Giáo dục
Chuyển Họa Thành Phúc
21/08/2557 10:08 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

CHƯƠNG 5: CHUYỂN RẮC RỐI THÀNH PHÁP TU

Xem là thuận lợi những hoàn cảnh bất như ý là cách tốt nhất để tu tâm.

Đó chính là phương pháp chuyển họa thành phúc.

Ngài Trijang Ringpoche dạy trong thời mạt pháp này chỉ có sự chuyển hóa khổ đau thành giác ngộ mới đem lại lợi ích lớn.

Trong thời mạt pháp, có quá nhiều chướng ngại cho việc tu hành, khó mà tránh nổi. Có một vài trở ngại, như bệnh hoạn chẳng hạn, bạn không có chọn lựa nào khác hơn là phải đương đầu với nó. Những lúc như thế, bạn nên chuyển nghịch cảnh, những điều không ai muốn ấy, thành những hoàn cảnh cần thiết và lợi lạc. Nếu không làm được như thế trong mọi hoàn cảnh bạn gặp, cả tốt lẫn xấu thì bạn rất dễ mất đạo.

Ví dụ, nếu bạn trở nên giàu có, bạn dễ dàng bỏ đạo như chơi. Pháp luyện tâm dạy:

Đừng ham giàu, nghèo nàn vui hơn.

Chật vật oái oăm thúc ta gần Phật Pháp.

Sống đúng chí nguyện người hành Pháp.

Là bình bát cơm ngàn nhà, bạn ơi.

Nhiều vị Lạt ma chính thống, như Milarepa và các vị khác, giác ngộ nhờ sống đời ẩn sĩ. Bài kệ trên như có vẻ như bảo bạn phải thành ăn mày thật sự, nhưng không phải thế. Ý chính là cắt đứt những bận tâm thế tục, vì chúng là nguồn gốc các phiền toái ngăn ta tiến tu đạo nghiệp.

Bài kệ khác nói rằng:

Giữa khen chê nên lựa chỉ trích

Sống đạm bạc hơn hẳn xa hoa

Thoải mái quá mài mòn phước báo

Rắc rối là ân sủng của bậc thầy.

Bạn dễ bỏ đạo khi được sống nổi tiếng và ở địa vị cao; khi sống sung túc, khi gặp hoàn cảnh mà người ta cho là hạnh phúc, đáng muốn; bạn cũng dễ bỏ đạo khi sợ mất những thuận cảnh mà bạn có được. Và bạn cũng dễ bỏ đạo khi gặp hoàn cảnh ngược lại, nghĩa là những kinh nghiệm khó ưa.

Do vậy, thật khó mà thực hành Diệu Pháp. Khi bạn lơ là chút ít Phật Pháp mà bạn tu tập hay tự cho mình đang tu tập thì đời sống tâm linh của bạn sẽ trở nên hết sức nghèo nàn. Dù gặp hoàn cảnh tốt hay xấu, bạn phải cố gắng chuyển hóa chúng để sự tu tập của bạn không bị gián đoạn. Chính những chướng ngại giúp bạn giác ngộ.

Khi gặp chuyện rắc rối hãy nghĩ: “Tạ ơn thầy tổ!” Chuyện xui xẻo này đang làm tiêu bớt nghiệp xấu của mình và giúp mình chuyển tâm vào pháp Đại thừa, có thế mình mới có thể giác ngộ để cứu vớt chúng sinh. Đây là cơ hội cho mình tu tâm dưỡng tính.

Xem mọi tai hại mình đã gặp là vấn đề, tự làm khổ mình khi nghĩ đi nghĩ lại những xui xẻo, thì không thể nào chấm dứt đau khổ được. Chính cái tâm bạn đã xem một điều gì bạn trải qua là đau khổ, thì cũng chỉ có một tâm khác ngược lại, giải thích kinh nghiệm ấy là có lợi, mới chấm dứt sự đau khổ của bạn.

Bởi thế, khi gặp rắc rối, hãy vui vẻ xem nó là lợi ích, hãy biết ơn nó đã giúp bạn phát tâm tu tập con đường giác ngộ. Và hãy tiếp tục vui lên mỗi lần gặp trở ngại. Hãy nghĩ ngay lập tức “Chuyện này có vẻ căng, nhưng thực sự nó không thể chướng ngại tôi được. Trái lại nó đang giúp tôi tuần tự đi con đường tiến đến giác ngộ.” Hãy thưởng thức điều ấy và cảm thấy hạnh phúc.

