PHẦN I
MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI
-ooOoo-
CHƯƠNG 1
QUYỀN HƯỞNG HẠNH
PHÚC
"Tôi tin là mục đích chính của cuộc đời là tìm
cầu hạnh phúc. Điều đó thật rõ ràng. Dù ta tin vào tôn giáo hay không, dù ta tin
vào tôn giáo này hay tôn giáo kia, tất cả chúng ta đều tìm cầu điều tốt đẹp hơn
trong đời sống. Vấy nên, tôi nghĩ rằng, động cơ chính của cuộc đời là tiến tới
hạnh phúc."
Bằng những lới nói ấy, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói
trước một số cử tọa đông đảo tại Arizona cốt lõi thông điệp của Ngài. Nhưng việc
cho rằng mục đích của đời sống là hạnh phúc dấy lên câu hỏi trong tâm tôi. Sau
này, khi không có ai, tôi hỏi Ngài:"Ngài có hạnh phúc không?"
"Có" Ngài trả lời. Ngài ngưng một chút và thêm
"Có .. chắc chắn có". Có một sự thành thực thanh thản trong giọng nói của Ngài
để lại không chút nghi ngờ - một sự thành thực phản ảnh ở vẻ mặt và trong ánh
mắt của Ngài.
"Nhưng có phải hạnh phúc là mục tiêu hợp lý cho
hầu hết tất cả chúng ta không? Tôi hỏi, "Có thể thực sự có được
không?"
"Được. Tôi tin là hạnh phúc có thể đạt được do
sự huân luyện tâm"
Ở mức độ sơ đẳng con người, tôi không thể không
trả lời về khái niệm về hạnh phúc là một mục tiêu có thể đạt được. Tuy nhiên là
một nhà chuyên gia tâm thần học, tôi gánh nặng những khái niệm như niềm tin của
Freud là " ta cảm thấy muốn nói rằng cái ý định con người phải được 'hạnh phúc'
không được bao gồm trong ý định của Đâng Sáng Tạo". Kiểu dạy dỗ này đã dẫn nhiều
người trong nghề nghiệp của tôi tới kết luận tàn nhẫn trong đó kết luận tàn nhẫn
nhất mà người ta hy vọng là sự biến cái đau khổ cuồng loạn thành sự bất hạnh
chung." Từ quan điểm này, đòi hỏi có một con đường đã được định rõ đưa tới hạnh
phúc dường như là một khái niệm hết sức cơ bản. Khi tôi nhìn lại những năm tháng
được đào tạo về ngành tâm thần học, tôi có thể nhớ lại là rất hiếm nghe thấy từ
"hạnh phúc" cả khi đề cập về mục tiêu chữa bệnh. Đương nhiên có nhiều những bài
nói về cách giảm bớt những triệu chứng thất vọng hay lo lắng của bệnh nhân, giải
quyết những mâu thuẫn nội tâm hay những vấn đề quan hệ, nhưng không bao giờ bày
tỏ rõ ràng mục tiêu tiến tới hạnh phúc.
Ở phương Tây quan niệm đạt hạnh phúc thực sự
dường như luôn luôn không được rõ ràng, khó nắm bắt và không thể hiểu được. Ngay
cả chữ "hạnh phúc" có nguồn gốc từ tiếng Băng Đảo "happ", có nghĩa là vận đỏ hay
cơ may mắn. Hầu hết chúng ta, dường như, chia sẻ quan niệm về bản chất huyền bí
của hạnh phúc. Vào những lúc vui sướng mà cuộc sống đem lại, hạnh phúc hình như
giống cái gì đó đến bất ngờ. Đối với tâm trí Tây Phương của tôi, có vẻ không có
loại công việc mà ta có thể phát triển, và duy trì, chỉ bằng cách rèn luyện
tâm."
Khi tôi đưa ra lời phản đối, Đức Đạt Lai Lạt Ma
giải thích ngay." Khi tôi nói 'huấn luyện tâm'; trên phương diện ấy, tôi không
có nói là "tâm" chỉ là khả năng nhận thức của trí tuệ người ta. Đúng hơn là, tôi
dùng thuật ngữ đó theo nghĩa tiếng Tây Tạng "Sem", nó có một ý nghĩa rộng hơn
nhiều, gần với 'tâm thần" hay 'tinh thần' hơn, nó bao gồm cả trí tuệ và cảm xúc,
con tim và khối óc. Bằng một số kỷ luật tinh thần chúng ta có thể làm thay đổi
thái độ, lối nhìn, và phương pháp sống của chúng ta.
"Khi chúng ta nói về kỷ luật tinh thần, đương
nhiên, liên can đến nhiều thứ, nhiều phương pháp. Nhưng nói chung, ta bắt đầu
nhận diện những yếu tố dẫn đến hạnh phúc và những yếu tố dẫn đến khổ đau. Làm
như vậy, ta có thể dần dần tiến đến loại bỏ các yếu tố dẫn đến khổ đau và vun
đắp các yếu tố dẫn đến hạnh phúc. Phương pháp này là thế".
Ngài Đạt Lai Lạt Ma cho rằng Ngài đã tìm thấy
một số hạnh phúc cá nhân. Suốt một tuần lễ Ngài ở Arizona, tôi đã chứng kiến
Ngài bộc lộ sao mà hạnh phúc đến thế. Khi Ngài chìa tay ra cho người khác, để
tạo sự đồng cảm và thiện chí, ngay cả trong các cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhất.
Một buổi sáng, sau khi thuyết pháp cho đại chúng
xong, Ngài đi bộ dọc theo lối dưới hàng hiên trở về khách sạn, bao quanh là đoàn
tùy tùng thường lệ. Để ý đến một nhân viên trông nom khách sạn đứng cạnh cầu
thang máy, Ngài dừng lại hỏi cô này "Cô là người ở đâu?" Cô có vẻ ngạc nhiên một
lát vì ông khách ngoại quốc trong bộ y mầu nấu và có vẻ bối rối vì sự tôn trọng
của đoàn tùy tùng. Rồi cô ta mỉm cười và bẽn lẽn trả lời "Mễ Tây Cơ". Ngài
chuyện trò với cô ta một lúc và bước đi để lại trên gương mặt cô ta niềm hân
hoan và hứng thú. Sáng hôm sau, cũng vào giờ đó, cô này cũng đứng tại chỗ như
hôm trước với một nhân viên khách sạn nữa, cả hai đều nồng hậu chào Ngài khi
Ngài bước vào cầu thang máy. Sự tương tác thật ngắn ngủi, nhưng cả hai hình như
phân khởi vì hạnh phúc khi trở lại làm việc. Sau đó cứ mỗi ngày lại có thêm một
vài nhân viên khách sạn nữa đến đúng giờ và chỗ ấy, cho đến cuối tuần có nhiều
chiêu đãi viên tề chỉnh trong bộ đồng phục xám-trắng đứng thành một hàng dài dọc
theo con đường dẫn đến thang máy đứng chào đón Ngài.
