CON
ĐƯỜNG ĐẾN HẠNH PHÚC
Dịch
giả: Hoàng Phong
LỢI
ÍCH CỦA LÒNG TỪ BI
*
Hạnh
phúc và đạo pháp
Kinh nghiệm sống của
tôi cũng chẳng có gì là phi thường cả mà trái lại rất bình dị,
thấm đượm tình người, và thực sự thì đơn giản chỉ có thế thôi.
Chính là nhờ Phật Giáo mà tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi,
đem lại hơi ấm cho tim tôi, và sự tu tập ấy đã tỏ ra khá hữu ích cho
tôi trong cuộc sống thường nhận. Quê tôi ở một tỉnh nhỏ Tây Tạng tên
là Amdo, nơi mà người dân nổi tiếng là có tính tình hay cáu
kính-đến độ mỗi khi có một người Tây Tạng nào nổi nóng thì người
ấy thường bị gán cho là dân gốc Amdo! Tuy nhiên nếu mang tánh khi hôm
này của tôi để so sánh với lúc tôi còn mười lăm tuổi, thì quả thật
khác biệt rất nhiều. Ngày nay, việc cảm thấy bực dọc với tôi quả
là chuyện hết sức hiếm hoi, và nếu như việc ấy có xảy ra đi nữa
thì cũng chỉ thoáng qua mà hôi. Sự tuyệt vời này đã giúp tôi luôn
luôn hân hoan trong cuộc sống, và chẳng qua đó cũng là nhờ tôi biết tu
học và luyện tập.
Trong kiếp sống này,
tôi đã phải rời bỏ quê hương và còn sống được đến ngày hôm nay cũng
đều hoàn toàn nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác. Tôi đã mất mẹ, và
hầu hết các vị thầy và các vị giám hộ của tôi cũng đã qua đời.
Dĩ nhiên là tôi rất đau buồn mỗi khi nghĩ đến những thảm trạng ấy.
Tuy vậy, những nỗi đau buồn đó không làm cho tôi điên đảo, vì dù cho
những gương mặt thân yêu ngày xưa không còn nữa, thì những gương mặt
mới lại hiện đến với tôi. Nhờ thế mà tôi vẫn sống hạnh phúc và
luôn giữ được tâm thức an bình. Theo tôi, một trong những khả năng kỳ
diệu của con người là biết đặt mọi thử thách trong một bối cảnh bao
quát hơn và sự kỳ diệu ấy bắt nguồn từ lòng từ bi và tình yêu
thương.
Bản
chất tự nhiên của con người
Một số bạn bè đã
nói với tôi rằng họ biết rõ những phẩm tính của tình thương và
lòng từ bi, nhưng nếu phải đem ra ứng dụng vào thực tế thì quả thật
họ không thể nào thực hiện được. Đối với họ, thế giới của chúng ta
không phải là nơi mà những phẩm tính tuyệt vời ấy có thể đem lại
bất cứ một ảnh hưởng hay một sức mạnh nào; sự nóng giận và hận
thù đã quá ăn sâu vào lòng chúng ta từ lâu và sẽ còn khống chế nhân
loại cho đến muôn đời.
Tôi không chia sẻ với
họ quan điểm ấy. Chúng ta đây là những con người, và giống người của
chúng ta hiện hữu trong hình dạng tương tự như thế này đã được
khoảng chừng hơn một trăm nghìn năm. Tôi nghĩ rằng nếu như tâm thức
của chúng t trừ trước đên nay từng bị khống chế bởi nóng giân, và
hận thù, thì dân số thế giới lẽ ra phải giảm xuống mới đúng. Nhưng
thực sự thì đâu phải thế: dù chiến tranh triền miên, nhưng hành tinh
này chưa bao giờ lại đông đảo như vậy.
Theo tôi, sự kiến ấy chứng minh cho thấy tuy nóng giận và hung
bạo lúc nào cũng xảy ra trên thế giới, nhưng tình thương và lòng từ
bi vẫn luôn luôn trội hơn nhiều. Nếu các cơ quan “truyền thông” thường
xuyên đề cập tới những tin tức không hay, kể cả việc liên tục phơi
bày thảm trạng, thì đó chẳng qua cũng vì các hành vi từ bi đã trở
thành quá tự nhiên trong đời sống thường nhật khiến người ta không
còn chú ý đến nữa.
Chỉ cần quan sát
bản chất con người trên một khía cạnh thật sơ đẳng thì ta cũng sẽ
nhận thấy bản chất đó mang một cá tính hiền hòa nhiều hơn là hung
hãn. Hãy lấy thí dụ trường hợp của súc vật: những con thú hiền
lành có cơ thể thích nghi với bản tính hiền lành, trong khi cơ thể
của thú săn mồi lại khác hẳn, phù hợp với bản chất săn mồi của
chúng. Con nai và con hổ có hình thù thật khác nhau. Khi đem so sánh
cấu tạo của cơ thể của ta và của chúng thì sẽ thấy ta giống con nai
hay con thở hơn là giống con hổ. Có phải là răng của ta tương tự với
răng của con thỏ hay chăng? Chắc chắn là ta không có răng nhọn răng nanh
của con hổ. Kể cả móng tay và móng chân cũng thế. Tôi không giương
móng tay ra để gây ra thương tích cho một con chuột. Quả thật, nhờ vào
trí thông minh mà con người biết phát minh và sử dụng các loại dụng
cụ và tìm ra nhiều phương cách để nâng cao sự sống, tuy nhiên về mặt
cấu tạo cơ thể thì đúng là hơn là con người phải thuộc vào loại
sinh vật hiền lành.
Thật vậy, chúng ta
là những sinh vật có lối sống xã hội. Thiếu tình thân ái, thiếu nụ
cười, thì sự sống quả là đáng buồn và nỗi cô đơn là một thứ gì
không chịu đựng nổi. Sự tương liên giữa con người là một quy luật tự
nhiên- tức là trong chiều hương ta cần phải tùy thuộc vào kẻ khác để
sống còn. Trong một số trường hợp, chỉ vì một vấn đề nội tâm nào
đó khiến ta nhìn những người chung quanh với đầy hận thù, và trong
hoàn cảnh như thế thì ta sẽ không thể nào tìm thấy hạnh phúc và
giữa cho tâm thức được an bình. Qua những kinh nghiệm tự nhiên và sơ
đẳng, ta cũng có thể nhận thấy rằng sự tương liên-trao đổi tình
thương giữa con người với nhau-chính là chìa khóa của hạnh phúc.
Điều này lại càng
trở nên rõ rệt hơn khi ta nhìn vào sự sinh hoạt cơ bản của ta. Muốn
vượt lên trên mức độ thấp nhất là sự sống còn, ta cũng cần có một
mái nhà, thức ăn, bạn đồng hành, thân hữu, một nguồn tài lợi nào
đó, và lòng quý mến của kẻ khác,vvv. Ta đâu có thể tự cung phụng
lấy một mình những nhu cầu trên đây, mà bắt buộc phải nương nhờ vào
kẻ khác. Hãy tưởng tượng một người nào đó muốn sống một mình trong
một nơi hẻo lánh không có người ở thì dù cho can trường đến đâu, sức
khỏe tốt đến đâu và trình độ học vấn cao cách mấy, người ấy cũng
không thể tự hào cho rằng mình đã đạt được hạnh phúc và cuộc sống
sẽ được nẩy nở toàn vẹn trong những điều kiện cô đơn như thế. Thí
dụ một người sống giữa chốn rừng sâu, trong một vùng bảo tồn thiên
nhiên ở Phi Châu chẳng hạn, một nơi chỉ toàn là thú vật, thì với
trí thông minh và sự khôn ngoan, người ấy có thể trở thành một ví
chúa tể rừng xanh, không hơn không kém. Thử hỏi hắn ta có bạn hữu hay
không? Hắn ta có cần đến một tên gọi hay không? Nếu muốn trở thành
một vị anh hùng thì hắn có thể thực hiện được không? Nhất định là
không, bởi vì chỉ có cách chung sống với nhiều người khác thì mới
có thể thực hiện được những gì vừa kể mà thôi.
Tuổi trẻ, sức khỏe
và sinh lực đôi khi mang đến cho ta cái cảm giác là mình có thể tự
lập, tự cường, hầu như không cần đến bất cứ kẻ nào khác. Nhưng thật
ra đấy chỉ là một ảo giác. Ngay ở cái tuổi đẹp nhất trong cuộc
đời, ta cũng vẫn cần có bạn hữu, có phải thế không? Lý do thật đơn
giản, chỉ vì ta là con người. Cái sự thực đó lại càng rõ rệt hơn
nữa khi về già. Đối với tôi đây, nay đã ngoài sau mươi tuổi, và cũng
bắt đầu cảm thấy nhiều dấu hiệu của già nua. Tôi thấy trên đầu mình
có thêm nhiều tóc bạc, đôi khi lại đau đầu gối, ngồi xuống và đứng
lên khó khăn. Với tuổi tác thì ta lại càng lệ thuộc hơn vào sự chăm
sóc của kẻ khác: chẳng qua đấy cũng chỉ là phần nào thân phận của
tất cả chúng ta.
Trên một bình diện
nào đó, ít nhất ta cũng có thể bảo rằng kẻ khác chính là nguồn
gốc đem đến hân hoan, hạnh phúc và giàu sang cho ta, tuy nhiên những
điều ấy không phải chỉ là nhưng kết quả đơn giản của sự tương liên
giữa ta và kẻ khác trong đời sống thường nhật mà thôi. Trên thực tế,
tất cả những cảm nhận êm ái mà ta hằng ấp ủ hoặc mong muốn sẽ
thực hiện được, đều đòi hỏi phải có hợp tác và sự tương giao với
kẻ khác. Đấy là những gì thật hiển nhiên, và đồng thời cũng phù
hợp với sự tu tập của một người Phật tử. Vì kể cả những người đã
đạt được cấp bậc thạt cao trên đường tu tập cũng vậy, họ cũng vẫn
cần đến sự hỗ trợ tương tác lẫn nhau. Thật thế, ở một cấp bậc
Giác ngộ hoàn hảo nhất, kể cả lòng từ bi của một vị Phật cũng
không đương nhiên có thể hiển lộ được nếu không có sự tương liên với
kẻ khác: tức là những kẻ nhận lãnh những hành vi Giác ngộ ấy.
Ngay cả với những
người chỉ biết tìm cách thỏa mãn các quyền lợi hoàn toàn ích kỷ-
hạnh phúc, tiện nghi và những đòi hỏi cá nhân, mà không hề quan tâm
đến sự an vui của khả khác- tôi vẫn nhất định cho rằng họ cũng phải
cần đến kẻ khác. Những hành vi tiêu cực cũng không thể có được nếu
không có kẻ khác làm đối tượng để thực hiện. Thí dụ như muốn gian
lận thì cũng phải có kẻ khác cho ta đánh lừa.
Tất cả những biến
cố trong sự sống cũng như tất cả lịch sử đều liên hệ số phận của
kẻ khác, và chặt chẽ đến nỗi nếu chỉ có một người đơn chiếc thì
đừng nghĩ đến việc thực hiện được bất cứ một điều gì. Vô số những
sinh hoạt hàng ngày của con người, dù tích cực hay tiêu cực, đều
không thể thực hiện được khi loại kể khác ra ngoài. Nhờ có kẻ khác
mà ta mới làm ra đồng tiền, dù cho việc kiếm tiền là mục đích duy
nhất của đời ta cũng vậy. Tương tự như vậy, muốn tạo dựng lên một
người lừng danh hay muốn hạ bệ một kẻ nào đó, nhưng nếu đơn đọc thì
chỉ có một mình ta thì dù có kêu gào thật to cách mấy đi nữa cũng
chỉ có tiêng vang dội lại mà thôi.
Sự tương liên là một
quy luật tự nhiên và căn bản. Quy luật đó không những áp đặt cho
những sinh vật tiến hóa sống thành xã hội như chúng ta mà ngày cả
các loài côn trùng, không tôn giáo, không luật pháp, không giáo dục
cũng vậy, tất cả đều nằm chung trong quy luật đó và nếu muốn sống
còn, chúng phải dựa vào sự nhận biết bẩm sinh giúp chúng biết tìm
nhau để hợp tác và liên hệ với nhau. Trên một cấp bậc tinh tế và cao
nhất, ngày cả vật chất cũng phụ thuộc vào sự tương liên. Tất cả
mọi hiện tượng, từ hành tinh mà chúng ta đang sống cho đến các miền
đại dương, những tầng mây trên trời cao, những rừng sâu và hoa lá đang
bao quanh ta, tất cả đều hiện hữu bằng cách liên đới với những hệ thống
năng lực tinh tế. Thiếu sự tương tác thích nghi và cần thiết, tất cả
những thứ vừa kể sẽ tan biến và tự hủy hoại.
Nhu
cầu về tình thương
Trong quá trình hiện
hữu và qua kinh nghiệm sống của chính ta- dù ý thức hay vô tình- thì
có lẽ câu hỏi lớn nhất là: Thế nào là ý nghĩa của sự sống? Tôi
cho rằng mục đích của tất cả chúng ta trong sự sống là có được
hạnh phúc. Từ lúc chào đời, bất cứ một con người nào cũng tha
thiết được hạnh phúc và tìm cách lẩn tránh khổ đau. Không một hoàn
cảnh xã hội nào, không một nền giáo dục hay một hệ thống tư tưởng
nào có thể làm thay đổi được mục tiêu đó. Tất cả chúng ta đều đi
tìm sự thỏa mãn và xu hướng đó phát xuất từ nơi tiềm ẩn sâu kin
nhất trong chúng ta. Tôi cũng không hiểu là cả vũ trụ này với vô số
những vì sao, hành tinh và thiên hà có hàm chứa một ý nghĩa nào sâu
xa hơn nữa hay chăng, nhưng ít ra chúng ta đây, những con người bình dị
sinh sống trên địa cầu này, tất cả đều có trọng trách tự tạo ra cho
mình một cuộc sống hạnh phúc.
Nhưng chúng ta không
phải là những đồ vật được sáng chế, cũng không phải đơn thuần chỉ
là vật chất; chúng ta có tình cảm và biết cảm nhận. Nếu như ta chỉ
là những thực thể cơ khí, thì các máy móc khác có thể làm nhẹ
bớt khổ đau cho ta và làm thỏa mãn các nhu cầu của ta. Tuy nhiên
những tiện nghi vật chất không hội đủ điều kiện để thực hiện việc
ấy. Không có một vật gì, dù cho đẹp đẽ và quý giá cách mấy đi
nữa, đủ sức giúp cho ta tìm thấy cái cảm giác được kẻ khác yêu
thương. Chúng ta cần đến một thứ gì đó sâu xa hơn mà tôi gọi đấy là
tình yêu mến giữa con người. Nhờ vào tình yêu mến đó, hay từ bi cũng
thế, mà tất cả những tiện nghi vật chất mới có thể trở thành
những đóng góp mang tính cách xây dựng. Thiếu tình thương giữa con
người với nhau, những tiện nghi vật chất đơn thuần không thể nào đem
đến thỏa mãn, cũng không thể tạo cho ta một mảy may an bình trong tâm
thức, hoặc mang lại bất cứ một thứ hạnh phúc nào khác.
Thực vậy, thiếu
tình yêu thương giữa con người thì ngay cả những tiến bộ vật chất
cũng có thể biến thành những khó khăn khiến sự sống thêm nặng nề.
Nguồn gốc và bản chất của chúng ta chứng minh cho thấy không có một
con người nào sinh ra trong cõi đời này mà lại không cần đến tình
thương. Ngược lại với chủ trương của một vài trào lưu tư tưởng hiện
đại, người ta không thể nào đơn giản hóa con người thành một sinh vật
đơn thuần chỉ có vật chất.
Cuối cùng thì chính
tình thương và lòng từ bi đã tạo ra những niềm hạnh phúc quan trọng
nhất cho con người, điều này cũng thật dễ hiểu vì đấy là nhu cầu
sâu kín nhất của tất cả chúng ta. Nếu một cá nhân nào đó, bất kể
là có năng khiếu gì và lanh lợi đến đâu, khi đã rơi vào cảnh cô đơn
và bị kẻ khác bỏ quên, thì con người ấy cũng không thể sống còn
được. Dù có cảm thấy thừa sức và hoàn toàn tự cường trong suốt
thời kỳ sung mãn của đời ta, đến khi ốm đau, già nua cũng như trong
khi còn non dại, ta cũng vẫn phải nhờ cậy vào kẻ khác. Hãy quán
xét cẩn thận xem tình thương và lòng từ bi đã từng giúp đỡ cho ta
biết bao trong cuộc sống của chính ta.
Đối với vấn đề
sáng tạo và tiến hóa của vũ trụ, dù cho các truyền thống tôn giáo
có chủ trương khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều phải công nhận là
đã được cha mẹ sinh ra. Nói một cách bao quát hơn, sự tạo tác ra
chúng ta không hẳn chỉ là hậu quả của dục tính, vì cha mẹ cũng dự
phần quyết định sinh ra con cái. Sự quyết định đó dựa trên tinh thần
trách nhiệm và lòng bác ái- tức là bậc cha mẹ chấp nhận bổn phận
chăm sóc con cái cho đến lúc biết tự lập. Vì thế ngay từ lúc khởi
sự tác tạo ra chúng ta, tình thương yêu giữa cha mẹ đã góp phần trực
tiếp vào sự hình thành đó.
Trong những dịp tiếp
xúc với các khoa học gia, nhất là những nhà khảo cứu trong các lĩnh
vực Thần kinh học, tôi đã hiểu được là ngày nay người ta đã chứng
minh cho thấy rằng ngay trong lúc mang thai, tình trạng thần thần của
người mẹ- an bình hay dao động- sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với tình
trạng thể chất và tinh thần của hài nhi trong bụng. Vì thế người mẹ
cần phải giữ tâm thức thật an bình và thanh thản, điều ấy thật quan
trọng. Sauk hi sinh, những tuần lễ đầu tiên cũng đóng một vai trò
quyết định cho sự nẩy nở của đứa bé. Người ta nói với tôi rằng một
trong các yếu tố then chốt giúp cho bộ não đứa bé phát triển một
cách lành mạnh và nhanh chóng là sự nâng niu của người mẹ. Nếu trong
thời kỳ quyết định ấy mà đứa bé bị hắt hủi hay bỏ quên, không một
ai dòm ngó đến nó, thì hậu qủa về tâm lý sẽ rất tai hại.
Tình thương và sự
chăm sóc là yếu tố chủ yếu trong suốt tuổi thơ của một con người.
Khi đứa bé sống với một người cởi mở và biết yêu thương, tự nhiên
nó sẽ cảm thấy hạnh phúc và được che chở. Ngược lại, nếu làm cho
nó phải gánh chịu đau đớn, sự sợ hãi sẽ xâm chiếm lấy nó và tạo
ra những hậu quả tai hại cho sự nẩy nở. Ngày nay, rất nhiều trẻ con
lớn lên trong các gia đình ly tán. Chúng thiếu hẳn tình thương, rồi
sau này có thể chúng sẽ không còn biết yêu thương cha mẹ nữa và đồng
thời chùng cũng mất hết khả năng yêu thương kẻ khác. Quả thật đấy
là điều hết sức đáng buồn.
Khi đứa bé lớn lên
và cắp sách đến trường, nó cũng cần phải được thầy cô giáo giúp
đỡ. Nếu một người mang trọng trách giáo dục, thì ngoài bổn phận
giáo huấn về kiến thức họ còn phải biết ý thức bổn phận dìu dắt
đứa bé bước chân vào đời. Làm được như thế thì người ấy mới thực
sự là một người đáng tin cậy và kính trọng, bởi vì những gì mà
trao cho đứa bé sẽ in đậm trong tâm thức nó và sẽ không bao giờ phai
mờ. Trong trường hợp ngược lại, nếu thầy cô không thật sự quan tâm
đến tương lai của đứa bé, thì những môn học mà họ giảng dạy sẽ trở
thành phụ thuộc và không lưu lại lâu bền trong trí nhờ của đứa bé
sau này.
Tương tự như vậy,
trong một bệnh viện nếu được một y sĩ tận tình châm sóc thì bệnh
nhân sẽ cảm thấy yên tâm. Sự quyết tâm của người y sĩ sẽ làm tất cả
những gì có thể làm được để chăm sóc các bệnh nhân đã là một liều
thuốc điều trị rồi, dù trên phương diện chuyên môn, người đó có phải là
một vị thầy thuốc giỏi hay không. Ngược lại, nếu một vị y sĩ lạnh
lùng, không tỏ lộ một chút tình người nào cả, lúc nào cũng khô
khan, hấp tấp hoặc thiếu sốt sắng, thì dù cho vị ấy là một lương y
uy tín, chẩn bệnh đúng và chữa trị giỏi đi nữa thì người bệnh vẫn
lo âu. Dù sao đi nữa, tình trạng tinh thần của bệnh nhân cũng giữ một
vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả trị liệu.
Ngay trong sự tiếp
xúc thường nhật, nếu một người nào đó biết ăn nói nhẹ nhàng, thì
cuộc đối thoại sẽ thú vị hơn, dù cho chủ đề chẳng có gì là lý
thú. Ngược lại, nếu một người ăn nói lạnh lùng hoặc hung hãn, ta sẽ
cảm thấy khó chịu và muốn cho câu chuyện sớm chấm dứt. Trước một
sự kiện dù tầm thường hay trước những biến cố thật quan trọng, cảm
giác được kẻ khác yêu thương thật cần thiết để mang lại hạnh phcus
cho ta.
Gần đay, một nhóm
khảo cứu gia Hoa Kỳ cho tôi biết trên quê hương của họ con số người
mang bệnh tâm thần rất cao, vào khoảng mười hai phần trăm dân số. Hình
như những hội chứng trầm cảm không phải là hậu quả của sự thiết
thốn vật chất, mà đúng hơn là những khó khăn khi trao đổi và đón
nhận tình yêu thương.
Dù cho không hoàn
toàn ý thức đi nữa, ta vẫn nhận thấy nhu cầu về tình thương giữa con
người đã nằm sẫn trong gen thuộc thành phần di truyền của chúng ta
từ lúc mới sinh ra đời. Tình yêu thương đó có thể phát sinh từ một
con vật, và cũng có thể phát sinh từ một con người mà thói thường
ta vẫn xem như kẻ thù. Tình thương yêu ấy thu hút một cách tự nhiên
tất cả mọi người, từ một đứa bé cho đến những kẻ đã trưởng thành.
Nguồn
gốc sâu xa của sự thành công
Chúng ta là những
con người, đều có khả năng tìm thấy hạnh phúc và biết yêu thương,
nhưng cũng có xu hướng tiềm ẩn có thể biến ta thành một kẻ bất
hạnh và nguy hại cho kẻ khác. Những xu hương tiềm ẩn như thế đều hàm
chứa trong mỗi con người. Muốn đạt được hạnh phúc, chúng ta cần phải
phát huy những khía cạnh tích cực và hữu ích và đồng thời giới
hạnh những khía cạnh tiêu cực. Những hành vi tiêu cực chẳng hạn như
trộm cắp hay là nói dối, đôi khi có vẻ như tạo được sự thỏa mãnh
nhất thời, nhưng trong lâu dài thì sẽ đem đến khổ đau. Các hành vi
tích cực, trái lại sẽ luôn mang đến một sức mạnh nội tâm quan trọng.
Nhờ vào sức mạnh nội tâm mà ta sẽ bớt sợ hãi và trở nên tự tin
hơn; nhờ thế ta mới có thể quan tâm đến kẻ khác một cách dễ dàng
hơn, để có thể vượt qua biên giới của tôn giáo, văn hóa hay bất cứ
những khó khăn nào khác. Vì thế điều quan trong phải quan sát và phân
tích cẩn thận những xu hương sâu kín trong ta, vì nó có thể tạo ra
điều thiện và cả điều xấu.
Tôi gọi thái độ trên
đây là cách khơi động tình người. Tôi luôn luôn quan tâm chủ trương tìm
hiểu những giá trị căn bản nơi mỗi con người, chẳng hạn như lòng từ
bi, sự quan tâm đến kẻ khác và sự tự nguyện. Dù theo tôn giáo nào,
dù hữu thần hay vô thần, nhưng nếu thiếu những giá trị vừa kể thì
ta sẽ không thể nào tìm thầy hạnh phúc được.
Hãy thử phân tích
những lợi ích của từ bi và tình yêu thương trong đời sống thường
nhật xem sao. Chẳng hạn như, khi mới thức dậy, ta cảm thấy khoan
khoái, tinh thần vui vẻ và thỏa mãn, cánh cửa nội tâm sẽ mở rộng
giúp ta đưa tay đón lấy một ngày đang hiện ra trước mặt. Trong ngày
hôm ấy, nếu có gặp một người mà ta không thích thì ta vẫn đủ sức
để nói lên một lời thân thiện với kẻ đó. Tiếp theo đấy, biết đâu ta
cũng có thể trò chuyện với họ, tuy rằng trước đây ta vẫn xem họ là
một người khó thương, để rồi cả hai bên cùng trao đổi với nhua những
quan điểm ích lợi. Khi ta tạo được một bầu không khí tích cực và
thân thiện, sự sợ hãi và bất an tự nhiên sẽ biến mất giữa họ và
ta. Đó là phương cách khá dễ dàng để có thêm bạn bè và để nhìn
thấy những nụ cười mới mẻ đến với ta.
Tuy nhiên nếu trong
một ngày nào đó mà ta cảm thấy bực bội và cáu kính thì cánh cửa
nội tâm sẽ tự động khép lại trong ta. Với tâm trạng này thì dù cho
gặp lại một người bạn thân thiết nhất đi nữa, ta cũng vẫn cảm thấy
thiếu thoải mái và căng thẳng. Các thí dụ trên đây cho thấy những
thái độ bên trong của ta đã nắm giữ vai trò quyết định ảnh hưởng
đến những cảm nhận hàng ngày trong cuộc sống. Để có đủ sức mạnh
giúp tạo ra những cảm xúc an vui cho chính bản thân ta, cho gia đình
và cả tập thể những người chung quanh, ta cần phải ý thức rằng
nguồn gốc sâu xa của sức mạnh đó đã nằm sẵn trong mỗi cá nhân, tức
trong mỗi con người chúng ta- đó chính là tình thân ái, lòng từ bi
và tình người.