Khi gặp những sự cố làm bạn điên đầu bạn rất cần xử sự khéo léo. Nói cách khác, bạn phải định tâm lại để hòa hợp với cái khổ ấy. Bực mình ư? Ta hãy áp dụng giáo lý này. Chán nản ư? Ta hãy dùng phương thức kia. Áp dụng giáo lý trong từng cảnh ngộ sẽ làm khổ đau được hòa tan thành đạo đức. Mọi kinh nghiệm về khổ sẽ thấm nhuần đạo hạnh.

Đón nhận những rắc rối thay vì xa lánh chúng làm bạn thay đổi thái độ rất nhiều, có khi bạn không còn lo lắng và sợ hãi nữa. Trước hết, khi gặp rắc rối nếu bạn có thể hòa nhập nó vào pháp Lam-rim, dùng nó để phát huy ba đặc tính của đường tu (từ bỏ, bồ đề tâm và tánh không), thì tất cả những khổ đau mà bạn phải gánh chịu từ nay sẽ biến thành Pháp lạc. Các rắc rối tự chúng sẽ thành cái nhân của hạnh phúc, vì nhờ chúng mà bạn xóa bỏ được nghiệp xấu tích lũy từ đời trước, lại còn đưa đến hạnh phúc trong hiện tại nếu bạn chuyển hóa kinh nghiệm khổ đau thành ra đức hạnh.

Hãy nghĩ thật nhiều và liên tục đến lợi ích mà bạn nhận được từ đau khổ. Hãy phác họa từng điểm tốt của nó. Kinh qua các bất lợi bằng cách này đem lại lợi ích sánh bằng lợi ích của các việc đã nói trên, như cúng dường, lễ bái, hoặc thiền định về Phật quả. Bạn nên suy nghĩ kỹ về từng điểm lợi ích của các rắc rối, bởi vì đây là phương pháp chính yếu của sự phát tâm hoan hỉ trước những chuyện bực mình. Xem tai họa là điều thú vị, quả là một trong những pháp tu tập có hiệu lực nhất. Đây chính là cách biến khổ đau thành hạnh phúc.

LỢI DỤNG RẮC RỐI LÀM PHÁP TU TỪ BỎ

Rắc rối chính là một bài học dắt dẫn ta vào con đường tu tập, và từ đó đến sự từ bỏ chu kỳ đau khổ một cách hữu hiệu nhất. Vì những rắc rối ta gặp cho ta thấy rõ thực chất sinh tử luân hồi là khổ đau, và ta có thể khởi tâm từ bỏ một cách dễ dàng và mau chóng.

Khi gặp rắc rối, hãy nghĩ “Bao lâu ta còn lang thang trong nẻo luân hồi, còn bị nghiệp và vọng tưởng chi phối thì ta đương nhiên phải chịu khổ. Chu kỳ sinh tử là thế đấy”. Khi nghĩ thế trước bất cứ sự cố nào - thất bại trong tu tập, bệnh hoạn, và nhất là những đau khổ do mất mát người thân, chung đụng kẻ thù - nỗi sợ hãi lo âu lập tức biến mất, hoặc ít nhất là giảm bớt. Bạn sẽ bớt căng thẳng và trở nên thư thái hơn. Vấn đề bạn gặp không còn có vẻ khó chịu, nghiêm trọng cho lắm nữa. Ta cảm thấy chịu đựng được nó.

Rồi lại nghĩ tiếp: “Ngay cả cái khổ thông thường này của kiếp người, một tái sinh may mắn, mà ta còn không chịu nổi, thì làm sao chịu được nỗi khổ của những chúng sinh trong các cõi thấp?” So sánh với những thống khổ ở địa ngục hàn băng và ở hỏa ngục mà các tội nhân phải chịu, thì những nỗi khổ của kiếp người quả là quá nhỏ bé, có thể xem là lạc thú đáng kể. Một tia lửa ở địa ngục cũng nóng hơn gấp trăm ngàn lần tất cả các rừng lửa tụ lại trên trái đất. “Nếu ngay cả cái khổ nhỏ của kiếp người thuận lợi mà ta còn không thể chịu nổi, thì làm sao ta chịu được cái khổ nơi các cõi thấp”. Suy nghĩ đến cái khổ to lớn của tội nhân địa ngục sẽ rất ích lợi cho ta.