Ngày của chúng ta được đánh số. Vào mỗi khoảnh
khắc, hàng ngàn trẻ sinh ra đời, số phận cho một số chỉ sống vài ngày hay vài
tuần, và chết một cách bi thảm vì đau yếu hay bất hạnh khác. Số phận cho một số
khác sống đến mức của thế kỷ, và có lẽ vượt qua cả mức này một chút, và nếm trải
hương vị của cuộc đời phải xẩy ra: chiến thắng, thất vọng, vui sướng, hận thù và
yêu thương. Chúng ta không bao giờ biết được. Nhưng dù sống một ngày hay sống
trăm tuổi, câu hỏi chính bao giờ cũng vẫn là: Mục đích cuộc đời là gì?" Cái gì
làm cho đời sống của chúng ta có ý nghĩa?
Mục đích cuộc sống là tìm cầu hạnh phúc. Điều đó
ình như là lẽ thường và những nhà tư tưởng Tây Phương từ Aristotle đến William
James đều đồng ý về ý tưởng này Nhưng phải chăng đời sống không dựa vào sự tìm
cầu hạnh phúc cá nhân bằng bản tính tự cho mình là trung tâm (ích kỷ), thấm chí
buông thả (tư vị)? Không cần thiết. Thật ra, hết cuộc khảo sát này đến cuộc khảo
sát khác cho thấy chính những người bất hạnh hay thường thu mình lại nhất và
thường không thích giao du, ủ rũ, thấm chí thù địch. Trái lại người hạnh phúc,
thường thấy thích giao du, linh hoạt, và sáng tạo, và có thể chịu đựng được
những khó chịu thường nhật trong cuộc sống dễ dàng hơn người bất hạnh. Và quan
trọng nhất là người ta thấy họ thương yêu và tha thứ nhiều hơn người bất
hạnh.
Những nhà nghiên cứu cứu đã nghĩ ra một số thử
nghiệm rất hay cho thấy người hạnh phúc biểu lộ một số đức tính như chân thật,
sẵn sàng chìa tay giúp đỡ người khác. Chẳng hạn họ xoay trở để mang lại tâm
trạng vui vẻ trong một đề tài thí nghiệm bằng cách dàn xếp cho người ta vô tình
tìm được tiền trong một phòng điện thoại công cộng. Giả bộ là môt người xa lạ,
trong những người thí nghiệm đi ngang qua và tình cờ để rớt nhiều giấy tờ. Người
điều tra nghiên cứu muốn biết đối tượng có ngừng lại để giúp đỡ người lạ kia
không. Trong một kịch bản khác, tinh thần của các đối tượng được nâng cao bằng
cách nghe một bản hợp tuyển hài kịch, thì một người thiếu thốn (giả dạng để thí
nghiệm) tiếp cận họ và hỏi vay tiền. Những người điều tra nghiên cứu khám phá ra
rằng những đối tượng cảm thấy hạnh phúc thường sẵn sàng giúp đỡ hay cho vay tiền
hơn là nhóm đối tượng cũng được đặt vào hoàn cảnh như vậy để giúp đỡ nhưng với
tâm trạng không được khích lệ trước.
Trong khi những loại thí nghiệm này mâu thuẫn
với khái niệm theo đuổi và đạt được hạnh phúc cá nhân đều dẫn đến vị kỷ và tư vị
thì chúng ta có thể tiến hành các cuộc thí nghiệm riêng của chúng ta trong phòng
thí nghiệm của đời sống hàng ngày. Thí dụ, giả sử chúng ta bị kẹt xe. Sau hai
mươi phút, cuối cùng nó bắt đầu chuyển động nhưng với tốc độ chậm như đi diễu
hành. Chúng ta nhìn thấy xe bên cạnh bật đèn muốn chuyển làn đường đi trước mặt
chúng ta. Nếu chúng ta ở trong tâm trạng vui vẻ, chúng ta sẵn sàng chậm lại và
để cho xe ấy sang đi trước chúng ta. Nhưng nếu chúng ta cảm thấy khó chịu, phản
ứng của chúng ta là tăng tốc độ để xe kia không sang được."Tôi lúc nào cũng bị
kẹt xe nơi đây, tại sao họ không chứ?"
Chúng ta bắt đầu với tiền đề căn bản là mục đích
đời ta là tìm cầu hạnh phúc. Nhìn nhận hạnh phúc như một mục tiêu thực sự, ta có
thể bước đi với những bước tích cực để thành công. Và ta bắt đầu nhận ra những
yếu tố dẫn đến một cuộc sống hạnh phúc hơn, chúng ta sẽ học hỏi cách tìm cầu
hạnh phúc, đem lợi ích không chỉ cho cá nhân mà cho gia đình và cả xã hội nói
chung.
-ooOoo-
CHƯƠNG 2
NGUỒN GỐC HẠNH
PHÚC
Hai năm trước, một người bạn tôi có một sự may
mắn bất ngờ. Muời tám tháng trước đó, cô ấy đã bỏ nghề làm y tá để đi làm việc
cho hai người bạn bắt đầu mở một công ty y tế. nhỏ Hãng này thành công nhanh
chóng, và chỉ trong vòng mười tám tháng họ được một hãng lớn mua lại bằng một
món tiền lớn. Vì đã tham gia ngay từ lúc thành lập, dần dần bằng quyền mua cổ
phần, bạn tôi đã nổi bật lên sau khi mua hầu hết các cổ phần - đủ cho cô ta có
thể về hưu ở tuổi 32. Cách đây không lâu tôi gặp cô và hỏi cô hưởng sự vui vẻ ra
sao với sự về hưu của cô. Cô nói " Thật là tuyệt diệu khi có thể đi du lịch và
làm những việc mà tôi hằng mong muốn". Nhưng, cô nói thêm," Lạ lùng là sau khi
những hân hoan vì được nhiều tiền qua đi, tất cả mọi sự trở lại bình thường. Tôi
muốn nói là có những thứ khác biệt - tôi mua một cái nhà và đồ đạc- nhưng nói
chung tôi cũng chẳng thấy hạnh phúc nhiều hơn trước đây"
Cũng trong khoảng thời gian mà bạn tôi thu được
nhiều lờ lãi trời cho ấy, tôi có một người bạn khác cũng cỡ tuổi ấy phát hiện
mang vi rút HIV. Tôi có nói chuyện với anh về việc anh đã phải đối phó với tình
trạng HIV" như thế nào. Anh nói: "Đương nhiên đầu tiên tôi rụng rời cả người.