Lòng từ bi không phải
chỉ mang đến lợi ích về mặt tâm thức mà còn giúp cho thể xác chúng
ta được khỏe mạnh. Theo nền y khoa tân tiến ngày nay, và cũng dựa vào
kinh nghiệm của bản thân tôi, sự thăng bằng của tâm thức và sức khỏe
luôn luôn đi đôi với nhau. Thật rõ ràng là sự nóng giận và những dao
động tâm thức làm cho ta dễ ốm đau, ngược lại khi tâm thức an bình và
hướng về những điều tích cực thì thân xác sẽ khó bị bệnh tật hơn.
Điều ấy chứng minh cho thấy phần thân xác là nơi tiếp nhận tình
người và cả sự an bình xuất phát từ nơi tâm thức.
Đồng thời tôi cũng
tin rằng, khi ta chỉ biết nghĩ hoàn toàn riêng đến bản thân mình thì
cái nhìn của ta về mọi sự vật chung quanh cũng sẽ trở nên hẹp hòi.
Và cũng vì lẽ đó mà những buồn phiền nhỏ nhặt cũng hóa thành
trọng đại, tạo ra những cảm giác lo sợ và bất an, như bị tràn ngập
bởi mọi thứ bất hạnh. Ngược lại, khi biết nghĩ đến kẻ khác và tìm
cách giúp đỡ họ thì sự quán nhận của ta về thực tại sẽ trở nên
bao quát hơn. Khi mở rộng tầm nhìn thì những vấn đề cá nhân sẽ mất
đi tầm quan trọng, và điều đó sẽ làm thay đổi tất cả.
Khi lo âu cho kẻ
khác, sức mạnh nội tâm sẽ tỏa rộng trong ta, dù cho ta đang phải bận
đối đầu với những kho khăn hay những vấn đề riêng tư khác. Nhờ vào
sức mạnh nội tâm ấy, nỗi buồn phiền của riêng ta sẽ trở nên kém quan
trọng và không còn ám ảnh ta nữa. Nếu biết vượt lên trên những vấn
đề cá nhân để quan tâm đến kẻ khác, ta sẽ vững vàng hơn về mặt đạo
đức, sẽ cảm thấy tin tưởng, can đảm và an bình hơn. Điều đó chứng
minh cho thấy cách thức suy tư đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng như thế
nào.
Khi ta thật sự hành
động vì sự an vui của chúng sinh thì quyền lời và những mong ước cá
nhân của ta cũng sẽ theo đó mà thành tựu, giống như những sản phẩm
phụ thuộc phát sinh một cách tự nhiên. Trong tập sách “Đại luận về
con đường đưa đến Giác ngộ, vị Lạt Ma Tông Khách Ba (Tsongkapa), một
vị thầy lừng danh thế kỷ XV, đã viết như sau : “Khi một người tu tập biết hành động và suy tư thật mạnh về
sự an vui của kẻ khác, họ sẽ nhìn thấy những nguyện vọng của mình
tự nhiên được thành tựu, giống như những sản phẩm phụ thuộc sinh ra
một cách đương nhiên, không cần đến một cố gắng nào cả”.
Một số quý vị có
lẽ đã từng nghe tôi nói đến những điều sau đây, vì tôi vẫn thường
nhắc đi nhắc lại điều này, là nếu diễn đạt theo một ý nghĩa nào
đó thì người ta có thể nói rằng những người Bồ-tất, tức những vị
tu tập Đạo pháp bằng từ bi là những người “Ích kỷ một cách hết
sức khôn ngoan”, trong khi đó chung ta lại cư xử giống như những người
“ích kỷ một cách vô cùng đần độn”. Nếu chỉ biết nghĩ đến chính
mình, bất chấp sự thiệt thòi của kẻ khác thì chúng ta sẽ không tìm
được hạnh phúc và sẽ sống trong bất an.
Nhân ái và yêu thương
còn có những lợi ích khác nữa, tuy rằng những lợi ích ấy không dễ
cho ta nhận thấy ngay. Việc tu tập Phật giáo nhằm vào rất nhiều mục
đích, một trong những mục đích ấy là được tái sinh thuận lợi trong
kiếp sau. Mục đích này chỉ có thể thực hiện được khi nào ta biết
tự giữ gìn không làm hại đến kẻ khác và đồng thời biết mở rộng
lòng vị tha và nhân từ. Thật là hiển nhiên, trong số sau giáo pháp Ba
la mật là bố thí, trì giới,nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí
tuệ, người Bồ-tất phải đặt trọng tâm vào sự giúp đỡ và ân cần với
những người chung quanh.
Vì thế, yêu thương
và hơi ấm trong tim ta là những đức tính sâu kín giúp đem đến thành
công trong sự sống và thăng tiến trên đường tu tập để đưa đến mục
đích tối hậu là sự Giác ngộ. Vì thế từ bi và yêu thương bao giờ
cũng quan trọng, từ lúc ta mới bước chân vào đời, trong giữa cuộc
đời hay đến lúc phải nằm xuống. Những đòi hỏi đó và những giá trị
đó không giới hạn trong bất cứ một giai đoạn, một địa danh, một xã
hội hay một nền văn hóa nhất định nào cả.
Chúng ta chẳng những
cần đến từ bi và tình yêu thương giữa con người với nhau để sống, mà
những phẩm tính đó còn đem đến cho ta sự thành công trong cuộc sống.
Thái độ ích kỷ, không những sẽ gây ra nhiều điều bất hạnh cho kẻ
khác mà còn ngăn cản không cho ta tìm thấy hạnh phúc mà ta hằng mong
ước. Đã đến lúc ta cần phải suy nghĩ về những điều trên đây và chọn
lấy một thái độ thích nghi, có đúng vậy chăng? Dù sao đi nữa, đấy
cũng là niềm tin của riêng tôi.
PHÁT HUY LÒNG TỪ BI
*
Trước khi khởi sự tu
tập để phát huy lòng từ bi và tình thương, cũng cần nên tìm hiểu ý
nghĩa của hai chữ ấy là gì? Bằng những ngôn từ đơn giản, ta có thể
định nghĩa từ bi và tình thương là những ý nghĩ và xúc cảm mang
tính cách tích cực đem đến những giá trị thiết yêu, chẳng hạn như hi
vọng, lòng can đảm, quyết chí và sức mạnh nội tâm. Phật giáo xem từ
bi và tình thương là hai dạng thể khác nhau phát sinh từ một sự hiển
lộ chung: từ bi là ước vọng nhìn thấy chúng sinh không còn khổ đau
nữa, và tình thương là ước vọng mong muốn chúng sinh được hạnh phúc.
Tiếp theo đó thì có
lẽ chung ta phải tự hỏi rằng việc vun xới tình thương và lòng từ bi
có thể thực hiện được hay chăng? Nói mách khác, có phương thức nào
để làm gia tăng các phẩm tính ấy và đồng thời làm suy giảm sự nóng
giận, hận thù và ganh tị hay không? Tôi sẽ nhất định trả lời là :
“Có” mà không do dự một chút nào cả. Dù ngay trong lúc này đây, nếu
quí vị không đồng ý với tôi đi nữa thì cũng xin quý vị hãy tạm
thời đừng chống lại quan điểm ấy. Trước hết chúng ta hãy cùng nhau
nêu lên một vài kinh nghiệm làm thí dụ: rồi biết đâu sau đó chúng ta
sẽ cùng tìm ra một lời giải đáp chung cho vấn đề trên đây.
Trước nhất, phải
hiểu rằng hạnh phúc và khổ đau gồm hai thể dạng căn bản: tinh thần
và thể xác. Đối với phần đông chúng ta, dạng thể tinh thần tác động
mạnh mẽ hơn. Vật chất giữ một vai trò kém hơn, ngoại trừ trường hợp
đang đau ốm trầm trọng hoặc đang trong hoàn cảnh cùng quẫn đến tột
độ. Trong những lúc thân xác không đòi hỏi gì cả, có thể ta không
chú ý đến nó làm gì. Ngược lại, tâm thức thì lúc nào cũng ghi
nhận tất cả, kể cả những biến cố thật nhỏ nhặt. Vì thế, phát
động nghị lực làm cho tâm thức lắng xuống là một việc khó khăn hơn
nhiều so với những lo toan tìm cách cung phụng tiện nghi cho thân xác.
Tâm
thức có thể cải biến được
Mặc dù kinh nghiệm
của tôi còn hạn hẹp nhưng tôi vẫn tin rằng nhờ vào sự tập luyện đều
đặn, ta có thể hoàn toàn biến cải được tâm thức. Cách cư xử, cũng
như tư duy và xu hướng tích cực đều có thể làm cho gia tăng thêm, và
ngược lại những gì tiêu cực hàm chứa trong ta đều có thể làm cho
giảm xuống. Ý thức được điều đó sẽ giúp ta biến cải và thay đổi
tâm thức. Sự thật đơn giản trên đây là những gì thuộc vào bản chất
của tâm thức.
Cái mà ta gọi là
“tâm thức” thật lạ lùng. Đôi khi nó rất bướng bỉnh và cưỡng lại mọi
sự thay đổi. Tuy nhiên, nhờ vào sự cố gắng thường xuyên và niềm tin
vững chắc dựa trên lý trí, tâm thức cũng có thể tỏ ra mềm dẻo và
rất lương thiện. Khi ta nhận thấy cần phải thay đổi, lúc đó tâm thức
cũng sẽ sẵn sàng thay đổi. Ước vọng suông hay biết đơn giản cầu
nguyện sẽ không đủ sức làm cho tâm thức thay đổi; ta phải ghép thêm
vào đó thành phần lý trí- tức là những gì dựa một cách thật vững
chắc vào kinh nghiệm. Ta không thể nào biến cải tâm thức trong một
sớm một chiều: thói quen lâu đời, nhất là những thói quen tinh thần
luôn luôn cưỡng lại những giải pháp hời hợt. Những với sức cố gắng
và lòng tin vững chắc xuất phát từ sự hiểu biết, những thể dạng
tâm thần của ta có thể sửa chữa được một cách thật sâu xa.
Muốn thăng tiến,
trước hết phải chấp nhận rằng khi vẫn còn sống trong thế gian này
thì ta vẫn còn gặp khó khăn và các chướng ngại cản trở nguyện vọng
của ta. Khi các khó khăn hiện ra khiến ta nhụt chí và mất hết hi
vọng, lúc đó ta sẽ không còn khả năng nào để đối đầu với chúng.
Ngược lại, khi đã hiểu rằng khổ đau không phải chỉ duy nhất dành cho
riêng ta, mà đấy là số phận chung của mọi người, thì ta sẽ quyết tâm
hơn và cảm thấy có nhiều khả năng hơn để vượt qua tất cả mọi chương
ngại. Với tầm lòng từ bi sẵn có, ta ý thức được kẻ khác cũng khổ
đau như ta, và lúc đó ta sẽ xử lý dễ dàng hơn những khổ đau của
riêng mình. Đấy là cách thăng tiến trong sự tu tập, mỗi chương ngại
đều là một cơ may quý giá giúp ta nâng cao giá trị của tâm thức và
đồng thời cũng giúp ta củng cố thêm sự vững chắc của lòng từ bi!
Mỗi một kinh nghiệm mới đều là một dịp may giúp ta tập luyện để
trở thành từ bi hơn, điều đó có nghĩa là trong từng kinh nghiệm, ta
lại cố gắng thêm để phát lộ lòng xót thương chân thật trước những
khổ đau của kẻ khác và đồng thời làm gia tăng lòng quyết tâm của ta
trong mục đích làm bớt đi khổ đau cho họ. Lòng từ bi nâng cao sự trong
sáng và sức mạnh nội tâm của ta.
Làm
thế nào để vun xới lòng từ bi
Chủ trương chỉ biết
có mình là xu hướng chung của tất cả mọi người, chỉ khác nhau ở
mức độ mà thôi, và chính xu hương ấy đã ngăn cản không cho ta yêu
thương kẻ khác. Muốn thật sự hạnh phúc, ta cần phải có một tâm thức
phẳng lặng, và sự an bình trong tâm thức đó chỉ có thể thực hiện
nhờ vào lòng từ bi. Vậy làm thế nào để phát huy một thái độ như
thế? Thật hết sức rõ ràng là không phải chỉ tin vào những lợi ích
của lòng từ bi là đủ, hoặc chỉ biết say sưa với vẻ đẹp tuyệt vời
của lòng từ bi là được! Muốn vun xới lòng từ bi, ta phải quyết tâm
cố gắng lợi dụng tất cả mọi sự việc đang xảy ra vào bất cứ lúc
nào trong cuộc sống để tự biến cải tư duy và thái độ của mình.
Trước hết cần phải hiểu một cách chính
xác ý nghĩa của chữ từ bi. Lý do là vì thật ra lắm khi cảm xúc về
từ bi chỉ là những gì hàm chứa dục vọng và bám víu. Thí dụ, tình
thương của cha mẹ đối với con cái không phải là từ bi theo đúng nghĩa
của nó, bởi vì tình thương đó dễ bị nhầm lẫn với nhu cầu cảm xúc
của cha mẹ. Thông thường, hành động chăm sóc của một người bạn thân
thiết được xem là một nghĩa cử từ bi, nhưng thực ra lắm khi cũng chỉ
là sự bám viu. Khi một cặp vợ chồng được kết hợp và cả hai chưa
hiểu gì về tính tình của nhau, thì tình yêu lứa đôi lúc ấy chỉ là
sự bám víu, không hẳn là tình yêu thật sự. Hơn nữa, trong trường hợp
cuộc sống chung không kéo dài, thì đấy là do thiếu lòng từ bi mà ra:
vì sự kết hợp lứa đôi chỉ là hậu quả của những cảm xúc sinh ra từ
sự kiện bám víu vào những phóng ảnh của nhau và sự chờ đợi lẫn
nhau; đến một lúc nào đó, khi những phóng ảnh biến đổi, bám víu
cũng sẽ không còn. Sự ham muốn có thể quá mạnh khiến người mà ta
bám víu có vẻ như không có một khuyết điểm nào cả, nhưng thật ra là
nhiều lắm. Chính đó là dấu hiệu cho thấy tình yêu được thúc đẩy
bởi nhu cầu cá nhân nhiều hơn là sự quan tâm thật sự đến người đối
diện.
Tuy thế, việc biểu
lộ lòng từ bi nhưng không hề bám víu vẫn có thể thực hiện được. Tuy
nhiên, ta cần phải phân biệt thật rõ ràng giữa hai thứ tình cảm ấy.
Từ bi đích thực không phải là một phản ứng của xúc cảm, mà là một
hành vi dấn thân dựa một cách vững chắc vào lí trí. Lòng từ bi
đích thực một khi đã được xây dựng trên nền móng vững chắc sẽ không
biến đổi, dù cho người tiếp nhận lòng từ bi phản ứng một cách tiêu
cực đi nữa. Lòng từ bi như thế mới đúng là lòng từ chân thành. Mục
tiêu của người tu tập Phật giáo là phát huy lòng từ bi chân chính và
mong ước đem đến an vui cho kẻ khác, và kẻ khác ở đây có nghĩa là
tất cả chúng sinh trong vũ trụ. Ta cũng thấy ngay rằng vun xới lòng
từ bi như thế thực sự không phải là chuyện dễ làm! Vì vậy chúng ta
nên quán xét những điều sau đây thật cẩn thận.
Dù cho những người
chung quanh xinh đẹp hay tầm thường, khả ái hay độc ác, tất cả đều
là những con người như ta. Cũng như ta, họ muốn được hạnh phúc và
không muốn gánh chịu đau đớn. Hơn nữa, quyền được hạnh phúc và tránh
khổ đau của họ cũng ngang hàng với ta. Hành vi biết công nhận tất cả
mọi con người đều ngang hàng với nhau trong ước vọng tìm được hạnh
phúc và có quyền ngang nhau để thực hiện điều ấy sẽ giúp ta phát
lộ dễ dàng tình thân thiện giữa họ và ta. Khi đã tập luyện và quen
dần với tinh thần nhân ái toàn cầu đó, ta sẽ nhận thấy đấy chính
là trách nhiệm chung cho tất cả mọi người, và ta sẽ cố gắng tích
cực hơn để igups đỡ kẻ khác giải quyết những khó khăn của họ. Trách
nhiệm đó không mang tính cách chọn lựa, nhưng trải rộng đồng đều và
hướng và tất cả chúng sinh. Dầu sao đi nữa thì học cũng như ta, tất
cả đều bị chi phối bởi nhu cầu hạnh phúc và e sợ khổ đau, không có
một căn bản hợp lý nào để cắn cứ vào mà loại trừ hay ruồng bỏ
bất cứ ai dù cho họ hành động không được đúng đi nữa.
Tôi muốn dựa vào
những điều trình bày trên đây để nhận mạnh đến trường hợp một số
người tự nhận thuộc loại thực tế và chủ trương tính cách thực dụng
trong sự sống, nhưng thật sự thì họ lại thường tỏ ra thực tế một
cách quá lố và chỉ nhìn thấy khía cạnh thực dụng của mọi sự vật.
Thật vậy, họ thường nói: “Việc ước
mong tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc và mỗi chúng sinh sẽ đều
tìm thấy hạnh phúc đúng như mình mong muốn chỉ là điều không thể
thực hiện được. Lý tưởng ấy chắc chắn là sẽ không đem đến hiệu quả
gì cho tâm thức, cũng không giúp ích được gì hơn cho sự tu tập tinh
thần, vì nó hoàn toàn mang tính không tưởng”.
Theo họ, trong bước
đầu chỉ cần quan tâm đến một nhóm người thu hẹp vì sự liên hệ trực
tiếp sẽ dễ thực hiện hơn. Sau đó, sẽ nới rộng chu vi tiếp cận và
gia tăng thêm các yếu tố khác. Đối với họ, thật là vô bổ khi nghĩ
đến con số vô lượng chúng sinh. Họ có thể miễn cưỡng chấp nhận sự
liên hệ giữa họ và một số đồng loại sinh sống trên hành tinh này, nhưng
khi nói đến vô lượng chúng sinh trong vũ trụ thì quả thật là những
vượt quá xa, thoát ra khỏi lĩnh vực kinh nghiệm của họ. Họ sẽ thốt
lên :” Có lợi ích gì đâu khi chủ trương một tâm thức mở rộng đến tất
cả mọi sinh linh”.
Có thể trong những
bối cảnh khác, may ra quan điểm trên đây có một giá trị nào đó. Nhưng
trong trường hợp đang bàn thảo, chúng ta cần phải nắm vững tác động
của những hành vi nhân ái. Mục đích là mở rộng chu vi của lòng nhân
từ, làm sao có thể trải rộng đến tất cả mọi hình thức của sự
sống biết cảm nhận khổ đau và hạnh phúc. Chính đó là cách công
nhận sự nhạy cảm nơi mọi sinh vật trước khổ đau và hạnh phúc.
Xúc cảm về lòng từ
bi toàn cầu rất mạnh, không cần phải nhắm chính xác vào từng chúng
sinh mới có thể biến cảm xúc đó trở thành hữu hiệu. Cách lý luận
này cũng gần tương tự với sự công nhận bản chất toàn cầu của hiện
tượng đổi thay. Chẳng hạn như khi đã tu tập và đạt được một cấp bậc
hoàn hảo thì ta sẽ nhìn thấy mỗi vật thể và mỗi sự kiện đều vô
thường, và khi đó ta sẽ không còn cần đến cách quán xét từng hiện
tượng một trong số tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ rồi mới đủ
sức công nhận nguyên lý của vô thường. Sự vận hành của tâm thức không
giống như thế: chúng ta cần phải hiểu rõ điều này.
Thời gian và sự kiên
nhẫn giúp ích rất nhiều, và sự phát huy lòng từ bi toàn cầu hoàn
toàn nằm trong khả năng của ta. Chắc chắn là chủ trương chỉ biết có
mình và sự bám víu vào cảm giác của một cái tôi duy nhất và tuyệt
đối sẽ tác động ngấm ngầm để chặn đứng lòng từ bi. Thật hết sức
rõ ràng là chỉ khi nào sự bám víu vào một cái tôi được tháo gỡ
thì lúc ấy ta mới có thể sống với một tấm lòng từ bi đích thực.
Tuy là như thế, nhưng ta vẫn có thể bắt đầu nuôi nấng và phát triển
lòng từ bi ngay từ bây giờ.
Bắt
đầu bằng cách nào?
Chúng ta hãy bắt
đầu bằng cách loại bỏ những chướng ngại lớn lao đã cản trở lòng
từ bi, đó là tính nóng giận và lòng hận thù. Như chúng ta từng
thấy, những cảm xúc cực mạnh có thể làm cho tâm thức con người đảo
điên. Tuy nhiên, hận thù và giận dữ vẫn có thể khắc phục được. Nếu
không đủ sức không chế những cảm xúc đó, chúng ta có thể sẽ đầu
độc sự hiện hữu của ta, và- dù không cố tình đi nữa- chúng cũng sẽ
ngăn chặn không cho ta tận hưởng hạnh phúc do tình yêu thương mang đến.
Nhưng cũng biết đâu
quý vị có thể không xem sự giận dữ là một chướng ngại; vì thế,
điểm khởi đầu cần phải phân tích xem giận dữ có mang đến lợi ích
hay chăng. Đôi khi một tình huống kho khăn nào đó khiến ta phẫn nộ,
một cơn giận dữ hình như làm cho ta gia tăng thêm sinh lực, tự tin và
quyết tâm. Tuy thế, chính trong những giây phút đó, ta cần phải quan
sát thật cẩn thận trạng thái tâm thức của ta. Thật vậy, giận dữ sẽ
làm gia tăng sinh lực, nhưng nếu ta quán xét bản chất của sinh lực
đó, ta sẽ thấy rằng đấy là một thứ sinh lực mù quáng. Vì thế, ta
không thể biết được một cách chính xác hậu quả của nó sẽ mang tính
cách tích cực hay tiêu cực, bởi vì biến cố đó che lấp phần lý tri
trong não bộ của ta. Vì lý do ấy, sinh lực của giận dữ gần như không
bao giờ là một thứ sinh lực có thể tin cậy được. Nó có thể xúi
giục ta cư xử một cách nguy hại và gây ra những đổ vỡ lớn lao. Khi
giận dữ gia tăng và đạt đến mức độ tột đỉnh sẽ làm mất lý trí và
thúc ta hành động gây thiệt hại cho kẻ khác và cho cả chính ta nữa.
May mắn thay, để xử
lý những tình thế khó khăn, ta vẫn có thể phát huy một thứ sinh lực
khác cũng mãnh liệt như giận dữ, nhưng ta vẫn giữ được sự chủ động.
Chủ động được là nhờ vào lòng từ bi, lý trí và sự kiên nhẫn. Đấy
là những liều thuốc hóa giải rất hữu hiệu chống lại sự giận dữ.
Đáng buồn thay, người ta lại thường cho rằng lý trí và sự kiên nhẫn
là dấu hiệu của sự hèn yếu. Tôi hoàn toàn hiểu ngược hẳn lại, đấy
là những dấu hiệu của sức mạnh nội tâm đích thực. Từ bản chất, từ
bi là điều thiện, rất dịu dàng và hiền hòa, nhưng đồng thời cũng
rất cường lực. Từ bi tạo ra sức mạnh nội tâm và biến ta trở thành
khoan dung hơn. Những người đánh mất kiên nhẫn sẽ hóa ra lo ấu và
tính khí bất thường.
Vì thế mỗi khi phải
đối diện với một tình huống khó khăn, ta hãy cố giữ thật khiêm tốn
và gắng tìm ra một giải pháp thích nghi bằng một thái độ chân thật.
Chắc chắn là kẻ khác cũng có thể tìm cách lợi dụng sự ngay thật
của ta, và nếu như sự độ lượng của ta chỉ làm mồi cho sự hung hãn
bùng lên thêm một cách vô ích, thì lúc đó mới nên tìm cách giữ vững
vị thế của ta. Tuy nhiên, hành động cứng rắn đó phải được thực thi
với lòng từ bi, và nếu cần phải bày tỏ quan điểm và chọn một biện
pháp mạnh, thì cũng có thể làm nhưng ta không được phép nóng giận
hay mang một chút ác ý nào.
Thật ra, phải hiểu
rằng tuy kẻ thù của ta dường như muốn đổ lỗi cho ta là người làm
điều sai trái, nhưng sau cùng chính họ lại sẽ gánh lấy tai hại do
hậu quả phát sinh từ thái độ sai trái của họ. Nếu muốn khắc phục
những phản ứng ích kỷ chống lại kẻ khác, phải luôn nhớ rằng ta đang
cố gắng tu tập về lòng từ bi và đang tìm cách giúp đỡ kẻ khác
tránh khỏi khổ đau do những hành vi của họ. Những biện pháp mà ta
bình tĩnh chọn lựa nhất định sẽ đúng đắn, mạnh mẽ và hiệu quả.
Nếu sự giận dữ lại đứng ra chỉ huy việc trừng phạt thì sẽ không
mấy khi đưa đến thành công.
Bạn
và thù
Tôi xin phép trở lại
chủ đề đã đề cập trước đây là muốn phát huy lòng từ bi, lý trí và
sự kiên nhẫn, không phải chỉ nghĩ đến giá trị của những phẩm tính
là đủ mà phải đem những phẩm tính ấy ra để ứng dụng mỗi khi gặp
khó khăn. Thế nhưng những ai đã tạo ra các khó khăn đó? Nhất định
không phải là bạn hữu mà chính là kẻ thù của ta. Chính kẻ thù là
những đối tác tạo ra phiền toái cho ta. Như vậy thì nếu thực tâm
muốn học hỏi, ta phải xem kẻ thù của ta như những vị thầy tốt nhất!