Khi gặp rắc rối, hãy nghĩ đến những nỗi khổ của kiếp nhân sinh. Hãy nghĩ đến những người gặp nhiều rắc rối to lớn hơn bạn: có người không những đã bị bệnh mà còn mắc bệnh nan y như ung thư hay liệt kháng [aids]; có người tìm mãi không ra việc làm; phụ nữ thai nghén không người chăm sóc; những người bị vợ hoặc chồng bỏ rơi; những trẻ xung đột với cha mẹ; những người sống chung không hòa hợp; những người bị nghiện ngập. Ngay trong một gia đình cũng có lắm chuyện bực mình. Ai cũng có vấn đề oái oăm của riêng họ. Và hãy nghĩ đến những người không gặp được Phật pháp, không được tự do tu tập, không được tự do tạo cái nhân cho mình được hạnh phúc, không được tự do từ bỏ cái nhân của khổ đau.

Khi nghĩ đến người khác với vô số rắc rối của họ, bạn sẽ thấy các rắc rối của bạn trở nên bé tí và dễ chịu – thích thú nữa là khác. Và khi so sánh cái khổ của mình với cái khổ ở các cõi thấp, thì những rắc rối của bạn trở thành những gia vị cho cuộc đời. Nghĩ được như thế thì bạn không còn chán ghét những chướng ngại nữa. Cảm giác bực bội biến mất.

Rồi hãy nghĩ: “Sinh tử luân hồi là biển khổ mênh mông.” “Sinh tử luân hồi” không phải là nơi chốn này, mà chính là thân ngũ uẩn bị nhiễm ô bởi hạt giống nghiệp và vọng tưởng. Vì không nghĩ ra cách chữa trị bằng con đường chân chính đưa đến chấm dứt khổ, nên dòng tâm thức cứ tiếp tục bị nghiệp và vọng tưởng ám ảnh. Đã thế bạn lại không thực tập Lam-rim, nên bạn tham đắm khi thích thú một vật gì, nóng giận khi gặp trắc trở, và lừ đừ trước đối tượng vô thưởng vô phạt.

Vọng tưởng khởi lên vì trước nhất bạn không trừ khử mọi dấu vết của chúng; và thứ hai, bạn không áp dụng chỉ giáo, không thiền định về đạo lộ tiệm tu để kiểm soát tâm mình. Một tư tưởng quấy khởi ra hành động xấu, hành động ấy để lại ấn tượng trong dòng tâm thức, tạo nên tái sinh tương lai cũng đầy đau khổ.

Không những nghiệp và phiền não tạo nên thân ngũ uẩn, mà khi mang thân này, gặp nhiều phiền não, bạn lại tích thêm ác nghiệp. Đây là nguyên nhân khiến ngũ uẩn, tức chu kỳ đau khổ vẫn tiếp nối đời này sang đời khác. Ngũ uẩn sẽ liên tục xoay vần từ đời này sang đời khác và chỉ ngừng lại khi bạn chấm dứt tạo nghiệp và phiền não ràng buộc bạn vào chu kỳ tái sinh luân hồi.

Đừng nhắm đến sinh tử nào bên ngoài mà đến chính cái thân ngũ uẩn của mình: “Cái thân sinh tử này là một biển khổ khôn dò.” Khi nghĩ như thế, hãy phát sinh nhàm chán sinh tử và hướng tâm đến giải thoát. Hãy xem rắc rối mà bạn đang gặp phải là một pháp tu, hướng nó vào con đường tiến đến giác ngộ. Khi nghĩ khổ chính là bản chất của sinh tử thì ta sẽ phát tâm từ bỏ sinh tử. Muốn từ bỏ sinh tử, hãy tu tâm giới.

