Thông tin về cuốn sách:
Giới thiệu sách: Cuốn sách xem xét các nghiên cứu về kí ức
kiếp trước
của trẻ này đã miêu tả 2500 trường hợp thuộc dữ liệu của trường Đại học
Virginia mà các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu một cách cẩn thận kể từ khi
bác sĩ
Ian Stevenson đi tiên phong cách đây 40 năm. Những đứa trẻ này thường
bắt đầu
kể về kiếp trước ở độ tuổi hai hoặc ba và có thể nói về gia đình lúc
trước hoặc
cách các em đã chết trong kiếp trước. Các câu nói của các em thường đã
được
kiểm định là đúng với một người đã chết cụ thể và một số trẻ còn nhận ra
được
nhiều người trong gia đình kiếp trước. Một số em khác lại có các vết bớt
hoặc
dị tật tương tự với các vết thương trên cơ thể người đã chết.
Tiền kiếp - có hay
không? trình bày các trường hợp này một
cách rõ ràng và đi sâu vào giả thiết rằng ý thức vẫn có thể tồn tại sau
khi bộ
não chết đi. Nó là một cuốn sách thú vị và gợi suy nghĩ mà có thể thách
thức và
làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn của độc giả về cuộc sống và cái chết.
Trích đoạn sách
hay:
"...Như tôi đã nói từ trước, nghi
thức tạo trước vết bớt được thực hiện ở một số nước Châu Á. Một người
nào đó -
thường là một người thân trong nhà hoặc một người bạn của gia đình -
đánh dấu
lên cơ thể của một người đang hấp hối hoặc đã chết, thường là bằng nhọ
nồi hoặc
bột hồ, với niềm tin rằng khi người đó được tái sinh, đứa bé sẽ mang một
vết
bớt tương tự với vết đánh dấu này. Người đánh dấu thường cầu nguyện
trong lúc
thực hiện nghi thức và xin người đang hấp hối hãy mang theo dấu vết này
sang cơ
thể mới của mình. Sau này một đứa trẻ được sinh ra với một vết bớt được
cho là
giống với vết đánh dấu trên cơ thể người tiền kiếp.
Tiến sĩ Stevenson là người đầu tiên ở phương Tây miêu tả
trọn vẹn nghi thức này nhưng nhiều tác giả khác đã từng đề cập đến nó.
Chẳng
hạn trong cuốn tự truyện của mình, Đạt Lai Lạt Ma đã từng viết về một
trường
hợp xảy ra trong gia đình ông. Em trai ông chết khi mới được hai tuổi.
Mọi
người đã bôi bơ lên người cậu bé sau khi em mất và mẹ ông sau đó đã hạ
sinh một
đứa con trai khác có một vết bớt mờ ở cùng vị trí với vết đánh dấu trên
cơ thể
ban đầu.
Trường hợp đó khá điển hình cho những trường hợp chúng tôi
đã phát hiện được. Tiến sĩ Stevenson đã miêu tả 20 trường hợp như vậy
trong
cuốn Reincarnation and Biology (Đầu thai và sinh học), Jurgen và
tôi
cũng đã tìm thêm được 18 trường hợp trong các chuyến đi tới Thái Lan và
Myanmar. Trong
những trường hợp này, người ta thường tạo dấu với hi vọng rằng người
được đầu
thai mang trên người những vết này sẽ được sinh ra trong cùng một gia
đình với
người đã chết và 15 trong số 18 trường hợp của chúng tôi là những trường
hợp
cùng gia đình. Điều này dường như sẽ làm khả năng vết đánh dấu và vết
bớt chỉ
ngẫu nhiên giống nhau nhỏ đi, so với trường hợp trong đó một đứa trẻ
khác trong
vùng được xem là hiện thân kiếp sau của người đã chết.
Bên cạnh đó, trong sáu trường hợp, trẻ cũng nói ra những câu
liên quan đến cuộc sống kiếp trước và một số các trẻ khác còn rất nhỏ
khi chúng
tôi gặp các em nên có thể lúc đó vẫn chưa đến lúc các em nói ra những
câu đó.