Phải mất gần một năm, tôi mới chấp nhận sự thật là tôi thực sự mang vi rút HIV.
Nhưng một năm qua mọi việc đã thay đổi. Dường như tôi ra ngoài hàng ngày nhiều
hơn trước đây, và trên cơ sở từng lúc, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn trước. Tôi
đúng là có vẻ cảm nhận được chuyện hàng ngày nhiều hơn, và may mắn cho tôi là
cho tới này chưa có triệu chứng gì nghiêm trọng về bệnh AIDS cả và tôi có thể
thực sự vui hưởng những gì tôi có. Dù cho tôi không mang vi rút HIV, tôi phải
công nhận rằng trên một số phương diện nào đó đã biến đổi đời tôi trên những
phương diện tích cực."
"Trên những phương diện nào?" Tôi hỏi
anh.
"Chẳng hạn như anh biết tôi thường có khuynh
hướng là một nhà duy vật chủ nghĩa đã thành cố tật. Nhưng trên một năm qua đi
đến chấp nhận cái chết của tôi đã mở ra một thế giới hoàn toàn mới. Tôi bắt đầu
khảo sát tính chất tinh thần lần đầu tiên trong đời tôi, đọc nhiều sách về đề
tài này và nói chuyện với nhiều người... tôi khám phá ra nhiều điều mà trước đây
tôi không bao giờ nghĩ tới. Điều đó khuấy động tôi vào buổi sáng khi thức dạy,
xem hôm nay sẽ mang lại gì".
Hai trường hợp trên làm sáng tỏ cho vấn đề cốt
yếu hạnh phúc được định đoạt do tình
trạng của tâm hơn là do những biến chuyển bên ngoài. Thành công có thể dẫn đến cảm giác phân khởi tạm thời,
hay thảm kịch có thể đưa chúng ta vào một giai đoạn thất vọng, nhưng sớm muộn
thì toàn bộ mức độ hạnh phúc của chúng ta cũng có
khuynh hướng chuyển trở lại điểm xuất phát nào
đó. Các nhà tâm lý học gọi tiến trình này là sự thích nghi, và chúng ta có thể
thấy nguyên tắc đó hành động ra sao trong đời sống hàng ngày, lên lương, xe mới,
hay sự công nhận từ những người cùng địa vị có thể nâng cao tâm trạng của chúng
ta một lúc nhưng chẳng bao lâu chúng ta lại trở về với mức hạnh phúc thường lệ.
Cũng giống như vậy, tranh luận với bạn bè, xe đem sửa tại xưởng chữa xe, hay một
vết thương nhẹ có thể đưa chúng ta vào một tâm trạng khó chịu, nhưng chỉ chừng
vài hôm sau, tinh thần chúng ta lại trở lại bình thường.
Khuynh hướng này không bị hạn chế trước những
việc vặt vãnh hàng ngày nhưng vẫn còn dai dẳng ngay cả khi ở trong tình trạng
hân hoan chiến thắng cực đoan hay thất bại hoàn toàn. Những nhà nghiên cứu khảo
sát những người trúng số tại Tiểu Bang Illinois (Hoa Kỳ) và những người thắng
trong các cuộc cá độ bóng đá tại Anh chẳng hạn, thấy rằng phân khích cao độ lúc
đầu cưối cùng cũng qua đi, và những người thắng trở lại tầm hạnh phúc thường lệ.
Và những cuộc nghiên cứu khác đã chứng minh rằng thậm chí cả những người bị đau
khổ những vì những hậu quả bi thảm họa điển hình như ung thư, mù, hay tê liệt
cũng khôi phục được hạnh phúc từng ngày ở mức bình thường hay gần bình thường
sau một thời gian điều chỉnh thích hợp.
Cho nên, nếu chúng ta muốn trở về với mức hạnh
phúc tiêu chuẩn bất kể những hoàn cảnh bên ngoài ra sao thì điều gì xác định
thước đo tiêu chuẩn? Và quan trọng hơn là, có thể thay đổi nó không, sửa ở mức
độ cao hơn không? Nhiều nhà nghiên cứu mới đây lập luận rằng mức độ hạnh phúc
tiêu biểu của cá nhân hay tình trạng sức khỏe do di truyền quyết định, ít nhất ở
một mức độ nào đó. Những cuộc nghiên cứu như cuộc nghiên cứu tìm thấy ở những
cặp song sanh (chia sẻ cùng cấu trúc gien) có xu hướng có mức độ sức khỏe rất
giống nhau - dù chúng được nuôi dưỡng chung hay riêng - đã đưa những người điều
tra nghiên cứu đến mặc nhiên công nhận điểm định vị sinh học cho hạnh phúc, kết
nối với bộ não vào lúc sanh.
Nhưng dù cơ cấu di truyền có đóng vai trò trong
hạnh phúc - tuy vẫn chưa có kết luận về vai trò đó rộng lớn đến đâu - có một sự
đồng ý chung giữa những nhà tâm lý học rằng bất kỳ mức hạnh phúc nào, chúng ta
được phú cho bởi tạo hóa, thì chúng ta cũng có những biện pháp để tạo ra bằng
"những yếu tố tâm", để nâng cao cảm tưởng hạnh phúc của chúng ta. Đó là vì hạnh
phúc từng lúc của chúng ta chủ yếu được xác định bằng cách nhìn cuộc sống của
chúng ta. Thực ra, dù ta cảm thấy hạnh phúc hay không hạnh phúc vào lúc nào đó
không có liên quan gì đến mọi mặt hoàn cảnh của chúng ta nhưng, đúng hơn nó là
một chức năng của việc chúng ta nhận thức tình thế của chúng ta như thế nào,
chúng ta mãn nguyện ra sao với cái chúng ta có.
Cái gì hình thành sự nhận thức mức độ thỏa mãn
của chúng ta? Cảm giác thỏa mãn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi khuynh hướng so bì của
chúng ta. Khi chúng ta so sánh hoàn cảnh hiện tại với quá khứ và thấy khá hơn,
chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Chẳng hạn, tình cờ thu nhập của chúng ta bỗng nhiên
nhẩy từ $25000 đến $30000 một năm, nhưng không phải tổng số tiền thu nhập làm
chúng ta hạnh phúc, rồi chẳng bao lâu khi chúng ta quen với đồng lương mới, lại
khám phá ra rằng chúng ta sẽ chưa hạnh phúc vnếu không kiếm được $40000 một năm.