Đối với bất cứ ai muốn tìm cách vun xới lòng từ bi và tình thương
thì sự kiên nhẫn là cách tập luyện thiết yếu nhất và kẻ thù là
một yếu tối không thể thiếu sót được. Hơn thế nữa, ta còn phải biết
ơn kẻ thù của ta bởi vì chính họ đã giúp ta tìm thấy sự an bình
trong tâm thức, và chính họ đã tích cực hơn ai hết để giúp ta thực
hiện điều ấy! Thật vậy, phải chăng ta vẫn thường nhận thấy qua đời
sống cá nhân và trong tập thể xã hội đã có nhiều trường hợp kẻ thù
trở thành bạn hữu.
Chắn chắn là ai mà
lại chẳng muốn được bạn bè săn đón. Tuy nhiên tình bạn hữu có phải đã
phát sinh từ sự chống đối và giận dữ, từ ganh tị và tranh đua quyết liệt hay
không? Tôi hoàn toàn không tin như thế. Con đường đưa đến bằng hữu chính là
tình thân ái! Chỉ có tình thân ái mới tạo được những người bạn trung tín và
thành thật. Hãy thật sự chăm sóc cho kẻ khác, quan tâm đến sự an vui của kẻ
khác, giúp đỡ họ, phục vụ họ, tạo thêm bạn bè, và hãy làm nở thêm những nụ cười.
Những hành động đó sẽ đem đến lợi lộc gì cho ta? Chắc hẳn là ta sẽ nhận được
nhiều sự giúp đỡ khi cần đến. Ngược lại, nếu ta không hề quan tâm đến hạnh phúc
của kẻ khác thì trong lâu dài chính ta lại sẽ là người không tìm thấy hạnh
phúc.
Trong một xã hội vật chất,
tiền bạc và quyền thế dường như đem đến cho ta thật nhiều bạn hữu nhưng đó chỉ
là bè bạn của tiền bạc và uy thế mà thôi. Khi ta sa sút và quyền lực không còn
nữa, thì dù muốn dò tìm tông tích của họ cũng không phải là chuyện dễ.
Khi mọi việc trong cuộc
sống của ta đều suôn sẻ, ta có cảm giác như có thể tự mình xoay sở mà không cần
đến bè bạn. Nhưng khi địa vị xã hội và sự giàu sang sa sút thì lúc đó ta mới nhận
ra rằng trước kia ta đã hiểu lầm. Để phòng ngừa cảnh huống đó và để tìm được những
người bạn đích thực có thể giúp đỡ ta khi cần đến, ta phải biết trau dồi lòng từ
bi!
Nêu lên điểm này thì biết
đâu sẽ có người bật cười, nhưng tôi vẫn cứ nói lên rằng tôi vẫn muốn có thêm
nhiều bạn hơn nữa. Tôi rất thích những nụ cười. Vì thế tôi tìm cách làm bạn với
thật nhiều người, để đón nhận thật nhiều nụ cười, nhất là những nụ cười đích thực.
Có đủ mọi thứ cười, có những nụ cười cay độc, giả tạo hay ngoại giao. Có những
nụ cười thiếu hẳn sự thành thực; những nụ cười ấy thường gây ra ngờ vực, kể cả
sự sợ hãi, có đúng thế hay chăng? Nhưng một nụ cười chân thật tỏa ra một cảm
giác mát mẻ, và theo tôi một nụ cười như thế mới chính thực là nụ cười của con
người. Nếu chúng ta muốn được nhìn thấy những nụ cười như thế, thì cũng nên hiểu
rằng chính chúng ta là nguyên nhân tạo ra những nụ cười ấy.
Vậy thì ta phải làm bạn
thế nào? Nhất định khồng phải bằng hận thù và chống đối. Không thể nào tạo ra
những mối dây thân hữu khi đánh đập hay tuyên chiến với kẻ khác. Một tình bạn
thực sự cần phải xây dựng trên sự lương thiện và lòng thành thật, nói một cách
là bằng một tâm thức cởi mở và một tấm lòng ấm áp. Theo ý tôi, cách giao tiếp với
kẻ khác trong cuộc sống thường nhật cũng đủ để chứng minh điều ấy.
Chiến
thắng kẻ thù ẩn nấp trong ta
Nóng giận và thù hận là
những kẻ thù thực sự. Chính đó mới thật là những kẻ thù mà ta cần phải chiến thắng
và khắc phục mà không phải là những kẻ thù bất chợt do hoàn cảnh đưa đẩy. Khi
nào tâm thức chư được luyện tập đầy đủ để khắc phục sức mạnh tiêu cực của giận
dữ và hận thù thì những cảm xúc ấy vẫn còn tiếp tục khuấy động và hủy diệt mọi
nỗ lực tìm kiếm sự an bình cho nội tâm.
Muốn loại trừ tiềm năng
tàn phá của giận dữ và hận thù, ta cần hiểu rằng những cảm xúc đó bắt nguồn từ
việc ta chỉ biết quan tâm đến lợi ích và an vui của cá nhân ta mà quên đi hạnh
phúc của kẻ khác. Thái độ chỉ biết đến mình tiềm ẩn trong mỗi con người, và
thái độ ấy chẳng những dung dưỡng sự giận dữ mà còn làm phát sinh mọi thể dạng
tâm thức tệ hại khác nữa. Đấy là sự cảm nhận lừa phỉnh không cho phép ta nhìn
thấy bản chất đích thực của mọi vật thể, và từ cách diễn đạt sai lầm này sẽ
phát sinh ra mọi thứ khổ đau và bất toại nguyện mà ta phải gánh chịu. Vì thế,
người tu tập từ bi và tình thương yêu phải chặn đứng những tác hại của kẻ thù nội
tâm, không cho phép những kẻ thù ấy tự động đưa đến những hậu quả đổ vỡ không
hàn gắn được.
Muốn lột trần quá trình
tàn phá trên trên đây một cách minh bạch, ta phải học tập để hiểu thấu bản chất
của tâm thức, bởi vì như tôi thường nói, tâm thức là một hiện tượng vô cùng phức
tạp. Triết học Phật giáo nêu lên nhiều loại tâm thức hay là tri thức khác nhau
và đồng thời cũng đưa ra các phương pháp thiền định nhằm giúp ta quen thuộc với
tính cách biến động không ngừng của những thể dạng tâm thần.
Theo các khảo cứu khoa
học, vật chất được cấu hợp từ những hạt cơ bản. Một số thành phần phân tử hóa học
cũng như một số cấu trúc nguyên tử hàm chứa một giá trị thực tiễn nào đó thường
các khảo cứu gia quan tâm nhiều hơn, trong khi những thành phần và cấu trúc nào
không hàm chưa các đặc tính hữu ích thì không được chú ý đến, hoặc bị gạt qua một
bên. Phân loại bằng cách chọn lọc như thế đã đưa đến những kết quả thật ngoạn mục.
Nếu người ta biết dồn
thật nhiều nỗ lực như trên dây để nghiên cứu về tâm thức, về thế giới nhận biết
và các hiện tượng tâm thần, thì nhất định người ta cũng sẽ khám phá ra vô số những
dạng thể khác biệt nhau tùy theo cách nhận biết, đối tượng nhận biết và sức mạnh
tâm thức sử dụng để nhận biết. Có một số thể dạng thâm thức rất hữu ích và tốt
đẹp, ta nên xác định chúng một cách chính xác và phát huy tiềm năng của chúng.
Hãy bắt chước phương pháp của các nhà khoa học, khi ta phân tích và thấy rằng một
số thể dạng nào đó của tâm thức không mang tính cách tích cực, bởi vì chúng tạo
ra khổ đau và chướng ngại, ta nên tìm cách loại trừ chúng ngay. Đấy là một
trong những phương pháp quan trọng nhất: dù sao đi nữa, điều ấy cũng là mối ưu
tư hàng đầu của người tu tập Phật giáo. Việc đó cũng tương tợ như mổ xẻ bộ não
để thực hiện các thí nghiệm trê những tế bào tí teo, tìm hiểu xem tế bào nào
làm phát sinh ra hân hoan, và tế bào nạo ra đau khổ. Cho đến khi nào những kẻ
thù vừa kể trên đây còn ẩn nấp trong ta, thì ta vẫn còn gặp nguy cơ vấp phải những
hiểm nguy to lớn.
Trước khi bước vào kỹ
thuật tu tập tâm thức của Phật giáo, ta cần phải hiểu rõ và ước tính cẩn thận
những khó khăn có thể gặp phải trong các cách luyện tập ấy. Kinh sách Phật giáo
có nói đến tám mươi bốn ngàn loại tư duy độc hại, và đồng thời cũng có tám mươi
bốn ngàn phương thuốc để hóa giải chúng. Do đó, xin chớ chờ đợi một giải pháp
thần diệu hiện ra như một thứ phù phép giải thoát ta ra khỏi tất cả những sức mạnh
tiêu cực. Ta phải thực hành thật nhiều phương pháp khác nhau trong một thời
gian lâu dài mới có thể nhìn thấy được những kết quả cụ thể. Cần nhất là phải
có sức mạnh của quyết tâm và thật nhiều kiên nhẫn. Trong những bước đầu trên
con đường Đạo Pháp, xin quý vị chớ nên mong đợi đạt ngay được Giác Ngộ sau một
tuần lễ tu tập. Điều đó quả thật không thực tế một chút nào cả.
Một vị thánh vĩ đại của
Phật giáo là ngài Long Thọ đã viết nhiều trang luận giải trình bày sự cần thiết
của đức tính kiên nhẫn trong quá trình tu tập tinh thần. Ông khẳng định rằng-nhờ
vào sự tu tập và kỷ cương tâm thức, nhờ vào sự quán thấy sâu xa và những ứng dụng
tinh thông- khi nào ta đã tạo được cho ta một thể dạng thăng bằng và tự tin,
thiết lập bằng một phương pháp tu tập đích thức và rốt ráo, thì lúc đó thời
gian cần thiết để đạt được Giác ngộ không còn là một điều quan trọng nữa. Tuy
thế, khác với trường hợp của ngài Long Thọ, thời gian đối với chung ta vẫn còn
là một yếu tố quan trọng. Khi nào ta vẫn còn phải gánh chịu những biến cố đau
buồn không thể kham nổi, dù chỉ là tạm thời đi nữa, thì lúc đó ta vẫn không có
đủ kiên nhẫn và phải tìm một lối thoát nào nhanh chóng nhất.
Bởi vì từ bi và tình
thương yêu chỉ có thể trả với một giá rất đắt bằng những cố gắng thật ý thức và
liên tục, cho nên ta cần phải xác định rõ ràng những điều kiện nào có thể giúp
phát lộ những phẩm tính của lòng ta và những cảnh huống bất thuận lợi nào sẽ
ngăn cản không cho phép ta vun xới những thể dạng tích cực. Muốn thực hiện mục
tiêu đó, ta phải sống với một tâm thức bén nhậy và tĩnh giác. Ta phải tự chủ và
cảnh giác để mỗi khi có một biến cố xảy ra, ta có thể ý thức được ngay đấy là một
biến cố thuận lợi hay bất thuận lợi cho sự phát triển long từ bi và tình yêu
thương. Tu tập được như thế, ta sẽ dần dần giới hạn ảnh hưởng của những sức mạnh
tiêu cực và đồng thời làm gia tăng những điều kiện thích nghi để phát huy hai
phẩm tính là từ bi và yêu thương.
Như tôi vừa trình bày
trên đây, bất cứ khổ đau nào hay hạnh phúc nào cũng đều thuộc vào hai lãnh vực,
hoặc là thân xác hoặc là tinh thần. Khi đau đớn phát sinh trên thân xác, một
tâm thức tích cực có thể làm bớt đi sự đau đớn đó. Thực vậy, một tâm thức bình
tĩnh có thể hóa giải được sự đau đớn. Chấp nhận và quyết tâm chịu đựng sự đau đớn
cũng cho thấy những hiệu quả lớn lao. Ngược lại, đối với những trường hợp khổ
đau có tính cách tinh thần, thì dù có cố gắng làm cho khỏe mạnh thêm trên
phương diện thân xác thì cũng không vì thế mà có thể làm giảm bớt được khổ đau
tinh thần. Nhất định ta có thể tìm cách làm quên bớt những khổ đau tinh thần bằng
cách ru ngủ giác quan bằng những thích thú, nhưng tình trạng đó không kéo dài
và khổ đau còn có thể trở nên trầm trọng hơn gấp bội. Vì thế ta cần phải luyện
tập tinh thần thường xuyên nhưng không cần phải tu tập những gì liên quan đến
cái chết hay con đường đưa đến Giác ngộ. Dù sao nếu những tầm nhìn thật xa
không đủ sức thu hút ta, thì ta cũng nên chăm lo cho tâm thức, hơn là chỉ biết
chú ý đến đồng tiền trong túi.
Thật rõ ràng là Phật
giáo không phải chỉ giúp làm nhẹ bớt đớn đau mà còn nhắm vào sự giải thoát tất
cả chúng sinh khỏi vòng đau khổ. Tuy nhiên nếu như việc chịu đựng đau đớn cho
chính mình đã là việc khó, thì làm thế nào để đủ sức gánh chịu đau khổ cho tất
cả chúng sinh? Trong tập sách Hướng dẫn
sự sinh hoạt của một vị Bồ-tát, một vị thầy người Ấn thuộc thế kỷ thứ VIII
là Tịch Thiên đã giải thích những khác biệt trên phương diện hiện tượng học giữa
những đau đớn mà ta cảm nhận được khi nhận lãnh tất cả khổ đau của kẻ khác và
những khổ đau trực tiếp của chính mình. Loại khổ đau thứ nhất hàm chứa tính
cách bất an vì phải chia sẻ khổ đau của kẻ khác, nhưng đồng thời ta vẫn giữa được
một thể dạng thăng bằng nào đó trong tâm thức bằng sự tự nguyện chấp nhận. Hành
vi chủ ý chấp nhận khổ đau của kẻ khác
hàm chứa một sức mạnh và sự tự tin, trong khi đó đối với loại khổ đau thứ hai,
sự cảm nhận đớn đau và khó nhọc vượt ra ngoài ý muốn của ta. Vì lẽ những khổ
đau thuộc loại ấy thoát ra khỏi sự kiểm soát của ta, cho nên ta sẽ cảm thấy yếu
đuối và kinh hoàng.
Những lời giảng huấn của
Phật giáo về lòng nhân ái và từ bi thường có thể được thâu gồm trong những câu
châm ngôn như sau : “ Đừng nghĩ đến sự an
vui của chính mình mà hãy đặt sự an vui của kẻ khác lên trên hết”. Những
câu châm ngôn như thế có vẻ làm cho người nghe khó hiểu, nhưng thật ra phải đặt
câu ấy vào đúng phối cảnh của chúng, tức là tình trạng ta đang phải tu tập để tự
nguyện nhận chịu khổ sở và đớn đau cho kẻ khác.
Thực ra, ta cũng phải đủ
sức để yêu mến chính mình trước khi chăm lo cho kẻ khác. Yêu thương chính mình
không phải là một thứ xúc cảm giống như một món nợ cá nhân đối với chính mình.
Nhưng thật ra yêu thương chính mình là một thứ xúc cảm dựa vào lòng ước mong tất
cả chúng sinh sẽ đạt được hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau. Sau khi chấp nhận sự
yêu mến chính mình, ta sẽ có thể trải rộng sự yêu mến đó đến tất cả chúng sinh
có giác cảm. Vì thế khi thấy những lời giảng huấn khuyên ta không nên tìm kiếm
an vui cho riêng mình, mà hãy dành ưu tiên cho kẻ khác, thì nên hiểu đấy là
nguyên tắc quy định trong cách tu tập về lòng từ bi lý tưởng. Nhất là không nên
chọn lấy sự vui sướng khi chỉ biết có ta, để đánh mất đi những gì tốt đẹp trong
những hành vi hướng về kẻ khác.
Ta cũng nên tập đánh
giá cao kẻ khác bằng cách nhìn thấy tầm quan trọng nơi tình thương yêu của họ
đã giữ một vai trò quan trọng giúp ta tạo được hạnh phúc, hân hoan và góp phần
đem đến sự thành đạt của ta. Điều ấy phải là mối quan tâm hàng đầu của ta. Tiếp
theo đó, ta phải phân tích để thấy rằng tất cả khó khăn và khổ đau đều xuất
phát từ thái độ ích kỷ, mặc kệ kẻ khác, chỉ cần biết đên sự an vui của riêng
mình, và đồng thời cũng phải nhận thấy là tất cả niềm hân hoan và sự tự tin của
ta đều xuất phát từ những tư duy và xúc cảm khi hướng về kẻ khác. Nếu đem ra so
sánh hai thái độ trên đây- chỉ biết nghĩ đến ta, hoặc lo âu cho kẻ khác- thì ta
sẽ nhận thấy hạnh phúc của kẻ khác quan hệ vô cùng.
Thái
độ bình đẳng không phân biệt
Từ bi đích thực mang
tính cách toàn diện và vô tư, vì thế trước hết chúng ta phải tu tập thế nào để
giữa một thái độ công bằng như nhau và không phân biệt giữa tất cả chúng sinh.
Theo quan niệm phật giáo, đối với một người nào đó chẳng hạn mà ta xem là bạn
hay là một người thân thuộc trong gia đình, nhưng biết đâu trong kiếp trước họ
đã từng là một kẻ thù tệ hại nhất của ta. Ta cũng có thể áp dụng lối suy luận
trên đây đối với một kẻ thù: họ có thể làm điều sai trái và thiệt hại cho ta
trong kiếp sống này, nhưng biết đâu trong những kiếp sống trước họ từng là một
người bạn tốt nhất của ta, kể cả việc có thể họ đã từng là mẹ của ta. Khi biết
suy nghĩ về tính bất định trong sự liên hệ giữa kẻ khác và ta và sự kiện mỗi
chúng sinh đều hàm chứa khả năng tùy theo lúc có thể là một người bạn tốt hay
là một kẻ thù, ta sẽ hiểu rằng cần phải cố gắng để phát huy trong trong tâm thức
một thái độ không thiên vị hay “bình đẳng không phân biệt”.
Sự tu tập ấy đòi hỏi phải
có một sự siêu thoát nào đó, và ta cũng cần phải tìm hiểu ý nghĩa thật sự của
chữ ấy là gì. Đôi khi nghe đến từ “siêu thoát” trong Phật giáo, một số người lại
hiểu lầm đấy là một truyền thống tôn thờ sự vô cảm. Hoàn toàn không phải như thế.
Đi tìm “siêu thoát” tức là loại bỏ những xúc cảm dựa vào sự cân nhắc hời hợt về
những khoảng cách xa hay gần phân chia giữa ta và kẻ khác. Thực hiện được như
thế ta mới có thể phát huy lòng từ bi đích thực mang tính cách toàn diện. “Siêu
thoát” không có nghĩa là “thờ ơ” với thế giới này và sự sống- ngược lại thì
đúng hơn. Những kinh nghiệm sâu xa về sự siêu thoát sẽ tạo ra một mảnh đất thuận
lợi để xây dựng lòng từ bi đích thực hướng về tất cả chúng sinh.
LÒNG TỪ BI BAO QUÁT
*
Tôi tin rằng trong bất
cứ một bình diện xã hội nào- gia đình, quốc gia hay quốc tế-, chìa khóa của một
thế giới hạnh phúc và hài hòa đều liên hệ đến việc thực thi lòng từ bi. Ta
không cần phải gia nhập một tôn giáo nào, cũng không cần phải tôn thờ một hệ tư
tưởng đặc biệt nào cả, mà chỉ cần mỗi cá nhân trong chúng ta biết phát huy những
phẩm tính con người. Theo quan điểm của tôi, việc trau dồi hạnh phúc cá nhân có
thể đóng góp sâu xa và hữu hiệu để cải biến chung cho cả tập thể nhân loại.
Tất cả chúng ta đều cần
đến tình thương, và nhận thức được điều ấy sẽ giúp ta thấy rằng bất cứ người
nào ta gặp và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều là anh chị em với ta. Dù cho
đó chỉ là một người mà ta mới gặp lần đầu tiên cũng thế, ngoài lớp quần áo trên
người và tính tình của họ ra, thì thực sự chẳng có gì khác biệt giữa họ và ta cả.
Chính vì thế mà quả thật hết sức phi lý khi ta chỉ dừng lại ở những khác biệt
bên ngoài, trong lúc bản thể bên trong của mỗi con người chúng ta đều như nhau.
Những lợi điểm khi biết
vượt lên trên sự phân biệt nông cạn đó lại càng nổi bật hơn khi ta biết nhìn
vào vị trí của mình trong một bối cảnh bao quát hơn của hành tinh này. Nhân loại
chỉ có một, và cái hành tinh nhỏ bé này cũng là nơi trú ngụ duy nhất của cả
nhân loại. Để có thể bảo vệ môi trường chung, mỗi người trong chúng ta cần phải
cảm thấy sức mạnh của tình yêu thương hướng đến kẻ khác và lòng từ bi toàn cầu.
Chỉ có sức mạnh của tình yêu thương và lòng từ bi ấy mới có thể xóa bỏ được những
quyền lợi riêng tư đã khích động con người đến chỗ lường gạt và khai thác lẫn
nhau. Một quả tim mở rộng và thành thật đương nhiên là sẽ giúp cho ta tự
tin vào những khả năng của mình, và ta sẽ
không còn e ngại kẻ khác nữa.
Sự cần thiết phải có một
không khí cởi mở và hợp tác trên bình diện quốc tế ngày càng khẩn cấp. Vào thời
đại của chúng ta, vấn đề kinh tế không còn giới hạn trong lĩnh vực gia đình và
cả trên bình diện quốc gia nữa. Từng thành phần quốc gia cho đến toàn thể một lục
địa đều lệ thuộc chặt chẽ với nhau. Vì thế nếu muốn phát triển nền kinh tế của
mình thì chính mỗi quốc gia cần phải
quan tâm đến nền kinh tế của các nước khác. Dù sao đi nữa thì khi chung cuộc,
những thành quả kinh tế của các nước khác cũng sẽ gây tác động đến chính quốc
gia mình. Để có thể đối đầu với những biến chuyển mới có thể phát sinh trong thế
giới tân tiến ngày nay, bắt buộc chúng ta phải chấp nhận một sự biến cải từ cội
rễ trong cách suy nghĩ và những phản ứng quen thuộc của ta. Càng ngày ta càng
thấy rõ một điều là một nền kinh tế muốn tồn tại phải dựa vào trách nhiệm toàn
cầu, đúng với ý nghĩa trung thực của nó. Có lẽ chúng ta đều đồng ý với nhau về
những điều trên đây, có đúng thế hay chăng? Đấy không phải đơn thuần là một lý
tưởng tôn giáo mang tính cách thiêng liêng hay đạo đức, nhưng đó một thực trạng
hiện đại về sự hiện hữu của nhân loại.
Khi biết suy nghĩ sâu
xa ta sẽ nhận thấy bất cứ nơi nào trên thế giới này cũng đều cần đến thật nhiều
từ bi và lòng nhân ái. Điều ấy lại càng nổi bật hơn nữa khi nhìn vào tình trạng
kinh tế và an sinh trên toàn thế giới, hoặc nhìn vào sự tương quan về các biến
cố chính trị và quân sự hiện nay. Ngoài vô số khủng hoảng về mặt xã hội và
chính trị, thế giới này lại còn phải gánh chịu những chu kỳ thiên tai ngày càng
nặng nề. Chúng ta đều chứng kiến trên hành tinh này mỗi năm xảy ra càng nhiều
những xáo trộn trầm trọng về khí hậu, kéo theo những hậu quả nặng nề về môi
sinh: mưa lũ gây ngập lụt trong một số quốc gia; trong khi các quốc gia khác
thì lại thiếu mưa, gây ra hạn hán và hủy hoại mùa màng. Nhưng cũng may mắn là
ngày nay tại khắp nơi trên thế giới người ta đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng
của môi sinh. Ta phải hiểu rằng việc bảo vệ môi sinh có liên hệ trực tiếp đến sự
sống còn của nhân loại. Với tư cách con người, chúng ta phải tập kính trọng tất
cả những thành phần trong gia đình nhân loại, từ người láng giềng cho đến bạn
bè,…Từ bi, thương yêu, vị tha và tình thân hữu không những chỉ là chìa khóa
giúp cho sự nảy nở của con người, mà còn góp phần để bảo vệ sự tồn vong của
hành tinh này.
Sự thành công hay thất
bại của nhân loại trong tương lai tùy thuộc trước hết vào ý chí và quyết tâm của
thế hệ hôm nay. Nếu chúng ta không biết xử dụng ý chí và trí thông minh của
chính mình, thì chẳng còn ai khác để đứng ra đảm bảo tương lai cho thế hệ về
sau. Đó là một sự thật không thể tránh được. Chúng ta không thể nào đổ hết lỗi
lầm lên những chính trị gia hay những người trực tiếp chịu trách nhiệm về các biến cố xảy ra; chúng ta phải nhận lãnh một
phần trách nhiệm cá nhân. Chỉ khi nào mỗi người đều biết ý thức bổn phận của cá
nhân mình thì lúc ấy hành động mới có thể xảy ra được. Lên tiếng và phản đối
không đủ. Thay đổi thực sự phải xuất phát từ bên trong, từ mỗi cá nhân, rồi sau
đó từng cá nhân sẽ cố gắng góp phần vào sự an vui của cả nhân loại. Lòng nhân
ái không phải chỉ là lý tưởng tôn giáo mà đó là nhu cầu không thể thiếu sót của
toàn thể nhân loại.
Lịch sử đã chứng minh
cho thấy sức mạnh của con tim có thể góp phần thiết kế những công trình dân luật
bảo vệ con người, thực hiện những hoạt động xã hội, giải thoát con người trên
phương diện chính trị lẫn tôn giáo. Nghĩa cử và nguyện vọng chân thành không phải
là vốn liếng riêng của tôn giáo: những thứ ấy đều nằm trong tầm tay của tất cả
mọi người, đó là sự chăm lo cho kẻ khác, cho những người chung quanh, cho kẻ
nghèo khó và thiếu thốn. Tóm lại, những phẩm tính ấy xuất phát từ sự âu lo và mối
quan tâm sâu đậm về sự an vui của kẻ khác. Nhiều công trình thúc đẩy bởi lòng
nhân ái như vừa kể đã đi vào lịch sử như những công trình hữu ích góp phần tích
cực trong việc phục vụ nhân loại. Ngày hôm nay, khi nghĩ đến những công trình lịch
sử ấy, ta sẽ cảm thấy trong lòng tràn ngập hân hoan và hạnh phúc, dù cho chúng
đã thuộc vào quá khứ và chỉ còn lưu lại những kỷ niệm mà thôi. Khi nhớ đến một
người nào đó đã từng thực hiện một nghĩa cử cao cả, ta cảm thấy kính mến họ vô
cùng. Tuy nhiên, cũng đừng quên là ngay trong thế hệ của chúng ta, vẫn có những
tấm gương đáng cho ta ngưỡng mộ.
