PHẦN II
NHIỆT TÌNH VÀ TÌNH THƯƠNG CỦA CON
NGƯỜI
-ooOoo-
CHƯƠNG 5
KIỂU MẪU MỚI CHO SỰ THÂN
THIỆN
CÔ ĐƠN VÀ QUAN HỆ
Tôi vào phòng khách của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại
khách sạn, và Ngài ra hiệu cho tôi ngồi. Trà được rót ra, Ngài tuột đôi giầy
Rockport mầu bơ và ngồi thoải mái trên một chiếc ghế lớn.
""Sao?" Ngài hỏi tôi với môt giọng thường lệ
thay đổi ngữ điệu có ý là Ngài đã sẵn sàng cho bất cứ điều gì. Ngài mỉm cười và
giữ im lặng. Chờ đợi.
Mấy phút trước đây, trong khi ngồi tại hành lang
khách sạn, chờ đến giờ gặp gỡ, tôi lơ đãng nhặt một tờ báo địa phương bỏ lại nơi
đây; tờ báo đã được lật tới mục "Việc Riêng". Tôi liếc qua mục quảng cáo dầy đặc
hết trang này đến trang khác tìm người, hết sức mong có liên hệ tới một người
nào khác Vẫn hãy còn nghĩ tới những quảng cáo ấy lúc ngồi xuống bắt đầu cuộc gặp
với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi đột nhiên quyết định bỏ qua một bên những câu hỏi đã
được chuẩn bị, và hỏi Ngài: "Có bao giờ Ngài cảm thấy cô đơn không?"
"Không" Ngài trả lời đơn giản. Tôi đã không
chuẩn bị trước cho câu trả lời này. Tôi cho rằng câu trả lời của Ngài phải là
những dòng sau: "Đương nhiên", mọi người ai cũng có lúc có lúc cảm thấy lẻ
loi.." Rồi tôi dự định hỏi Ngài làm sao Ngài đối phó với cô đơn. Tôi không bao
giờ nghĩ rằng tôi lại gặp một người không bao giờ cảm thấy cô đơn.
"Không" tôi hỏi Ngài lần nữa, ngờ vực
"Không"
"Ngài cho điều đó là cái gì?
Ngài nghĩ một chút."Tôi nghĩ rằng một nhân tố mà
tôi nhìn vào bất cứ ai là từ một khía cạnh tích cực; tôi cố gắng tìm kiếm những
khía cạnh tích cực của họ. Thái độ này tạo ngay một cảm giác đồng cảm, một loại
liên hệ.
"Một phần là vì lẽ về phần tôi ít có sự e sợ, ít
sợ hãi hơn, và nếu tôi hành động theo một cách thức nào đó, có thể mất đi sự
kính trọng hay nghĩ rằng tôi là người xa lạ Cho nên vì thường là không có loại e
sợ và sợ hãi đó, thì sẽ có loại cởi mở. Tôi nghĩ đó là nhân tố chính."
Phấn đấu để lãnh hội phạm vi và khó khăn trong
việc áp dụng một thái độ như vậy, tôi hỏi "Nhưng làm sao Ngài có thể cho rằng
người ta có khả năng để cảm thấy thoải mái với người khác, lại không có sự sợ
hãi và e sợ bị người ta không thích hay phán xét. Phải chăng có phương pháp đặc
biệt để một người trung bình có thể sử dụng để phát triển thái độ
ấy?"
"Niềm tin căn bản của tôi là trước tiên bạn cần
hiểu sự ích lợi của từ bi."Ngài nói với một giọng quả quyết."Đó là nhân tố
chính. Một khi bạn chấp nhận sự thật là từ bi không phải là một thứ ngấy ngô con
nít hay tình cảm, một khi mà bạn hiểu từ bi là cái thực sự đáng giá, hiểu giá
trị sâu xa của nó, thì bạn phát triển ngay sự lôi cuốn hướng về nó, thiện ý để
trau dồi nó.
"Và một khi bạn kích thích tư tưởng từ bi trong
tâm, một khi tư tưởng đó trở thành tích cực, thì thái độ của bạn đối với người
khác tự động thay đổi. Nếu bạn gần gũi người khác với tư tưởng từ bi, sự sợ hãi
tự động giảm thiểu và bạn sẽ cởi mở với người khác. Cởi mở tạo một bầu không khí
tích cực và thân hữu. Bằng thái độ ấy, bạn tiến tới mối quan hệ mà chính bạn là
người đầu tiên tạo ra khả năng nhận sự cảm tình hay sự đáp ứng tích cực của
người khác. Và với thái độ ấy, cho dù người ta không thân thiện với bạn hoặc bạn
không được đáp ứng bạn một cách tích cực, thì ít nhất bạn cũng đã gần gũi người
với cảm giác cởi mở làm cho bạn linh hoạt và tự do thay đổi cách tiếp xúc cần
thiết. Loại cởi mở ấy ít nhất cho bạn khả năng có cuộc đối thoại đầy ý nghĩa với
họ. Nhưng không có thái độ từ bi, nếu bạn cảm thấy như mậc cảm, tức tối hay lãnh
đạm, thì dù người bạn thân nhất đến với bạn, bạn vẫn cảm thấy không thoải mái.
"Tôi nghĩ rằng trong nhiều trường hợp, người ta
có khuynh hướng mong người khác đáp họ một cách tích cực trước, hơn là tự mình
chủ động tạo ra khả năng đó. Tôi cảm thấy thế là sai, nó dẫn đến khó khăn và sẽ
trở thành rào cản làm tăng thêm cảm giác lẻ loi và cô đơn. Vậy, nếu bạn muốn
khắc phục cảm giác lẻ loi và cô đơn ấy, tôi nghĩ rằng thái độ tiềm ẩn của bạn có
thể tạo ra sự khác biệt to lớn. Gần gũi người khác với tư tưởng từ bi trong tâm
là phương cách tốt nhất để làm điều này.