Chúng ta cũng nhìn quanh và so sánh mình với những người khác Dù chúng ta kiếm
được bao nhiêu, chúng ta vẫn có khuynh hướng không thỏa mãn với thu nhập của
mình nếu người láng giềng làm nhiều tiền hơn mình. Những vận động viên nhà nghề
phàn nàn cay đắng về lương bổng hàng năm của họ 1 triệu, 2 triệu, hoặc 3 triệu,
khi viện dẫn tiền lương cao của đồng đội để biện minh cho bất hạnh của họ.
Khuynh hướng này dường như hậu thuẫn định nghĩa của H.L. Menckens về người giàu
có: người có thu nhập cao hơn người anh em đồng hao $100 một năm.
Cho nên chúng ta có thể thấy cảm giác thỏa mãn
trong cuộc sống thường tùy thuộc vào người mà ta so sánh. Đương nhiên, chúng ta
so sánh nhiều thứ khác ngoài thu nhập. So sánh không ngừng với những người khôn
khéo hơn, đẹp hơn, thành công hơn chúng ta hay sinh ra thèm muốn, đố kị, thất
vọng và bất hạnh. Nhưng chúng ta có thể sử dụng cũng nguyên tắc này một cách
tích cực, chúng ta có thể gia tăng trưởng cảm giác thỏa mãn trọn cuộc sống bằng
cách so sánh với những người không được may mắn như chúng ta và suy ngẫm về tất
cả những gì chúng ta có.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành một số thí
nghiệm cho thấy mức độ thỏa mãn trong cuộc sống có thể nâng cao dễ dàng bằng
cách thay đổi cách nhìn của mình và dự liệu sự việc có thể tồi tế đến như thế
nào. Trong một cuộc nghiên cứu, các nữ sinh tại Đại Học Wisconsin ở Milwaukee
được cho xem những hình ảnh về tình trạng sống tột cùng khắc nghiệt ở Milwaukee
lúc bước ngoặt của thế kỷ này hay được yêu cầu tưởng tượng và viết về sự chịu
đựng bi thảm cá nhân như bị bỏng hay mặt mày bị biến dạng xấu xí. Sau khi làm
xong bài tập này, các nữ sinh được yêu cầu đánh giá chất lượng đời sống mình.
Bài tập này kết quả làm tăng thêm cảm giác thỏa mãn với cuộc sống của họ. Trong
một cuộc thí nghiệm khác tại Đại Học Nữu Ước ở Buffalo, các đối tượng được yêu
cầu hoàn thành câu "Tôi sung sướng, tôi không phải là ..." Sau 5 lần làm bài tập
này, các đối tượng trải nghiệm cảm giác thỏa mãn trong cuộc sống cao rõ rệt..
Một nhóm đối tượng khác được yêu cầu điền trọn nghĩa câu "Tôi ước tôi là ..."
Lần này, thí nghiệm làm cho đối tượng có cảm giác bất mãn với cuộc sống của
họ.
Những cuộc thí nghiệm này cho thấy chúng ta có
thể làm tăng hay làm giảm cảm giác thỏa mãn về cuộc sống của chúng ta bằng cách
thay đổi lối nhìn của chúng ta, vạch rõ ưu thế của cách nhìn tinh thần của ta
vào cách sống một cuộc đời sống phúc.
Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích: "Mặc dù có thể đạt hạnh phúc, nhưng hạnh phúc
không phải là một việc đơn giản. Có nhiều mức độ. Chẳng hạn trong Phật Giáo có
bốn yếu tố làm tròn nhiệm vụ hay hạnh phúc: tài sản, thỏa mãn trần tục, tính
chất tinh thần, và giác ngộ. Tất cả những thứ đó bao gồm toàn bộ sự tìm kiếm
hạnh phúc của một cá nhân.
Chúng ta hãy tạm gác lại một bên khát vọng tôn
giáo tối thượng hay tinh thần như sự toàn thiện và giác ngộ mà chỉ đề cập đến
niềm vui và hạnh phúc như chúng ta hiểu chúng theo ý nghĩa hàng ngày và thế gian
Trong phạm vi đó có một số những yếu tố then chốt mà chúng ta thường thừa nhận
góp phần vào niềm vui và hạnh phúc. Thí dụ, sức khỏe tốt được coi là một trong
những nhân tố cần thiết cho đời sống hạnh phúc. Một nhân tố khác mà ta coi như
nguồn gốc của hạnh phúc là những tiện nghi vật chất, hay của cải mà ta tích lũy.
Một nhân tố phụ nữa là có bầu có bạn hay bạn đường. Tất cả chúng ta đều công
nhận muốn vui hưởng một cuộc sống hoàn toàn chúng ta cần đến một nhóm bạn để có
thể tỏ bày tâm sự và tin cậy.
"Nếu chúng ta sử dụng hoàn cảnh thuận lợi như
sức khỏe hay của cải theo đường lối tích cực để giúp người, chúng sẽ là những
nhân tố góp phần vào việc đạt dược một đời sống hạnh phúc hơn. Và đương nhiên
chúng ta vui thích những thứ này - những tiện nghi vật chất, thành công của ta
vân vân... Nếu không có thái độ tinh thần đúng, không lưu ý đến nhân tố tinh
thần, những thứ ấy tác động rất ít đến cảm giác hạnh phúc về lâu về dài. Thí dụ,
bạn ấp ủ sâu trong lòng tư tưởng hận thù hay giận dữ nóng nảy ở nơi nào đó, rồi
thì nó hủy hoại sức khỏe của bạn bị hại, như vậy một nhân tố đã bị tiêu diệt.
Cũng như thế, nếu tinh thần bạn không vui và chán nản, thì nguồn an ủi vật chất
cũng không giúp ích gì được nhiều. Ngược lại, nếu bạn có thể giữ được bình tĩnh,
tâm trạng an ổn, thì bạn sẽ là một người rất hạnh phúc dù cho sức khỏe của bạn
không tốt. Hay, dù bạn có những kỳ vật, khi bạn ở trong cơn thịnh nộ hay sân
hận, bạn muốn quẳng chúng hết chúng đi, hoặc đập phá chúng. Vào lúc đó của cải
của bạn không nghĩa lý gì. Ngày nay có những xã hội rất phát triển về vật chất,
trong lòng những xã hội này, có rất nhiều người không hạnh phúc. Ngay dưới cái
bề mặt giàu có đẹp đẽ sung túc hồ như có sự bất an tinh thần, dẫn đến thất vọng,
những cuộc cãi vã không cần thiết, trông cậy vào ma túy hay rượu chè, và trường
hợp xấu nhất, tự tử. Cho nên chẳng có gì bảo đảm là chỉ có của cải có thể mang
lại niềm vui hay cảm giác thỏa mãn mà bạn đang tìm kiếm. Cũng có thể nói như vậy
đối với bạn bè của bạn. Khi bạn đang trong cơn thịnh nộ hay sân hận, cả đến
người bạn rất thân của bạn xuất hiện thì bạn cũng lạnh nhạt, hờ hững, xa cách,
và rất khó chịu.