Khi gặp rắc rối, bạn nên nghĩ: “Có gì đâu. Đây chỉ là trò chơi trẻ con.” Dù gặp bất cứ gì: như bị trộm cuỗm hết đồ đạc, bị cơn suy tim, bị vợ, chồng hoặc bạn bỏ rơi – hãy nghĩ “Đây là chuyện vặt. Ta đã tạo quá nhiều ác nghiệp trong quá khứ thì đương nhiên phải gặp những rắc rối này. Gieo nhân gì gặt quả đó là lẽ thường, đâu phải là ta không đáng gặp những rủi ro này. Vì sinh tử bản chất là thế, nên chả việc gì phải sầu não. Và vì ta đã tạo nhiều nghiệp còn tệ hơn, nên rắc rối này chẳng ăn thua gì, càng hay cho ta. Sẽ còn nhiều chuyện xấu hơn xảy đến nữa thì sao”.

Nghĩ sẽ còn những rắc rối trầm trọng hơn khiến bạn thấy vấn đề hiện tại thành không đáng kể. Tâm lý là thế. Quả vậy, tất cả con đường tiệm giáo và pháp chuyển tâm của Đại thừa đều là những phương pháp tâm lý sâu sắc có khả năng tẩy trừ ngay cả nguyên nhân của khổ. Nếu khéo tu tập giáo lý Lam-rim không những tẩy trừ được nghiệp và phiền não, mà còn trừ khử được cả những dư tàn vi tế của chúng trong dòng tâm thức, dẫn bạn đến hạnh phúc tối thượng của giác ngộ. Pháp Lam-rim là phương pháp tâm lý Phật giáo tuyệt diệu có khả năng đưa mọi hữu tình đến trạng thái tâm toàn giác.

DÙNG RẮC RỐI ĐỂ LUYỆN TÂM QUAY VỀ NƯƠNG TỰA

Bạn có thể sử dụng rắc rối để hướng tâm về ba chỗ nương tựa là Phật, Pháp và Tăng.

Hãy nghĩ đến những khổ đau mà bạn đã phải gánh chịu từ đời này sang đời khác. Bạn chỉ có mỗi một nơi nương tựa chân thật và vững chắc nhất là Ba Ngôi Báu. Do đó hãy nghĩ: “Cho dù đời ta gặp bao nhiêu sóng gió, ta cũng chỉ nương vào Tam Bảo mà thôi”. Không những khổ ở các đọa sứ mà toàn bộ nỗi khổ sinh tử đều phát xuất từ nguyên nhân thật của khổ là vô minh và vọng tưởng. Như tôi đã nói, vọng tưởng khởi động nghiệp, nghiệp lại để dấu ấn trên tâm thức khiến ta cứ mãi mang thân ngũ uẩn trong sinh tử để thọ khổ. Cứ thế ta chịu nỗi khổ tái sinh và chết. Từ vô thủy ta đã tạo biết bao nhiêu nghiệp, và ta chưa thọ xong quả báo tức các uẩn do nghiệp và vọng tưởng tạo nên.

“Có vô số quả báo ta còn phải lãnh thọ đó là cả biển khổ sinh tử. Ai có năng lực giải thoát ta khỏi khổ và nguyên nhân khổ? Chỉ có Ba Ngôi Báu. Ba Ngôi Báu có năng lực giải thoát ta vĩnh viễn khỏi luân hồi sinh tử, những rắc rối ta gặp đương nhiên cũng sẽ được giải quyết mau chóng. Như vậy dù đời có lắm chông gai, không giây phút nào ta được quên Ba Ngôi Báu.” Nương tựa Ba Ngôi Báu là giải quyết mọi rắc rối.

DÙNG KHỔ ĐỂ TRỪ KIÊU NGẠO

Khi gặp rắc rối, hãy xem chúng là phương tiện trừ kiêu hãnh. Như tôi đã nói, ta không được tự do, luôn luôn bị nghiệp và vọng tưởng thống trị, luôn luôn phải chịu ba lọai khổ: hành khổ, hoại khổ, và khổ khổ. Nhớ đến điều này, ta nên nghĩ: “Ta sẽ phá trừ lòng kiêu căng, kẻ thù phá hủy mọi đức tính trong ta. Ta sẽ cắt đứt tư tưởng ích kỷ xấu xa khiến ta không nghĩ đến kẻ khác.”

Khi tâm bận nghĩ đến những rắc rối của chính mình, lòng tự kiêu không len lõi vào được. Như Bồ Tát hạnh nói, khi gặp rắc rối ta không còn kiêu hãnh, trái lại còn biết thương người đang trầm luân trong biển khổ. Ta lại còn cẩn thận không tạo nghiệp ác và biết hướng thượng.

