đem về nuôi dưỡng, cho ở chung ngủ chung, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 71, giới chống cự khuyên học.- Nếu Tỷ-kheo khi được các
Tỷ-kheo đúng phép can gián, mà nói như vầy: tôi nay không học giới này,
tôi sẽ gạn hỏi vị Tỷ-kheo trì luật nào có trí tuệ, thì phạm ba-dật-đề.
Nếu muốn học thật thì lại cần phải gạn hỏi.
Thứ 72, giới phỉ báng giới pháp.- Nếu Tỷ-kheo khi nghe thuyết
giới mà nói như vầy: đại đức cần gì phải nói những giới điều vụn vặt như
vậy. Nói những giới điều như vậy chỉ làm người bực mình, xấu hổ, thắc
mắc. Vì khinh chê giới pháp nên phạm ba-dật-đề.
Thứ 73, giới sợ nên nói trước (103) .- Nếu Tỷ-kheo khi nghe
thuyết giới mà nói như vầy: nay tôi mới biết giới điều này được chép
trong Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần, rút ra từ trong Giới kinh.
Nhưng các Tỷ-kheo khác biết Tỷ-kheo ấy đã 2 lần 3 lần ngồi nơi chỗ
thuyết giới, huống chi đã nhiều lần. Tỷ-kheo ấy nói không hiểu biết, vậy
nếu phạm tội thì phải đúng phép mà trị tội đã phạm, lại trị thêm tội
không hiểu biết; hãy bảo rằng, đại đức, ông không được lợi ích, không
khéo léo kiếm được lợi ích, ấy là khi nghe thuyết giới mà ông không dụng
tâm ghi nhớ, không nghe với một lòng và hai tai, ấy vậy, không hiểu
biết giới điều thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 74, giới Kiết-ma rồi hối (104) .- Nếu Tỷ-kheo chung cùng
Kiết-ma rồi, sau đó nói rằng các Tỷ-kheo theo bạn thân nên lấy vật của
chư tăng mà cho họ, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 75, giới không nói dữ dục.- Nếu Tỷ-kheo, chư tăng xử việc
chưa xong, mình không nói dữ dục mà đứng dậy đi ra, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 76, giới dữ dục rồi hối.- Nếu Tỷ-kheo dữ dục rồi sau đó
hối tiếc, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 77, giới lén nghe tranh cãi (105) .- Nếu Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo tranh cãi với nhau, mình lén nghe rồi đem lời ấy nói với người
khác, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 78, giới đánh Tỷ-kheo khác (106) .- Nếu Tỷ-kheo vì tức
giận không vui mà đánh Tỷ-kheo khác, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 79, giới tát Tỷ-kheo khác.- Nếu Tỷ-kheo vì tức giận không
vui mà lấy tay tát Tỷ-kheo khác, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 80, giới vu khống phạm tội (107) .- Nếu Tỷ-kheo vì tức
giận nên đem sự vô căn cứ mà phỉ báng Tỷ-kheo khác phạm tăng-già
bà-thi-sa, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 81, giới vào cửa cung vua.- Nếu Tỷ-kheo, có vua thuộc dòng
Sát-lợi, rưới nước đỉnh đầu lúc đăng quang, vua này chưa ra khách, chưa
cất bảo vật, mà mình đi vào, nếu bước qua ngưỡng cửa cung vua, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 82, giới cầm giữ vàng ngọc.- Nếu Tỷ-kheo đối với vàng ngọc
hay đồ trang sức bằng vàng ngọc, mà mình tự cầm giữ hay bảo người cầm
giữ, thì, trừ trong chùa và chỗ ngủ nhờ, phạm ba-dật-đề. Trong chùa và
chỗ ngủ nhờ mà cầm giữ vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng ngọc, tự
mình cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì nên nghĩ rằng để người chủ nhớ
mà đến lấy: vì ý nghĩ ấy chứ không vì gì khác.
Thứ 83, giới đi không phải lúc (108) .- Nếu Tỷ-kheo đi vào xóm
làng không phải lúc, mà không dặn lại Tỷ-kheo khác, thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 84, giới làm giường quá cỡ.- Nếu Tỷ-kheo làm giường giây
giường cây, thì chân chỉ cao bằng 8 ngón tay của Phật, trừ chỗ vô mộng
hớt rồi. Nếu quá cỡ ấy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 85, giới dồn bông độn nệm (109) .- Nếu Tỷ-kheo dồn đâu la
làm nệm lớn nệm nhỏ cho giường giây giường cây, làm thành là phạm
ba-dật-đề.
Thứ 86, giới làm ống đựng kim (110) .- Nếu Tỷ-kheo làm ống
đựng kim bằng xương, nanh, sừng, khoét chuốt làm thành, thì phạm
ba-dật-đề.