"Tất cả những điều này cho thấy ảnh hưởng lớn
lao mà tình trạng tinh thần, nhân tố tâm, tác động với kinh nghiệm đời sống hàng
ngày của chúng ta. Lẽ tự nhiên ta phải coi nhân tố đó rất quan trọng.
"Cho nên hãy tạm gác việc xem xét triển vọng của
sự rèn luyện tinh thần, thì ngay cả trong điều kiện trần tục, bằng sự vui hưởng
sống hạnh phúc từng ngày, mức độ tĩnh tâm càng lớn thì tâm càng an lạc, khả năng
vui hưởng cuộc đời hạnh phúc và sung sướng càng lớn ."
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút như thể để ý tưởng ấy lắng xuống, Ngài còn
nói thêm: "Tôi phải nói là khi chúng ta nói về tình trạng bình tĩnh của tâm hay
an lạc của tâm, chúng ta không nên lẫn lộn với hoàn toàn một cảm giác, tình
trạng đờ dẫn của tâm vì tâm trong tình trạng bình tĩnh hay an lạc không có nghĩa
là hoàn toàn không còn gì hay trống rỗng. Sự an lạc của tâm hay tình trạng bình
tĩnh của tâm được phát triển và chịu ảnh hưởng từ tình thương yêu và từ bi. Ở đó
có mức nhậy cảm và cảm xúc rất cao."
Tóm tắt, Ngài nói:"Chừng nào không còn có kỷ
luật tinh thần, vì kỷ luật này mang lại bình tĩnh cho tâm, thì dù cho tiện nghi
hay hoàn cảnh bên ngoài ra sao, chúng cũng không bao giờ đem đến cho bạn cảm
giác sung sướng hay hạnh phúc mà bạn đang tìm cầu. Mặt khác, nếu bạn có đức tính
tinh thần này, sự bình tĩnh của tâm thì cho dù bạn có thiếu nhiều tiện nghi bên
ngoài mà bạn vẫn thường coi là cần thiết cho hạnh phúc, bạn vẫn có thể sống một
cuộc sống hạnh phúc và sung sướng.
Đi qua bãi đậu xe của khách sạn trên dường đi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma một buổi
chiều, tôi ngừng lại và ngắm cái xe Toyota Land Cruiser mới toanh, loại xe mà
tôi hằng mong ước từ lâu. Đang còn nghĩ về chiếc xe khi tôi bắt đầu cuộc gặp gỡ,
tôi hỏi "Đôi khi dường như toàn bộ nền văn hóa của chúng tôi, văn hóa Tây
Phương, dựa vào sự thu thập vật chất, chúng tôi bị bao vấy, tân công tới tấp với
những quảng cáo cho những thứ mới nhất, xe hơi mới nhất vân vân... Thật khó mà
không bị ảnh hưởng bởi điều đó. Có quá nhiều thứ chúng ta muốn, những thứ chúng
ta khao khát. Việc này dường như không bao giờ ngưng. Ngài có thể nói một chút
về ham thích không?"
"Tôi nghĩ rằng có hai loại ham thích", Ngài trả
lời."Một số ham thích thì tích cực, ham thích hạnh phúc. Điều đó tuyệt đối chính
đáng. Khát vọng hòa bình. Ham muốn thế giới hòa hợp hơn, một thế giới thân thiện
hơn. Một số ham thích rất hữu ích.
"Nhưng ở một điểm nào đó, ham thích có thể trở
nên không hợp lý. Cái đó thường đẫn đến rắc rối. Giờ đây, thí dụ, đôi khi tôi
đến thăm một siêu thị. Tôi thực sự thích đi xem siêu thị vì tôi có thể xem nhiều
thứ rất đẹp. Cho nên khi tôi nhìn thấy tất cả những món hàng khác nhau, tôi phát
triển cảm nghĩ ham thích và sự thôi thúc đầu tiên của tôi là:tôi muốn cái này,
tôi muốn cái kia". Rồi ý nghĩ thứ hai phát sinh, tội tự hỏi: "Tôi có thực sự cần
dùng cái này không? Câu trả lời thường là "không". Nếu bạn theo duổi sự ham
thích đầu tiên đó, sự thôi thúc đầu tiên đó, rồi thì chẳng máy chốc túi tiền của
bạn sẽ trống rỗng. Tuy nhiên, một sự ham thích khác, căn cứ vào nhu cầu cần
thiết về thực phẩm, quần áo, và chỗ ở, là điều hợp lý hơn.
"Đôi khi dù sự ham thích có là quá mức hoặc tiêu
cực hay không còn tùy thuộc vào hoàn cảnh hay xã hội mà chúng ta sống. Thí dụ,
bạn sống trong một xã hội thịnh vượng nơi mà chiếc xe hơi giúp bạn giải quyết
công việc hàng ngày, thì lẽ đương nhiên không có gì sai khi ham thích một chiếc
xe. Nhưng nếu bạn sống trong một làng nghèo ở Ấn Độ nơi mà bạn có thể giải quyết
ổn thỏa công việc mà không cần phải có xe mà bạn vẫn còn ham thích xe hơi, dù
cho bạn có đủ tiền mua xe, việc này nhất định đem phiền toái cho bạn. Việc đó có
thể tạo ra cảm giác khó chịu cho những người láng giềng bạn và vân vân... Hoặc,
nếu bạn sống trong một xã hội phồn vinh hơn và bạn có xe hơi, nhưng cứ muốn có
xe hơi sang trọng đắt tiền, cũng dẫn bạn đến cùng một vấn đề".
"Nhưng", tôi lý luận, "Tôi không thể hiểu làm
sao mà muốn hoặc mua xe hơi đắt tiền lại dẫn đến phiền hà cho họ khi có tiền
mua. Vì có chiếc xe đắt tiền hơn người lối xóm có thể là một vấn đề - họ có thể
ganh ghét vân vân... nhưng vì có một chiếc xe sẽ cho bạn, chính bạn, một cảm
giác thỏa mãn và vui sướng".