Sự kinh ngạc của tôi về việc Đức Đạt Lai Lạt Ma
nói rằng Ngài chẳng bao giờ cô đơn hoàn toàn tương xứng với niềm tin của tôi vào
sự lan tràn của cảnh cô đơn trong xã hội của chúng ta. Niềm tin này không chỉ
sanh ra từ cảm giác chung về sự cô đơn của riêng tôi hay sợi chỉ xuyên suốt sự
cô đơn hình như là chủ đề quan trọng nhưng ít được chú ý trong toàn bộ cơ cấu
hành nghề y khoa tâm thần của tôi. Trong 20 năm qua, các nhà tâm lý học đã bắt
đầu nghiên cứu về sự cô đơn trong cách thức khoa học, thực hiện nhiều khảo sát
và nghiên cứu về đề tài này. Một trong những khám phá nổi bật về những nghiên
cứu này là hầu như tất cả mọi người đều cho biết họ đã kinh nghiệm qua sự cô
đơn, hiện thời hoặc trong quá khứ. Trong một cuộc thăm dò rộng rãi, một phần tư
những người trưởng thành tại Hoa Kỳ cho biết họ cảm thấy hết sức cô đơn ít nhất
một lần trong hai tuần. Mặc dù, chúng tôi thường nghĩ rằng cô đơn kéo dài là mối
ưu phiền đặc biệt lan rộng nơi người già, lẻ loi trong các khu nhà trống trải
hay ở khu sau của viện dưỡng lão, nhưng công cuộc nghiên cứu cho thấy những
thiếu niên và thanh niên cũng cho biết họ cũng cô đơn như người già.
Vì mức độ cô đơn lan tràn, những người điều tra
nghiên cứu bắt đầu xem xét những thay đổi phức tạp góp phần gây ra cô đơn. Chẳng
hạn, họ đã tìm ra những người cô đơn thường có những vấn đề mặc cảm, gặp khó
khăn trong giao tiếp với người khác, ít chịu lắng nghe, và thiếu khéo léo trong
việc giao tế xã hội như chọn lựa cách cư xử thông tục (biết khi nào gật đầu, đáp
lại thích hợp, hay giữ im lặng). Sự nghiên cứu này đề xuất một chiến lược khắc
phục cô đơn là tác động vào cải tiến kỹ năng giao tế xã hội. Tuy nhiên chiến
lược của Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như là tránh tác động vào kỹ năng giao tế xã
hội hay cách ứng xử đến từ bên ngoài, ủng hộ phương pháp đi thẳng vào tâm - nhận
thức giá trị của từ bi và trau dồi nó.
Bất chấp sự ngạc nhiên lúc ban đầu của tôi, khi
tôi nghe thấy Ngài nói bằng sự quả quyết như vậy, tôi tin tưởng chắc chắn rằng
Ngài không bao giờ cô đơn. Có những bằng chứng hậu thuẫn cho lời tuyên bố của
Ngài. Tôi thường chứng kiến tác động của Ngài với người lạ, bao giờ cũng tích
cực không thay đổi. Bây giờ thì rõ ràng là những tác động qua lại không phải là
ngẫu nhiên hay chỉ là kết quả của một cá tính thân thiện tự nhiên. Tôi cảm thấy
Ngài đã bỏ ra nhiều thời gian suy tư về tầm quan trọng của từ bi, thận trọng
trau dồi nó, dùng nó để làm phong phú và mềm dẻo vấn đề trong kinh nghiệm hàng
ngày, làm đất trở nên phì nhiêu và sẵn sàng tiếp nhận những tương tác tích cực
với người khác - một phương pháp thực tế có thể được sử dụng bởi bất cứ ai đau
khổ vì cô đơn.
DỰA VÀO NGƯỜI KHÁC SO VỚI TỰ LỰC
Trong tất cả chúng sanh, có hạt giống toàn
thiện. Tuy nhiên, từ bi cần kích hoạt, hạt giống ấy vốn có trong tim và óc chúng
ta..."Bằng điều đó Đức Đạt Lai Lạt Ma giới thiệu đề tài từ bi trước một cuộc họp
yên lặng. Thuyết giảng trước một cử tọa ngàn rưởi người gồm phần lớn những học
sinh mộ Đạo Phật, Ngài bắt đầu thảo luận học thuyết Phật Giáo về Lãnh Vực Công
Đức.
Trong ý nghĩa Phật Giáo, Công Đức được mô tả như
một dấu ấn tích cực về tâm của con người, hay "sự tiệm tiến tinh thần" xuất hiện
do những hành động tích cực. Đức Đạt Lai Lạt Ma giải nghĩa Phước Điền Công Đức
là nguồn, hay nền tảng mà từ đó người ta có thể tích lũy công đức. Theo lý
thuyết Phật Giáo, chính kho công đức của một người quyết định hoàn cảnh tốt đẹp
cho những tái sanh của một người đí trong tương lai. Ngài giải thích bằng học
thuyết Phật Giáo về Công Đức định rõ hai Phước Điền Công Đức: Phước Điền Công
Đức của các vị Phật, và Phước Điền Công Đức của chúng sanh. Một phương pháp tích
lũy công đức liên quan đến việc tạo ra sự kính trọng, đức tin, và lòng tin vào
Chư Phật, những bậc Giác Ngộ. Những phương pháp khác liên quan đến việc tu tập
như lòng tốt, rộng lượng, khoan dung, và vân vân.. và có ý thức kiềm chế các
hành động tiêu cực như sát sinh, trộm cắp, và nói dối. Tạo dựng phương pháp thứ
hai này đòi hỏi sự tác động qua lại với người khác, hơn là tác động qua lại với
Chư Phật. Trên ccơ sở đó Đức Dạt Lai Lạt Ma chỉ ra rằng người khác sẽ là sự giúp
đỡ chúng ta rất nhiều để tích lũy công đức.