Thứ 87, giới ngọa cụ quá cỡ (111) .- Nếu Tỷ-kheo làm ni sư đàn
thì phải làm đúng cỡ. Cỡ ở đây là dài bằng 2 gang tay của Phật, rộng
bằng 1 gang rưỡi; cần rộng dài thêm thì mỗi bề thêm nửa gang tay nữa.
Quá cỡ ấy thì cắt thành là phạm ba-dật-đề.
Thứ 88, giới làm khăn che ghẻ (112) .- Nếu Tỷ-kheo làm khăn
che ghẻ thì phải đúng cỡ. Cỡ ở đây là dài bằng 4 gang tay của Phật, rộng
bằng 2 gang tay. Cắt rồi mà quá cỡ ấy thì phạm ba-dật-đề.
Thứ 89, giới khăn tắm quá cỡ.- Nếu Tỷ-kheo làm khăn tắm mưa
thì phải làm đúng cỡ. Cỡ ở đây là dài bằng 6 gang tay của Phật, rộng
bằng 2 gang rưỡi. Quá cỡ ấy thì cắt rồi là phạm ba-dật-đề.
Thứ 90, giới 3 y quá cỡ.- Nếu Tỷ-kheo thì may y phải bằng cỡ y
của Phật, may quá cỡ ấy thì phạm ba-dật-đề. Ở đây cỡ y của Phật là dài
bằng 9 gang tay của Ngài, rộng bằng 6 gang tay, đó là cỡ của y Phật.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 90 giới ba-dật-đề. Nay xin hỏi chư đại
đức, trong 90 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại
đức, trong 90 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc
này tôi nắm chắc như vậy.
III.7 Bốn Giới Hối Quá
Bạch chư đại đức, 4 giới ba-la-đề-xá-ni - Patidesaniya (113)
sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới
kinh.
Thứ 1, giới ăn đồ ăn ni (114) .- Nếu Tỷ-kheo vào trong làng
xóm, không bịnh, mà tự tay nhận lấy đồ ăn mà ăn của Tỷ-kheo ni không
phải thân quyến, thì Tỷ-kheo ấy phải đến Tỷ-kheo khác mà hối lỗi như
vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc không đáng làm,
nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Ðó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 2, giới ăn đồ chỉ bảo (115) .- Nếu Tỷ-kheo đến ăn ở nhà cư
sĩ, ở đây có Tỷ-kheo ni chỉ bảo đưa đồ ăn (116) vị này, đưa cơm vị kia,
thì Tỷ-kheo ấy nên nói với Tỷ-kheo ni, rằng xin bà chị thôi đi, để các
Tỷ-kheo ăn xong đồ ăn này đã. Nếu không có một Tỷ-kheo nào nói với
Tỷ-kheo ni ấy như vậy, rằng xin bà chị thôi đi, để các Tỷ-kheo ăn xong
đồ ăn này đã, thì Tỷ-kheo thủ chúng phải đến Tỷ-kheo khác mà hối lỗi như
vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc không đáng làm,
nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Ðó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 3, giới ăn của học gia (117) .- Nếu trước đã làm phép
Kiết-ma học gia, mà nơi học gia ấy, Tỷ-kheo không được mời trước, không
bịnh, mà tự tay nhận lấy đồ ăn của họ mà ăn, thì Tỷ-kheo ấy phải đến
Tỷ-kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng
trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Ðó
gọi là sự hối lỗi.
Thứ 4, giới ăn chỗ nghi sợ (118) .- Nếu Tỷ-kheo có chỗ vắng
vẻ, xa, và có sự nghi sợ; Tỷ-kheo ấy ở chỗ vắng vẻ như vậy mà không nói
trước cho thí chủ biết đường đến chỗ ấy đáng sợ, Tỷ-kheo ấy cũng không
đi nhận đồ ăn ở ngoài chỗ ấy, Tỷ-kheo ấy chỉ ở trong chỗ ấy, và không
bịnh, vậy mà tự tay nhận lấy đồ ăn mà ăn, thì Tỷ-kheo ấy phải đến
Tỷ-kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng
trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Ðó
gọi là sự hối lỗi.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 4 giới ba-la-đề-xá-ni. Nay xin hỏi chư
đại đức, trong 4 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư
đại đức, trong 4 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng.
Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.8 Một Trăm Giới Học
Bạch chư đại đức, 100 giới phải học - Sekhiya (119) sau đây,
cứ mỗi nửa tháng phải tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 .- Nên mặc quần (119b) cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 2 .- Nên mặc 3 y cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 3 .- Không được vắt trái y đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 4 .- Không được vắt trái y ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 5 .- Không được quấn y nơi cổ vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 6 .- Không được quấn y nơi cổ ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 7 .- Không được trùm đầu vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 8 .- Không được trùm đầu ngồi nhà cư sĩ, phải học. (120)
Thứ 9 .- Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 10.- Không được vừa đi vừa nhảy ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 11 .- Không được ngồi xoạc đùi trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 12 .- Không được chống nạnh đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 13 .- Không được chống nạnh ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 14 .- Không được lắc mình đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 15 .- Không được lắc mình ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 16 .- Không được vung tay đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 17 .- Không được vung tay ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 18 .- Khéo che mình kín đáo vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 19 .- Khéo che mình kín đáo ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 20 .- Không được nhìn bên này liếc bên kia đi vào nhà cư sĩ,
phải học.
Thứ 21 .- Không được nhìn bên này liếc bên kia ngồi nhà cư sĩ,
phải học.
Thứ 22 .- Yên lặng vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 23 .- Yên lặng ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 24 .- Không được giỡn cười đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 25 .- Không được giỡn cười ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 26 .- Chú ý khi ăn (121), phải học.
Thứ 27 .- Lấy cơm chỉ ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 28 .- Cả đồ ăn (122) nữa cũng chỉ lấy ngang miệng bát mà ăn,
phải học.
Thứ 29 .- Ðồ ăn và cơm phải lấy tương đương với nhau, phải học.
Thứ 30 .- Tuần tự mà ăn (123), phải học.
Thứ 31 .- Không được moi xốc giữa bát mà ăn, phải học.
Thứ 32.- Không bịnh thì không được tự hỏi cơm và đồ ăn cho mình,
phải học.
Thứ 33 .- Không được lấy cơm đậy đồ ăn lại để mong có đồ ăn nữa,
phải học.
Thứ 34 .- Không được liếc xem trong bát Tỷ-kheo ngồi bên cạnh,
phải học.
Thứ 35 .- Phải để ý nơi bát mà ăn, phải học.
Thứ 36 .- Không được dồn cơm lớn miếng mà ăn, phải học.
Thứ 37 .- Không được hả lớn miệng để chờ cơm mà ăn, phải học.
Thứ 38 .- Không được ngậm cơm mà nói chuyện, phải học.
Thứ 39 .- Không được nắm cơm ngoài xa ném vào miệng, phải học.
Thứ 40 .- Không được ăn mà còn sót lại (124), phải học.
Thứ 41 .- Không được bung má mà ăn, phải học.
Thứ 42 .- Không được nhai (124b) ra tiếng mà ăn, phải học.
Thứ 43 .- Không được hớp cơm mà ăn, phải học.
Thứ 44 .- Không được le lưỡi liếm mà ăn, phải học.
Thứ 45 .- Không được rảy tay mà ăn, phải học.
Thứ 46 .- Không được lượm cơm rơi mà ăn, phải học.
Thứ 47 .- Không được tay dơ cầm đồ đựng nước uống (125), phải học.
Thứ 48 .- Không được đổ nước rửa bát trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 49 .- Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ trên cỏ tươi, trừ lúc
có bịnh, phải học.
Thứ 50 .- Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ vào nước sạch, trừ
lúc có bịnh, phải học.
Thứ 51 .- Không được đứng mà đại tiện tiểu tiện, trừ lúc có bịnh,
phải học.
Thứ 52 .- Không được thuyết pháp cho người vắt áo lên vai, không cung
kính, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 53 .- Không được thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ lúc
họ có bịnh, phải học.
Thứ 54 .- Không được thuyết pháp cho người che đầu, trừ lúc họ có
bịnh, phải học.
Thứ 55 .- Không được thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ lúc họ có
bịnh, phải học.
Thứ 56 .- Không được thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ lúc họ
có bịnh, phải học.
Thứ 57 .- Không được thuyết pháp cho người mang dép da, trừ lúc họ
có bịnh, phải học.
Thứ 58.- Không được thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ lúc họ
có bịnh, phải học.
Thứ 59 .- Không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa, trừ lúc họ
có bịnh, phải học.
Thứ 60 .- Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ ra để coi giữ,
phải học.
Thứ 61 .- Không được cất giấu của cải trong tháp Phật, trừ ra để
cho chắc chắn, phải học.
Thứ 62 .- Không được mang dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 63 .- Không được cầm dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 64 .- Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, phải
học.
Thứ 65 .- Không được mang giày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 66 .- Không được cầm giày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 67.- Không được ngồi ăn nơi tháp Phật mà xả rác và Thức ăn làm
dơ đất, phải học.