Đức Đạt Lai Lạt Ma lắc đầu và quả quyết: "Không, Chỉ riêng sự thỏa mãn không
thôi không thể xác định được liệu một ham thích hay một hành động là tích cực
hay tiêu cực. Kẻ giết người cảm thấy mãn nguyện khi giết người, nhưng không thể
biên hộ cho hành động của mình. Tất cả những hành động vô đạo đức - nói dối,
trộm cắp, tà dấm vân vân.. vi phạm bởi những người có cảm giác thỏa mãn vào lúc
ấy. Ranh giới giữa ham thích hoặc hành động tích cực và tiêu cực không phải là
vấn đề nó có cho bạn cảm giác thỏa mãn lập tức hay không mà là vấn đề cuối cùng
nó dẫn đến kết quả tích cực hay tiêu cực. Thí dụ, trong trường hợp muốn có nhiều
của cải đắt tiền hơn, nếu điều đó chỉ là là có ý muốn càng ngày càng nhiều thêm,
rồi thì cuối cùng bạn sẽ tiến tới giới hạn cái mà bạn có thể đạt được; bạn sẽ đi
ngược thực tế. Và khi bạn tới giới hạn đó rồi, bạn sẽ mất hết hy vọng, và rơi
vào thất vọng, vân vân... Đó là một sự nguy hiểm gắn liền với loại ham thích đó.
"Cho nên tôi nghĩ loại ham thích quá đỗi dẫn đến
tham - một dạng thức ham thích quá mức, vì ham muốn thái quá. Và khi bạn ngẫm
nghĩ về sự tham lam quá mức, bạn sẽ thấy nó dẫn người ta đến cảm nghĩ nản lòng,
thất vọng, nhiều xáo trộn, và nhiều vấn đề.
"Khi nói đến vấn đề tham, một điều nổi bật là
mặc dù nó đến bởi sự ham thích có được thứ nào đó, nhưng có rồi mà lòng tham vẫn
không được thỏa mãn. Cho nên lòng tham trở thành vô hạn, lòng tham vô đáy dẫn
đến phiền muộn bất an. Một điều đáng quan tâm về tham là mặc dù động cơ thật sự
là mưu cầu sự thỏa mãn, nhưng trớ trêu là ngay cả đến khi bạn đã đạt được điều
mong muốn, bạn vẫn chưa thỏa mãn. Thuốc giải độc thực sự của tham là sự bằng
lòng Nếu bạn có cảm giác bằng lòng mạnh mẽ, chẳng có gì quan trọng dù bạn đạt
được hay không đạt được điều mong muốn, đằng nào bạn vẫn bằng lòng".
Vậy làm sao ta có thể đạt được sự bằng lòng nội
tâm? Có hai phương pháp. Một phương pháp là đạt mọi thứ mà bạn muốn và ham
thích- tất cả nào là tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, nào là bạn bè tâm đầu ý hợp, và
thân hình toàn hảo. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ rõ sự bất lợi của phương pháp này,
nếu những mong muốn và ham thích vẫn không kiểm soát được, không chóng thì chày
bạn lại vấp phải thứ mà bạn muốn mà không đạt được. Phương pháp thứ hai,đáng tin
cậy hơn, phương pháp không cần phải có thứ mà mình muốn mà đúng hơn là muốn và
đánh giá cao cái mà chúng ta có."
Một đêm nọ, tôi đang xem cuộc phỏng vấn truyền
hình với Christopher Reeve, người tài tử bị ngã ngựa năm 1994 và bị thương tủy
sống khiến ông ta bị tê liệt hoàn toàn từ cổ trở xuống, phải thở bắng máy dưỡng
khí. Khi người phóng viên hỏi ông làm sao ông có thể giải quyết nổi phiền muộn
do tàn phế của ông, Reeve tiết lộ ông đã trải qua một thời gian ngắn hoàn toàn
thất vọng khi ở trong phòng theo dõi bệnh nặng tại bệnh viện. ông tiếp tục và
nói tuy nhiên những cảm nghĩ thất vọng qua đi mau tương đối, và bây giờ ông
thành thực coi ông là một người "may mắn". ông kể đến những phước lành có một
người vợ và những đứa con thương yêu ông, và cũng nói đến sự biết ơn của ông về
những tiến bộ nhanh chóng của y học hiện đại (mà ông đánh giá là sẽ tìm được
cách chữa lành bị thương tủy sống bị thương vào thập niên tới), ông cũng nói nếu
ông bị thương trước đây vài năm thì chắc chắn ông đã chết vì thương tổn này.
Trong khi mô tả quá trình thích nghi với sự tàn phế của mình, Reeve nói trong
khi những cảm nghĩ thất vọng được giải quyết khá nhanh chóng, thì lúc đầu ông
vẫn còn bị khổ sở bởi từng cơn ghen tị dằn vặt do những lời nói vô tình ngẫu
nhiên như:"Tôi sẽ lên gác lấy cái này". Học cách giải quyết những cảm nghĩ đó,
ông nói " Tôi nhận ra con đường duy nhất để vào đời là hãy nhìn vào tài sản của
mình, thấy những gì có thể vẫn làm được; như trong trường hợp của tôi, tôi may
mắn không bị chân thương, cho nên tôi vẫn còn đầu óc để sử dụng." Tập trung sức
mạnh của mình bằng cách ấy, Reeve đã quyết định dùng đầu óc của mình để tăng
thêm ý thức và giáo dục quần chúng về thương tổn tủy sống, giúp đỡ những người
khác, có những chương trình tiếp tục diễn thuyết cũng như viết văn và đạo diễn.