Những người khác là Phước Điền công đức mô tả
của Đức Đạt Lai Lạt Ma có một đặc tính đẹp, trữ tình đối với điều đó, hình như
chính nó làm phong phú thêm hình ảnh. Lập luận trong sáng của Ngài và sự quả
quyết đằng sau những lời nói của Ngài hợp lại thành sức mạnh đặc biệt và ảnh
hưởng đến cuộc nói chuyện của Ngài chiều đó. Khi tôi nhìn quanh phòng, tôi thấy
nhiều cử tọa xúc động rõ rệt. Chính tôi không say mê bằng. Do các cuộc đàm thoại
trước đây, tôi đã ở giai đoạn hiểu biết sơ đẳng về tầm quan trọng sâu xa của từ
bi, tuy vẫn còn bị ảnh hưởng nặng bởi những năm dài trong tiến trình khoa học
duy lý, làm cho tôi coi bất cứ cuộc nói chuyện gì về lòng tốt hay từ bi chỉ là
chút đa cảm vì ý thích của mình. Nghe Ngài nói, tâm trí tôi bắt đầu nghĩ lan
man. Tôi bắt đầu ngấm ngầm nhìn quanh phòng, tìm các bộ mặt nổi tiếng, đáng chú
ý, hay quen thuộc. \n một bữa cơm quá no trước cuộc nói chuyện, tôi bắt đầu buồn
ngủ. Tôi vật vờ lúc tỉnh lúc không. Có lúc trong buổi nói chuyện, tâm trí tôi
nghe thấy Ngài nói"... hôm nọ, tôi đã nói về những nhân tố cần thiết để có một
cuộc đời hạnh phúc và sung sướng. Những nhân tố như sức khỏe, của cải vật chất,
bạn bè vân vân... Nếu bạn điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng, bạn sẽ thấy tất cả những
thứ đó lệ thuộc vào người khác. Muốn giữ sức khỏe, bạn đưa vào thuốc men do
người khác làm, và chăm sóc sức khỏe do người khác lo liệu. Nếu bạn xem xét tất
cả những tiện nghi bạn sử dụng để hưởng thụ cuộc sống bạn sẽ thấy hầu như không
có đồ vật nào không liên hệ đến người khác. Nếu bạn suy nghĩ cẩn thận, bạn sẽ
thấy tất cả những hàng hóa ấy có được là do cố gắng của nhiều người hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp. Nhiều người đã tham gia đến để làm những thứ đó thành tựu.
Không cần phải nói khi chúng ta đề cập về bạn tốt, là một nhân tố cần thiết khác
cho cuộc đời hạnh phúc, chúng ta đang nói đến sự tác động qua lại với những
chúng sanh khác, những con người. khác.
"Cho nên bạn có thể thấy rằng tất cả những nhân
tố đó gắn chặt với những nỗ lực và hợp tác của những người
khác. Những người khác là không thể thiếu. Cho
nên, dù thực tế là tiến trình giao tiếp với người khác có thể có gian khổ, cãi
cọ, và khó chịu, chúng ta vẫn phải cố duy trì một thái độ thân thiện và niềm nở
để có lối sống có đủ tác động qua lại với người khác đặng vui hưởng một cuộc đời
hạnh phúc."
Khi Ngài nói, tôi cảm thấy một sự phản kháng
theo bản năng. Mặc dầu tôi thường trân trọng và vui sướng với bạn bè và gia
đình, nhưng tôi vẫn coi mình là một người độc lập. Tự lực Thật ra là hãnh diện
về đức tính ấy. Ngấm ngầm, tôi có khuynh hướng coi thường những người phụ thuộc
quá mức - một dấu hiệu yếu kém.
Tuy vậy, chiều này khi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma
giảng, đã xẩy ra một việc. Vì 'Tùy Thuộc Vào Người Khác" không phải là đề tài mà
tôi ưa thích, tâm trí tôi lại bắt đầu lan man, tôi thấy tôi quên không cắt bỏ
sợi chỉ lòng thòng trên tay áo sơ mi của tôi. Chú ý vào một lúc, tôi nghe thấy
Ngài nói nhiều người đã tham gia vào việc làm ra tất cả những của cải của chúng
ta. Khi nghe Ngài nói, tôi bắt đầu xem xét có nhiều người tham gia làm cái áo sơ
mi của tôi. Tôi bắt đầu tưởng tượng đến người nông dân trồng bông. Kế tiếp người
bán máy cầy cho người nông dân cầy ruộng. Rồi vì việc đó hàng trăm hay thậm chí
hàng ngàn người tham gia làm máy cày, gồm có người khai quặng để chế tạo các bộ
phận bằng kim loại của xe máy cày và tất cả những người thiết kế máy cày. Rồi
đương nhiên, người làm bông, người dệt, người cắt, người nhuộm, người may. Những
người vận chuyển và tài xế xe tải giao áo đến tiệm, và người bán hàng bán cho
tôi. Tôi chợt hiểu, hầu như mọi khía cạnh trong đời tôi xẩy ra đều là do nỗ lực
của nhiều người. Sự tự lực quý giá cùa tôi hoàn toàn là một ảo tưởng, một ý nghĩ
kỳ quặc. Khi sự nhận thức này bừng sáng trong tôi, tôi bị chinh phục bởi ý nghĩa
sâu xa của sự liên kết và tùy thuộc lẫn nhau trong tất cả chúng sinh. Tôi cảm
thấy dịu đi. Một điều gì đó; tôi không biết. Điều ấy làm tôi muốn
khóc.
SỰ RIÊNG TƯ
Chúng ta cho rằng cần phải vì người khác là
nghịch lý. Cùng lúc văn hóa của chúng ta bị hút vào sự tận dương tính độc lập
cao độ, chúng ta cũng mong mỏi sự riêng tư và mối liên hệ với người yêu đặc biệt
nào đó. Chúng ta tập trung tất cả năng lực vào việc tìm kiếm một người với hy
vọng có thể chữa cho ta khỏi cô đơn tuy vẫn chống đỡ cho ảo tưởng là chúng ta
vẫn độc lập. Tuy mối liên hệ này rất khó để đạt được thấm chí chỉ một người,
nhưng tôi thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma có khả năng và giữ được sự thân mật với thật
nhiều người mà Ngài có thể. Thực tế mục đích của Ngài là liên kết với mọi người.
Gặp Ngài trong một phòng khách sạn tại Arizona
vào một buổi xế chiều, tôi bắt đầu "Trong buổi nói chuyện truớc công chúng chiều
qua, Ngài nói đến tầm quan trọng của những người khác, mô tả họ là Phước Điền
Công Đức. Nhưng khi quan sát sự quan hệ với người khác, thực sự là có rất nhiều
cách khác nhau dính dáng với nhau, nhiều loại quan hệ khác nhau ..."
"Rất đúng " Ngài nói.
"Chẳng hạn có một loại quan hệ hết sức được
chuộng ở Phương Tây", tôi nhận xét " Đó là quan hệ có đặc điểm là mức riêng tư
sâu giữa hai người, một người đặc biệt để chia sẻ cảm nghĩ thầm kín nhất, nỗi sợ
hãi và vân vân...Người ta cảm thấy, nếu không có loại quan hệ ấy, họ sẽ thấy một
điều gì thiếu thốn trong cuộc đời của họ. Thực ra, phép chữa bệnh bằng tâm lý
thường tìm cách giúp đỡ người ta biết cách phát triển loại quan hệ riêng tư
này."