Dĩ nhiên là lịch sử
cũng đầy rẫy những kẻ đã phạm vào những hành vi hung bạo tệ hại nhất như chém
giết và tra tấn đồng loại, tạo ra cảnh đày đọa và những nỗi thống khổ không kể
xiết cho vô số con người. Những thảm trạng đó phản ánh những khía cạnh tối tăm
của gia tài nhân loại. Chúng chỉ có thể bộc phát từ hận thù, hung dữ, ganh ghét
và sự tàn nhẫn thúc đẩy bởi lợi lộc. Thực ra thì lịch sử thế giới là tượng trưng
cho trí nhớ tập thể, ghi chép lại những hậu quả phát sinh từ những chủ tâm mang
tính cách tiêu cực hay tích cực của con người. Tôi nghĩ rằng những điều trình
bày trên đây đã đủ minh bạch. Khi nhìn vào lịch sử, ta sẽ nhận ra rằng nếu muốn
đem đến một tương lai tốt đẹp và hạnh phúc hơn, ta phải quan sát chính tâm thức
ta ngay trong lúc này và tự hỏi xem thể dạng tâm thức như thế sẽ đem đến cho ta
một cuộc sống ra sao trong tương lai. Chúng ta không nên khinh thường tác động
ngấm ngầm của những thái độ tiêu cực.
Từ
bi là giải pháp hóa giải xung đột
Với tiến trình toàn cầu
hóa thì sự hợp tác trở nên thật hệ trọng, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế và
giáo dục. Phong trào thống nhất Châu Âu đã giới hạn ảnh hưởng của quan niệm cho
rằng những dị biệt giữa các quốc gia là những gì không thể giải quyết được. Tôi
cho điều ấy là hết sức tuyệt vời và đúng lúc. Tuy nhiên, sự hợp tác chặt chẽ
như vừa kể giữa các quốc gia không phải do lòng từ bi hay đức tin tôn giáo áp đặt,
mà chỉ đơn giản xuất phát từ nhu cầu. Xu hướng nghiêng về một thứ lương tâm tập
thể ngày càng phát hiện rõ rệt hơn trong thế giới ngày nay, và dưới áp lực của
các biến cố xảy ra, sự tương quan chặt chẽ kéo mọi người đến gần với nhau đã trở
thành một yếu tố không thể thiếu sót cho sự tồn vong của tất cả chúng ta. Khái
niệm về trách nhiệm toàn cầu dựa trên lòng từ bi và tình huynh đệ cũng vậy, có
phải đấy là những gì hết sức khẩn thiết hay chăng? Thế giới này là một sân khấu
phơi bày những xung đột mang tính cách ý thức hệ, tôn giáo và cả trong lĩnh vực
gia đình. Xung đột dựa vào sự kiện người này thích điều này nhưng người bên cạnh
lại thích thứ kia. Tuy nhiên, nếu thử tìm kiếm nguyên nhân sinh ra vô số những
xung đột thì ta cũng sẽ thấy có vô số nguyên nhân, và hầu hết những nguyên nhân
ấy lại nằm ở nội tâm của mỗi con người chúng ta.
Nếu muốn tìm hiểu nguồn
gốc của những nguyên nhân gây ra xung đột thì trước hết chúng ta hãy nên xét
đoán khả năng hợp tác của ta để đem đến sự hài hòa. Tất cả mọi nguyên nhân đều
tương đối. Nếu có vô số mầm mống gây ra xung đột, thì cũng có vô số mầm mống
giúp cho sự hợp tác và hài hòa. Đã đến lúc mà chúng ta phải quan tâm nhiều hơn
nữa đến sự hợp nhất. Về điểm này, cần phải kêu gọi đến tình thương yêu giữa con
người vì sự phân tích kiên nhẫn dựa vào lòng từ bi.
Các quan điểm thuộc về
ý thức hệ hoặc về tôn giáo của ta có thể không giống với kẻ khác. Nhưng nếu ta
biết kính trọng quyền của kẻ khác và biết bày tỏ lòng từ bi của ta đối với họ một
cách chân thật, thì những quan điềm giữa và họ dù không giống nhau nhưng cũng
chẳng hề gì. Đấy chỉ là những điều thứ yếu. Nếu như họ tự tin vào quan điểm của
chính họ và rút tỉa được lợi ích, thì đấy là hoàn toàn trong quyền hạn của họ.
Ta phải biết kính trọng và chấp nhận trường hợp có thể có những quan điểm không
giống nhau trong cuộc sống. Trong lĩnh vực kinh tế cũng vậy, những kẻ cạnh
tranh với ta cũng cần tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường vì họ cũng như ta, tất
cả đều muốn sống còn. Khi biết dựa vào lòng từ bi, tầm nhìn của ta cũng theo đó
mà mở rộng, tôi nghĩ rằng sự sống nối chung cũng vì thế mà trở nên dễ dàng hơn.
Như vậy, trong trường hợp này thì chiếc chìa khóa vẫn là lòng từ bi.
Giải
trừ vũ khí
Trên một quan điểm nào
đó, tình trạng toàn cầu có phần nào cải thiện. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai
khối Xô Viết và Hoa Kỳ đã chấm dứt. Giờ đây, thay vì đi tìm những kẻ thù mới, tốt
hơn hết là chúng ta nên nghĩ đến việc giải trừ chiến tranh trên hành tinh này,
hay ít ra cũng nên suy tư về một ý niệm nào đó trong việc giải trừ vũ khí, và
ngồi lại với nhau để thương thảo một cách nghiêm túc. Tôi vẫn luôn nhắc nhở những
người bạn Mỹ của tôi rằng: “Sức mạnh của các bạn không phải là do các thứ vũ
khí hạt nhân, mà phải xuất phát từ tư tưởng vĩ đại của tổ tiên các bạn trong
lĩnh vực tự do và dân chủ.”
Trong dịp đến thăm Hoa
Kỳ vào năm 1991, tôi có gặp cựu tổng thống George Bush. Lần ấy, chúng tôi có
bàn thảo với nhau rất nhiều về trật tự thế giới, và tôi có nói với ông ta như
sau: “Một trật tự mới trên thế giới thấm đượm lòng từ bi sẽ là một trật tự tuyệt
vời. Nhưng trái lại, tôi không thể hình dung được bất cứ một thứ lợi ích gì
trong một trật tự mới cho thế giới này khi mà lòng từ bi không có.”
Tôi nghĩ đã đến lúc cần
phải giải trừ vũ khí và phải nêu lên sự việc này. Sự đổ vỡ của cựu Liên bang Xô
Viết đã mở ra một con đường đưa đến việc giải trừ vũ khí và lần đầu tiên đã cho
thấy các khí giới hạt nhân được ngưng sản xuất. Theo tôi, mục đích của chúng ta
là giải phóng cho thế giới này- tức là hành tinh nhỏ bé của chúng ta- tránh khỏi
bàn tay chi phối của vũ khí. Điều đó không có nghĩa là loại trừ tất cả vũ khí.
Chỉ cần giữ lại một số tối thiểu, vì trong chúng ta lúc nào cũng có những nhóm
người mang ý đồ tăm tối. Nếu muốn cẩn thận và để tránh rủi ro thì chúng ta có
thể thành lập một đạo quân cảnh sát quốc tế với sự chỉ huy địa phương, dù cho đạo
quân ấy không bắt buộc trực thuộc vào một chính quyền nào cả, nhưng phải đặt dưới
sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc, hoặc bất cứ một tổ chức quốc tế nào khác. Làm
được như vậy thì sẽ không còn một nước nào có vũ khí trong tay, những xung đột
vũ trang giữa các quốc gia có thể tránh được, và cũng sẽ không còn nội chiến.
Buồn thay, chiến tranh
vẫn còn chiếm giữ một vị thế lớn lao trong lịch sử con người. Tôi nghĩ rằng đã
đến lúc cần phải thay đổi quan niệm về sự can thiệp. Đối với một số người, chiến
tranh có nghĩa là vinh quang và cũng là một phương cách để tạo ra các vị anh hùng.
Quan niệm chiến tranh như thế là một sự lệch lạc. Gần đây, trong một cuộc phỏng
vấn, một nhà báo có nêu lên với tôi như sau :” Những người Tây phương rất sợ chết;
hình như người Á châu ít e sợ hơn nhiều”.
Tôi đã trả lời, nửa thật
nửa đùa như sau : Tôi nhận thấy người Tây phương đặt một tầm quan trọng quá lớn
vào chiến tranh và sức mạnh quân sự. Nhưng một khi đã đề cập đến chiến tranh tức
là phải nói đến cái chết- không phải những cái chết tự nhiên, mà là những cái
chết bằng khí giới. Theo tôi, những người Tây phương thích chiến tranh đến độ
chính họ trở thành những người không sợ chết. Đối với người Á châu nói chung,
và những người Tây Tạng nói riêng, thì ý nghĩ về bổn phận phải đánh nhau là một
thứ gì không thể chấp nhận được; chúng tôi không thể nào hình dung nổi chiến
tranh, bởi vì chiến tranh chắc chắn sẽ mang lại thảm họa, chết chóc, những vết
thương đau đớn và những cảnh cơ hàn. Trong tâm thức của chúng tôi, ý niệm về
chiến tranh mang tính cách vô cùng tiêu cực. Điều đó chứng minh cho thấy chúng
tôi đây mới là những người sợ chết hơn quý vị nhiều.
Tiếc thay, vì một số lý
do nào đó, nhiều người vẫn duy trì những ý nghĩ sai lầm về vấn đề chiến tranh.
Những ý niệm đó tượng trưng cho một mối nguy hiểm ngày càng trở nên trầm trọng
hơn cho cả cộng đồng thế giới, vì thế chúng ta cần phải nghĩ đến việc giải trừ
khí giới một cách nghiêm túc. Tôi cảm nhận được điều ấy trong lúc đang xảy ra
chiến tranh vùng Vịnh và cả thời gian sau đó. Nhất định không có ai lại không bất
mãn với Saddam Hussein vì ông ta đã phạm vào quá nhiều sai lầm và hành động một
cách hết sức là tai hại. Quả đúng như thế, nhưng khi đã biết Saddam Hussein là
một con người độc tài, thì cũng sẽ hiểu rằng một con người độc tài đương nhiên
là một kẻ gây ra tai hại. Tuy nhiên, nếu không có sức mạnh quân sự và không có
khí giới thì làm thế nào mà ông ta có thể đóng vai trò của một kẻ độc tài. Ai
giúp khí giới cho ông ta? Chính là một số quốc gia Tây phương, các quốc gia ấy
không hề quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra. Những con buôn khí giới cũng phải nhận
lãnh một phần trách nhiệm trong đó.
Chỉ biết đến tiền bạc
và lợi lộc do việc buôn bán khí giới quả thật là những ý nghĩ vô cùng khủng khiếp.
Tôi có gặp một phụ nữ người Pháp đã từng sống nhiều năm ở Beyrouth. Bà hết sức
đau buồn kể rằng bà đã tận mắt thấy nhiều người trong túi nhét đầy khí giới đứng
bán trong một khu phố, và đồng thời mỗi ngày lại có những kẻ vô tội bị thảm sát
trong một khu phố khác bằng những thứ vũ khí ấy. Song song với thảm trạng đó,
phía bên kia địa cầu, một số người tận hưởng một cách phè phỡn trên số lợi nhuận
do việc buôn bán vũ khí mang lại, trong lúc những kẻ vô tội phải chịu chết bằng
những vũ khí tối tân ở những nơi khác. Vì vậy, biện pháp trước tiên phải đem ra
thực hiện là chấm dứt việc buôn bán vũ khí. Thỉnh thoảng tôi vẫn chế nhạo bạn hữu
Thụy Điển của tôi như sau :” Các bạn là một dân tộc tuyệt vời! Trong cuộc chiến
tranh thế giới vừa qua, các bạn giữ thế trung lập và các bạn luôn luôn chủ
trương nhân quyền và hòa bình trên thế giới. Thật hết sức cao đẹp! Nhưng này
hãy cẩn thận đấy, các bạn vẫn cứ tiếp tục bán khí giới cho kẻ khác. Các bạn
không thấy điều ấy có vẻ hơi đạo đức giả
một tí hay sao?”.
Trong khi xảy ra chiến
tranh vùng Vịnh, tôi đã tự hứa rằng tôi sẽ góp sức để phổ biến những ý niệm về
sự giải trừ vũ khí cho đến tận ngày cuối của cuộc đời tôi. Tôi quyết định trong
tương lai, quê hương Tây Tạng của tôi sẽ là một vùng hoàn toàn phi quân sự. Và
để chuẩn bị cho một vùng phi quân sự, yếu tố chính yếu nhất vẫn là lòng từ bi của
con người.
TÍNH CÁCH ĐA DẠNG CỦA TÔN GIÁO
*
Khi chưa nhìn thấy giá
trị của những truyền thống tôn giáo khác, thì quả thật rất khó cho ta kính trọng
các tôn giáo ấy. Tuy nhiên, sự kính trọng lẫn nhau phải căn cứ trên sự hài hòa
chân thật, không phải vì lý do chính trị hoặc kinh tế, nhưng chỉ vì giá trị của
các truyền thống khác. Riêng phần tôi, tôi luôn luôn cố gắng đề cao sự hài hòa
giữa các tôn giáo.
Dựa vào đức tin của
mình để nâng cao các giá trị căn bản của con người là một tiến trình tích cực.
Các tôn giáo chính trên thế giới đều nêu cao giá trị của tình thương, lòng từ
bi và sự tha thứ. Nhất định là mỗi tôn giáo thực hành theo cách thức của mình,
nhưng tất cả đều nhắm vào những mục đích tương đối giống nhau- sống hạnh phúc
hơn, trở nên từ bi hơn và xây dựng một thế giới với nhiều tình thương hơn- sự
đa dạng về phương pháp của các tôn giáo không quan trọng lắm. Tầm quan trọng lớn
hơn là phải phát huy tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ; các tôn giáo chính
đều hàm chứa một tiềm năng như nhau cả. Một số người có xu hướng tin vào tôn
giáo, và khi đã nhìn thấy sự đa dạng về
năng khiếu trong các xu hướng của con người, thì ta phải hiểu rằng sự kiện có
nhiều tôn giáo khác nhau là một điều hữu lý. Sự thực bao giờ cũng ích lợi.
Đến đây tôi xin đề cập
đến vấn đề hài hòa tôn giáo bằng cách phân biệt thành hai cấp bậc tâm linh khác
nhau.
Cấp
bậc tâm linh thứ nhất: Đức tin và sự rộng
lượng
Đối với các tôn giáo
chính cũng như đối với tất cả mọi người, cấp bậc tu tập thứ nhất chính là Đức
Tin. Tôi tin rằng tất cả tôn giáo đều đóng một vai trò quan trọng, nhưng nếu muốn
cho các tôn giáo có thể góp phần một cách hữu hiệu vào lợi ích chung của nhân
loại cần phải có hai yếu tố.
Yếu tố thứ nhất là mỗi
cá nhân- tức là chúng ta đây- khi đã theo một tôn giáo nào thì nên thực thi một
cách chân thật. Những lời giáo huấn có tính cách tôn giáo phải trở thành những
gì gắn liền với đời sống của ta và lưu lại trong ta. Đôi khi ta bước vào một
nhà thờ hay một ngôi chùa để cầu nguyện hay tĩnh tâm, nhưng lúc vừa đặt chân ra
khỏi các nơi ấy thì những giây phút nhiệt tình hướng về tôn giáo chẳng còn lưu
lại gì cả. Như thế không phải là cách tu tập đúng đắn. Những lời khuyên bảo của
tôn giáo phải được giữ lại trong ta, dù cho ta đang ở bất cứ nơi nào. Tất cả những
lời giáo huấn ấy của tôn giáo phải luôn luôn hiện hữu trong sự sống, để mỗi khi
cần đến những cảm ứng thiêng liên hay một sức mạnh đạo đức thì ta sẽ có ngay.
Khi những cảm ứng và sức mạnh đó đã hiện hữu thường xuyên trong ta, thì khi ấy
ta mới có thể sử dụng chúng để đối đầu với những khó khăn vụt đến.
Tôn giáo chỉ thật sự hữu
ích khi đã hội nhập vào đời sống của ta. Cần phải biết tôn giáo đã dạy ta những
gì và hãy áp dụng ngay những điều học hỏi được vào những cảm nhận của ta. Đôi
khi các ý niệm về tôn giáo chỉ được hiểu một cách thật lờ mờ trên phương diện
lý trí. Nếu thiếu sự cảm nhận thì sức hữu hiệu của tôn giáo sẽ rất giới hạn. Vì
thế phải tu tập chân thành để giúp sự sống của ta thấm nhuần với tôn giáo.
Yếu tố thứ hai liên
quan nhiều hơn với sự tương quan giữa các tôn giáo. Ngày nay, nhờ vào sự tiến bộ
kỹ thuật và hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta lại càng lệ thuộc với nhau nhiều
hơn nữa. Những quốc gia cách biệt nhau, những lục địa xa xôi đều liên hệ mật
thiết với nhau trong bối cảnh hiện tại.
Sự liên hệ đó chặt chẽ đến đỗi sự tồn
vong của một vùng nào đó trên địa cầu cũng đều liên hệ đến sự tồn vong của
những nơi khác. Sự tương liên trên thế giới trở nên chặt chẽ hơn, vì thế sự
tương tác giứa con người cũng mang tầm vóc rộng lớn hơn.
Những biến chuyển trên
đây chứng minh cho thấy thái độ chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo mang một tầm
quan trọng vô biên. Trước đây, khi các tập thể con người sống cách biệt nhau và
các tôn giáo cũng tương đối bị cô lập, thì ý niệm chỉ cần một tôn giáo duy nhất
còn có thể chấp nhận được, kể cả rất hữu ích nữa. Nhưng ngày nay, hoàn cảnh đã
khác và tình thế đổi thay. Thật hết sức cần thiết phải chấp nhận sự đa dạng
trong tôn giáo và chủ trương sự kính trọng lẫn nhau một cách thành thực, một sự
tiếp xúc chặt chẽ giữa các tôn giáo là điều bắt buộc. Trên đây là yếu tố thứ
hai giúp cho mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới trở nên hữu hiệu hơn trong
các công tác chung về nhân đạo.
Khi còn sinh sống trên
Tây tạng, ngoài Phật giáo ra tôi không có một dịp nào để tiếp xúc với các tín đồ
của các truyền thống khác, thái độ lúc đó của tôi đối với các tôn giáo khác
không được tích cực lắm. Tuy nhiên, sau này khi có dịp gặp những người thuộc
các tín ngưỡng khác nhau, và nhân dịp đó để đào sâu những kinh nghiệm cá nhân,
thì thái độ của tôi đối với các tôn giáo khác đã đổi thay. Tôi hiểu rằng các
tôn giáo ấy hết sức cần thiết cho nhân loại và mỗi tôn giáo đều có tiềm năng
đưa đến một thế giới tốt đẹp hơn. Suốt trong những thế kỷ vừa qua, các tôn giáo
khác nhau đã góp phần tích cực để cải thiện con người, và kể cả ngày hôm nay,
nhiều người tu tập đã đạt được sự thăng tiến nhờ vào các tôn giáo như Thiên
chúa giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo hoặc các truyền thống
khác nữa.
Đối thoại với những người
tu tập thuộc những tôn giáo khác thật hết sức phong phú. Hãy lấy một thí dụ,
các dịp đàm thoại giữa tôi với ông Thomas Morton, nay đã qua đời, đã giúp tôi
nhận ra ông là một con người tuyệt vời, và cũng giúp tôi hé thấy tiềm năng tinh
thần hàm chứa trong đức tin Thiên chúa giáo. Vào một dịp khác, tôi làm quen với
một nhà tu Thiên chúa giáo trong một tu viện nổi tiếng ở Montserra, thuộc Tây
Ban Nha. Ông này đã sống ẩn dật nhiều năm trên một ngọn đồi phía sau tu viện,
Khi tôi đến viếng vùng này, ông đã bỏ nơi ẩn cư để xuống gặp tôi, tiếng Anh của
ông ta còn tệ hơn cả tiếng Anh của tôi, nhưng điều đó đã giúp tôi có thêm can đảm
để đàm thoại với ông! Chúng tôi ngồi đối mặt với nhau và tôi cất lời hỏi ông ta
như sau: Trong suốt những năm qua, ông đã
làm gì trên đỉnh đồi thế? Ông ta nhìn tôi một lúc rồi trả lời như sau: Tôi thiền định về lòng từ bi và yêu thương.
Lúc ông ta cất lời để nói lên các tiếng ấy, tôi đã nhận thấy thông điệp trong mắt
ông. Và tôi cảm nhận được một niềm kính trọng sâu xa nơi con người của ông và cả
những người khác giống ông. Đấy là những loại kinh nghiệm đã làm cho tôi tin rằng
tất cả những tôn giáo trên thế giới, dù cho khác biệt trên lĩnh vực triết học
và tín điều, đều có khả năng tạo ra những con người tốt. Mỗi tôn giáo đều quảng
bá một thông điệp tuyệt vời.
Những lời giáo huấn xây
dựng trên đức tin về một vị Trời sáng tạo nêu lên một hướng đi rất mạnh. Những
người Thiên chúa giáo không tin vào sự
tái sinh, cũng không tin vào các kiếp sống trước và các kiếp sống tương
lai, nhưng sự vững tin là kiếp sống này do Trời tạo ra, đã giúp cho họ những
xúc cảm gần gũi với đấng sáng tạo mà họ trực thuộc. Họ tiếp nhận những lời giáo
huấn khuyên họ phải thương yêu các người đồng loại. Thật ra, nếu ta yêu quý Trời,
ta phải yêu thương tất cả mọi người, bởi vì họ cũng như ta, tất cả đều là sự
sáng tạo của Trời. Nếu như số phận tương lai của kẻ khác, cũng như của chính
ta, đều nằm trong tay của Trời, thì đương nhiên chúng ta đều chịu chung một cảnh
huống. Ngược lại, những ai đòi hỏi kẻ khác phải yêu mến Trời, nhưng chính mình
thì lại không tỏ ra một dấu hiệu nào chứng tỏ tình yêu thương của mình đối với
anh em và chị em cùng mang chung một đức tin, thì những kẻ đó thật đáng nghi ngờ.
Bất cứ một người nào tin vào một vị Trời và vào tình thương của Ngài thì phải
chứng tỏ một cách thành thật tình cảm của mình hướng về Trời bằng cách yêu
thương người đồng loại. Cách suy diễn như thế tạo ra một sự tiếp cận mạnh mẽ,
có phải thế hay chăng?
Vì thế, khi ta quán xét
một tôn giáo dưới nhiều khía cạnh khác nhau, như cách ta vừa làm- không phải bằng
chính quan điểm triết học của ta, nhưng phải dựa trên nhiều cấp bậc khác nhau-,
thì nhất định tất cả các tôn giáo chính đều mang tiềm năng giúp cho con người
trở nên hoàn hảo hơn. Khi tiếp xúc với các tín đồ của các tôn giáo khác, ta sẽ
biết mở rộng tâm thức và đưa đến một sự tương kính đối với các truyền thống
khác. Tôi đã học hỏi được nhiều sáng kiến mới lạ liên quan đến các phương pháp
tu tập khi tiếp xúc với các tôn giáo khác và đem ghép thêm vào cách tu tập của
riêng tôi. Đồng thời, các anh chị em Thiên chúa giáo cũng nên chọn và sử dụng một
số kỹ thuật của Phật giáo- chẳng hạn như sự chú tâm vào một điểm và các phương
pháp giúp phát huy sự rộng lượng, lòng từ bi và tình yêu thương. Những cuộc gặp
gỡ và đối thoại như thế thật hữu ích, vì đã tích cực góp phần làm gia tăng thêm
sự hài hòa giữa các tôn giáo.
Các chính trị gia và
các vị nguyên thủ quốc gia thường nói đến sự tương trợ và đoàn kết. Tại sao
chúng ta là những người thuộc phía tôn giáo lại không thể nêu lên được điều đó?
Tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta phải làm việc ấy. Vào năm 1997, tại Abisse
thuộc nước Ý, các người đại diện các tôn giáo khác nhau trên thế giới tập họp lại
để cùng nhau cầu nguyện, tuy rằng tôi không tin chắc rằng chữ “cầu nguyện” là một
chữ thích nghi để mô tả một cách chính xác cách tu tập của tất cả các tôn giáo.
Nhưng cũng chẳng sao, điều thiết yếu là những thành phần tôn giáo thuộc các
truyền thống khác nhau đã tụ hội lại cùng một địa điểm để cầu nguyện, theo sự
tin tưởng riêng của mỗi truyền thống. Theo tôi, biến cố đó mang một tính cách rất
tích cực. Cần phải tiếp tục trên đường hướng ấy và gia tăng nhiều hơn nữa những
cố gắng đem đến hài hòa và giúp các tôn giáo trên toàn thế giới xích lại gần
nhau hơn. Nếu không thì có thể chúng ta sẽ còn phải đối đầu với thật nhiều khó
khăn có thể chia rẽ cả nhân loại.