Phương pháp tu tập là:

Bị chê tốt hơn được khen

Vì được khen thì tự kiêu nổi dậy

Khi bị chê, lỗi lầm mình tan biến

Nói cách khác, bị chỉ trích khiến ta rút tỉa được nhiều điều lợi là lòng kiêu căng sẽ xẹp ngay tức khắc, khiến lỗi lầm bị chặn đứng. Như thế cuộc sống ta mới có thể thăng hoa.

Khi được khen, ta đâm ra kiêu hãnh. Nếu cứ căng phồng vì kiêu hãnh, thì hậu quả là phải tái sinh hoặc vào các cõi xấu nơi ấy bạn không được tự do tu tập; hoặc bị sinh làm con nhà nghèo; bị mù lòa; làm thân tôi đòi. Dù cho bạn có dệt nhiều nguyện ước lớn lao, bạn sẽ có rất ít khả năng làm bất cứ việc gì cho hạnh phúc của chính mình hay người khác. Bạn sẽ không thành công.

Điều chính yếu là bạn không thể phát huy tâm linh hoặc đức tính của mình nếu bạn để cho kiêu ngạo bộc phát. Bạn cũng không thể học Phật Pháp. Các đạo sư phái Kadampa bảo nếu bạn đổ nước lên một khối tròn như trái banh thì nó không thể nào đọng lại. Cũng vậy, đức tính không thể trú trong tâm một người đầy kiêu ngạo. Các đạo sư cũng bảo rằng mọi lời dạy của Phật chỉ nhằm phá trừ kiêu mạn.

Một trong những phương pháp chính yếu để kiểm soát kiêu mạn là nghĩ đến những lỗi lầm của mình. Nghĩ đến những thành công của mình thì kiêu căng nổi dậy; nhưng nhìn lại những lỗi lầm của mình thì hết kiêu căng. Thí dụ, hãy nghĩ ta thật ngu, ta biết rất ít về các đề tài sâu xa trong kinh điển và mật điển. Hãy nghĩ về các tầng lớp của đạo lộ mà ta đã được nghe qua nhưng chưa hề thực chứng. Có những điều ta cứ ngỡ mình biết, nhưng chỉ biết qua ngôn từ, chưa hề thực chứng. Hãy nghĩ đến cái ngu dốt của mình cả về phương diện học vấn thế tục. Ta còn chẳng hiểu bản chất của ngũ uẩn và các giác quan của mình nữa là. Nghĩ như vậy thì hết tự kiêu.

LỢI LẠC CỦA TÙY HỶ

Tùy hỷ (vui theo) là một phương pháp tu tập khác để tránh kiêu căng, ganh tỵ hay giận dữ. Khi thấy người khác thành công, ta hãy tùy hỷ. Ta nên luôn luôn tập hạnh tùy hỷ, ngay cả với những thành công trong sinh tử luân hồi. Thí dụ, khi nghe người khác thành công trong doanh nghiệp, hãy tùy hỷ. Khi nghe người thân hay thù có bạn đời hãy tùy hỷ: “Tuyệt diệu thay khi họ đã tìm được hạnh phúc mà họ đang ao ước”. Hãy mừng cho họ như cho chính mình khi được thỏa ước mong. Nói cách khác, hãy thương người như thể thương thân.

Nếu chỉ biết thương chính mình, bạn không thể biết thế nào là hạnh phúc, nhưng nếu thương người khác như thương chính mình, hạnh phúc sẽ tự nhiên đến với bạn. Khi thương người, thì thấy người được hạnh phúc toại ý, tự nhiên ta vui sướng chẳng cần tìm hiểu lý do. Khi họ gặp may ta tự nhiên cũng thấy vui lây.

Khi thấy người có thân thể tuyệt mỹ, hãy nghĩ: “Sướng thay cho ông này có được thân đẹp do quá khứ đã từng tu giới và nhẫn.” Khi thấy một người giàu có hãy nghĩ: “Sướng thay cho bà này được quả tốt do quá khứ đã từng bố thí người nghèo và cúng dường Tam Bảo”. Gặp người thông minh, biết Pháp nhiều hơn mình, ta nên tùy hỷ. Gặp người đã làm nhiều kỳ nhập thất tu tập trong khi bạn chưa hề có cơ hội ấy dù chỉ một lần hãy mừng cho họ.