"Vâng, tôi tin là loại riêng tư này có thể được
nhìn nhận là tích cực". Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý." Tôi nghĩ rằng người bị tước
đoạt loại riêng tư ấy có thể dẫn đến những vấn đề".
"Tôi chỉ băn khoăn là ..." Tôi tiếp tục " khi
Ngài lớn lên tại Tây Tạng, Ngài không những được coi như một ông vua mà còn được
coi như một vị thánh. Tôi cho rằng dân chúng kinh sợ Ngài, có lẽ thấm chí là một
chút bồn chồn lo lắng hay sợ hãi đứng trước mặt Ngài. Điều đó không tạo ra sự
cách biệt cảm xúc nào đó với người khác chứ, cảm giác bị lẻ loi ? Ngoài ra Ngài
cũng bị xa gia đình, được nuôi dưỡng như một nhà sư từ nhỏ, và là một nhà sư
chưa bao giờ lấy vợ và vân vân... tất cả những sự việc ấy có góp phần vào cảm
giác cách biệt với người khác không? Có bao giờ Ngài cảm thấy mất cơ hội phát
triển mức độ riêng tư cá nhân sâu hơn đối với người khác, hay với một người đặc
biệt nào đó, như vợ chồng?
Không chút ngập ngừng, Ngài trả lời:"Không.
Không bao giờ tôi cảm thấy thiếu riêng tư. Đương nhiên, cha tôi mất đã nhiều năm
qua, nhưng tôi cảm thấy rất gần gũi với mẹ tôi, các vị thầy của tôi, các gia sư
của tôi, và nhiều người khác. Và với nhiều trong số những người ấy, tôi có thể
chia sẽ cảm nghĩ sâu xa nhất, sợ hãi và lo lắng. Khi tôi ở Tây Tạng, vào những
dịp lễ lớn trong nước hay công cộng, có một số thủ tục, một số nghi thức, nghi
lễ ngoại giao được cử hành nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Có những lần,
thí dụ, tôi thường xuống bếp và trở nên hết sức gần gũi với những người làm bếp
và chúng tôi có thể đùa rỡn hay to nhỏ chuyện tầm phào, hay chia sẻ những sự
việc, và như vậy rất thoải mái không có chút nghi thức nào hay cách biệt.
Cho nên, khi tôi ở Tây Tạng hay từ khi tôi trở
thành người tị nạn, tôi không bao giờ cảm thấy thiếu người mà tôi có thể chia sẻ
mọi sự. Tôi nghĩ rằng nhiều việc liên quan đến bản tính của tôi.Với tôi chia sẻ
sự việc với người khác rất dễ dàng, tôi không giữ bí mật tốt lắm đâu? Ngài cười"
Đương nhiên đôi khi nó có thể là một điều tiêu cực. Thí dụ, có thể là một số
thảo luận nào đó trong Kashag (Nội Các của Chính Phủ Lưu Vong Tây Tạng). Về
những việc mật, tôi đem thảo luận ngay những việc ấy với người khác. Nhưng trên
mức độ cá nhân, cởi mở và chia sẻ mọi sự sẽ rất lợi ích. Vì có bản tính như vậy,
tôi có thể kết bạn một cách dễ dàng hơn, không phải là vấn đề biết người và có
sự trao đổi bề ngoài mà thực sự là chia sẻ những vấn đề sâu kín nhất và đau khổ
sâu xa của tôi. Và cũng như vấy khi tôi nghe được tin vui, tôi cũng chia sẻ ngay
với người khác. Cho nên tôi cảm nhận thấy sự riêng tư và mối liên hệ với bạn bè.
Đương nhiên, đôi khi đối với tôi thiết lập mối liên hệ với người khác thật dễ
dàng vì thường thường họ rất sung sướng chia sẻ những khổ đau và niềm vui của họ
với Vị Lạt Ma, 'Đức Tối Thượng Đạt Lai Lạt Ma'. Ngài lại cười, làm sáng tỏ tước
vị của Ngài." Dù sao, tôi cũng cảm nhận thấy mối liên hệ, sự chia sẻ với nhiều
người. Chẳng hạn, trong quá khứ, nếu tôi cảm thấy thất vọng hay không hài lòng
với đường lối chính trị của Chính Phủ Tây Tạng, hay tôi quan ngại về một số vấn
đề, cả đến sự đe dọa xâm lăng của Trung Quốc, thì tôi trở về phòng và chia sẻ
những việc ấy với người quét phòng. Theo một điểm nào đó, có lẽ dường như đúng
là ngớ ngẩn trước con mắt của một số người khi Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đứng
đầu Chính Phủ Tây Tạng, đang đương đầu với những vấn đề quốc tế và quốc gia mà
lại chia sẻ những chuyện này với một người quét nhà." Ngài lại cười nữa."Nhưng
về mặt cá nhân tôi cảm thấy rất hữu ích vì lẽ những người khác tham dự và chúng
ta cùng đương đầu với khó khăn hay đau khổ."
MỞ RỘNG VIỆC XÁC ĐỊNH VỀ SỰ RIÊNG
TƯ
Hầu hết tất cả những nhà nghiên cứu trong lãnh
vực quan hệ con người đều đồng ý riêng tư là trung tâm của cuộc sống. Nhà tâm lý
học người Anh có nhiều ảnh hưởng tên John Bowlby viết:"Sự gắn bó riêng tư với
những người khác là trung tâm mà cuộc sống của một con người xoay quanh nó... Từ
sự gắn bó riêng tư này người ta giành được sức mạnh và niềm vui cuộc sống, qua
những gì người đó đóng góp, người đó mang lại sức mạnh và niềm vui cho người
khác. Đó là những vấn đề mà khoa học hiện đại và trí tuệ truyền thống nhất
trí."