Một số em có cả những hành vi và lời nói cho thấy có một mối liên hệ nào
đó
giữa các em và người tiền kiếp, trong khi ở một số em khác, vết bớt là
dấu hiệu
duy nhất của mối liên quan này.
Chúng ta có thể lấy ví dụ là một trường hợp tiến sĩ Keil và
tôi đã nghiên cứu. Kloy Matwiset là một cậu bé được sinh ra ở Thái Lan
vào năm
1990. 11 tháng trước khi cậu bé chào đời, bà ngoại của cậu đã chết vì
bệnh tiểu
đường. Trước khi mất, bà nói với con dâu của mình rằng bà muốn được đầu
thai
làm con trai để có thể có nhân tình như chồng của mình. Một ngày sau khi
bà qua
đời, con dâu của bà dùng bột hồ trắng quét dọc lên đằng sau cổ của bà
với mong
muốn sẽ nhận ra được mẹ chồng của mình khi bà được đầu thai trở lại.
Mẹ
của Kloy có một giấc mộng điềm báo khi chị có thai ở tháng thứ ba, trong
đó
người bà ngoại nói bà muốn được đầu thai làm con của chị. Mẹ cậu bé đã
thấy vết
đánh dấu trên người bà. Khi Kloy được sinh ra, chị nhận thấy con mình có
một
vết bớt đằng sau cổ ở cùng một chỗ với vết đánh dấu. Chúng tôi gặp cậu
bé và
nhìn thấy một vết bớt dọc nhạt màu rất rõ ở đằng sau cổ cậu bé có hình
dạng
tương tự như một vết quệt ngón tay. Người đánh dấu đã xác nhận rằng vết
bớt
khác thường này ở cùng một vị trí với chỗ chị đã tạo dấu lên cơ thể
người bà.
Khi Kloy còn khá nhỏ, cậu bé đã nói một số câu về cuộc sống
kiếp trước của mình. Cậu bé nói mình chính là bà ngoại và bảo với mẹ
mình rằng
em là mẹ của chị. Cậu cũng nói cánh đồng lúa của bà ngoại thuộc về mình.
Thêm
vào đó, cậu bé còn có một số cách cư xử rất nữ tính. Cậu bé nói muốn làm
con
gái và khi còn nhỏ, em thường ngồi xuống để đi tiểu. Em cũng thích mặc
đồ con
gái; dùng son, khuyên tai và váy của mẹ rất nhiều lần. Ở trường, cậu
thích chơi
và học cùng các bạn gái hơn các bạn trai, cậu không tham gia vào các trò
chơi
dành cho con trai ở vùng đó như trèo cây chẳng hạn. Cả bố và mẹ của cậu
bé đều
phàn nàn về cách cư xử nữ tính của em và nói rằng họ không bao giờ nói
chuyện
với em về việc em là hiện thân đầu thai của bà ngoại.
Các cách cư xử này cho thấy cậu bé bị mắc một hội chứng gọi
là hội chứng rối loạn giới tính, tôi sẽ bàn kỹ hơn về những hành động
như vậy
trong Chương 6. Giờ tôi muốn tập trung vào vết bớt và nguyên nhân hình
thành
của nó. Dĩ nhiên có một khả năng là sự ngẫu nhiên. Nhưng nó sẽ không
giải thích
được các đặc điểm khác của trường hợp này. Ngoài ra, để nói được rằng
vết bớt
này chỉ ngẫu nhiên xuất hiện sau khi con dâu của người tiền kiếp muốn
tạo ra
chính một vết như vậy, chúng ta sẽ phải mở rộng giả thiết ngẫu nhiên
này.