Nếu biết lợi dụng tất cả những dịp ấy để tùy hỷ, ta sẽ được công đức vô lượng. Gặp người có trình độ tâm trí thấp kém hơn ta mà ta biết tùy hỷ công đức của họ thì ta lại còn được công đức gấp đôi công đức của họ. Nếu trình độ tâm trí người kia cao hơn mình, thì khi tùy hỷ ta cũng được nửa phần công đức họ có được.

Chỉ nhờ tâm tùy hỷ mà ta có thể tích tập vô số công đức, chẳng cần chuẩn bị kỹ càng gì, chẳng cần làm nỗ lực nào về thân hay miệng. Trong một giây phút ta tích lũy được công đức vô biên như hư không. Nếu làm được, thì tùy hỷ quả là cách tạo công đức được nhiều nhất và dễ nhất. Sự tùy hỷ khi bạn nhận ra các đức tính nơi người khác cũng ngăn chặn được tâm ganh ghét.

Khi cảm thấy trong lòng đang nhen nhúm sự ganh tỵ, nên biết là mình có nguy cơ muốn phá rối thành công và hạnh phúc của người khác. Nếu từ bỏ ganh tỵ và tập đức tính tùy hỷ, thì dù hiện đang thất bại, bạn cũng vẫn tạo nhân thành công trong tương lai. Do hiện tại bạn tùy hỷ người khác thực hành Phật Pháp và nhập thất tu tập để đạt giác ngộ, bạn tạo cái nhân chính mình cũng được tu tập như thế trong tương lai.

Nếu bạn để tâm kiêu ngạo ganh tỵ khởi lên là bạn gây trở ngại cho thành công bây giờ và mai sau, về cả hai phương diện đạo lẫn đời. Tùy hỷ là phương pháp tâm lý tuyệt diệu để trừ chướng ngại, là yếu tố quan trọng trong đời thường. Sự vui mừng thấy người khác thành công toại ý sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề.

Nếu không tập đức tùy hỷ, hòa nhập với mọi người thì dù bạn có sống lâu, mạnh khỏe, thông minh, tài giỏi về thế pháp hay Phật pháp, bạn cũng chẳng được hạnh phúc hoặc bình an trong đời sống. Chính sự không thể tùy hỷ khiến con người điên đảo và làm những hành vi điên đảo. Như vậy, ta chỉ có kéo dài sự sống với cái điên đảo của mình. Với thân thể khỏe mạnh và hạt giống Phật trong tâm, ta có thể đem vô số lợi lạc không ngờ đến cho mình và người. Nhưng nếu không tu tập, ta tự đánh mất những lợi lạc ấy.

DÙNG KHỔ ĐỂ TRỪ ÁC NGHIỆP

Những rắc rối ta gặp có thể được dùng để tiêu trù ác nghiệp. Hãy nghĩ: “Mọi rắc rối ta gặp điều do ác nghiệp gây ra.” Hãy nhớ đến bốn khía cạnh của nghiệp và áp dụng chúng vào những chuyện rắc rối đang xảy đến với mình: một là định nghiệp khó tránh; hai là nghiệp có tính bành trướng thêm; ba là không gây nhân thì không gặt quả; bốn là khi đã được tạo nghiệp không bao giờ mất.

Ví dụ khi gặp bất hòa với bạn bè hay mất người yêu, hãy nhớ đến nghiệp xấu đặc biệt của mình trong đời này. Cũng cần phải nhớ trong các đời trước ta đã tạo nghiệp xấu trong quá khứ: có lẽ xưa kia vì ích kỷ ta đã từng ngoại tình, từng gây chia rẽ.

Hãy nghĩ: “Ta đã tạo nghiệp thì nhất định phải chịu hậu quả. Sở dĩ tôi cứ phải gặp mãi những rắc rối này chính là vì nghiệp sinh sôi nảy nở. Nếu khi xưa tôi từ bỏ ngoại tình và những nhân xấu khác thì ngày nay tôi đâu có phải chịu những quả ác này. Gia đình tôi cứ lục đục mãi chính là vì kiếp trước tôi không từ bỏ tà hạnh. Nếu kiếp trước tôi sống có đạo đức giới hạnh, thì kiếp này tôi đã được vui vẻ hạnh phúc. Vì không tạo nghiệp tốt nên tôi không được quả tốt.”