Rõ ràng là sự riêng tư thúc đẩy cả hạnh phúc thể
chất lẫn tâm lý. Nhìn vào lợi ích sức khỏe trong sự quan hệ riêng tư, những nhà
nghiên cứu y học thấy người có tình bạn thân, người mà họ tìm đến để được xác
quyết, đồng cảm, và thương yêu rất có khả năng vượt những thách thức về sức khỏe
như đau tim, những ca giải phẫu nghiêm trọng, và ít bị những chúng bệnh như ung
thư hay bị lấy về hô hấp. Thí dụ trong một công cuộc nghiên cứu trên một ngàn
bệnh nhân đau tim tại Trung Tấm Y Khoa Đại Học Duke thấy rằng những người không
có chồng hoặc vợ hay bạn tâm tình thân tín có khả năng tử vong gấp ba lần trong
vòng năm năm khi chẩn đoán bị đau tim so với những người có vợ chồng hay bạn
thân. Một cuộc nghiên cứu khác hàng ngàn người cư dân tại Quận Alameda,
California, trong suốt thời kỳ chín năm cho thấy những người có hậu thuẫn xã hội
và quan hệ riêng tư có tỷ lệ tử vong chung thấp hơn và tỷ lệ bệnh ung thư cũng
thấp hơn. Một cuộc nghiên cứu hàng trăm người cao niên tại Đại Học Y Khoa tại
Nebraska cho thấy những người có sự quan hệ riêng tư có chức năng miễn dịch tốt
hơn và mức độ cholesterol thấp hơn. Trong khoảng thời gian mấy năm vừa qua, đã
có nửa tá những cuộc điều tra nghiên cứu rộng rãi của một số các nhà nghiên cứu
khác nhau nhắm vào sự tương quan giữa sự riêng tư và sức khỏe. Sau khi phỏng vấn
hàng ngàn người, tất cả những người điều tra nghiên cứu đều đi đến một kết luận
chung: Quan hệ mật thiết thực tế làm tăng thêm sức khỏe.
Sự riêng tư cũng quan trọng như việc duy trì
tình trạng cảm xúc lành mạnh. Nhà phân tích tâm lý và triết học xã hội Erich
Fomm cho rằng sự sợ hãi căn bản nhất của loài người là sự đe dọa bị tách khỏi
những người khác. ông tin rằng kinh nghiệm về tính riêng biệt, lần đầu vấp phải
trong thời kỳ thơ ấu, là nguồn gốc của tất cả những lo ấu trong đời sống con
người. John Bowlby đồng ý, khi viện dẫn nhiều bằng chứng và nghiên cứu thực
nghiệm hậu thuẫn cho khái niệm xa cách người chăm sóc - thường là mẹ hay cha-
trong nửa cuối năm đầu tiên của cuộc đời, không thể tránh khỏi tạo ra sợ hãi và
buồn bã nơi đứa trẻ. ông cảm thấy chia lìa và sự mất mát giữa cá nhân với cá
nhân nằm ở chính nguồn gốc kinh nghiệm của con người về sợ hãi, buồn bã, và
phiền muộn.
Vậy thì căn cứ vào tầm quan trọng sống còn của
sự riêng tư, làm sao chúng ta bố trí để đạt được sự riêng tư trong đời sống hàng
ngày? Theo cách giải quyết của Đúc Đạt Lai Lạt Ma phác họa ở Chương trước, dường
như hợp lý là bắt đầu bằng học tập - hiểu được sư riêng tư là gì, tìm một định
nghĩa và kiểu mẫu về sự riêng tư có thể thực hành được Tuy nhiên chờ khoa học
trả lời, xem ra có vẻ là chỗ sự đồng ý kết thúc mặc dù có sự đồng ý chung giữa
những người nghiên cứu về tầm quan trọng của sự riêng tư. Có lẽ nét nổi bật
nhất, trong khi điểm lại các nghiên cứu về sự riêng tư là tình trạng định nghĩa
và lý thuyết về sự riêng tư chính xác là thế nào rất khác xa nhau.
Ở phía quan điểm cụ thể nhất là tác giả Desmond
Morris, ông viết về sự riêng tư từ một cái nhìn của một nhà động vật học được
đào tạo về hoạt động động vật. Trong cuốn sách của ông, Hoạt Động Riêng Tư,
Morris định nghĩa sự riêng tư: "Muốn được riêng tư có nghĩa là gần gũi... Theo
tôi, hành động trong sự riêng tư xẩy ra khi hai cá nhân đi vào tiếp xúc thân
thể". Sau khi định nghĩa sự riêng tư bằng sự tiếp xúc hoàn toàn thể chất, ông
tiếp tục khảo sát vô số phương cách mà con người tiếp xúc thể chất với nhau, từ
cái vỗ lưng mộc mạc đến cái ôm khiêu dấm. ông thấy sự đụng chạm là phương tiện
để chúng ta an ủi lẫn nhau và được an ủi qua những cái ôm chặt hay vỗ tay, khi
chúng ta không dùng được những cách đó, có những phuơng cách gián tiếp về sự
tiếp xúc thể chất như cắt sửa móng tay. ông cũng lý luận rằng những sự tiếp xúc
thể chất với những vật thể chung quanh ta từ điếu thuốc lá tới đồ trang sức, tới
cái giường có đệm nước, hoạt động thay thế cho sự riêng tư.
Hầu hết những người điều tra nghiên cứu không
định nghĩa cụ thể về sự riêng tư, nhưng đống ý sự riêng tư không chỉ là sự gần
gũi vật chất. Nhìn vào gốc từ riêng tư, từ tiếng La Tinh intima có nghĩa là "bên
trong" hay ở "tận trong cùng", hầu như họ thường tán thành một định nghĩa rộng
hơn, như một định nghĩa của Tiến Sĩ Dan MacAdams, tác giả của một số sách về đề
tài riêng tư: Sự ham thích riêng tư là ham thích chia sẻ cái thầm kín nhất của
mình với một người khác".
Nhung định nghĩa về sự riêng tư không dừng ở đó.
Ở phía quan điểm đối lập với Desmond Morris là các nhà chuyên gia như nhóm tinh
thần cha/con, các bác sĩ Thomas Patrick Malone và Patrick Thomas Malone. Trong
cuốn sách của họ, Nghệ Thuật về Sự Riêng Tư, họ định nghĩa sự riêng tư là "kinh
nghiệm về tính liên hệ". Sự am hiểu về riêng tư của họ bắt đầu với việc khảo sát
kỹ lưỡng về "tính liên hệ" của chúng ta với người khác, tuy nhiên, họ không giới
hạn quan niệm riêng tư vào quan hệ con người. Định nghĩa của họ quá rộng, thực
ra, nó gồm cả sự quan hệ của ta với các vật vô tri - cấy cối, tinh tú, và cả
không gian.