Nếu như tôn giáo là một
liều thuốc duy nhất có thể làm suy giảm những xung đột giữa con người, thì quả
thật là một thảm họa nếu liều thuốc ấy lại hóa thành nguồn gốc đưa xung đột đến
với nhau. Kể cả ngày nay cũng như từ ngàn xưa, những bất hòa nhân danh tôn giáo
vẫn thường bùng nổ và tôi thấy điều ấy là hết sức đáng buồn. Khi suy tư một
cách cởi mở và sâu xa hơn, ta sẽ nhận thấy tình thế trong quá khứ khác hẳn với
ngày nay. Trong tình thế hiện tại, thay vì bị cô lập, chúng ta trở nên liên đới
với nhau nhiều hơn. Vì thế thật cần thiết phải tạo lập sự tương quan chặt chẽ
giữa các tôn giáo hầu giúp cho các đoàn thể có thể hợp tác bên nhau trong nỗ lực
chuyển hướng về sự an lành của nhân loại.
Cấp
bậc tâm linh thứ hai: Từ bi là một tôn giáo toàn cầu
Cấp bậc tâm linh thứ hai,
vượt lên trên mọi dị biệt về tôn giáo, đó là lòng từ bi và tình thương yêu giữa
con người. Cấp bậc này quan trọng hơn nhiều so với cấp bậc thứ nhất, vì dù rằng
tôn giáo có tốt đẹp đến đâu, thì cũng chỉ có một số ít người theo. Hầu hết
trong số năm đến sáu tỷ người trên hành tinh này, hình như không có mấy ai tu tập
hoặc theo bất cứ một tôn giáo nào cả. Tùy theo truyền thống gia đình, họ tự nhận
diện như thuộc vào nhóm này hay nhóm khác – “tôi là người thuộc Ấn độ giáo”,
“tôi là người Phật giáo”, “tôi là người Thiên Chúa giáo”- nhưng thật ra trong
chính lương tâm họ, họ không phải là những người tu tập. Cũng chẳng sao! Một
người nào đó gia nhập hay không gia nhập vào một tôn giáo là hoàn toàn thuộc
quyền cá nhân của họ. Tất cả các vị thầy lớn trong thời cổ xưa, chẳng hạn như Đức
Phật, Mahavira, Jesus, Mohamet, không có vị nào thành công trong việc khai tâm
cho hết tất cả mọi người. Chưa hề có ai làm được việc ấy. Sự kiện gán cho những
người không tin là vô thần cũng chẳng hề hấn gì. Một số các học giả Tây phương
xem những người Phật giáo là vô thần, vì lý do họ không tin vào một vị sáng tạo.
Cách hiểu như thế đôi khi bắt buộc tôi phải chọn những chữ khác chẳng hạn như
chữ “cực đoan” để chỉ định những người không tin gì cả. Tôi gọi họ là những người
“không tin cực đoan”, bởi vì chẳng những họ không tin vào một tôn giáo nào hết
mà đồng thời họ lại tin chắc chắn một cách quả quyết là bất cứ một hình thức
tâm linh nào cũng đều vô ích. Chúng ta phải tự nhắc nhở để nhớ rằng những kẻ đó
cũng đều là những thành phần của nhân loại, và cũng như tất cả kẻ khác, họ cũng
muốn được hạnh phúc và sống một cuộc sống thanh thản và êm đềm. Chính đó mới là
điều quan trọng.
Theo ý tôi, chẳng có gì
là xấu nếu muốn làm một kẻ không tin, nhưng một khi đã là thành phần của giống
người, thì họ đều có nhu cầu về thương yêu và lòng từ bi như nhau. Đấy là những
gì thiết yếu nhất trong những lời giảng huấn của các truyền thống tôn giáo. Nếu
không có từ bi thì ngay cả những người tin vào tôn giáo cũng có thể trở thành
những người gây ra tai hại. Hơn nữa, dù ta tin hay không tin, thì sự tu tập căn
bản vẫn thuộc vào lĩnh vực của tim ta. Theo tôi, lòng từ bi và tình thương yêu
là tôn giáo toàn cầu. Tất cả mọi người đều cần đến những thứ ấy vì chúng mang lại
cho ta sức mạnh nội tâm, niềm hi vọng và sự an bình trong tâm thức. Lòng từ bi
và tình thương yêu quả thật cần thiết cho tất cả mọi người.
Như tôi đã nói đến trên
đây, một vài anh em và chị em người Thiên chúa giáo, kể cả những người tu hành
hay thế tục, đã nói với tôi là họ từng sử dụng các phương pháp Phật giáo để
phát huy lòng từ bi cũng như đức tin Thiên chúa giáo của chính họ. Tôi vẫn thường
nhắc nhở các bạn hữu Tây phương rằng tốt hơn hết cứ giữ lấy tôn giáo truyền thống
của mình. Thay đổi tôn giáo không phải dễ và đôi khi lại có thể gặp những chuyện
rối rắm.
Tuy nhiên, đối với những
ai thấy rằng con đường Phật giáo hữu hiệu và phù hợp hơn với cách suy nghĩ của
mình thì khi đó mới nên đắn đo một cách nghiêm chỉnh về việc này. Và một khi đã
hoàn toàn tin chắc là Phật giáo phù hợp với mình thì lúc đó cứ đến với Phật
giáo, một cách hoàn toàn tự do không có sự ép buộc nào. Dù sao thì sau đây là
những điều mà chúng ta không được phép quên: đôi khi vì muốn biện minh cho sự cải
đạo của mình khi chọn một đức tin mới, một vài người có thái độ chỉ trích tôn
giáo hay truyền thống trước đây của họ. Tôn giáo cũ trước đây dù không còn phù
hợp với lòng tin của họ nữa, nhưng vẫn hữu ích cho nhân loại. Biết công nhận
quan điểm và quyền hạn của kẻ khác cũng như những giá trị trong truyền thống của
kẻ khác, có nghĩa là quý vị phải tiếp tục tôn vinh tôn giáo trước đây của quý vị.
Điều này thật hết sức quan trọng.
CÁC KHÍA CẠNH TRIẾT HỌC TRONG PHẬT
GIÁO
*
Lòng từ bi và tình yêu
thương giữa con người theo tôi là những giá trị toàn cầu và giá trị đó không đặc
biệt dừng lại với riêng một tôn giáo nào cả. Tuy nhiên, đối với Phật giáo thì ý
nghĩa của từ bi đi đôi với một tầm nhìn thật rộng lớn về thế giới này, một tầm
nhìn hàm chứa những mục đích rõ rệt và những phương pháp đặc thù. Tầm nhìn ấy
bao hàm cả những lợi ích do từ bi đem đến, cũng như những phương pháp sử dụng để
phát triển lòng từ bi, như tôi vừa mô tả trên đây, và đồng thời cũng chứng minh
cho thấy việc phát triển lòng từ bi liên hệ vô cùng chặt chẽ với sự quán thấy của
người Phật tử về hiện thực và con đường đưa đến Giác ngộ. Vì thế chúng ta cũng
cần nêu ra đây một vài khía cạnh triết học của Phật giáo.
Bốn
sự thật cao quý và nguyên lý nhân duyên
Trọng tâm của giáo huấn
Phật giáo là bốn sự thật cao quý. Đó là nền móng của Phật giáo, bốn sự thực cao
quý ấy là: khổ đau, nguồn gốc của khổ đau, sự kiện có thể chấm dứt được khổ đau
và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Những lời giáo huấn về bốn sự thực
cao quý được nêu lên căn cứ vào kinh nghiệm con người trong bối cảnh của bản
tính tự nhiên là mong ước tìm được hạnh phúc và lẩn tránh khổ đau. Hạnh phúc mà
ta ước mong và khổ đau mà ta lẩn tránh không phải là những kết quả ngẫu nhiên,
nhưng đấy là những gì phát hiện từ nhiều nguyên nhân và từ nhiều điều kiện đưa
đẩy. Tìm hiểu sự vận hành đưa đến khổ đau và hạnh phúc chính là chủ đề của bốn
sự thực cao quý.
Muốn hiểu được sự vận
hành của nguyên nhân tiềm ẩn trong tất cả mọi cảm nhận về khổ đau và hạnh phúc,
ta phải phân tích thật kỹ lưỡng nguyên lý, nguyên nhân và hậu quả. Cũng có thể
xảy ra trường hợp khiến ta có cảm tưởng là các cảm nhận về khổ đau và hạnh phúc
phát sinh một cách tự động mà không liên hệ với một nguyên do nào cả- nói một
cách khác là chúng phát sinh không do một nguyên nhân nào cả. Theo giáo lý nhà
Phật thì điều đó không thể có được. Nếu không thì ta phải nghĩ rằng đấy là những
sáng tạo của một vị siêu nhiên. Phật giáo cũng loại bỏ trường hợp này. Hoặc
cũng có thể ta cho nguồn gốc sinh ra tất cả mọi hiện tượng là do một thực thể
nguyên thủy đứng ra điều khiển tất cả. Phật giáo cũng bác bỏ loại giả thuyết
như thế. Bằng cách dựa vào lý luận, Phật giáo phủ nhận tất cả các giả thuyết
trên đây và đồng thời chứng minh cho thấy những cảm nhận về hạnh phúc và khổ
đau không tự nó sinh ra được, cũng không thể tự phát sinh bởi một nguyên nhân độc
lập nào, hay bởi sự kết hợp đồng lúc của hai nguyên nhân độc lập. Nguyên nhân
và hậu quả là một nguyên lý được thiết lập dựa vào “nguồn gốc tương liên”. Tất
cả mọi vật thể, tất cả mọi biến cố, kể cả những cảm nhận về khổ đau và hạnh
phúc, đều phát sinh từ sự phối hợp của vô số nguyên nhân và điều kiện.
Tìm
hiểu vai trò nòng cốt của tâm thức
Nếu tìm hiểu sâu xa về
bốn sự thực cao quý, ta sẽ nhận thấy tri thức hay tâm thức giữ một vai trò căn
bản trong những cảm nhận về khổ đau và hạnh phúc. Phật giáo phân chia khổ đau
theo nhiều cấp bậc khác nhau. Chẳng hạn như có một thứ khổ đau mà ai cũng biết:
ấy là những cảm nhận về sự đau đớn. Cấp bậc thứ hai về khổ đau gồm tất cả những
cảm giác thông thường ta vẫn xem là êm ái. Tuy nhiên trên thực tế, những giác cảm
êm ái ấy lại chính là khổ đau bởi chúng hàm chứa mầm mống của sự bất toại nguyện.
Ngoài ra còn có thêm một cấp bậc khổ đau nữa mà ngôn từ Phật giáo gọi là “khổ
đau vì lệ thuộc vào điều kiện”. Điều đó đơn giản có nghĩa là khi nào ta chưa phải
là những sinh linh giác ngộ thì ta vẫn còn phải gánh chịu những xúc cảm và những
tư duy tiêu cực, kể cả nghiệp (karma) của chính ta. Nghiệp có nghĩa là hành vi,
và chính đó là những gì đã giam hãm ta trong chu kỳ tiêu cực. Sự buộc chặt đó tạo
ra loại khổ đau thứ ba.
Khi quan sát các loại
khổ đau trên đây, ta sẽ nhận thấy chúng ăn sâu vào những thể dạng tâm thần. Thực
vậy, chính những thể dạng tâm thần bất trị đã là khổ đau rồi, và đồng thời cũng
là tác nhân chuyên chở khổ đau. Lý do là vì luôn luôn có một động lực thúc đẩy
đứng phía sau tất cả mọi hành vi, do đó người ta cũng có thể xem nghiệp là một
thể dạng tâm thần, nhưng là một thể dạng tâm thần bất trị. Cũng thế, khi nói đến
những bấn loạn nội tâm thúc đẩy ta phạm vào những hành động tiêu cực cũng có
nghĩa là nói đến những dạng tâm thần bất trị. Cũng vì thế nên kinh sách Phật
giáo bảo rằng nghiệp là nguồn gốc của mọi khổ đau và sự bấn loạn trong tâm thức
chính là động cơ thúc đẩy tác động của nghiệp. Như vậy thì sự thật về nguồn gốc
của khổ đau chính là những gì liên quan đến một thể dạng tâm thức bất trị, hay
một tâm thức không thể kiểm soát được, che lấp không cho ta nhìn thấy giác ngộ
và đem đến khổ đau cho ta. Tóm lại, chúng ta có thể hiểu rằng nguồn gốc của khổ
đau, nguyên nhân của khổ đau và chính cả khổ đau nữa cũng chỉ là những thể dạng
tâm thần.
Sự chấm dứt khổ đau chỉ
có thể hình dung được đối với một sinh linh đang sống thật, một tác nhân hàm chứa
một tri thức. Kinh sách Phật giáo mô tả sự chấm dứt khổ đau như một thể dạng
cao nhất của hạnh phúc. Tuy nhiên, xin đừng đồng hóa hạnh phúc ấy với những cảm
giác êm ái. Đây không phải là một thứ hạnh phúc thuộc vào cấp bậc giác cảm hay
tình cảm, nhưng một thể dạng tối hậu của hạnh phúc; một sự giải thoát hoàn toàn
mọi khổ đau và mọi bấn loạn trong tâm thức. Và trong trường hợp này thể dạng
phúc hạnh ấy cũng lại là một thể dạng của tâm thần, một cấp bậc tu tập.
Muốn hiểu được sự cảm
nhận của ta về khổ đau, cũng như con đường đưa đến chấm dứt khổ đau- trong bốn
sự thật cao quý-, ta cần phải tìm hiểu tâm thức là gì.
Tâm
thức và Niết bàn
Trong tập luận Hướng dẫn
vào con đường Trung đạo, do vị đại sư người Ấn là Nguyệt Xứng (Chandrakirti)
trước tác, ông đã mô tả tâm thức, nguồn gốc phát sinh ra khổ đau, bằng một câu
như sau : “Một tâm thức bất trị đưa đến bấn loạn tâm thần thúc đẩy một cá nhân phạm
vào những hành vi không tốt, các hành vi ấy sẽ tạo ra một môi trường tiêu cực
mà cá nhân ấy phải gánh chịu trong sự sống”.
Muốn
tìm hiểu bản chất của thể dạng không khổ đau mà Phật giáo gọi là niết bàn
(nirvana), ta phải đọc thật kỹ đoạn sau đây trong tập luận nổi tiếng Nền móng của
con đường Trung đạo do đại sư Long Thọ (Nagarjuna) trước tác. Trong đoạn này,
Long Thọ đặt sự hiện hữu không tỉnh thức (tức trong vòng luân hồi) và sự hiện hữu
giác ngộ (cõi niết bàn) ngang hàng với nhau. Ông muốn nhắc nhở chúng ta không
nên tin vào sự hiện hữu hàm chứa một bản chất tự tại và căn bản, dù sự hiện hữu
ấy có giác ngộ hay không. Thể dạng này hay thể dạng kia đều hoàn toàn trống
không về hiện thực. Thấu triệt và cảm nhận được Tánh không hay chăng mới chính
là yếu tố để phân biệt hai thể dạng giác ngộ hay không giác ngộ. Niết bàn chẳng
qua chỉ là sự hiểu biết và cảm nhận Tánh không của luân hồi. Vì thế luân hồi và
niết bàn chỉ là hai thể dạng khác nhau ngự trị trong cùng một tâm thức mà thôi.
Sau
phần nhập môn trên đây, người ta có quyền tự hỏi phải chăng Phật giáo chủ
trương tất cả chỉ là phóng ảnh của tâm thức. Thật vậy, đấy là một câu hỏi then
chốt mà các vị đại sư đã đưa ra nhiều cách giải đáp khác nhau suốt trong quá
trình lịch sử lâu dài của Phật giáo. Một mặt, sau khi đã phân tích đến cùng cực,
một số vị chủ trương tất cả chỉ là phóng ảnh của tâm thức , kể cả sự cảm nhận của
ta về khổ đau và hạnh phúc. Trong khi một số các vị khác lại phủ nhận quan điểm
khá quyết liệt mang tính cách chủ quan quá mức đó. Nhóm thứ hai khẳng định rằng
dù cho ta có thể xem tất cả mọi hiện tượng, trong đó gồm có cả những cảm nhận của
ta, là những tọa tác tâm thần, thì điều đó cũng không có nghĩa là tất cả đều là
tâm thức. Luận cứ mà các vị này nêu lên là cần phải giữa một mức độ khách quan
nào đó, và nên tin rằng các vật thể hiện hữu thực sự. Theo họ, ngay cả khi tri
thức dự phần vào việc tác tạo ra sự cảm nhận của ta về thế giới này, thì vẫn có
một thế giới khách quan.
Đối
với khái niệm niết bàn của Phật giáo, tôi muốn lưu tâm quý vị một điều như sau.
Long Trí (Nagabudhi), một đệ tử của đại sư Long Thọ đã nhấn mạnh rằng: “Người
ta không thể trao tặng quý vị sự Giác ngộ, hay là sự giải thoát tâm linh như
đem cho một món quà. Hạt giống của Giác ngộ là của quý vị, nó không thuộc về bất
cứ người nào khác.” Điều đó ngụ ý rằng tiềm năng của Giác ngộ hiện hữu
một cách tự nhiên nơi mỗi con người của chúng ta. Vì thế Long Trí có lần đã hỏi
thầy mình như sau: Niết bàn là gì? Giác
ngộ là gì? Giải thoát tâm linh là gì? Long Thọ trả lời như sau: Sự giác ngộ đích thực chẳng phải là gì khác
hơn là sự thực hiện toàn vẹn bản thể của chính mình. Bản thể của chính mình Phật
giáo gọi là “ánh sáng trong suốt và tối hậu” hay” thể dạng rạng rỡ tự nhiên của
tâm thức”. Người ta sẽ đạt được thể dạng của một vị Phật, hay sự Giác ngộ, khi
nào bản thể của tâm thức đã hoàn toàn quay về với hiện thực hay đã thực hiện hiện
thực một cách hoàn hảo.
Vì
thế khi nói đến Giác ngộ và niết bàn, tức cấp bậc thực hiện cuối cùng trong việc
tu tập tâm linh, có nghĩa là đề cập đến một thể dạng của tâm thức. Cũng thế, những
bấn loạn tâm thần cản trở sự thực hiện bản thể Giác ngộ, cũng được xem như là
những thể dạng tâm thần- nhưng là những thể dạng bấn loạn. Một cách chính xác
hơn, đó là những bấn loạn đã ăn sâu vào những cảm nhận sai lầm liên quan đến
cái tôi và thế giới này. Phương cách duy nhất giúp biến cải những cảm nhận đó
là cách trau dồi sự quán thấy xuyên thẳng vào bản thể của tâm thức.
Tóm
lại, theo lời giảng huấn của Đức Phật, một bên là thể dạng tâm thần bất trị
liên kết với khổ đau, và một bên là thể dạng tâm thức đã được khắc phục đem đến
hạnh phúc và sự giải thoát. Hai thể dạng ấy đều ngang hàng nhau. Đây là một
trong những điểm quan trọng cần phải thấu triệt.
Suy nghĩ đúng và suy nghĩ sai
Trong
Phật giáo, chữ “tâm thức” mang một ý nghĩa rất rộng lớn, bao gồm toàn diện tất
cả những cảm nhận của tri thức, tức là tất cả những tư duy và xúc cảm. Dựa vào
một nguyên tắc tự nhiên liên quan đến những cảm nhận chủ quan của ta – quy tắc
này có thể như là một quy luật về tâm lý học-, thì hai tư duy hoặc hai xúc cảm
trực tiếp đối nghịch với nhau không thể nào hiện hữu chung với nhau trong cùng
một lúc. Theo kinh nghiệm thường nhật, ta phân biệt một số tư duy gọi là đúng
và một số tư duy gọi là sai. Chẳng hạn trường hợp một tư duy ứng với thực tế, tức
một thể dạng thế giới chung quanh tương đồng với sự cảm nhận của ta, thì ta gọi
đó là một tư duy hay cảm nhận đúng. Tuy thế, cũng có những tư duy và những xúc
cảm trái ngược hẳn với sự hiện hữu thật sự bên ngoài. Đôi khi đấy chỉ là những
hình ảnh phóng đại quá lố nhưng cũng có thể là những tư duy đối nghịch hẳn với
cách hiện hữu của các hiện tượng. Các tư duy và xúc cảm như thế được cho là
sai.
Kinh
sách Phật giáo, nhất là các kinh sách nghiên cứu về các phương cách hiểu biết
khác nhau, đã dựa vào sự khác biệt giữa những tư duy, hay xúc cảm, đúng và sai
để phân tích những gì gọi là sự nhận biết vững chắc và những gì phát sinh từ sự
nhận biết ấy. Kết quả cho thấy là nếu muốn cho sự cố gắng đem đến hiệu quả và đạt
được mục đích, thì tư duy và xúc cảm phải đúng, đó là điều kiện cần thiết phải
có.
Theo
các văn bản trên đây, đạt được sự Giải thoát tối thượng về tâm linh là kết quả
sinh ra từ những tư duy và xúc cảm đúng. Phật giáo giảng rằng yếu tố chính đem
đến Giác ngộ là sự cảm nhận đúng đắn và hiện thực. Sự cảm nhận đúng đắn ấy là một
phương cách nhận biết trung thực các hiện tượng, chẳng hạn như bản chất của thế
giới này. Từ bi, nhân ái và Bồ đề tâm- tức tâm thức Giác ngộ- là những thành phần
bất khả phân của sự cảm nhận đúng đắn, nhìn thấu được hiện thực, và vì thế nên
các đức tính ấy đương nhiên phải được căn cứ trên những tư duy đúng đắn. Mặc dù
nhân ái và từ bi là những xúc cảm, không phải là những tư duy nhận thức, quá
trình thực hiện từ bi và Bồ đề tâm phổ quát đòi hỏi phải phân biệt giữa cái
đúng và cái sai. Đó là quá trình tu tập về sự nhận biết đúng và những cảm nhận
trung thực. Vì thế người ta cũng có thể nói rằng thể dạng của Phật là thành quả
đưa đến từ những tư duy và xúc cảm đúng, thể dạng đó đối nghịch với thể dạng
luân hồi, tức một thể dạng tạo dựng bởi những cảm nhận sai lầm.
Đối
với Phật giáo, vô minh là căn nguyên chính tạo ra sự hiện hữu thiếu giác ngộ và
những đau khổ cho ta. Đặc tính quan trọng hơn hết của vô minh là sự nhận biết
sai lầm về thế giới này và cả chính ta nữa. Trong trường hợp này cũng vậy, những
tư duy và cảm xúc sai, sinh ra từ cách nhận biết sai lầm về thế giới này và cả
chúng ta, chính là nguồn gốc của khổ đau và những chướng ngại ngăn chặn sự Giác
ngộ. Phân tích đến cùng thì ta sẽ thấy rằng
những tư duy và xúc cảm đúng sẽ đưa đến kết quả trực tiếp là hạnh phúc và giải
thoát, trong khi những tư duy và xúc cảm sai đưa đến khổ đau và thể dạng Không
Giác ngộ.
Hai sự thực
Tập
luyện tâm thức là cách chọn lựa, phát huy và thực hiện viên mãn các tư duy và
xúc cảm đúng, đồng thời ngăn chặn, dập tắt và loại bỏ hẳn những tư duy và xúc cảm
không đúng. Có nhiều phương cách luyện tập tâm thức, nhưng tất cả đều gồm có
hai khía cạnh chính. Khía cạnh thứ nhất là phát huy một sự cảm nhận xuyên thấu
còn gọi là trí tuệ, tức là cách trau dồi những tư duy đúng. Khía cạnh thứ hai gọi
là “những phương tiện khéo léo”. Những lời thuyết giảng về trí tuệ và phương
pháp là những gì tinh túy nhất trong những lời giáo huấn của Đức Phật. Đại sư
Long Thọ đã đưa ra những lời bình giảng hoàn toàn trung thực với những lời giáo
huấn ấy, theo đó tất cả những lời giảng của Phật phải được hiểu qua khía cạnh của
hai sự thực: quy ước và tối hậu. Vì thế chúng ta cần phải thấu triệt những lời
giáo huấn căn bản về bốn sự thực cao quý xuyên qua ánh sáng hiểu biết phát sinh
từ hai loại sự thực trên đây, cũng nên nói ngay là hai sự thực ấy không phải
hai phạm vi hoàn toàn độc lập với nhau.
Hai
sự thực “quy ước và tối hậu” được giải thích khác nhau tùy theo các học
phái triết học. Tôi rất khâm phục và có chiều hướng thiên về cách giải thích của
các nhà tư tưởng thuộc học phái Trung quán của Ấn Độ, theo đó sự thực quy ước đứng
ra chỉ định một thế giới tương quan với những nhận biết thông thường, chi phối
bởi quy luật về nguyên nhân và hậu quả. Vì thế, lĩnh vực của thế giới đa dạng lệ
thuộc vào các quy luật của hiện thực. Cấp bậc này của hiện thực gọi là cấp bậc
quy ước, bởi vì trong lĩnh vực đó sự cảm nhận của ta đối với thế giới này chỉ
là những nhận thức mang tính cách hoàn toàn quy ước, hay thông thường. Tuy
nhiên, nếu như tất cả đều là sản phẩm tạo ra do nhiều nguyên nhân và do sự hỗ
trợ của nhiều điều kiện, thì sự phát sinh của mọi vật và mọi biến cố đều phải lệ
thuộc vào thật nhiều yếu tố, và như thế gọi là hiện tượng tương liên. Sự kiện
này cho thấy không có một hiện tượng nào, kể cả chính con người của ta, có thể
hàm chứa một sự hiện thực độc lập hay tự tại. Sự thực tối hậu là sự thực dung để
chỉ định cấp bậc thâm sâu của sự hiểu biết , có thể hiểu sự thực tối hậu là sự
vắng bong hay không hề có sự hiện hữu nội tại của tất cả mọi sự vật. Người ta gọi
sự thực ấy là tối hậu, bởi vì đối với ta và cách nhận biết thông thường của ta,
hiện thực không hiển hiện: lý do là vì chúng ta luôn luôn có cảm giác là mọi sự
vật hiện hữu tự nơi chúng. Muốn đạt được sự thực tối hậu, cần phải tìm hiểu sâu
xa hơn.
Hai
sự thực trên đây thật ra là hai khía cạnh của cùng một thứ- tức hai tầm nhìn
khác nhau hướng vào cùng một thế giới. Nguyên lý về hai sự thực rất quan trọng
vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự hiểu biết của ta về mối tương quan giữa sự cảm
nhận chủ quan của ta và thế giới khách quan là gì? Những nhận biết của ta có bị
chi phối bởi sự cảm nhận về thế giới này hay không, và ở mức độ nào? Theo tôi,
lý do mà Phật giáo từ xưa đến nay từng nêu lên các câu hỏi trên đây để thảo luận
vì các câu giải đáp giữ một vai trò then chốt trong việc phát huy tâm thức.