Dù cả hàng trăm thế kỷ sau bạn chưa lãnh thọ quả báo, nghiệp đã tích lũy hàng trăm thế kỷ về trước cũng không bao giờ mất. Khi gặp đủ thời tiết nhân duyên, thì nghiệp chín. Do đó, hãy nghĩ: “Trong quá khứ, với cái thân tứ đại luôn chống trái nhau này tôi đã không tịnh hóa ác nghiệp, không theo phương pháp cứu khổ, con đường giải thoát. Tôi đã không tạo cơ hội để chặn đứng quả báo của ác nghiệp nên nay tôi phải lãnh chịu.” Hãy áp dụng 4 khía cạnh của nghiệp vào rắc rối hiện tại của bạn như thế.

Nghĩ như thế rồi hãy tự nhủ: “Đau khổ này là một bài học cho ta. Bài học này dạy rằng nếu không muốn khổ nữa thì phải từ bỏ nguyên nhân của nó là các hành vi phi đạo đức”. Đối với bất cứ nghiệp xấu nào đã được tích lũy trong thời quá khứ, điều phải làm trước hết là phải nhìn nhận lỗi lầm do có cái thân tứ đại rồi tiếp theo cần phải chấm dứt tạo thêm nghiệp xấu. Như thế, đau khổ trở thành bài học rất có giá trị.

Thí dụ, sau khi dùng phù phép để giết nhiều người và vật, Milarepa nghĩ: “Sao tôi ác độc thế, tôi phải sám hối lỗi lầm và thực hành Phật Pháp.” Milarepa được người đã dạy Ngài các phù phép khuyên đến gặp Marpa. Với niềm ao ước mãnh liệt được tu tập, Milarepa đến yết kiến Marpa, và sau đó đã giác ngộ.

Cũng vậy nhiều người, sau khi gặp lắm gian nan đã quá chán ngán đời sống thế tục, đi tìm bậc đạo sư, thọ giáo với Ngài rồi sống ẩn cư nơi thanh vắng. Họ tu tập và chứng đắc ba quả chính yếu của đạo lộ vốn là những chứng đắc cao quý của Mật Tông, và cuối cùng giác ngộ. Điều này đã xảy ra nhiều lần với nhiều người: cư sĩ, tăng và ni. Ban đầu, họ không có ý định dấn thân trọn vẹn cho Phật Pháp, nhưng sau khi trải qua quá nhiều khủng hoảng, họ mạnh mẽ phát tâm xuất gia. Sau đó, họ trở thành những tu sĩ Phật giáo thuần túy nỗ lực tu tập dù gặp trở ngại và đắc những quả chứng rất cao trên đạo lộ.

Không phải chỉ kiêng làm các nghiệp cực ác, mà còn phải cố gắng từ bỏ cả những hành vi xấu dù nhỏ nhặt, càng nhiều càng tốt. Vì không những bạn muốn tận hưởng đỉnh cao của khoái lạc mà còn muốn có những tiện nghi nhỏ cả đến một giấc mộng đẹp. Và không những bạn không muốn gặp rắc rối to, mà những bất tiện nhỏ, một giấc mộng khó chịu bạn cũng không muốn có. Vì thế, bạn nên từ bỏ những hành vi bất thiện dù nhỏ bé.

LỢI DỤNG KHỔ ĐỂ TU GIỚI

Một lợi ích khác của khổ là nhờ gặp khổ, ta đâm ra ưa mến đạo đức. “Cảnh khốn đốn khiến ta phải tu giới.” Đức Trijang Rinpoche có lần dạy rằng những rắc rối là lời cảnh báo cho ta biết nếu không muốn khổ, thì hãy ngưng làm ác và cố tích tập mọi công đức. Lúc gặp khổ điều ta thực sự mong mỏi là được an, nghĩa là không còn rắc rối. Hãy nghĩ: “Nếu ta muốn an vui, không có những rắc rối này, thì ta phải tạo cơ hội cho an vui.” Như thế, bạn dùng những oái oăm gặp phải mỗi ngày để làm bài học cho mình. Chúng gợi cảm hứng cho ta tu giới, cái nhân của an lạc.