Chúng ta đã nhìn thấy nhãn quan tinh thần tác
động như thế nào khi nó là phương tiện để đạt hạnh phúc hữu hiệu hơn là mưu tìm
hạnh phúc qua các nguồn bên ngoài như của cải, địa vị, và thậm chí sức khỏe thể
chất. Một suối nguồn bên trong khác của hạnh phúc, liên kết chặt chẽ với cảm
nghĩ thỏa mãn trong lòng, là ý thức về giá trị của chính mình. Mô tả cơ sở đáng
tin cậy nhất để phát triển ý thức về giá trị của chính mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma
giảng giải:
"Bây giờ thí dụ, trong trường hợp của tôi, giả
dụ tôi không có cảm nghĩ sâu xa của con người, không có khả năng dễ dàng kiến
tạo các bạn tốt. Không có điều đó, khi mất nước, quyền lực chính trị không còn
tại Tây Tạng, trở thành một người tị nạn lẽ ra đã là rất khó khăn. Khi tôi còn ở
Tây Tạng, vì thể chế chính trị đã được ân định ở một mức độ nào đó người ta tôn
trọng Văn Phòng của Đạt Lai Lạt Ma, và những người có liên quan với tôi một cách
phù hợp dù họ có mến mộ tôi thực sự hay không. Nhưng nếu điều đó là co sở duy
nhất trong mối quan hệ hướng về tôi của người dân thì khi tôi bị mất; điều đó
đáng kể là cực kỳ khó khăn. Nhưng có một nguồn suối khác của giá trị và phẩm
hạnh mà từ đó người ta có thể cảm thông được với đồng loại. Bạn vẫn có thể cảm thông với họ vì bạn vẫn là con người
trong cộng đồng nhân loại. Bạn chia sẻ sự ràng buộc đó. Và sự ràng buộc con
người đó đủ đem dến ý thức về giá trị và phẩm cách Sự ràng bưộc này có thể trở
thành một suối nguồn an ủi trong biến cố mà khi bạn mất tất cả mọi thứ
khác"
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lai một lát và nhấp một hớp nước trà, lắc đầu rồi
nói thêm: "Không may, khi bạn đọc lịch sử, bạn thấy nhiều trường hợp hoàng đế
hay vua chúa trong quá khứ đã bị mất ngôi do biến động chính trị bị đuổi ra khỏi
xứ sở, nhưng câu chuyện về sau không mấy tích cực cho họ. Tôi nghĩ rằng không có
cảm xúc thương yêu và liên hệ với người đồng loại khác, đời sống trở nên cực kỳ
khó khăn.
"Nói chung, bạn có thể trở thành hai loại người
khác nhau. Một mặt bạn có thể trở thành một người giàu có thành công, bao quanh
bởi thân quyến vân vân...Nếu nguồn gốc về phẩm giá và ý thức về giá trị con
người đó chỉ là vật chất, rồi chừng nào vẫn còn của cải, có thể người đó còn
thấy yên ổn. Nhưng khi của cải suy tàn, người đó sẽ đau khổ vì không có nơi
nương tựa nào khác. Mặt khác, bạn có thể trở thành người có tình trạng kinh tế
tương tự và tài chánh thành công, nhưng đồng thời là người nồng hậu, thương yêu
trìu mến và có lòng trắc ẩn. Vì loại người này có một nguồn giá trị nữa, khiến
cho người này có ý thức về phẩm giá, một nơi nương tựa, ít có khả năng bị phiền
não nếu của cải mất đi. Qua kiểu lập luận này, bạn có thể thấy giá trị hết sức
thực tiễn về sự nồng hậu và tình thương yêu con người trong việc phát triển ý
thức nội tâm về giá trị."
Vài tháng sau những cuộc nói chuyện của Ngài tại
Arizona, tôi đến thăm nhà Ngài tại Dharmasala. Vào một buổi chiều tháng Bảy, hết
sức nóng bức và ẩm ướt, tôi đến nhà Ngài mồ hôi nhễ nhại sau một cuộc leo dốc
ngắn ngủi từ dưới làng. Đến từ nơi khí hậu khô, tôi thấy sự ẩm ướt hầu như không
chịu nổi vào ngày đó, tôi không ở trong tâm trạng thuận lợi khi ngồi xuống bắt
đầu cưộc đối thoại. Ngược lại dường như Ngài có tâm trạng khoan khoái. Sau khi
hàn huyên ngắn, chúng tôi quay về đề tài lạc thú. Có lúc trong cuộc thảo luận,
Ngài có nhận xét rất quan trọng:
"Bây giờ, đôi khi người ta lẫn lộn hạnh phúc với
lạc thú. Thí dụ, cách đây không lâu, tôi có nói chuyện với cử tọa người Ấn tại
Rajpur. Tôi đề cập đến mục đích của đời sống là hạnh phúc, vậy mà môt cử tọa
phát biểu là Rajneesh dạy rằng lúc hạnh phúc nhất là lúc hoạt động tình dục, cho
nên qua tình dục ta có thể trở thành người hạnh phúc nhất."Đức Đạt Lai Lạt Ma
cười thật sự." ông ta muốn biết ý kiến của tôi về quan điểm đó. Tôi trả lời theo
quan điểm của tôi, hạnh phúc cao nhất là khi ta đạt được tình trạng Giải thoát,
ở tình trạng này không còn đau khổ. Đó là hạnh phúc đích thực và trường cửu.
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ
thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không "
Nhìn bề ngoài, điều đó có vẻ giống như là một
nhận xét khá hiển nhiên; dĩ nhiên hạnh phúc và lạc thú là hai thứ riêng biệt. Và
chúng ta những con người thường lẫn lộn hai thứ này. Không bao lâu sau khi trở
về nhà, trong một buổi chữa bệnh cho một bệnh nhân, tôi đã được chứng minh cụ
thể rằng chính nhận thức có sức mạnh đến như thế nào. Heather là một thiếu nữ
độc thân làm luật sư tại vùng Phoenix. Mặc dù cô thích làm việc với những đứa
trẻ bất hảo, nhưng đến một lúc nào đó cô ngày càng không vừa ý sống tại vùng
này. Cô thường phàn nàn nào dân số đông, nạn kẹt xe, và cái nắng gay gắt vào mùa
hè. Cô kiếm được một công việc tại một thành phố nhỏ trên núi. Thực ra cô đã
thăm thành phố này trước đây nhiều lần và mộng ước được chuyển về đây. Thật là
tuyệt diệu. Vân đề duy nhất là công việc của cô dính líu đến khách hàng là người
trưởng thành. Trong nhiều tuần lễ, cô đắn đo không biết có nên nhận công việc ở
đây hay không. Cô không quyết định được. Cô liệt kê những điều thuận và nghịch,
nhưng thật là khó chịu vì cứ có thuận thì lại có nghịch.
Cô giảng nghĩa: "Tôi biết làm việc ở đây thích
hơn, nhưng bù lại tôi hoàn toàn thích thú được sống tại thành phố đó, tôi thực
sự thích nơi đó. Ở đây làm cho tôi cảm thấy dễ chịu. Tôi chán ngấy cái nóng bức
nơi đây. Tôi không biết phải làm gì."
Nghe cô nói đến lạc thú, tôi nhớ lại những lời
của Đức Đạt Lai Lạt Ma, và để thăm dò một chút, tôi hỏi: "Cô nghĩ dọn về ở nơi
đó sẽ mang cho cô nhiều hạnh phúc hơn hay nhiều lạc thú hơn?
Cô suy nghĩ một lúc, không hiểu rõ về câu hỏi.
Cuối cùng cô trả lời: "Tôi không biết... ông biết đây, tôi nghĩ rằng ở đó sẽ
mang cho tôi nhiều lạc thú hơn là hạnh phúc"... Cuối cùng, tôi không nghĩ rằng
tôi thực sự hạnh phúc làm việc với những khách hàng như thế. Tôi thực sự thỏa
mãn khi làm việc với những đứa trẻ trong công việc hiện tại của tôi.