Những khái niệm về trạng thái riêng tư lý tưởng
nhất cũng khác nhau khắp trên thế giới và lịch sử. Khái niệm lãng mạn về"Người
Đặc Biệt" mà chúng ta có mối quan hệ riêng tư say đắm là sản phẩm của thời gian
và văn hóa của chúng ta. Nhưng mẫu riêng tư này không được mọi người chấp nhận
trong tất cả những nền văn hóa. Chẳng hạn, người Nhật dường như dựa nhiều vào
tình bằng hữu để có được sự riêng tư, trong khi người Mỹ tìm nó trong quan hệ
lãng mạn với bạn trai, bạn gái, hay người hôn phối. Nhận thấy vấn đề này, một số
các nhà nghiên cứu cho rằng người Á Đông là những người ít khi nhắm vào cảm nghĩ
cá nhân thí dụ như say mê và quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh thực tiễn của
sự gắn bó xã hội, hình như ít bị tổn thương trước sự vỡ mộng dẫn đến sự tan rã
mối quan hệ.
Thêm vào những khác nhau giữa những nền văn hóa,
khái niệm về sự riêng tư cũng thay đổi một cách đột ngột theo thời gian. Trước
đây tại thuộc địa Mỹ, mức độ về sự riêng tư vật chất và quan hệ gần gũi thường
lớn hơn bây giờ, khi gia đình và kể cả những người lạ cùng chia sẻ một khoảng
không gian nhỏ, ngủ cùng trong một căn phòng, dùng một phòng chung, để tắm, ăn
và ngủ. Tuy nhiên mức giao tiếp thông thường giữa vợ chồng đúng là có nghi thức
chuẩn mực như ngày nay - không khác biệt nhiều so với cách làm quen biết hay
cách láng giềng nói chuyện với nhau. Chỉ ở thế kỷ sau đó, tình yêu và hôn nhân
trở nên lãng mạn cao độ và sự tự bộc lộ chuyện riêng tư được cho là chất liệu
cho bất cứ sự liên kết tình yêu nào.
Những khái niệm được coi là cách ứng xử riêng tư
và thân mật cũng thay đổi theo thời gian. Ở thế kỷ thứ 16 tại Đức chẳng hạn, nột
cặp chồng mới được yêu cầu qua đêm tân hôn trên một cái giường do những người
làm chứng khiêng, những người sẽ công nhận giá trị của hôn nhân.
Cách bày tỏ cảm xúc cũng đã thay đổi. Vào thời
Trung Cổ, bày tỏ công khai rộng rãi cảm nghĩ với cường độ mạnh mẽ và trực tiếp -
niềm vui, giận dữ, sợ hãi, lòng mộ đạo, thậm chí vui thú hành hạ và giết kẻ địch
được coi là bình thường. Bày tỏ sự thái quá tiếng cười cuồng loạn, khóc lóc thảm
thiết và cuồng bạo hơn được chấp nhận trong xã hội chúng ta. Nhưng sự bày tỏ cảm
xúc và cảm nghĩ tầm thường trong xã hội ấy đã không chấp nhận khái niệm xúc cảm
riêng tư, nếu phơi bày tất cả những cảm xúc một cách công khai và bừa bãi, thì
không còn có cảm nghĩ riêng tư nào còn lại để biểu lộ cho một số ít người đặc
biệt.
Rõ ràng những khái niệm mà ta đương nhiên cho là
sự riêng tư không phải là phổ thông. Chúng thay đổi theo thời gian và thường
được hình thành do hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa. Rất dễ bị nhầm lẫn bởi
hàng loạt định nghĩa khác nhau về sự riêng ở Phương Tây đương đại - biểu hiện từ
kiểu cắt tóc đến mối quan hệ của ta với những vầng trăng của Sao Hải Vương
(Neptune). Vậy nên, vấn đề này để chúng ta ở vị trí nào trong khi tìm hiểu thế
nào là sự riêng tư? Tôi nghĩ sự hàm ý rất rõ ràng.
Con người có nhiều vẻ khác nhau lạ kỳ giữa trong
đời sống, những sự thay đổi vô hạn về cách con người trải nghiệm cảm giác gần
gũi thân mật. Chỉ riêng hiểu biết này đã cho chúng ta cơ hội lớn. Có nghĩa là
vào chính lúc này chúng ta đã có luôn nguồn vui to lớn về sự riêng tư. Sự riêng
tư hoàn toàn ở quanh ta.
Ngày nay quá nhiều người bị đè nặng bởi cảm thấy
thiếu điều gì đó trong đời sống, quá đau khổ vì thiếu riêng tư. Điều này đặc
biệt đúng khi trải qua những thời kỳ không thể tránh được trong cuộc sống mà
chúng ta lại không để tâm đến mối quan hệ lãng mạn nào, hay khi sự đam mê tàn đi
trong quan hệ. Có một khái niệm phổ biến trong văn hóa chúng ta là sự riêng tư
sâu sắc đạt được hiệu quả nhất trong bối cảnh có mối quan hệ lãng mạn say đắm -
Người Đặc Biệt nào đó mà chúng ta nâng cao hơn tất cả những người khác. Điều này
có thể là một quan điểm giới hạn sâu xa, tách chúng ta khỏi những suối nguồn
riêng tư tiềm tàng và là nguyên nhân của nhiều thống khổ và bất hạnh phúc khi
Người Đặc Biệt đó không ở đây. Nhưng trong phạm vi khả năng của chúng ta có
những phuong tiện để tránh điều này, chỉ cần chúng ta phải có can đảm mở rộng
khái niệm riêng tư gồm cả tất cả những hình thái khác chung quanh chúng ta trên
cơ sở hàng ngày. Bằng cách mở rộng định nghĩa về sự riêng tư, chúng ta tự bộc lộ
để khám phá những cách thức mới và đủ vừa ý về sự quan hệ với người khác. Điều
này mang chúng ta trở lại cuộc thảo luận đầu tiên về sự cô đơn với Đức Đạt Lai
Lạt Ma, bật ra cuộc thảo luận bởi việc ngẫu nhiên đọc kỹ "Mục Việc Riêng" trên
tờ báo địa phương, làm cho tôi băn khoăn. Vào đúng lúc những người ấy viết lời
quảng cáo, vật lộn tìm ra đúng chữ để đưa lãng mạn vào đời sống và chấm dứt cô
đon; bao nhiêu người trong số những người ấy đã được bạn bè, gia đình hay người
quen xung quanh - những quan hệ được vun đắp thành quan hệ riêng tư đủ sâu sắc
và đích thực ? Nhiều, tôi đoán chừng. Nếu điều mà ta tìm cầu trong đời sống là
hạnh phúc, và sự riêng tư là thành tố quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc hơn
thì rõ ràng là nó làm cho đời sống có ý nghĩa trên cơ sở kiểu riêng tư bao gồm
càng nhiều hình thái liên kết với người khác càng tốt. Kiểu riêng tư của Đức Đạt
Lai Lạt Ma căn cứ trên trên thiện chí bộc lộ mình với nhiều người khác, với gia
đình, bè bạn và cả đến những người lạ, hình thành sự gắn bó chân thật và sâu xa
căn cứ vào bản chất thông thường của con người.