Một khả năng khác cần xem xét là mặc dù đứa trẻ không phải
là hiện thân của người tiền kiếp nhưng chính lời ước và nguyện vọng của
người
mẹ đã tạo ra vết bớt. Vì trong hầu hết các trường có vết
bớt, trẻ và người tiền kiếp là người
cùng một gia đình, nên thường thì mẹ của trẻ đã nhìn thấy hoặc ít nhất
cũng
biết về vết đánh dấu đó. Lúc này câu hỏi của chúng ta là liệu việc người
mẹ
mong muốn người đã chết đầu thai làm con mình có thể khiến chị hạ sinh
một đứa
trẻ có vết bớt tạo trước đó hay không. Khi xem xét giả thiết này, một
lần nữa chúng
ta lại phải nhớ lại các trường hợp thôi miên. Nếu một hình ảnh trong đầu
có thể
gây ra một dấu vết trên da một người, vậy thì liệu hình ảnh trong đầu
một người
mẹ có thể tạo ra vết trên da của một bào thai đang phát triển hay không?
Nó sẽ
tương tự với các trường hợp nhận dấu ấn từ mẹ - một quan niệm phổ biến
vào cuối
thế kỷ XIX được dùng để miêu tả những trường hợp trong đó một người mẹ
mang
thai thấy bất an khi phải chứng kiến dị tật trên thân một người khác sau
đó lại
hạ sinh ra một đứa trẻ với cùng dị tật đó. Nhiều người đã cho rằng hiện
tượng
này thật phi lý vì họ không thể tìm ra một cơ chế nào để giải thích cho
nó, mặc
dù bây giờ chúng ta biết rằng màng bảo vệ nhau có nhiều lỗ hổng hơn
nhiều người
vẫn nghĩ. Tiến sĩ Stevenson đã liệt kê nhiều trường hợp nhận dấu từ mẹ
đã được
công bố trong cuốn Reincarnation and Biology (Đầu thai và sinh
học) và
chúng bao gồm một số trường hợp có sự ngẫu nhiên đến kỳ lạ. Nổi bật nhất
có lẽ
là trường hợp một người phụ nữ mang thai, sau một thời gian phiền muộn
vì đã nhìn
thấy các vết thương để lại trên người em trai mình sau ca phẫu thuật cắt
bỏ
dương vật bị ung thư, đã hạ sinh một cậu bé bị thiếu dương vật bẩm sinh -
một
dị tật hiếm đến nỗi hầu như chưa thấy bao giờ.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, các trường hợp vết bớt tạo
trước cũng khác các trường hợp thôi miên và nhận dấu ấn từ mẹ ở ít nhất
một
điểm. Bị thôi miên rõ ràng là một trạng thái tinh thần không bình thường
và
tương tự như vậy, hầu hết các người mẹ gây dấu ấn cho con đều đã bị ảnh
hưởng
mạnh mẽ về mặt tinh thần bởi những dị tật họ nhìn thấy. Trong các trường
hợp
vết bớt tạo trước, người mẹ, mặc dù có thể rất đau buồn vì cái chết của
một
người thân trong gia đình, thường đã nhìn thấy vết đánh dấu nhưng không
đặc
biệt thấy xúc động trước chúng. Hơn nữa, thường thì người mẹ nhìn thấy
vết đánh
dấu một thời gian trước khi mang thai và mặc dù chúng ta đều có thể đoán
được
rằng thời gian mang thai là khoảng thời gian ý thức chấn thương dễ gây
ảnh
hưởng lên sự phát triển của bào thai nhất, nếu cho ý rằng hình ảnh người
mẹ đã
nhìn thấy từ nhiều tháng hoặc năm trước khi mang thai có thể tạo ra dấu
vết
trên cơ thể con mình nghe kém lô-gic hơn. Có lẽ chúng ta có thể xét đến
khả
năng mong muốn của người mẹ rằng con mình chính là hiện thân của người
đã chết
lớn đến nỗi nó đã khiến người mẹ sinh ra một đứa bé có một vết bớt tương
tự vết
đánh dấu trên người đó. Dĩ nhiên cách giải thích như thế vẫn không lý
giải được
cho những câu nói và hành động của trẻ trong một số trường hợp.