Nếu cuộc đời suông sẻ quá, ta sẽ bị lôi cuốn vào các tiện nghi, không còn nhớ đến việc tu tập Pháp. Những nỗi khổ như hàm oan, bệnh tật, gặp nhiều mất mát… dễ khiến ta chán ghét sinh tử, hướng đến sự tu tập.

Vì ta muốn có cả đến những tiện nghi vặt vãnh, nên không những ta phải tích lũy công đức lớn lao mà cả những việc lành nhỏ bé. Ta nên tu tập ngay trong những hành vi thường nhật như ăn uống, đi đứng ngồi nằm. Thí dụ mỗi khi ăn uống, hãy tạo công đức bằng cách cúng dường Tam Bảo món ăn thức uống của mình. Hãy hết lòng thương yêu những người và vật quanh mình, cố giúp đỡ họ khi cần. Hãy cho họ những gì khiến họ vui sướng, như một lời nói dịu dàng, câu chuyện thú vị làm lợi ích cho tâm trí họ, giúp họ bớt căng thẳng, đem lại an vui. Hãy dùng thân, lời, ý để tu tập từng giây phút trong mọi trường hợp và hành vi.

DÙNG RẮC RỐI ĐỂ LUYỆN TÂM BI VÀ TÂM TỪ

Những chướng ngại cũng giúp ta phát triển lòng thương xót. Chỉ có người điên mới không thấy lòng xót thương là đáng quý. Ngay cả những người không tin có tái sinh nghiệp báo cũng thấy lòng bi mẫn là rất tốt.

Hãy nghĩ đến nhiều người cũng đang khổ như bạn hoặc khổ hơn. Dù họ gặp cùng một vấn đề như bạn, đôi khi đối với họ nó càng khó chịu hơn, hoặc họ còn có nhiều rắc rối khác hơn.

Hãy nghĩ: “Ta muốn được yên vui không muốn đau khổ như thế nào thì kẻ khác cũng muốn được yên vui và sợ bị đau khổ như thế ấy. Ta với họ đều giống nhau. Mong sao tất cả mọi người thoát khổ.” Ngoài sự phát khởi lòng xót thương vô lượng như thế, hãy phát tâm xót thương vĩ đại như sau: “Tôi sẽ giải thoát họ khỏi mọi đau khổ”. Hãy sử dụng rắc rối của mình, cách lấy để đào luyện tâm đại bi.

Khi người ta khinh bỉ hoặc xử tệ, nên nhớ ngay đến lời kệ trong Bồ Tát hạnh:

Vì đã tạo nghiệp nên ta phải bị hại như thế này

Nhưng không phải ta cũng hại người kia bằng cách khiến họ đoạ vào địa ngục đó sao?

Shantideva nói sở dĩ ta bị người hại là vì trong các đời trước ta đã gây oan nghiệp với họ. Nghiệp ấy khiến họ hại ta lại trong đời này. Họ buộc phải tạo ác nghiệp khi hại ta, và ác nghiệp này khiến họ phải đọa vào địa ngục. Khi buộc họ làm ác nghiệp tức là ta đã quăng họ vào địa ngục.

Nên nhớ lại bài kệ trên khi gặp người chơi xấu mình, ta không còn nỗi sân mà tự nhiên đâm ra thương họ. Do tình thương thúc đẩy, ta muốn giúp người bằng cả thân, lời, ý, không nghĩ đến việc trả thù. Ta chỉ muốn họ bình tâm để đừng tạo thêm ác nghiệp và giúp họ thanh lọc ác nghiệp đã tích lũy.

Cũng vậy, ta có thể dùng rắc rối để tu tập tâm từ. Khi gặp chuyện bực mình. Ta không được hạnh phúc dù tương đối hay tuyệt đối. Người khác cũng vậy. Ta và người đều muốn được hạnh phúc như nhau. Hãy nghĩ: “Tuyệt diệu thay nếu mọi người đều được hạnh phúc”. Nhưng khởi tâm từ vô lượng cũng chưa đủ, hãy khởi tâm từ vĩ đại như sau: “Tôi sẽ làm cho mọi người đều được hạnh phúc.”