Thứ 68 .- Không được khiêng thây chết đi qua tháp Phật, phải học.
Thứ 69 .- Không được chôn thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 70 .- Không được đốt thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 71 .- Không được hướng về tháp Phật mà đốt thây chết, phải
học.
Thứ 72 .- Không được đốt thây chết bốn phía tháp Phật để hơi hôi
bay vào, phải học.
Thứ 73 .- Không được mang áo và giường người chết đi qua tháp
Phật, trừ ra đã giặt, nhuộm và xông hương, phải học.
Thứ 74 .- Không được đại tiện tiểu tiện nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 75 .- Không được hướng về tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện,
phải học.
Thứ 76 .- Không được đại tiện tiểu tiện bốn phía tháp Phật để hơi
thối bay vào, phải học.
Thứ 77 .- Không được mang ảnh tượng của Phật đến chỗ đại tiện tiểu
tiện, phải học.
Thứ 78 .- Không được ở nơi tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 79 .- Không được hướng về tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 80 .- Không được bốn phía tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 81 .- Không được nơi tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 82 .- Không được hướng về tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải
học.
Thứ 83 .- Không được bốn phía tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải
học.
Thứ 84 .- Không được ngồi duỗi chân trước tháp Phật, phải học.
Thứ 85 .- Không được để tượng Phật ở phòng dưới còn mình ở phòng
trên, phải học.
Thứ 86 .- Người ngồi mà mình đứng thì không được thuyết pháp cho họ,
trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 87 .- Người nằm mà mình ngồi thì không được thuyết pháp cho
họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 88 .- Người ngồi ghế mà mình ngồi chỗ không phải ghế thì không
được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 89 .- Người ngồi chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp thì không được
thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 90 .- Người đi trước mà mình đi sau thì không được thuyết pháp
cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 91 .- Người ở chỗ kinh hành cao mà mình ở chỗ kinh hành thấp
thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 92 .- Người đi giữa đường mà mình đi lề đường thì không được
thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 93 .- Không được dắt tay nhau mà đi đường, phải học.
Thứ 94 .- Không được trèo cây cao quá đầu người, trừ trường hợp có
lý do, phải học,
Thứ 95.- Không được đựng bát vào đãy, xâu vào đầu tích trượng rồi
vác trên vai mà đi, phải học.
Thứ 96 .- Người cầm gậy, không cung kính, thì không được thuyết pháp
cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 97 .- Người cầm kiếm thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra
lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 98 .- Người cầm mâu thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra
lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 99 .- Người cầm dao thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra
lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 100.- Người che dù thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra
lúc họ có bịnh, phải học.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói các giới phải học. Nay xin hỏi chư đại
đức, trong các giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại
đức, trong các giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng.
Việc này tôi nắm chắc như vậy.
III.9 Bảy Pháp Diệt Tránh
Bạch chư đại đức, 7 pháp diệt tránh - Adhikaranasamatha (126)
sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới
kinh. Nếu các Tỷ-kheo có sự tranh cãi nổi lên thì phải diệt trừ liền.
Thứ 1 .- Ðáng cho hiện tiền tì ni thì nên cho hiện tiền tì ni.
Thứ 2 .- Ðáng cho ức niệm tì ni thì nên cho ức niệm tì ni.
Thứ 3 .- Ðáng cho bất si tì ni thì nên cho bất si tì ni.
Thứ 4 .- Ðáng cho tự nói xử trị thì nên cho tự nói xử trị.
Thứ 5 .- Ðáng cho xét tìm tội tướng thì nên cho xét tìm tội tướng.
Thứ 6 .- Ðáng cho nhiều người xét tìm thì nên cho nhiều người xét
tìm.
Thứ 7 .- Ðáng cho như cỏ che đất thì nên cho như cỏ che đất.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 7 pháp diệt tránh. Nay xin hỏi chư đại
đức, trong 7 pháp ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại
đức, trong 7 pháp ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc
này tôi nắm chắc như vậy.
III.10 Lời Kết Thúc
Bạch chư đại đức, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh, đã nói 4 giới
ba-la-di, đã nói 13 giới tăng-già bà-thi-sa, đã nói 2 giới bất định, đã
nói 30 giới ni-tát-kỳ ba-dật-đề, đã nói 90 giới ba-dật-đề, đã nói 4
giới ba-la-đề-xá-ni, đã nói 100 giới chúng học, đã nói 7 pháp diệt
tránh. Tất cả giới điều như vậy là Giới kinh Phật dạy, cứ mỗi nửa tháng
thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh. Còn những Phật pháp
khác nữa thì, với những Phật pháp ấy, hãy chung cùng hòa hợp mà học.
|