Hai thân của một vị Phật
Chúng
ta vừa thấy trên đây hai cấp bậc khác nhau của hiện thực, hai cấp bậc ấy tương
quan với hai tầm quan trọng khác nhau trên con đường Đạo Pháp tức là phương
pháp và trí tuệ. Vì có sự khác biệt như thế nên kết quả cuối cùng- tức thể dạng
của Phật- cũng có hai sắc thái khác nhau: sắc thái thứ nhất là thân xác vật chất
của một vị Phật, sắc thái thứ hai là thân tâm linh, tức là thực thể của tâm thức
Giác ngộ.
Thân
xác vật chất chỉ định thể dạng của một sinh linh hoàn toàn giác ngộ, thân xác ấy
chỉ có thể hiện hữu khi tương liên với những sinh linh khác. Một sinh linh khi
hoàn toàn giác ngộ có thể hiển hiện dưới nhiều thể dạng khác nhau hoặc nhiều
hình tướng khác nhau trong mục đích giúp đỡ tất cả chúng sinh bằng mọi phương
tiện thích nghi và cần thiết. Thân tâm linh của một vị Phật chỉ có thể hiện hữu
khi liên đới với các vị Phật khác, vì thân ấy chỉ có thể nhận biết bởi các sinh
linh đã hoàn toàn giác ngộ. Thân tâm linh chỉ có thể hiển hiện và giúp đỡ những
chúng sinh thiếu giác ngộ bằng cách hiển hiện trở lại qua một thân xác vật chất.
Vì thế, thể dạng của một vị Phật là thể dạng tượng trưng cho kết quả thực hiện
hoàn hảo về lợi ích của vị ấy và của các chúng sinh khác.
Chúng
ta sẽ trở thành một vị Phật khi nào đã thực hiện được một cách toàn vẹn bản thể
thật sự của hiện thực và hoàn tất một cách hoàn hảo lợi ước nguyện đem đến lợi
ích cho kẻ khác. Cũng thế, một vị Phật phải chăng là sự hiển lộ toàn vẹn của
trí tuệ và từ bi.
CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI BỒ TÁT
*
Tập
sách Hướng dẫn cuộc sống của người Bồ tát do một vị đại sư người Ấn vào thế kỷ
thứ VIII là Tịch Thiên (Shantideva) trước tác là một tập luận đã từng là nguồn
cảm hứng cho hầu hết các văn bản nói về tình nhân ái, đó là cách đặt hạnh phúc
của kẻ khác lên trên hạnh phúc của chính mình. Tôi đã tiếp nhận bản chính văn
này bằng cách truyền khẩu từ một vị thầy đã quá cố, vị thầy này thật tuyệt vời,
ngài sống tại Kinnaur thuộc miền Bắc nước Ấn. Tôi đã cố gắng thực hành những lời
giáo huấn ấy và sau này mỗi khi có dịp, lại đem ra để giải thích cho người
khác. Hôm nay đây, tôi sẽ cố gắng trình bày với quý vị vài khía cạnh chính yếu
về cách luyện tập lòng từ bi, căn cứ vào nguyên bản của Tịch Thiên.
Nhận
biết kẻ thù đang ẩn nấp trong ta
Để có thể đặt sự tốt lành của kẻ
khác lên trên, trước hết ta cần phải biết những gì đã buộc chặt ta vào thái độ
ích kỷ. Trong chương thứ tư của bản chính văn mang tựa đề “Tri thức”, Tịch
Thiên giải thích rằng những bấn loạn tâm thần, chẳng hạn như sự giận dữ, bám
víu và ganh tị là những kẻ thù đích thực của ta.
Theo như ông trình bày trong hai tiết thơ dưới đây, thì những địch thủ đó không
có thân xác vật chất, không có tay có chân, và cũng không mang vũ khí. Chúng ngự
trị trong tâm thức và quấy rối nội tâm của ta. Chúng chiếm giữ nội tâm và biến
ta thành một kẻ nô lệ. Thói thường, ta không hề ý thức được những bấn loạn ấy
là kẻ thù, nên chẳng bao giờ ta nghĩ đến việc phải đối đầu với chúng hay thách
thức chúng. Vì thế, chúng không hề cảm thấy bị hăm dọa, vẫn an thiên ngự trị
trong tâm thức và hành hạ ta tùy thích.
Những
kẻ thù, chẳng hạn như hận thù và bám víu
Chúng
không có tay chân
Không
dũng cảm cũng chẳng khôn ngoan
Vậy
làm sao chúng có thể biến tôi thành một kẻ nô lệ?
Cho
đến khi nào chúng còn ngự trị tâm thức tôi
Và
hành hạ tôi tùy thích
Thì
tôi phải kiên nhẫn để chịu đựng chúng và không tức giận
Nhưng
chịu đựng như thế thật đáng chê trách và không thích nghi chút nào
(4:28-29)
Những
xúc cảm và những tư duy tiêu cực thường hay lừa phỉnh. Chúng đánh lừa ta. Thí dụ
khi ta cố tình tỏ ra như là một người bạn trung thành trong mục đích đánh lừa kẻ
khác, hoặc khi ta làm ra vẻ như ưa thích một thứ gì đó thật đẹp đẽ. Cũng thế, hận
thù và giận dữ có vẻ như che chở ta giống như những kẻ bảo vệ đáng tin cậy. Chẳng
hạn trong trường hợp có một người nào muốn làm hại ta, sự giận dữ sẽ bùng lên
như một kẻ bảo vệ đứng ra che chở và cổ vũ ta. Ngay cả trong trường hợp, tuy ta
yếu kém hơn kẻ địch về phương diện thể xác, nhưng sự tức giận vẫn tạo ra cho ta
cái cảm giác như là có đủ sức mạnh, một cảm giác sai lầm cả về quyền lực lẫn
sinh khí, và để rồi sau cùng ta trở thành một người thua cuộc. Tuy giận dữ và
những xúc cảm tàn phá vẫn thường phát lộ dưới nhiều thể dạng lừa phỉnh, nhưng
chẳng mấy khi ta nghĩ đến phải thực sự chống trả lại chúng. Trong khi đó, chúng
có đủ trăm phương nghìn kế để đánh lừa ta. Để có thể hoàn toàn hiểu được rằng
chúng có thể phản bội ta đến mức độ nào, ta phải biết giữ bình tĩnh tối thiểu
trong tâm thức: trước hết phải nhận ra bản chất độc hại của chúng.
Dù
cho tôi là một người tu hành và kể như phải mang ra ứng dụng những gì trong tập
sách Hướng dẫn cuộc sống của một người Bồ-tát, nhưng chuyện nổi cáu và bực bội
vẫn xảy ra với tôi; điều đó làm cho tôi phát ra những ngôn từ nặng nề với kẻ
khác. Rồi một chập sau đó, khi sự giận dữ hạ xuống, tôi lại cảm thấy bối rối,
nhưng những ngôn từ khó chịu đã chót thốt ra rồi và không thể nào thay đổi được.
Mặc dù ngôn từ đã biến mất và âm thanh của tiếng nói cũng đã im bặt, nhưng tác
động của chúng vẫn tồn tại. Nhưng dù sao tôi cũng cảm thấy xấu hổ và vô cùng bối
rối. Điều đó cho thấy rằng một phút giận dữ và bực bội sẽ đưa đến một tình thế
cực kỳ khổ sở rất có hại cho người giận dữ, đấy là chưa nói đến những tai hại gây
ra cho người hứng chịu những xúc cảm giận dữ của ta. Thực ra những thể dạng tâm
thần tiêu cực đó làm cho trí thông minh và lương tri của ta bị u tối, và gây ra
những đổ vỡ lớn lao.
Một
trong những phẩm tính tốt đẹp nhất của ta là trí thông minh, trí thông minh
giúp ta phân biệt được giữa tốt lành và độc hại, giữa lợi ích và tàn phá. Tư
duy tiêu cực và sự bám víu quá đáng sẽ hủy diệt phẩm tính đặc biệt đó của con
người: quả thật là điều đáng tiếc!
Khi
giận dữ và bám víu xâm chiếm tâm thức, con người trở nên giống như điên rồ; mặc
dù tôi vẫn tin rằng chẳng có ai muốn cố tình đánh mất lý trí của mình. Khi bị
khống chế bởi giận dữ và bám víu, ta sẽ phạm vào đủ mọi thứ hành vi tai hại-
thường mang đến những hậu quả tàn phá có tầm vóc lớn lao. Dưới sự chi phối của
những thể dạng tâm thần và những xúc cảm như thế, ta sẽ giống như một người mù.
Tuy nhiên, thay vì phải kháng cự, ta lại xem thường những tư duy và xúc cảm
tiêu cực đang đẩy ta đến tận bờ của hố sâu điên loạn. Hơn thế nữa, thói thường
ta lại còn nuôi nấng chúng, và điều đó chỉ làm gia tăng quá đáng sức tàn phá của
chúng mà thôi. Nếu biết suy tư theo cách trên đây, đến một lúc nào đó ta sẽ ý
thức được kẻ thù đích thực không phải ở bên ngoài.
Khi
tâm thức được luyện tập để tự chủ, thì dù cho ta đang bị bủa vây bởi những sức
mạnh thù hận, sự yên tĩnh trong tâm thức vẫn không bị ảnh hưởng. Ngược lại khi
tâm thức chưa đạt được phẩm tính ấy, sự an bình và tĩnh lặng của ta sẽ bị khuấy
động một cách dễ dàng bởi những thứ xúc cảm và tư duy tiêu cực. Tôi xin lập lại
rằng kẻ thù đang ngự trị ở bên trong ta, chúng không phải ở bên ngoài. Theo
thói thường, ta vẫn tin rằng kẻ thù phải là một con người, hay một tác nhân nào
đó ở bên ngoài, chúng làm nguy hại đến ta hay người thân của ta. Những loại kẻ
thù như thế lệ thuộc vào nhiều điều kiện nên thường biến đổi. Chẳng hạn, đôi
khi một người nào đó cư xử với ta như một kẻ thù, nhưng về sau lại trở thành
người bạn tốt nhất. Đó là chuyện có thể xảy ra mà thông thường ta vẫn thấy.
Trong khi đó, những kẻ thù bên trong, tức những tư duy và những xúc cảm tiêu cực,
lúc nào cũng vẫn là kẻ thù của ta. Đó là những kẻ thù của ta hôm nay, chúng
cũng từ là kẻ thù của ta hôm qua, và rồi ngày mai đây sẽ vẫn còn là kẻ thù của
ta, và cho đến khi nào chúng vẫn còn ngự trị trong tâm thức thì chúng vẫn còn
là kẻ thù của ta.
Kẻ
thù bên trong đó hết sức là nguy hiểm và nếu đem so sánh thì sức tàn phá của một
kẻ thù bên ngoài còn kém xa. Hơn nữa, trên phương diện vật chất, ta có thể tự
che chở trước một kẻ thù bên ngoài. Ngày xưa, dù tài nguyên vật chất và phương
tiện kỹ thuật còn yếu kém, con người vẫn đủ sức xây dựng thành quánh và lâu đài
phòng thủ với nhiều lớp tường thành để tự che chở. Ngày nay, các vũ khí tàn phá
cực mạnh đã biến các hệ thống phòng thủ ấy thành vô dụng. Vào một thời đại mà mỗi
quốc gia đều có thể trở thành một mục tiêu cho những thứ vũ khí hạt nhân của một
quốc gia khác nhau thì con người vẫn tiếp tục phát minh những hệ thống phòng thủ
tinh xảo hơn. Hệ thống chống hỏa tiễn do Hoa Kỳ thiết kế chứng minh cho thấy những
khởi xướng theo chiều hướng đó. Bên dưới sự khởi xuống ấy tiềm ẩm nột sự cả tin
là một ngày nào đó người ta sẽ sáng chế ra một hệ thống phòng thủ tối thượng.
Tôi chứa biết chắc rồi chúng ta có tìm ra một hệ thống phòng thủ đủ sức tự bảo
vệ chúng ta trước những sức mạnh tàn phá từ bên ngoài hay không. Nhưng khi nào
mà chúng ta chưa tấn công được những sức mạnh tàn phá bên trong là sự giận dữ
và hận thù, thì một sự hăm dọa tận diệt mang tính cách vật chất vẫn còn treo lơ
lửng trên đầu chúng ta. Thực ra, sức mạnh tàn phã của một kẻ thù bên ngoài phát
động tùy theo cường độ của sức mạnh bên trong. Kẻ thù bên trong trao đặt sức mạnh
tàn phá vào tay của kẻ thù bên ngoài. Tịch Thiên cảnh giác ta rằng khi nào những
kẻ thù bên trong vẫn còn tồn tại và không hề e sợ, thì khi đó ta vẫn còn gặp phải
những hiểm nguy lớn lao.
Tịch
Thiên còn nói thêm rằng dù cho cả thế giới này có chống lại ta và tìm cách làm
hại ta đi nữa, nếu tâm thức ta đã được khắc phục và tĩnh lặng, thì không có gì
có thể làm dao động được sự thư thái và tĩnh mặc đó. Trong khi chỉ cần một
thoáng bấn loạn tâm thần cũng đủ khuấy động sự an bình và thăng bằng trong nội
tâm ta.
Ngay
cả các vị thiên và bán thiên
Dù
họ có đứng lên như những kẻ thù để chống lại tôi,
Thì
họ cũng không thể dẫn tôi, cũng không thể đẩy tôi
Vào
vũng than hồng, trong tận cùng địa ngục.
Nhưng
kẻ thù hung hãn là sự bấn loạn bên trong
Chỉ
cần một thoáng, cũng có thể xô tôi vào ngọn lửa
Chạm
vào ngọn lửa ấy, dù là ngọn núi đại vương to lớn nhất
Cũng
chẳng để lại một chút tro tàn
(4:30-31)
Tịch
Thiên cũng nêu lên một khác biệt thật căn bản giữa những kẻ thù thông thường và
các bấn loạn tâm thần. Nếu ta tỏ ra thân thiện và hiểu biết đối với một kẻ thù
thông thường, ta có thể biến họ thành một người bạn, nhưng ta không thể nào
hành động như thế đối với bấn loạn. Hơn nữa, nếu ta càng cố gắng gần gũi để dỗ
dành những bấn loạn, chúng lại càng trở nên nguy hại hơn và đưa ta đến đổ vỡ.
Nếu
tôi tôn vinh và phục vụ kẻ khác một cách ân cần,
Họ
sẽ mang đến hạnh phúc và lợi ích cho tôi;
Nhưng
nếu tôi chỉ biết đặt tôi vào bấn loạn
Thì
rồi đây, bấn loạn sẽ đem đến cho tôi đớn đau và khổ sở mà thôi
(4:33)
Nếu
quý vị càng rơi vào sự chi phối của bấn loạn tâm thần và vô minh làm cơ sở cho
những bấn loạn đó thì quý vị càng có ít may mắn đạt được hạnh phúc đích thực và
lâu bền. Theo ý tôi đấy là một sự thực. Nếu như sự thực ấy mang đến cho quý vị
một mối lo nghĩ sâu xa nào đó, thì xin quý vị hãy hành động để tìm lấy sự giải
thoát- sự giải thoát chính là thể dạng của niết bàn. Đối với những người thụ giới
để trở thành một nhà sư hay một ni cô, chủ đích lớn nhất của họ là đạt đến niết
bàn và sự giải thoát đích thực. Đối với quý vị cũng thế, nếu quý vị dành tất cả
nỗ lực để tập Đạo pháp, đem ra ứng dụng các phương pháp luyện tập tinh thần,
quý vị cũng sẽ đạt được thể dạng giải thoát như thế. Nhưng biết đâu quý vị,
cũng như chính tôi, chúng ta không có thì giờ, có đúng thế chăng? Tôi biết lắm
chứ, một trong những yếu tố ngăn cản không cho phép tôi hoàn toàn xả thân cho lời
ước nguyện chính là sự lười biếng! Ngay cả trường hợp mà quý vị không thể hiến
dâng tất cả đời mình cho Đạo Pháp, thì quý vị cũng nên suy nghĩ thường xuyên
hơn về những lời giáo huấn trong Đạo Pháp, được đến đâu hay đến đấy và cố gắng
nhìn thấy tính cách phù du của những tình huống đối nghịch. Chúng giống như những
gợn sóng trên mặt nước, hiển hiện rồi lại biến đi một cách nhanh chóng.
Cuộc
sống của ta bị chi phối bởi những hành vi không tinh khiết mà ta đã phạm vào
trong quá khứ, cuộc sống ấy vướng đầy những khó khăn; chúng hiển hiện hay tan
biến đi trên dòng tiếp nối của những chu kỳ bất tận. Một khó khăn hiện đến, sau
đó lại biến đi, một khó khăn khác lại nổi lên. Chúng đến rồi lại đi, trong một
chuỗi dài tiếp nối không ngưng nghỉ. Tuy nhiên, dòng tri thức của mỗi cá nhân-
chẳng hạn như tri thức của Tenzin Gyatso- không hề có khởi thủy. Mặc dù đó là một
quá trình năng động, một làn sóng không ngừng chuyển động, nhưng bản thể căn bản
của tri thức không bao giờ thay đổi. Đấy là bản chất của sự hiện hữu vướng mắc
của chúng ta, và ý thức được sự thực đó giúp cho tôi quay trở về với hiện thực.
Cách nhìn thực tế ấy đã đem đến cho tôi tĩnh lặng và trong sáng. Đấy là phương
cách suy tư của một người tu hành tên là Tenzin Gyatso. Kinh nghiệm cho tôi biết
rằng tâm thức có thể luyện tập được, và tôi tin chắc rằng sự luyện tập ấy có thể
đem đến một sự biến cải biến bên trong thật sâu xa.
Mặc
dù kẻ thù bên trong mang tiềm năng tàn phá lớn lao và cùng khắp, nhưng khả năng
chống đỡ của chúng lại kém hơn so với một địch thủ bên ngoài, ít ra là trên một
khía cạnh nào đó. Trong tập Hướng dẫn đời sống của người Bồ-tát, Tịch Thiên giải
thích rằng sức mạnh vật chất và vũ khí rất cần thiết để chiến thắng một kẻ địch
thông thường. Có thể người ta phải bỏ ra hàng tỉ đô la cho việc trang bị khí giới
quân sự để vô hiệu hóa kẻ thù. Tuy nhiên để chống lại kẻ thù và những bấn loạn
bên trong, thì chỉ cần phát huy những yếu tố đưa đến trí tuệ, giúp ta nhìn thấy
được bản chất tối hậu của các hiện tượng, không cần đến một thứ vũ khí hay một
sức mạnh vật chất nào cả. Điều ấy thật đúng vô cùng.
Này
những xúc cảm và bấn loạn bên trong!
Các
người còn trốn chạy đi đâu?
Một
khi đã bị con mắt của trí tuệ đánh bại
Các
ngươi sẽ bị tống ra khỏi tâm thức ta
Các
người đang lẩn trốn ở xó nào đấy để tiếp tục ám hại ta
Nhưng
nếu cứ để tâm thức yếu đuối, thì tôi đâu có thể phát huy được một cố gắng nào
(4:46)
Trong
khi tôi thụ giáo để tiếp nhận sự chỉ dạy truyền khẩu về tập sách Hướng dẫn đời
sống của người Bồ-tát từ vị thầy quá cố là Khunu Rinpoche, tôi có nêu lên ý kiến
là theo như văn bản thì những bấn loạn tâm thần rất khiêm nhường và yếu đuối,
nhưng thật ra không đúng như vậy. Vị này liền đáp lại rằng muốn tiêu diệt
chúng, người ta không cần phải dung đến bom nguyên tử! Đấy là những gì Tịch
Thiên muốn nói. Quả thật không cần đến những thứ vũ khí quá tinh xảo để tiêu diệt
kẻ thù bên trong. Chỉ cần quyết tâm loại trừ chúng bằng trí tuệ, tức thực hiện
bài bản bản thể đích thực của tâm thức. Chỉ cần hiểu thật tường tận bản chất
tương đối của tư duy và xúc cảm tiêu cực, cũng như bản chất tối hậu của tất cả mọi hiện tượng.
Ngôn từ Phật giáo gọi đó là “cái nhìn đúng đắn xuyên thấu bản thể của Tánh
không”. Tịch Thiên còn nêu lên một lý do khác nữa cho thấy tính cách yếu kém của
kẻ thù bên trong. Khác với kẻ địch bên ngoài, kẻ thù bên trong không thể kéo bè
hợp sức với nhau để phản công trở lại, một khi đã bị tiêu trừ.
Vượt lên trên giận dữ và hận thù
Chúng
ta đã trình bày trên đây về bản chất lừa phỉnh và tàn phá của những bấn loạn
tâm thần. Hận thù và giận dữ là hai chướng ngại chính cho những ai muốn tu tập
về Bồ đề tâm- tức lòng ước vọng vị tha đạt đến Giác ngộ. Người Bồ-tát không bao
giờ được phép cảm thấy hận thù; họ phải chặn đứng hận thù trong bất cứ cảnh huống
nào. Vì lý do đó, tập luyện nhẫn nhục-hay là lòng bao dung- là điều thật then
chốt. Trong chương sáu mang tựa đề “Sự nhẫn nhục”, Tịch Thiên khởi đầu bằng
cách giải thích tất cả những nguy hại do hận thù và giận dữ gây ra; chúng tai hại
trong cấp thời và sẽ còn tai hại về sau, chúng sẽ thiêu hủy hết những gì xứng
đáng mà ta tích lũy được trong quá khứ. Giúp cho ta luyện tập nhẫn nhục và vượt
lên trên hai loại bấn loạn tâm thần là giận dữ và hận thù, Tịch Thiên khuyên ta
nên nhận định rõ ràng những yếu tố nào đã làm phát sinh ra những bấn loạn ấy.
Nguyên nhân chính là sự bất toại nguyện và sự bất bình. Thật vậy, khi ta bất
bình hay không toại nguyện, cái cảm giác bị thua thiệt trở nên rất mạnh làm
bùng lên hận thù và giận dữ.
Mỗi
khi cảm thấy bị hăm dọa, hoặc lúc bất hạnh xảy ra cho ta hay cho người thân, hoặc
là trong trường hợp có kẻ khác cản trở không cho ta thực hiện ước vọng của ta,
thì lúc đó ta phải cảnh giác ngay đừng để
cho bất mãn xảy ra. Bất toại nguyện và bất mãn cảm nhận được trong những lúc đó
là nhiên liệu mồi thêm cho ngọn lửa hận thù và giận dữ. Vậy, khi chúng vừa xuất
hiện, thật hết sức quan trọng đừng để sức mạnh của chúng khuấy động sự an bình
trong tâm thức ta.
Tịch
Thiên khuyên ta hãy dùng bất cứ phương tiện nào có thể được để chống trả và dập
tắt ngay những nhen nhúm của hận thù, vì vai trò duy nhất của hận thù là gây ra
đổ vỡ cho ta và kẻ khác. Thật là một lời khuyên hữu lý.
Tự
nuôi dưỡng bằng bất toại nguyện
Không
chiếm giữ được những gì tôi ham muốn
Và
bắt buộc phải thực thi những gì tôi không mong muốn
Hận
thù sẽ gia tăng và tàn phá tôi
(6:7)
Giữ
cho tâm thức an bình và hạnh phúc trước nghịch cảnh sẽ giúp ngăn chặn được hận
thù. Nhưng phải thực hiện thế nào? Tịch Thiên bảo rằng khi gặp khó khăn và cảnh
huống đau buồn, bất mãn đâu phải là một giải pháp. Chẳng những là một việc vô
ích, mà còn làm nặng nề thêm những lo lắng đang dằn vặt ta, làm cho ta bất an
và bực dọc. Hạnh phúc và sự trong sáng sẽ bỏ rơi ta. Lo âu và bất mãn dày vò,
giấc ngủ bị rối loạn, làm mất ăn và nguy hại đến sức khỏe. Thật ra, nếu như khổ
đau mà ta phải gánh chịu do một kẻ thù tạo ra, thì sự bấn loạn của ta lại càng
làm cho kẻ thù thích thú hơn. Vì thế, đau buồn và bất mãn chẳng có ích lợi gì
khi khó khăn đã hiện đến, và tình thế sẽ còn biến chuyển tệ hại hơn khi ta tìm
cách trả thù kẻ đã tạo ra những khó khăn đó cho ta.
Thông
thường, người ta có thể phân chia hận thù hay giận dữ phát xuất từ sự thiệt
thòi và bất mãn thành hai loại khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất, khi có một
kẻ nào đó làm ta khổ đau, ta cảm thấy đau buồn và biểu lộ sự tức giận. Trong cảnh
huống thứ hai, mặc dù không có ai trực tiếp gây ra đau buồn cho ta, nhưng sự bất
mãn và tức giận vẫn có thể nổi lên khi nhìn thấy sự thành công và giàu sang của
kẻ thù.
Đồng
thời, sự đau đớn do một kẻ khác tạo ra cũng có thể phân biệt thành hai thứ khác
nhau: sự đau đớn thể xác do họ gây ra và ta cảm nhận một cách trực tiếp; và những
thiệt hại khác nhắm vào tài sản, uy tín hay bạn hữu của ta, vvv…Mặc dù không
gây tác động trực tiếp cho ta, nhưng đó vẫn là một hình thức tác hại.
Hãy
tưởng tượng một trường hợp như sau, nếu một người nào đó đánh ta một gậy: ta đau
và nổi giận. Sự nổi giận của ta không hướng vào chiếc gậy, đúng không? Vậy đối
tượng giận dữ của ta là gì? Nếu sự giận dữ của ta trước yếu tố đó không phải là
con người đã đánh ta mà chính là những xúc cảm tiêu cực trong con người của kẻ
đó, vì chính những xúc cảm tiêu cực đã đứng ra xúi dục kẻ đó đánh ta. Tuy
nhiên, thông thường ta lại không phân tích như thế. Ta cứ đổ thừa cho con người-
tức tác nhân trung gian giữa những xúc cảm tiêu cực và hành vi- phải hoàn toàn
gánh lấy trách nhiệm. Ta hận thù con người ấy, nhưng không hận thù chiếc gậy
cũng như những bấn loạn tâm thần.