-ooOoo-
CHƯƠNG 6
LÀM ĐẰM THẮM THÊM QUAN HỆ CỦA CHÚNG TA VỚI
NGƯỜI KHÁC
Một buổi chiều sau bài thuyết trình trước công
chúng của Ngài, tôi đến phòng của Ngài tại khách sạn như đã được hẹn vào mỗi
ngày, tôi đến sớm hơn một chút. Người thị giả kín đáo ra gặp tôi tại hành lang
và cho tôi biết Ngài đang bận tiếp kiến riêng và ít phút nữa tôi mới vào được.
Tôi làm ra vẻ vị trí quen thuộc của tôi là bên ngoài cửa phòng khách sạn và dùng
thời gian này để kiểm lại những ghi chú sửa soạn cho cuộc hội kiến này, đồng
thời cố gắng tránh cái nhìn chằm chằm nghi ngờ của người lính gác - cùng một cái
nhìn như vậy vào những học sinh cấp 2 đang lảng vảng quanh giá tạp chí của những
người bán hàng trong tiệm đồ tiện dụng.
Chỉ một lúc, cửa mở và một cặp vợ chồng tuổi
trung niên ăn mặc lịch sự bước ra. Trông họ rất quen thuộc. Tôi nhớ tôi được
giới thiệu vắn tắt với họ một vài ngày trước đây. Tôi được biết người vợ là một
người thừa kế nổi tiếng và người chồng rất giàu có, một luật sư tăm tiếng tại
Manhattan (Nữu Ước). Vào lúc giới thiệu chúng tôi chỉ trao đổi vài lời xã giao,
nhưng tôi thấy cả hai con người này khinh người một cách lạ thường. Khi họ xuất
hiện từ phòng khách sạn của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi nhận thấy có một sự thay đổi
đáng sửng sốt. Không còn cái điệu bộ cao ngạo, và cái vẻ tự mãn thiển cận, và
thay vào hai bộ mặt tràn đầy dịu dàng và xúc cảm. Họ như hai đứa trẻ. Những dòng
lệ chẩy trên gương mặt họ. Mặc dầu tác động đến người khác của Đức Đạt Lai Lạt
Ma thường không gây quá xúc cảm, tôi nhận thấy bao giờ những người khác cũng trả
lời Ngài bằng sự thay đổi nào đó về cảm xúc. Từ lâu tôi đã kinh ngạc trước tài
gắn kết với người khác của Ngài, dù ở tầng lớp xã hội nào, và lập được sự trao
đổi tình cảmsâu xa đầy ý nghĩa.
THIẾT LẬP SỰ THẤU CẢM
Trong khi nói chuyện về tầm quan trọng của sự
niềm nở và tình thương con người qua những cuộc đàm thoại tại Arizona, không đến
mấy tháng sau tại nhà Ngài ở Dharamsala, tôi đã có cơ hội xem xét mối quan hệ
con người chi tiết hơn cùng với Ngài. Vào lúc đó tôi rất nóng lòng muốn thấy
liệu chúng tôi có thể khám phá ra được một tập hợp các nguyên tắc cơ bản mà Ngài
sử dụng trong việc tác động qua lại với người khác không - những nguyên tắc có
thể áp dụng để cải thiện bất cứ mối quan hệ nào, dù là với người lạ, gia đình,
bè bạn, hay người yêu. Nóng ruột để bắt đầu, tôi nhẩy ngay vào vấn đề:
"Bây giờ về đề tài quan hệ con người ... Ngài sẽ
nói gì về phương pháp hữu hiệu nhất hay kỹ thuật liên hệ với người khác bằng một
phương pháp đầy ý nghĩa và giảm bớt mâu thuẫn với người khác?" Ngài trừng trừng
nhìn tôi một lúc. Không phải là một cái nhìn trừng trừng không tốt nhưng nó làm
cho tôi cảm thấy như tôi mới đòi Ngài cho tôi thành phần hóa học chính xác của
bụi trên cung trăng.
Sau khi dừng lại một chút Ngài trả lời:"Được,
giao tiếp với người khác là một vấn đề rất phức tạp. Không có cách gì mà bạn có
thể tìm thấy một công thức lại giải quyết tất cả mọi vấn đề. Cũng giống một chút
như nấu ăn. Nếu bạn nấu một bữa cơm ngon, một bữa cơm đặc biệt, thì có nhiều
giai đoạn trong việc nấu nướng. Trước hết bạn phải trần rau riêng rồi bạn phải
chiên rồi bạn phải nhào trộn một cách đặc biệt, rồi nêm gia vị vân vân... Và
cuối cùng kết quả sẽ là món ăn ngon. Giống như vậy, để khéo léo trong việc giao
tế với người khác, bạn cần phải có nhiều nhân tố. Bạn không thể chỉ nói "Đấy là
phương pháp" hay "Đấy là kỹ thuật"
Không chính xác là câu trả lời mà tôi mong muốn.
Tôi nghĩ rằng Ngài lảng tránh, và cảm thấy rằng chắc chắn Ngài có điều gì cụ thể
hơn để đưa ra. Tôi nhân mạnh tiếp:"Vậy thì không có một giải pháp nào để cải
thiện mối quan hệ của chúng ta, có lẽ những hướng dẫn chung chung hơn có thể là
hữu ích chăng?