Còn về giả thiết đầu thai, chúng tôi gặp vấn đề về thời
điểm đánh dấu. Đôi khi các vết này được đánh dấu khi người đó đang hấp
hối,
nhưng thường thì sau khi người đó đã chết. Trong một vài trường hợp, thi
thể
một người được đánh dấu vài ngày sau khi người đó qua đời hoặc vào lúc
đầu của
nghi thức hỏa táng. Khi đó, sẽ phải có nhiều yếu tố góp phần tạo ra vết
bớt chứ
không chỉ là vết đánh dấu trên cơ thể vì nghi thức hỏa táng ngay sau đó
có thể
sẽ tạo ra kết quả như nghi thức đánh dấu và đứa bé được sinh ra sau này
không
hề có dấu vết nào cho thấy ảnh hưởng của nó.
Có ít nhất hai khả năng đáng được xem xét. Khả năng thứ
nhất là ý thức có thể ở gần cơ thể một thời gian sau khi chết, điều này
phù hợp
với một số lời kể chúng tôi nghe được từ trẻ về lễ tang của người tiền
kiếp (đề
cập ở Chương 8). Một vết được đánh dấu lên cơ thể có thể gây ra một tác
động
tinh thần làm đến vết bớt sau này, cũng như việc các vết thương trong
các
trường hợp khác có thể giống với các vết bớt trên người trẻ. Một khả
năng khác
chính lời cầu nguyện của người đánh dấu lại quan trọng hơn bản thân hành
động
đánh dấu. Khi người đó cầu nguyện cho người chết mang theo dấu này sang
kiếp
sau, ý thức của người đánh dấu có thể kết nối với ý thức của người chết
để tạo
ra vết bớt về sau. Chúng ta có thể đoán được rằng thời gian xung quanh
cái chết
là một khoảng thời gian đặc biệt nhạy cảm và lời cầu nguyện này sẽ có
tác dụng
gần như một lời thôi miên làm vết bớt xuất hiện trên đứa trẻ được sinh
ra sau
này.
Trong bất cứ trường hợp nào thì những vết bớt (tạo trước) này
cũng rất khó
giải thích và chúng có thể cung cấp cho chúng ta một số manh mối về hiện
tượng
đầu thai nói chung. Chúng cho thấy các vết bớt có thể bắt nguồn từ cả
những vết
đánh dấu trước và sau cái chết. Nếu đây là những trường hợp đầu thai,
điều này
sẽ chỉ ra rằng ý thức có thể bị ảnh hưởng bởi những sự kiện xảy ra ít
nhất là
một khoảng thời gian sau cái chết. Chúng cũng cho thấy, ít nhất là đối
với tôi,
rằng các vết bớt này có nhiều nguyên nhân chứ không chỉ mỗi vết thương
trên cơ
thể. Điều này khá hợp lý xét về một mặt nào đó vì chúng ta sẽ gặp khó
khăn
trong việc lý giải vì sao ý thức lại có thể mang theo một vết thương mà
không
cần tới cơ thể. Nếu chúng ta đặt giả thiết vết thương thể xác sẽ tạo ra
một
hình ảnh tinh thần thì ý kiến cho rằng hình ảnh tinh thần đó có thể ảnh
hưởng
đến sự phát triển của một bào thai một khi ý thức đã nhập vào nó khá hợp
lý khi
chúng ta xét đến các tác động của hình ảnh tinh thần trong các trường
hợp đặc
biệt khác."
Về tác giả: Tiến
sĩ y khoa Jim B. Tucker là bác sĩ nhi chuyên khoa tâm thần tại
Đại học
Virgina - nơi ông làm việc với tư cách là Giám đốc bệnh viện thần kinh
Gia đình
và Trẻ em.
Thông tin về cuốn
sách:
Tên sách
|
Tiền kiếp - có hay
không?
|
Tác giả
|
Jim B. Tucker
|
Giá
|
69.000 (vnđ)
|
Số trang
|
358
|
Nhà xuất bản
|
Phương Đông
|
Khổ
|
13 x 20.5 (cm)
|
Dạng bìa
|
Bìa mềm
|
Công ty CP Sách Thái
Hà trân trọng giới thiệu.
|