Cũng
nên hiểu rằng, thân xác ta tiếp nhận sự đau đớn khi bị đánh một gậy, nhưng đồng
thời trong một mức độ nào đó thân xác cũng góp phần để cảm nhận sự đau đớn ấy.
Vì nguyên nhân sẵn có của thân xác, và từ nơi bản chất của thân xác, đôi khi ta
cũng cảm thấy đau đớn trên thân thể, nhưng tuyệt nhiên không có một nguyên nhân
nào từ bên ngoài tạo ra những đau đớn ấy. Tuy thế cũng phải hiểu rằng những đau
đớn mà ta cảm nhận là kết quả của một sự tương tác giữa thân xác và những yếu tố
bên ngoài.
Nếu
như con người đã làm cho ta đau đớn và bản chất sâu kín của họ là như thế, tức
là chỉ để gây tác hại cho kẻ khác, thì cũng không nên nổi giận làm gì, vì ta
cũng như họ, cả hai chẳng làm thay đổi được gì cả. Nếu như kẻ đó nguy hại một
cách tự nhiên, thì họ cũng chẳng có thể nào hành động khác hơn được.
Ngay
cả trường hợp mà bản chất của những kẻ ấu trĩ
Chỉ
để tạo ra đau khổ cho kẻ khác
Thì
thù oán họ cũng không phải là việc thích đáng
Giống
như trách cứ ngọn lửa tại sao lại làm phỏng da
(6:30)
Ngược
lại, nếu như bản chất sâu kín của kẻ đó không phải để tác hại kẻ khác, và bản
tính nguy hại ấy chỉ mang tính cách nhất thời và phụ thuộc đối với cảnh huống
đang xảy ra, thì nổi giận với kẻ đó cũng là một việc vô vị, bởi vì vấn đề chỉ
liên hệ đến một số sự kiện nhất thời. Kẻ đó có thể bị mất trầm tĩnh và không chủ
động được hành vi của mình, nhưng thật ra trong tận cùng của lòng hắn thì hắn
không có ý định làm hại ta. Ta cũng có thể sử dụng cách suy tư như vừa kể để giải
quyết khó khăn.
Khi
quý vị nổi giận với những kẻ cản trở không cho quý vị đạt được vinh dự, chức tước
tài vật hay bất cứ gì khác, và như thế đã trực tiếp làm cho quý vị khổ đau, thì
quý vị cũng có thể tự hỏi “Tại sao chuyện như vậy lại làm cho ta bực tức và nổi
nóng?”. Hãy phân tích bản chất của những gì mà người ta cản trở không cho quý vị
thực hiện- danh tiếng lẫy lừng, vvv… và hãy phân tích cẩn thận lợi ích của những
thứ ấy. Chúng có thật sự quan trọng hay không? Quý vị sẽ thấy chẳng có gì là
quan trọng cả. Vậy nổi xung với kẻ cản trở ta để làm gì? Cách suy tư như thế
cũng rất hữu hiệu.
Nếu
ta buồn khổ khi nhìn thấy sự thành công và giàu sang của kẻ thù, thì cũng nên
nhớ lại rằng mối hận thù, giận dữ hay bất mãn của ta sẽ chẳng gây ra thiệt hại
gì cho sự giàu có hay thành công của kẻ thù. Vậy, nếu suy luận theo chiều hướng
đó, thì sự tức giận của ta thật hoàn toàn vô ích.
Ngoài
việc trau dồi đức tính nhẫn nhục, người tu tập cần noi theo tập sách của Tịch
Thiên để phát huy Bồ-đề-tâm- tức là ước mong đạt được Giác ngộ vì sự tốt lành
cho tất cả chúng sinh- cũng như khơi động lòng từ bi và luyện tập tâm thức. Nếu
như sự tập luyện chưa đủ sức giúp ta chịu đựng trước sự thành công của kẻ thù,
thì phải tự nghĩ rằng một thái độ như thế không xứng đáng chút nào đối với một
người tu tập từ bi. Nếu như thể dạng tâm thức đó vẫn cứ dai dẳng, thì từ bi và
luyện tập tâm thức chỉ đơn giản là những ngôn từ hoàn toàn vô nghĩa. Đối với những
người biết tự lực để thành công, thì người Bồ-tát chân chính phải cảm thấy sung
sướng nhiều hơn khi đem so sánh với trường hợp của những người khác phái cần đến
sự giúp đỡ của mình. Do đó thay vì cảm thấy buồn khổ và tràn ngập hận thù, tốt
hơn là nên hân hoan trước sự thành công của kẻ khác.
Nếu
muốn làm gia tăng thêm xúc cảm tốt đẹp ấy thì khi nào có ai gây ra khổ đau cho
ta, ta phải cảm thấy biết ơn đối với kẻ đó. Những trường hợp như vậy quả thật
là những dịp may để thử thách trình độ tu tập của ta về sự nhẫn nhục. Những dịp
may hiếm hoi như thế thật quý giá, chẳng những giúp ta luyện tập sự kiên nhẫn
mà còn giúp ta hướng về những lý tưởng khác của người Bồ-tát. Trong những cảnh
huống vừa kể, ta mới có dịp may tích lũy thêm những điều xứng đáng làm phát
sinh những điều tốt lành về sau. Ngược lại, khi một kẻ thù đáng thương bị giận
dữ và hận thù thúc đẩy phạm vào những việc không tốt, thì sớm hay muộn cũng sẽ
phải đương đầu với hậu quả do những hành vi tiêu cực đưa đến. Điều ấy cũng gần
giống như là trường hợp một người đao phủ tự hy sinh thay cho một phạm nhân. Ta chỉ có thể thực hiện được
những xứng đáng do sự luyện tập kiên nhẫn đem đến khi nào kẻ thù cống hiến cho
ta một dịp may: vì vậy thật hết sức hợp lý, phải hồi hướng sự xứng đáng đó cho
kẻ thù. Tập sách Hướng dẫn đời sống của người Bồ-tát, đề cập đến lòng tốt của kẻ
thù chính là trong ý nghĩa vừa được trình bày trên đây.
Ngay
cả trong trường hợp ta chấp nhận kẻ thù chứng tỏ một sự tốt bụng nào đó, nhưng
mặt khác ta vẫn xem đấy không phải là một hành vi chủ tâm vì thế ta cũng chẳng
cần phải biết ơn họ làm gì. Nếu như muốn kính trọng hay yêu quý một vật gì đó
thì cần phải có một ý đồ hoàn toàn ý thức hướng về đối tượng, cách suy luận này
có thể đem ra ứng dụng nhiều lĩnh vực khác. Thí dụ, sự thực về sự chấm dứt khổ
đau và sự thực về con đường đưa đến chấm dứt khổ đau – tức sự thực thứ ba và thứ
tư trong bốn sự thực cao quý- tự nơi chúng, chúng không hề mong muốn một cách ý
thức được trở nên hữu ích. Tuy thế, chúng ta đây là những Phật tử, chúng ta vẫn
kính trọng và tôn vinh hai sự thực ấy. Tại sao lại như thế? Chẳng qua tại vì ta
đã rút tỉa được rất nhiều lợi ích. Hai sự thực vừa đề cập cũng thế, cũng rất lợi
ích, nhưng không hề mang chủ đích môt cách ý thức về sự lợi ích ấy, chính vì thế
mà ta phải kính trọng và tôn vinh. Ta phải đủ sức áp dụng nguyên tắc thật hợp
lý ấy đối với một kẻ thù.
Ta
vẫn có thể lập luận ngược lại rằng giữa một kẻ thù và hai sự thực, chấm dứt khổ
đau và con đường đưa đưa đến chấm dứt khổ đau có một sự khác biệt rất lớn. Kẻ
thù khác với hai sự thực vì kẻ thù làm hại ta một cách thật ý thức, hai sự thực
thì không. Nhưng sự khác biệt đó không thể biện minh cho việc thiếu kính trọng
đối với một kẻ thù. Đúng hơn, đấy còn là một lý do thêm nữa để tôn kính và chứng
tỏ lòng biết ơn của ta đối với kẻ thù, bởi vì chủ đích đặc biết của kẻ đã biến
họ họ thành độc nhất vô nhị. Nếu chỉ vì một hành vi làm ta đau đớn cũng đủ cho
ta biến một kẻ nào đó trở thành kẻ thù, thì ta cũng có thể xem một vị lương y
là kẻ thù, vì vị ấy đã làm ta đau đớn trong khi chữa chạy cho ta. Một người tu
tập đích thực về lòng từ bi và Bồ đề tâm nên tự cảm thấy bổn phận phải luyện tập
sự nhẫn nhục. Và nếu muốn luyện tập để phát huy nhẫn nhục một cách thành thực
phải cần có một kẻ nào đó gây ra tác hại cho ta một cách ý thức. Vì thế kẻ thù
là đồng minh của ta trên thực tế. Họ đứng
ra thử thách sức mạnh nội tâm của ta, một việc mà cả thầy ta cũng không làm được.
Cả Đức Phật cũng không có khả năng làm cho ta đau đớn. Như vậy thì kẻ thù là một
con người đã tạo cho ta một dịp may bằng vàng. Kết luận trên đây thật tuyệt vời,
quý vị không đồng ý hay sao? Khi đã biết sử dụng tất cả các cách phân tích và
luận cứ trên đây, ta sẽ phát huy được sự kính trọng vượt bậc đối với kẻ thù của
ta. Đấy là thông điệp chủ yếu trong chương sáu này.
Khơi
động được sự kính trọng thành thực đối với kẻ thù, thì việc loại bỏ những chướng
ngại chính yếu cản trở sự phát huy lòng nhân ái vô biên của ta sẽ trở nên dễ
dàng hơn. Tịch Thiên cho biết không phải chỉ có chư Phật mới giúp cho ta đạt được
Giác ngộ, mà cả những người thông thường nữa. Thể dạng Giác ngộ chỉ có thể đạt
được khi dựa đồng loạt vào lòng nhân từ của chư Phật và cả của chúng sinh có
giác cảm nữa.
Tịch
Thiên xác nhận rằng những ai đã tự nhận là đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
và biết noi theo lý tưởng của người Bồ tát thì không được cảm thấy oán hận đối
với kẻ thù, vì chư Phật cũng như chư Bồ tát luôn luôn tỏ lộ tình thương đồng đều
đối với tất cả mọi sinh linh. Nếu oán hận những kẻ mà chư Phật và chư Bồ tát
quý trọng với tất cả tâm hồn mình, thì phải chăng ta đã chống lại các vị giác
ngộ và trở thành đối thủ của họ.
Thông
thường, khi ta càng tỏ ra kính nể và xem trọng kẻ khác, thì ta lại càng quý mến
họ hơn nữa. Khi biết cân nhắc không làm phật lòng họ, ta sẽ tránh được những
hành vi mà họ không thích. Ta nên luôn luôn xem trọng ý kiến và quan niệm của họ.
Nếu ta noi theo gương của người Bồ-tát và biết giữ thái độ như thế đối với những
người bạn bình thường, thì ít nhất ta cũng phải giữ được sự tôn kính đối với
chư Phật và chư Bồ-tát bằng cách tránh không oán hận kẻ thù của mình.
Tịch
Thiên kết luận chương này bằng cách nêu lên những lợi ích khi đem áp dụng sự tu
tập về nhẫn nhục. Tóm lại, bằng cách tập luyện nhẫn nhục, không những ta có thể
đạt được hiểu biết toàn năng trong tương lai, mà trong hiện tại ta cũng có thể
nhận thấy ngay kết quả: ta sẽ cảm thấy an bình trong tâm thức và sống trong hân
hoan.
Luyện
tập nhẫn nhục là nhắm vào chủ đích không chế hận thù và giận dữ, sự luyện tập
đó đòi hỏi sự kiên trì đi kèm với nhiệt tâm.
Ta phải tập tìm thấy hân hoan khi bắt buộc phải cố gắng. Tịch Thiên nói
rằng ta có thể xông vào một cuộc chiến để tìm cách gây cho địch thủ thiệt hại tối
đa trong mục đích đem lại chiến thắng, nhưng đồng thời cũng phải bảo tồn được sức
mạnh của mình. Cũng thế, chúng ta luyện tập về kiên trì nhưng vẫn giữ được lòng
nhiệt tình, đạt được thành công tối đa là hệ trọng và không được để cho các
phép tu tập khác bị suy yếu.
Tôi và kẻ khác: đảo ngược vai trò với
nhau
Trong
tập Hướng dẫn đời sống của người Bồ-tát, chương nói về thiền định trình bày
cách thức trau dồi lòng từ bi và Bồ đề tâm theo một phương pháp gọi là “ Giữ
thái độ bình đẳng và trao đổi giữa ta và kẻ khác”. Phương pháp này chỉ dẫn cách
phát huy thái độ dựa trên một nguyên tắc như sau : Tôi ước mong được hạnh phúc
và tránh khỏi khổ đau, tất cả chúng sinh cũng đều muốn được như thế, con số chúng
sinh đông vô tận giống như không gian: họ cũng muốn được hạnh phúc và mong
tránh khỏi khổ đau”. Chúng sinh và ta, tất cả đều hành động vì lợi ích của
riêng mình để cầu mong tìm thấy một niềm hạnh phúc cá nhân và tự che chở trước
khổ đâu, vì thế chúng ta cũng có bổn phận phải giúp kẻ khác đạt được hạnh phúc
và tránh khỏi khổ đau.
Dù
rằng thân xác ta được kết hợp bằng vô số thành phần- đầu, tứ chi, vvv… nhưng ta
không hề phân biệt giữa những thành phần ấy mỗi khi cần phải bảo vệ chúng, bởi vì
tất cả đều hoàn toàn thuộc vào một thân xác duy nhất. Cũng thế, tất cả chúng sinh đều ước vọng hạnh
phúc và tìm cách lẩn tránh khổ đau: đó là một xu hướng tự nhiên chứng tỏ chúng
ta đều ngang hàng với nhau. Vì thế nếu phân biệt ta và kẻ khác trước mục đích
mưu cầu hạnh phúc và loại bỏ khổ đau thì quả thật không công bằng một chút nào.
Ta
phải suy nghĩ thật chín chắn về điều này và phải cố gắng loại bỏ ý nghĩ phân biệt
và kỳ thị giữa ta và kẻ khác. Sự quyết tâm đạt được hạnh phúc và chiến thắng khổ
đau của ta và của kẻ khác không có gì khác nhau, cái quyền tự nhiên được hạnh
phúc cũng thế, cũng không phải chỉ dành riêng cho ta. Nếu chúng ta có quyền được
hưởng hạnh phúc và sống không khổ đau, thì tất cả các sinh linh đang sống cũng
có cái quyền tự nhiên đó. Vậy thì đâu là sự khác biệt? Khi ta nói đến sự an vui
của chính ta, thì điều đó chỉ liên quan đến một cá nhân duy nhất, trong khi sự
an lành của tất cả kẻ khác bao gồm vô số chúng sinh. Theo cách nhìn đó, ta phải
hiểu rằng sự an lành của tất cả kẻ khác vượt xa hơn sự an lành của riêng ta.
Nếu
sự an vui của ta và của kẻ khác hoàn toàn khác biệt nhau và không lệ thuộc lẫn
nhau thì khi đó ta có đủ quyền để phó mặc kẻ khác. Nhưng thật ra đâu phải thế.
Ta luôn luôn tương tác với kẻ khác và lệ thuộc vào kẻ khác, dù cho ta đã đạt đến
một cấp bậc tu tập nào cũng thé: trước khi Giác ngộ, đang trên đường đưa đến
Giác ngộ, hay kể cả trường hợp đã Giác ngộ rồi. Cách suy tư như thế sẽ giúp ta
hiểu một cách hết sức tự nhiên rằng hành động hướng về kẻ khác là một điều thật
hệ trọng.
Cũng
cần phải phân tích xem sự ích kỷ và thái độ quá khích khi chỉ biết nghĩ đến
chính mình có thể đem đến hạnh phúc và sự toại nguyện cho ta hay không. Nếu được,
thì ta sẽ có đủ lý do đểm bám vào con đường đó và xu hướng đó. Nhưng hoàn toàn không
đúng như vậy. Bản chất của sự hiện hữu của ta là phải lệ thuộc vào sự hợp tác
và tình thương yêu của kẻ khác để sống còn. Ta hãy tự quan sát trường hợp của
riêng ta, nếu càng hy sinh cho kẻ khác, ta lại càng gặt hái được nhiều điều tốt
lành cho riêng ta. Ngược lại, nếu ta càng quyết tâm giữ vững lập trường ích kỷ
và tập trung tất cả cho riêng ta, ta sẽ càng cảm thấy cô đơn và bất hạnh. Ta
cũng tự nhận thấy được điều đó.
Vì
thế, nếu ta thật sự muốn nhắm vào lợi ích và an vui cá nhân, thì tốt hơn là nên
quan tâm đến kẻ khác bằng cách nhìn thấy hạnh phúc của họ to lớn hơn hạnh phúc
của chính mình. Thật hết sức rõ ràng là càng suy tư về những luận cứ vừa kể, ta
lại càng cảm thấy phải luôn luôn tăng cường khả năng yêu thương kẻ khác.
Hơn
nữa, ta có thể sử dụng phương pháp thiền định về các thể dạng khác nhau của trí
tuệ để bổ túc thêm cho từ bi và Bồ đề tâm. Thí dụ, ta có thể suy tư về bản thể
của Phật, tức tiềm năng đạt đến Giác ngộ hàm chứa trong ta và trong mỗi chúng
sinh. Ta cũng có thể phân tích bản chất tối hậu của tất cả mọi hiện tượng và
Tánh không của những hiện tượng ấy bằng những lập luận dựa trên sự hữu lý, với
mục đích giúp ta hiểu được thực thể của tất cả mọi sự vật một cách không sai lầm.
Ta cũng có thể suy tư để nhìn thấy sự chấm dứt khổ đau có thể thực hiện được, bởi
vì nguyên nhân chính của nó là vô minh, và vô minh từ bản chất chỉ có tính cách
kèm thêm; nó không phải là một thứ gì tự tại thuộc vào bản thể trong sáng tự
nhiên của tâm thức, và cũng chính nhờ đó mà ta có thể loại bỏ được vô minh. Sau
một thời gian lâu dài, khi đã biết suy tư và thiền định về nhiều khía cạnh khác
nhau giúp cho trí tuệ hiển lộ, quý vị sẽ nhận thấy những biến cải lớn lao trong
tâm thức quý vị.
LUYỆN TẬP TÂM THỨC BẰNG TÁM TIẾT
THƠ
*
Trong
tất cả các lời giáo huấn của Đức Phật, chúng ta đều thấy nêu lên các phương
pháp tập luyện và biến cải tâm thức. Tuy nhiên theo dòng thời gian, đã phát
sinh trên đất Tây tạng một truyền thống tu tập với nhiều loại kinh sách mà người
ta gọi chung là Lodjong, có nghĩa là “luyện tập tâm thức”. Gọi như thế vì cách
tu tập ấy nhằm vào biến cải triệt để tư duy của ta, giúp ta sống với từ bi.
Truyền thống Lodjong chú trọng đặc biệt vào việc luyện tập giúp cho ta không cảm
nhận cái ngã như một thứ gì đó có thực và vượt lên trên thái độ chỉ biết có
riêng mình, một thái độ xoay quanh sự bám víu vào một cái tôi. Thật thế, sự
quan tâm về cái tôi ngăn cản không cho ta phát lộ lòng thiện cảm chân thành đến
kẻ khác và đồng thời thu hẹp tầm nhìn của ta trong khuôn khổ những quyền lợi
riêng tư. Dựa vào sự tập luyện tâm thức, ta dồn tất cả nỗ lực để biến cải những
quan niệm thông thường và ích kỷ trong cuộc sống thành những tầm nhìn nhân ái
hơn, biết nhìn hạnh phúc của kẻ khác ít ra cũng quan trọng như hạnh phúc của
riêng mình, hoặc lý tưởng hơn thì biết đặt hạnh phúc kẻ khác lên trên hạnh phúc
của chính mình.
Một
trong những kinh sách chính yếu dùng để biến cải tâm thức là quyển Luyện tập
tâm thức bằng tám tiết thơ, do một vị thầy thuộc thế kỷ XII là Langri Tangpa
biên soạn. Ông tóm lược phần giáo huấn căn bản liên quan đến trí tuệ và từ bi,
và sau đó trình bày các phương pháp hóa giải giúp người tu tập vượt lên trên
hai chướng ngại quan trọng. Chướng ngại đầu tiên là sự quan tâm đến cái tôi, đối
với chướng ngại này người ta có thể chữa trị bằng cách vun trồng lòng nhân ái,
từ bi và Bồ đề tâm. Chướng ngại thứ hai là sự kiện bám vào một cái tôi hiện hữu
một cách thường trực và bền vững: liều thuốc hóa giải của nó là trí tuệ. Bảy tiết
đầu trong quyển Luyện tập tâm thức bằng tám tiết thơ giải thích các cách tu tập
liên quan đến phương pháp, trong khi tiết thứ tám trình bày cách tu tập liên
quan đến trí tuệ. Người ta cũng bảo rằng tám tiết thơ đó trình bày phần cốt tủy
trong những lời giáo huấn của Đức Phật dưới một hình thức thật minh bạch.
Để
đạt được mục đích tối thượng
Tôi
xem chúng sinh là những gì quý giá hơn tất cả
Như
một viên ngọc báu giúp thực hiện được mọi ước vọng
Tôi
cầu xin được mãi mãi nhận thấy giá trị trong viên ngọc ấy
Tiết
thơ gồm bốn câu trên đây khuyến khích ta hãy yêu mến tất cả chúng sinh, và đặc biệt
thúc đẩy ta phát huy thái độ xem tất cả chúng sinh là những gì thật quý giá,
hàm chứa những giá trị lớn lao mà thông thường ta đặt vào những viên ngọc quý.
Câu
thơ ấy chỉ định một cách minh bạch về một chủ thể “cái tôi”- “Tôi xin được mãi
mãi nhìn thấy giá trị của chúng sinh”-
vì thế cũng nên giải thích về khái niệm của “cái tôi” trong Phật giáo.
Thông
thường, không có ai chống lại sự kiện cho rằng những con người- quý vị, tôi đây
và kẻ khác- đều hiện hữu. Thí dụ, ta không nghi ngờ một chút nào cả về một con
người đang gánh chịu khổ đau. Ta vẫn thường phát biểu “ Tôi nhìn thấy người nay
hay nhìn thấy người kia” hoặc là “tôi nghe thấy người này hay người kia đang
nói chuyện” và khi ta phát biểu, nhất thiết ta dùng một đại từ chỉ ngôi thứ nhất.
Vì vậy, không thể có vấn đề phủ nhận sự hiện hữu của “cái tôi” quy ước đã trở
thành kinh nghiệm thường nhật trong đời sống của ta.
Nhưng
sẽ có nhiều câu hỏi được nêu lên khi ta cố gắng tìm hiểu kỹ lưỡng hơn “cái tôi”
hay “cái ngã” là gì. Sự tìm hiểu đó có thể đưa ta vượt ra ngoài khuôn khổ của
những kinh nghiệm hàng ngày, thí dụ như lôi ta trở lại tuổi trẻ của ta chẳng hạn.
Khi ta nhớ lại một biến cố trong quá khứ, ta có chiều hướng tự nhận diện ta với
thân xác và cảm nhận về cái tôi mà ta đã có vào thời đó. Khi ta còn trẻ ta có một
“cái tôi”. Khi già nua, ta có một “cái tôi khác”. Lại có một “cái tôi” khác nữa bao gồm chung cho cả hai thời kỳ đó. Thật sự,
một cá nhân có thể nhớ lại một số kinh nghiệm của tuổi trẻ, của tuổi già, và cả
những kinh nghiệm khác. Ta tự nhận diện dưới nhiều thể dạng của thân xác và tri
thức mà ta đã có, nói một cách khác là tự nhận diện qua tri thức về “cái tôi”.
Nhiều
triết gia, nhất là các tư tưởng gia về tôn giáo, đã ra sức tìm hiểu về bản thể
của một cá nhân, tức về “cái tôi” mang tính cách tiếp nối liên tục qua thời
gian. Truyền thống tôn giáo Ấn Độ quan tâm rất nhiều về vấn đề này. Các học
phái ngoài Phật giáo gọi đó là atman mà người ta thường dịch là “cái ngã” hay
“linh hồn”. Trong các tôn giáo khác, chẳng hạn như Thiên chúa giáo và Do Thái
giáo, thì đấy là linh hồn của một cá nhân.
Trong
truyền thống Ấn Độ, atman chỉ định một tác nhân độc lập với một cá thể bằng thịt
và xương. Chẳng hạn như Ấn giáo tin vào một hình thức tái sinh nào đó, và khái
niệm ấy đã từng gây nên nhiều tranh biện. Tôi tìm thấy nhiều nguồn tài liệu nói
đến một số hình thức tu tập thần bí mà phần tri thức- tức linh hồn- nhập vào
thân xác của một người khác đang trong lúc hấp hối. Nếu như linh hồn có thể từ
bên ngoài nhập vào một thân xác khác, thì đấy có nghĩa là có một tác nhân hiện
hữu độc lập với những thành phần quan sát được của một cá thể. Nói một cách tổng
quát, tất cả các học phái Ấn độ ngoài Phật giáo, đều đi đến một kết luận là
“cái ngã” xác định một tác nhân độc lập với thân xác và tâm thức như vừa trình
bày trên đây. Nhưng phần đông đều cho rằng
khi đã phân tích đến cùng, người ta có thể đồng hóa cái ngã với phần tri thức của
một cá thể con người. Sự phân tích cho thấy thân xác là một loại biến cố mang
tính cách ngẫu biến, và tri thức của một cá thể không trường tồn trên dòng thời
gian.