Chỉ cần đóng khung điều khó nghĩ bằng câu của cô
"Điều đó có mang lại hạnh phúc không?" hình như làm sáng tỏ một phần nào. Đột
nhiên, điều này khiến cho cô dễ dàng quyết định. Cô quyết định ở lại Phoenix.
Đương nhiên cô vẫn phàn nàn về cái nóng vào mùa hè. Nhưng, vì đã có một quyết
định có ý thức ở lại đó trên cơ sở những gì cuối cùng cô cảm thấy làm cho cô
hạnh phúc hơn, dù sao cũng làm cho cái nóng dễ chịu đựng được hơn.
Hàng ngày chúng ta phải đứng trước nhiều quyết
định và lựa chọn. Hãy cố gắng khi có thể chúng ta thường không chọn điều mà ta
biết là "tốt cho chúng ta", Một phần của điều này liên quan đến thực tế là sự
lựa "chọn đúng" thường là sự lựa chọn khó khăn - sự lựa chọn liên quan đến sự hy
sinh nào đó về ý thích của chúng ta.
Ở mỗi thế kỷ, nam giới và nữ giới đã phải vật
lộn để xác định vai trò thích đáng của lạc thú trong đời sống của họ - vô số các
triết gia, các nhà thần học, và tâm lý học, tất cả đều khảo sát mối quan hệ với
lạc thú của chúng ta. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, Epicurus căn cứ vào
hệ thống đạo đức của ông đã táo bạo khẳng định là "lạc thú là căn nguyên và là
kết quả của một cuộc đời may mắn". Dù Epicurus thừa nhận tầm quan trọng của lẽ
phải thông thường và điều độ, ông cũng phải công nhận say mê buông thả theo lạc
thú nhục dục sẽ dẫn đến đau khổ. Vào những năm cuối của thế kỷ thứ mười chín,
Sigmud Freud bận rộn thiết lập lý thuyết riêng của ông về lạc thú. Theo Freud,
động lực căn bản cho toàn thể bộ máy tâm linh là mong muốn giảm bớt tình trạng
căng thẳng do ham muốn bản năng không đạt được gây ra, nói một cách khác, động
cơ bên dưới là mưu tìm lạc thú. Vào thế kỷ hai muơi, nhiều nhà nghiên cứu đã
quyết định tránh xa thêm những suy đoán triết lý, và thay vào,nhiều nhà giải
phẫu thần kinh đã chịu khó tìm tòi những vùng chung quanh phía dưới bộ não bằng
cực điện, tìm kiếm nơi phát sinh khoái cảm khi kích thích bằng điện.
Không một ai trong chúng ta còn cần đến những
nhà triết gia Hy Lạp không còn giá trị gì nữa, các nhà phân tích tâm lý thế kỷ
thứ 19, hay những khoa học gia thế kỷ thứ 20 giúp chúng ta hiểu lạc thú. Chúng
ta nhận biết nó khi cảm thấy nó. Chúng tôi thấy lạc thú trong sự ấu yếm hay nụ
cười của người yêu, trong một bồn tắm nước nóng hạng sang vào một buổi chiều mưa
gió lạnh lẽo, trong cái vẻ đẹp của buổi chiều tà. Nhưng nhiều người trong chúng
ta lại thấy lạc thú trong niềm vui cuồng điên lao vào cocaine (ma túy), trạng
thái ngấy ngất say sưa của heroin, trong sự say sưa của rượu chè om sòm, hạnh
phúc của nhục dục buông thả quá độ, niềm hồ hởi trong cuộc đỏ đen tại Las Vegas.
Cũng có những lạc thú thực sự - lạc thú mà nhiều người trong xã hội chúng ta đi
đến chấp nhận.
Mặc dầu không có những giải pháp dễ dàng để
tránh những lạc thú tiêu cực, nhưng may mắn là chúng ta có chỗ để bắt đầu: chỉ
cần nhớ đến cái mà chúng ta đang tìm kiếm trong cuộc sống là hạnh phúc. Như Đức
Đạt lai Lạt Ma đã vạch rõ, đó là một thực tế không thể nhầm lẫn. Nếu chúng ta
bắt đầu giải quyết những lựa chọn trong cuộc sống mà nhớ tới điều đó, chúng ta
có thể loại bỏ những điều rút cuộc có hại cho chúng ta dễ dàng hơn ngay cả khi
những điều đó mang đến cho chúng ta lạc thú nhất thời. Tại sao thường là rất khó
nói "không", lý do được tìm thấy trong tiếng "không", cách giải quyết này liên
quan đến ý thức loại bỏ một cái gì đó,từ bỏ điều gì đó, tự chối bỏ.
Nhưng có một cách giải quyết tốt hơn: đưa ra bất
cứ quyết định nào mà ta phải đối phó bằng cách tự hỏi, "Điều đó có mang lại hạnh
phúc cho tôi không?" Cấu hỏi đơn giản đó sẽ là một công cụ mạnh giúp chúng ta
điều hành khéo léo tất cả mọi lãnh vực cuộc sống của chúng ta, không chỉ khi
quyết định có nên dùng thuốc men thoải mái hoặc quá mức hay không. Nó giúp chúng
ta có một thái độ mới về sự việc. Giải quyết những quyết định và sự chọn lựa
hàng ngày bằng câu hỏi đó trong tâm, sẽ chuyển trọng tâm từ cái chúng ta tự chối
bỏ sang cái chúng ta đang tìm kiếm -- hạnh phúc tối hậu. Như định nghĩa của Đức
Đạt Lai Lạt Ma, một loại hạnh phúc vững vàng và bền bỉ. Một trạng thái hạnh phúc
tiếp tục tốn tại, bất chấp sự thăng trầm của cuộc đời và tâm trạng thái thay đổi
bất thường như là một phần hoàn cảnh sống của chúng ta. Với cách nhìn này, sẽ dễ
dàng hơn để có một 'quyết định đúng' vì chúng ta hành động cho chính mình cái
điều gì đó, không chối bỏ, hay giữ cho mình điều gì đó - một thái độ tiến tới
hơn là chạy trốn, một thái độ chấp nhận đời sống hơn là bác bỏ nó. Ý thức tiềm
ẩn trong sự tiến tới hạnh phúc có thể có hiệu quả rất sâu xa, nó làm cho chúng
ta dễ lĩnh hội hơn, cởi mở hơn, trước niềm vui của cuộc sống.
-ooOoo-