Tất
nhiên, cũng có các tư tưởng gia Phật giáo khác phủ nhận khuynh hướng đồng hóa
cái ngã với tri thức, trong mục đích chống lại ý định muốn dựng lên một tác
nhân trường tồn và hiện hữu một cách bất tận. Theo họ, những người chủ trương lối
lý luận trên đây đã chịu một ảnh hưởng tự tại nơi cái ngã của họ là tìm cách
bám vào một thứ gì đó. Dù sao, sự phân tích bản chất của cái ngã theo lối đó
không đưa đến đâu cả, vì sự nghiên cứu trong lĩnh vực đang bàn thảo mang tính
cách siêu hình hơn là khoa học. Vì thế, sự tìm kiếm siêu hình vượt khỏi lĩnh vực
của ngôn từ thông thường và kinh nghiệm hằng ngày. Chỉ nên hình dung “cái ngã”,
“con người” và “tác nhân” trong lĩnh vực kinh nghiệm bản thân do chính ta cảm
nhận về con người của ta. Không nên vượt xa hơn lĩnh vực hiểu biết quy ước về
cái ngã và về con người. Ta chỉ phân tích sự hiện hữu của ta liên quan đên sự
hiện hữu vật chất và tinh thần để nhận biết rằng “cái ngã” và “con người” chỉ
là những danh xưng hoàn toàn lệ thuộc vào thân xác và tâm thức.
Trong
tập Hướng dẫn vào con đường Trung đạo, Nguyệt Xứng nêu lên thí dụ về một chiếc
xe. Khi phân tích khái niệm về một “chiếc xe”, ta không thể nào tìm thấy chiếc
xe hàm chứa một hiện thực siêu hình hay một thực thế độc lập với các thành phần
của chiếc xe ấy. Nhưng không phải vì thế mà chiếc xe không hiện hữu. Ngay cả việc
áp dụng cách phân tích như thế đối với “cái ngã”, người ta cũng sẽ không tìm thấy
bất cứ một cái ngã nào mang tính cách độc lập với thân xác và tâm thức để tạo dựng
ra sự hiện hữu của một cá thể.
Cái
ngã chỉ là một sản phẩm của hiện tương tương liên, cũng giống như trường hợp cảu
mọi sinh linh khác. Các sinh linh có giác cảm lệ thuộc vào những cấu hợp vật chất
và tinh thần, nếu dùng ngôn từ của nhà Phật thì những cấu hợp ấy gọi là uẩn
(đây là ngũ uẩn- skandha).
Ở
bất cứ nơi nào và làm bạn với bất cứ ai
Tôi
cầu xin và tự nhận thua kém hơn tất cả mọi người
Và
trong tận cùng của con tim,
Tôi
ước mong được nhìn thấy mỗi chúng sinh đều vượt hẳn hơn tôi
Bốn
câu tứ tuyệt trong tiết thơ thứ nhất nêu lên trong phần trình bày trước đây
mang chủ đích khuyên ta hãy xem tất cả chúng sinh là quý báu. Tiết thứ hai
trích dẫn trên đây nhấn mạnh đến giá trị to lớn của tất cả chúng sinh và những
xúc cảm thương yêu phát lộ khi hướng vào chúng sinh, tình yêu thương đó không
phải là sự thương hại, tức ý nghĩ cho rằng chúng sinh thấp kém hơn mình. Ngược
lại, yêu thương và tôn trọng giá trị của chúng sinh phải được xây dựng trên sự
kính trọng và công nhận tính cách ưu việt của chúng sinh.
Cần
phải hiểu câu thứ hai trong bốn câu tứ tuyệt “Tôi cầu xin và tự nhận thua kém
hơn tất cả mọi người” đúng với ý nghĩa của nó. Câu ấy hoàn toàn không có nghĩa
là phải chấp nhận ý nghĩ cho mình là tồi tệ, cũng không phải có nghĩa là mất hết
niềm hi vọng và cảm thấy bị đào thải trong ý nghĩa sau đây : Tôi là một kẻ vô dụng,
không có một khả năng nào, cũng chẳng làm được một việc gì cả. Đây không phải
là trường hợp biểu lộ một thứ tình cảm thấp hèn.
Tự
nhận là kẻ dưới đối với những người khác phải được hiểu với tính cách tương đối.
Theo một ý nghĩa nào đó, người ta có thể nói rằng con người cao hơn súc vật. Thật
vậy, ta có khả năng phân biệt điều tốt và điều xấu. Tuy nhiên, người ta cũng có
thể nói ngược lại rằng trên một vài khía cạnh khác thì con người còn kém cỏi
hơn thú vật. Chẳng hạn, thú vật không biết xét đoán điều tốt và điều xấu trên
phương diện luân lý, và nhất định chúng không nhìn thấy được những hậu quả lâu
dài về những hành vi của chúng, nhưng chúng biết tuân theo một ý nghĩa nào đó của
trật tự. Trong những khu rằng cỏ Phi châu, các thú bắt mồi chỉ giết các giống
khác khi cần thiết để sống còn. Lúc không đói, chúng sống chung với nhau thành
tập đoàn thật thanh thản. Trong khi đó con người mặc dù có khả năng phân biệt tốt
và xấu, nhưng lại hành động vì lòng tham lam quá độ. Đồng thời cũng có những
hành vi hoàn toàn nhắm vào mục đích tìm kiếm sự thích thú- chẳng hạn như câu cá
hoặc săn bắn. Vì thế, người ta có thể nói trên phương diện đó, con người “thua
kém” thú vật. Theo cách suy luận tương đối như thế, ta có thể tự nhận là kém cỏi
hơn kẻ khác.
Trên
đây, chữ “thua kém” được sử dụng để nêu lên trường hợp ta đã quen thả lỏng cho
những cảm xúc thông thường, chẳng hạn như giận dữ, hận thù, bám víu và tha lam,
tuy thả lỏng cho chúng nhưng ta không hề đắn đo một chút nào. Thói thường ta
không suy nghĩ gì cả về những tác hại gây ra cho kẻ khác từ thái độ của ta. Tuy
nhiên, nếu ta biết xem kẻ khác cao hơn và xứng đáng được kính trọng, thì đó là
một phương cách giúp ta tự kiểm soát lấy chính mình. Và như thế, mỗi khi xúc cảm
hiện lên, chúng sẽ không đủ sức mạnh để ngăn cản ta nhìn thấy những ảnh hưởng
tai hại do hành vi của ta gây ra cho kẻ khác. Những lời khuyên nhủ xem kẻ khác
hơn ta mang ý nghĩa vừa được trình bày trên đây.
Trong
bất cứ một hành vi nào, tôi cầu xin có thể kiểm soát được tâm thức tôi
Và
mỗi khi có một thể dạng tiêu cực nào ngự trị
Làm
nguy hiểm cho kẻ khác và cho chính tôi
Tôi
thiết tha cầu mong chặn đứng được nó và nghiền nát nó
Tiết
thơ trên đây đưa chúng ta vào tâm điểm những gì mà người ta gọi là sự tu tập Đạo
Pháp do Đức Phật thuyết giảng. Trong bối cảnh của Phật giáo, Đạo Pháp chỉ định
sự chấm dứt khổ đau, tức Niết bàn: chính đấy là Đạo Pháp đích thực. Có rất nhiều
cấp bậc chấm dứt. Chẳng hạn, tránh không giết chóc cũng có thể gọi là Đạo Pháp,
nhưng không nhất thiết gọi là Đạo Pháp của Phật giáo, bởi vì một kẻ nào đó
không tu hành, nhưng biết tuân theo quy luật thiên nhiên, cũng có thể tự kiềm
hãm và không giết hại.
Trong
truyền thống Phật giáo, thực chất của Đạo Pháp là sự giải thoát khỏi khổ đau và
những bấn loạn tâm thần, căn nguyên của khổ đau. Tiết thơ trên đây chỉ cho ta
cách chống lại những xúc cảm và tư duy bấn loạn. Đối với một người tu tập Phật giáo, kẻ thù đích
thực ngự trị bên trong, đó là những xúc cảm đớn đau trong tâm thức, tạo ra đau
thương và chut xót. Trọng trách của người tu tập Phật giáo là phải chiến thắng
những kẻ thù bên trong ấy.
Liều
thuốc hóa giải những bấn loạn bên trong là trọng tâm của sự tu tập Đạo Pháp, thậm
chí có thể nói đấy chính là căn bản của Đạo Pháp nữa, vì thế mà tiết thứ ba
trên đây đã khuyên ta phải thật cảnh giác mỗi khi có những yếu tố bấn loạn xuất
hiện. Nếu ta cứ để cho xúc cảm và tư duy tiêu cực tung hoành một cách tự do,
không mảy may quan tâm đến hậu quả nguy hại của chúng, thả lỏng dây cương và để
chúng tung hoành, thì đến một lúc nào đó ta sẽ không ngăn chặn chúng được nữa.
Ngược lại, nếu ý thức được sự độc hại của chúng, ta có thể kiềm hãm chúng khi vừa
xuất hiện. Ta không dành cho chúng một dịp may hay một một phần không gian nào
thuận tiện để bành trướng và tạo ra những thể dạng cảm xúc mang tính cách tiêu
cực từ nơi bản chất của chúng.
Vì
thế, tiết trên đây khuyến khích ta hãy chọn liều thuốc hóa giải chống lại những
xúc cảm tiêu cực khi chúng vừa phát hiện. Thay vì tìm ngược về nguồn gốc của tất
cả mọi xúc cảm để ngăn ngừa, văn bản của Tịch Thiên dự trù sẵn cho ta các liều
thuốc chống lại một số những tư duy và xúc cảm tiêu cực. Chẳng hạn, muốn chống
lại giận dữ, ta phải vun xới tình thương và lòng từ bi. Muốn chống lại sự bám
víu quá đáng vào một đối tượng, phải nghĩ đến khía cạnh ô nhiễm và bản chất
không tốt lành của đối tượng ấy. Liều thuốc để hóa giải tính khoe khoang và
kiêu hãnh là cách nhìn lại những khiếm khuyết của mình để chọn lấy sự nhún nhường.
Làm được như thế ta sẽ ý thức được tất cả những u mê của ta về thế giới này.
Thí
dụ như trường hợp người thông dịch dùng dấu hiệu bằng tay để giao tiếp với những
người khiếm khuyết về thính giác: khi nhìn họ dùng những dấu hiệu phức tạp để
thông dịch các lời nói, tôi hoàn toàn không hiểu gì cả về ý nghĩa của các dấu
hiệu ấy, và điều này đã giúp tôi ý thức được sự khiêm nhườn. Để nêu lên một thí
dụ khác, mỗi khi tôi thoáng thấy một chút kiêu hãnh, tôi nghĩ ngay đến những gì
mà máy vi tính có thể làm được. Điều đó thật sự kéo tôi trở về đúng với vị trí
của tôi.
Khi
nhìn thấy chúng sinh nghiêng về những xu hướng độc ác
Hoặc
những xu hướng khác mà khổ đau và tồi tệ sẽ đem đến tác hại
Tôi
cầu xin được yêu thương họ như một kho báu vật
Thật
hiếm hoi và không dễ gì tìm thấy
Khi
nhìn thấy kẻ khác bị lôi cuốn một cách tự nhiên vào những hành động xấu, có thể
ta sẽ bị lôi cuốn bởi những phản ứng tiêu cực đối với họ, vì thế sự tu tập tâm
thức là cách hướng vào những cá nhân như thế. Họ tạo ra một thách thức đáng kể
để đánh giá khả năng tu tập của ta, vì thế họ đáng cho ta phải quan tâm.
Tiếp
theo ta có thể áp dụng cách nhìn đó đối với toàn thể xã hội. Những kẻ tầm thường
hoặc có chiều hướng gạt bỏ một số người nào đó thường đặt những người xấu ra
bên lề xã hội, không chấp nhận họ trong tập thể con người. Chẳng hạn có thể lấy
trường hợp của những kẻ mà người ta cho là sát nhân để làm thí dụ cho trường hợp
nêu trên. Khi đã ý thức được thực trạng đó, người tu tập phải nhân những cố gắng
của mình lên gấp đôi để tìm cách tiếp cận những kẻ bị đặt ra bên ngoài xã hội,
giúp cho họ một dịp may thứ hai để hội nhập với xã hội và giúp họ tìm lại những
gì quý giá nơi họ. Cũng thế, người ta thường có khuynh hướng không chú ý đến,
hoạc quên hẳn những thứ bệnh nan y, chẳng hạn như AIDS và nghĩ rằng : Chuyện đó
chỉ xảy ra cho kẻ khác. Khuynh hướng không chấp nhận một số sự kiện nào đó thật
sự đã xảy ra. Nhưng người tu tập phải ý thức và nhìn thẳng vào những sự kiện ấy.
Phải tập tâm thức chấp nhận và tự cảm thấy liên hệ mật thiết đến những cảnh huống
như thế.
Vì
ganh tị mà kẻ khác đã lăng nhục
Phỉ
bang hay ngược đãi tôi một cách phi lý
Tôi
cầu xin nhận chịu sự thua thiệt
Và
hiên dâng phần chiến thắng cho họ
Trên
quan điểm quy ước và pháp lý, khi bị kết tội một cách vô cớ và oan ức, ta cảm
thấy có quyền nổi giận để bày tỏ sự bất công. Nhưng đối với người tu tập Phật
giáo thì không nên làm như thế, nhất là khi chính mình chỉ là người duy nhất
gánh chịu hậu quả bất công, không có ai khác liên lụy thêm vào đó. Một môn đồ
tu tập tâm thức phải biết chấp nhận sự thua thiệt và hiến dâng phần chiến thắng
cho kẻ khác, như thế sẽ tránh được sự giận dữ và phẫn uất.
Khi
một người nào đó mà tôi từng giúp đỡ
Hay
một người mà tôi đã đặt tất cả hy vọng lớn lao nơi họ
Nhưng
họ lại đem đến những thất vọng kinh hoàng cho tôi
Tôi
cầu xin được xem người ấy như một người bạn tinh thần đầy thánh thiện
Thông
thường, khi đã giúp đỡ ai, ta hy vọng nhận được một sự hồi đáp. Đối với người
thân, ta chờ đợi một cử chỉ nào đó, thay vì người ấy hành động một cách thuận lợi
để đáp lại thiện cảm mà ta đã dành cho họ, thì họ chỉ đem thêm cho ta khổ đau,
và ta cảm thấy bực tức. Thất vọng quá mạnh, và vết thương quá sâu, ta cảm thấy
hoàn toàn có quyền phản ứng trở lại bằng sự giận dữ để nêu lên sự vô ơn của họ.
Tuy nhiên, đối với người tu tập thì không nên để cho phản ứng thông thường như
thế lấn át, mà phải xem đấy là một dịp may để tập luyện, giống như một bài học
hoặc một lời giáo huấn. Đối với người tu tập, kẻ đó mới đúng là một vị thầy
đích thực dạy cho ta thế nào là kiên nhẫn, vì những hoàn cảnh như thế mới thật
là những dịp giúp ta luyện tập nhẫn nhục một cách hữu hiệu. Thay vì đáp lại bằng
sự giận dữ và hung hãn, ta phải biết kính trọng và xem người ấy tượng trưng cho
những giá trị hiếm hoi, giống như một vị thầy đáng kính.
Điều
đó không có nghĩa là người tu tập phải chấp nhận mọi thiệt hại và bất công với
tư cách một nạn nhân. Vì thật ra, đúng theo châm ngôn của người Bồ tát, cần phải
phản ứng lại sai trái bằng những biện pháp kiên quyết, nhất là khi thấy người tạo
ra những hành vi tiêu cực có khuynh hướng tiếp tục phạm pháp hoặc gây thêm thiệt
hại cho những người khác nữa. Vì vậy điều đó đòi hỏi phải tùy cơ để xử sự. Tuy
nhiên, nếu một hành vi sai trái không gây ra hậu quả nặng nề cho chính người đã
thực thi hành vi ấy hoặc cho kẻ khác, thì tốt hơn là nên bỏ qua.
Tóm
lại, tôi cầu xin được trực tiếp hoặc gián tiếp
Hiến
dâng sự hân hoan và lợi ích cho tất cả chúng sinh, họ là những người mẹ của tôi
Và
trong âm thầm tôi xin gánh lấy riêng cho tôi
Tất
cả những nhọc nhằn và khổ đau của tất cả chúng sinh
Từ
bi nếu lên trong tiết thơ này thật mãnh liệt, thúc dục ta quyết tâm nhận lãnh về
phần mình, ít nhất là trên phương diện tinh thần, những khổ sở, đớn đau và nhọc
nhằn của tất cả chúng sinh, và đứng ra khắc phục những hành vi tiêu cực làm nguyên
nhân phát sinh ra những khổ đau ấy. Đồng thời ta lại chia xẻ tất cả những phẩm
hạnh mà ta có: sự hân hoan, những nguồn hạnh phúc, căn nguyên của đạo đức, những
hành vi nhân ái, tất cả ta đều hiến dâng cho chúng sinh.
Chữ
“âm thầm” trong câu thứ ba của tiết thơ trên đây chỉ định cách tu tập gọi là Tonglen- hiến dâng và nhận lãnh- đó là
cách nhận về phần mình khổ đau của kẻ khác và hiến dâng cho họ sự hân hoan và đạo
đức của ta. Đúng theo ý nghĩa của những chữ trên đây thì hình thức tu tập vừa kẻ
khó thích nghi với những người mới khởi sự tu tập vì đòi hỏi quá nhiều can đảm
và quyết tâm mãnh liệt. Một cách cụ thể, phương pháp nhân và cho gợi lên hình ảnh
vè sự chuyển động của hơi thở: hít vào và thở ra.
“Âm
thầm” cũng nói lên sự ngay thật của người tu học trong mục đích giữ cho sự luyện
tập được kín đáo, không trở thành một hình thức phô trương. Thật vậy, người tu
tập đích thực phải sử dụng kỹ thuật tonglen với tất cả sự kín đáo. Trong tập
Luyện tập tâm thức bằng bảy điểm của vị thầy thuộc Kam-đan-phái (Kadampa) là
Gueshe Chekawa, có viết như sau: Từ bên trong, các thể dạng tâm thức của ta gồm
tư duy và xúc cảm, phải được biến cải từ cội rễ, nhưng vẻ bên ngoài không được
biến đổi. Đúng thế, thật hết sức nguy hiểm nếu không biết chống lại những quyến
rũ của sự phô trương, nhất là trong thời đại của chúng ta, chẳng hạn đôi khi có
những người còn kém kinh nghiệm nhưng lại tỏ ra quan trọng hay khoe khoang có sức
mạnh thần bí; nhưng thật ra đấy chỉ là cách làm hạ thấp những phẩm tính của họ.
Sự luyện tập tâm thức đích thực đòi hỏi phải khiêm tốn và lương thiện.
Trong
trường hợp tiết thơ trên đây, chúng sinh được gọi là “mẹ của tôi”, đấy là cách
tu tập để thương yêu tất cả chúng sinh, giống như thương yêu người mẹ của chính
mình. Những lời giáo huấn trong Phật giáo liên quan đến sự tái sinh cho biết rằng
tất cả chúng sinh đều đã từng là mẹ của mình trong những kiếp trước- và chính họ
đã sinh ta ra, nuôi nấng và che chở cho ta- ta không được quên công lao ấy, nếu
như có một người trong số họ có vẻ như làm ta buồn lòng, cũng chẳng sao.
Tôi
cầu xin sự tu tập của tôi không bị ô nhiễm
Bởi
những khái niệm liên quan đến tám điểm quan tâm của thế tục
Và
ý thức được tất cả mọi hiện tượng chỉ là ảo giác
Tôi
cầu xin được giải thoát khỏi mọi ràng buộc và không nắm giữ gì cả
·
Kinh
sách gốc tiếng Hán gọi tám điều quan tâm của thế tục là Bát phong- tám ngọn
gió: được, mất, vinh, nhục, khen, chê, vui, khổ.
Hai
câu thơ đầu trong tiết này cảnh giác ta trước sự ô nhiễm có thể ảnh hưởng đến sự
tu tập tâm linh và luyện tập tâm thức, những ô nhiễm ấy là những mối lo toan tầm
thường chẳng hạn như danh vọng, giàu sáng, và thú vui đủ loại. Sự cảnh giác đó
cũng hướng vào các vị thầy tinh thần nữa. Thí dụ, khi tôi ngồi lên đàn để thuyết
giảng, những ý nghĩ thế tục- Tôi có thuyết giảng tốt hay không? Những người
nghe sẽ nghĩ gì? Các điều này có làm vừa lòng họ không?- có thể hiện ra làm cho
ô uế sự tu tập. Vậy cần phải canh chừng đừng để bị ô nhiễm bởi những lo toan
như thế.
Hai
câu thơ sau cùng nhấn mạnh đến việc tu tập tâm thức dựa vào sự hiểu biết sâu xa
về sự thực tối hậu, tức là Tánh không. Hai câu thơ ấy khuyên ta hãy gia tăng
suy tư để ý thức tất cả mọi hiện tượng chỉ là ảo giác và không nên nắm giữ gì cả,
trong mục đích tự thoát khỏi sự trói buộc. Tuy nhiên, trước khi có thể hiểu được
tất cả chỉ là ảo giác từ căn nguyên, ta cần phải phủ nhận sự hiện hữu nội tại của
tất cả mọi sự vật, trong đó kể cả “cái tôi”. Không thể nào quán nhận được ban
thể ảo giác của mọi hiện tượng khi ta chưa phủ nhận dược thực thể căn bản của sự
hiện hữu.
Làm
thế nào để phát huy sự hiểu biết đó? Không phải chỉ tưởng tượng tất cả là trống
rỗng và không hàm chứa sự hiện hữu nội tại là đủ, cũng không phải lặp đi lặp lại
câu ấy trong đầu, giống như tụng niệm một câu thần chú. Cần phải có một sự quán
thấy sâu xa và đích thực về Tánh không, bằng suy tư và bằng phân tích, căn cứ
trên sự hiểu biết hợp lý.
Một
trong các cách suy luận hiệu quả nhất và đáng tin cậy nhất để hiểu được tất cả
không hàm chứa một sự hiện hữu tự tại nào ấy là cách nhìn vào hiện tượng tương
liên, tức nguồn gốc tương tác của mọi sự vật. Cách suy luận đó quả thật là cách
duy nhất mở ra cho ta con đường trung đạo: một bên là hư vô tuyệt đối, và một
bên là sự hiện hữu độc lập có tính cách thực thể của mọi hiện tượng. Quán thấy
mọi hiện tượng đều tương liên với nhau và chúng chỉ có thể phát sinh nhờ sự kiện
lệ thuộc lẫn nhau, sẽ cho thấy là tự nơi chúng, chúng không có sự hiện hữu thật
sự nào cả. Khi đã hiểu được mọi vật chỉ có thể được tạo tác bằng cách liên đới
với những vật thể khác, theo một cấu trúc phức tạp gồm có nhiều thành phần lệ
thuộc vào nhau, thì khi đó ta mới không rơi vào một thái cực đối nghịch, tức thể
dạng hư vô chủ trương không có gì hiện hữu. Vì thế sự khám phá ra con đường
trung đạo đã đưa đến sự hiểu biết và quán thấy xác thực về Tánh không.
Khi
đã thực hiện được sự quán thấy xuyên thấu như trên đây nhờ vào thiền định, thì
sự tương quan giữa ta với thế giới này, với kẻ khác và mọi vật thể chung quanh
mới đạt được những cải thiện mới mẻ, và từ đấy ta sẽ nắm vững được bản chất ảo
giác của hiện thực. Phương cách tương quan mới mẻ đó liên kết ta với thế giới
này, giúp cho ta có thể giới hạn những lo toan hạn hẹp để hành động cho sự tốt
lành của nhân loại. Như thế có lẽ cũng đủ là một sức mạnh giúp ta sống với từ
bi.
PHỤ LỤC
Phát
sinh tinh thần giác ngộ
Chúng
ta đã bàn thảo với nhau về bản chất của từ bi và các phương pháp luyện tập tâm
thức giúp cho từ bi nảy nở. Các tiết thơ sau đây mang chủ đích giúp phát huy Bồ
đề tâm, tức ước vọng giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Khi xướng lên
các tiết thơ này, quý vị hãy cố gắng khơi động lòng từ bi để nhìn thấy lý do tại
sao phải phát huy xúc cảm đó.
Tiết
thứ nhất dành cho việc quy y. Người Phật tử quy y nơi Tam bảo, nhưng các tín đồ
thuộc những tôn giáo khác- chẳng hạn như Thiên chúa giáo, Do thái giáo, Hồi
giáo, vvv…- có thể tự mình buộc chặt với một đấng Thiêng liêng thuộc vào truyền
thống tôn giáo của mình để thể hiện đức tin.
Tiết
thứ hai làm hiển lộ tinh thần Giác ngộ và tiết thứ ba gợi lên lòng can đảm và
hân hoan để củng cố quyết tâm đem ra thực hiện những nguyên tắc vị tha. Trong
khi đọc lên các tiết thơ này, hãy cố gắng chú tâm đến ý nghĩa và mến phục những
câu thơ ấy một cách trung thực.
Tôi
thấy các tiết thơ này thật hùng mạnh. Nếu như quý vị đồng ý với tôi, và đồng thời
những câu thơ ấy cũng thích hợp với quý vị, thì tôi khuyên quý vị hãy đọc lên để
suy tư mỗi khi tìm được một chút thì giờ. Các câu thơ này sẽ đem đến cho quý vị một sức
mạnh nội tâm thật quý giá.
Và
ước vọng giải thoát cho tất cả chúng sinh
Tôi
xin được quy y
Nương
tựa Phật, Đạo Pháp và Tăng đoàn,
Cho
đến khi nào đạt được Giác ngộ,
Thúc
đẩy bởi lòng từ bi và trí huệ,
Hôm
nay đây, trước mặt Phật,
Tôi
xin phát động tinh anh của sự Giác ngộ vẹn toàn
Vì
sự tốt lành của tất cả chúng sinh
Cho
đến khi nào không gian còn tiếp tục
Và
cho đến khi nào chúng sinh còn hiện hữu
Tôi
cầu xin vẫn còn đây
Để
loại bỏ khổ đau trong thế gian này.
Hoàng Phong dịch