Đức Đạt Lai Lạt Ma suy nghĩ một chút rồi mới trả lời: "Đúng. Trước đây chúng
ta có đề cập đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc người khác bằng tâm tưởng từ
bi. Điều đó rất quan trọng. Đương nhiên chỉ nói với một người,' Này từ bi là rất
quan trọng, bạn phải có nhiều tình thương hơn nữa cũng chưa đủ. Một toa thuốc
đon giản như vậy không có hiệu quả. Tuy vậy cách dạy dỗ hữu hiệu một người nào
đó làm sao niềm nở hơn và từ bi hơn phải bắt đầu bằng cách dùng lý lẽ để giáo
dục cá nhân ấy về giá trị và lợi lạc thực tiễn của từ bi, và cũng để cho họ suy
ngẫm xem họ cảm thấy ra sao khi một người nào đó tử tế với họ vân vân... Trong
một ý nghĩa nào đó điều này chuẩn bị cho họ, cho nên sẽ có nhiều hiệu quả hơn
khi họ tiến hành bằng nỗ lực của họ để họ từ bi hơn.
"Bây giờ nhìn vào những cách phát triển từ bi
khác nhau, tôi nghĩ rằng thấu cảm là một nhân tố quan trọng. Khả năng cảm nhận
được nỗi đau khổ của người khác. Thực ra, theo truyền thống, một trong những kỹ
thuật của Phật Giáo để tăng thêm lòng từ bi liên quan đến việc tưởng tượng tình
trạng một chúng sanh đang đau khổ - chẳng hạn, giống như một con cừu sắp sửa bị
người đồ tể giết. Và cố gắng tưởng tượng nỗi đau khổ mà con cừu phải chịu đựng
vân vân...Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút để ngẫm nghĩ, ngón tay lần chuỗi
tràng hạt một cách lơ đãng. Ngài bình luận, "Tôi chợt nghĩ rằng khi tôi phải
tiếp xúc với người rất hờ hững và lãnh đạm, thì loại kỹ thuật này không mấy hiệu
quả. Dường như thể là bạn bảo người đồ tể làm việc tưởng tượng đó: người đồ tể
quá chai sạn, quá quen với toàn bộ sự việc nên không có một tác động nào. Vậy
nên, thí dụ, sẽ rất khó khăn giảng nghĩa và dùng kỹ thuật ấy với một số người
Tây Phương quen thói đi săn hay đi câu cho vui, như một hình thức của tiêu
khiển.."
"Trong trường hợp này", tôi đề nghị, "Có lẽ
không phải là một kỹ thuật hiệu quả bảo khi bảo một người đi săn tưởng tượng sự
đau khổ của con mồi, nhưng người ta có thể thức tỉnh những cảm tính từ bi bằng
cách bảo người ấy mường tượng đến con chó săn yêu quý của anh ta bị sa vào bẫy
và kêu la đau đớn..."
"Vâng đúng như vậy..." Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng
ý, "Tôi nghĩ rằng tùy theo hoàn cảnh mà ta có thể thay đổi kỹ thuật. Chẳng hạn,
người không có cảm tính mạnh mẽ về sự thấu cảm đối với loài vật, nhưng ít nhất
cũng có phần nào đồng cảm với người thân trong gia đình hay bạn bè. Trong trường
hợp này người ấy có thể mường tượng đến tình trạng người thân yêu đang đau khổ
hay đang trong tình trạng bi thảm và tưởng tượng đến cách anh ấy hay chị ấy sẽ
đối phó điều đó, phản ứng trước điều đó. Cho nên ta có thể cố gắng tăng thêm
lòng từ bi bằng cách cố gắng đồng cảm với cảm nghĩ hay kinh nghiệm của người
khác.
"Tôi nghĩ rằng thấu cảm không những quan trọng
vì là một phương tiện để nâng cao lòng từ bi, mà tôi còn nghĩ rằng nói chung khi
phải tiếp xúc với người khác ở bất cứ mức độ nào, nếu bạn gặp phải một số khó
khăn, hết sức có ích là đặt mình vào địa vị người khác, và xem bạn sẽ phản ứng
ra sao trong tình trạng ấy. Cho dù bạn không có kinh nghiệm thông thường về
người khác hay có một lối sống khác biệt hẳn, bạn vẫn có thể làm được nhờ tưởng
tượng. Bạn có thể cần đến một chút sáng tạo. Kỹ thuật này liên quan đến khả năng
tạm thời không áp đặt quan điểm riêng tư của mình mà tốt hơn là nhìn từ cách
nhìn của người khác để tưởng tượng rằng tình trạng này sẽ ra sao nếu mình ở
trong tình cảnh của người đó, mình phải đối phó ra sao. Điều này giúp cho bạn
phát triển sự tỉnh thức và tôn trọng cảm nghĩ của người khác, đó là một nhân tố
quan trọng nhằm giảm thiểu mâu thuẫn và khó khăn với người khác.
Cuộc phỏng vấn của chúng tôi chiều nay rất ngắn
ngủi. Tôi đã được bố trí vào chương trình công việc bận rộn của Đức Đạt Lai Lạt
Ma vào giấy phút cuối cùng và giống như một vài cuộc đàm thoại, nó xẩy ra muộn.
Bên ngoài trời mặt trời bắt đầu lặn, căn phòng tranh tối tranh sáng, làm bức
tường mầu vàng úa trở thành mầu hổ phách đậm, chiếu sáng những bức tượng Phật
màu vàng quí giá trong phòng. Người thị giả của Ngài lặng lẽ bước vào phòng và
ra hiệu cuộc gặp đã đến lúc chấm dứt. Hoàn thành cuộc thảo luận, tôi hỏi Ngài
"Tôi biết chúng ta phải kết thúc, nhưng Ngài có lời khuyên nào khác hay phương
pháp nào mà Ngài có thể sử dụng nhằm thiết lập sự đồng cảm với người khác
không?" Những lời Ngài giảng trước đây cách đây mấy tháng còn vang vọng, với một
sự bình dị hiền hòa, Ngài trả lời "Bất cứ lúc nào, tôi gặp ai, tôi bao giờ cũng
tiếp cận với họ bằng lập trường của các sự việc căn bản nhất mà chúng ta đều có.
Mỗi người chúng ta đều cùng có cấu tạo vật chất, tâm trí và cảm xúc. Tất cả
chúng ta sanh ra cùng một cách, và chúng ta đều phải chết. Tất cả chúng ta đều
muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Nhìn vào những người khác từ quan điểm ấy
chứ không phải là nhân mạnh vào những dị biệt phụ ví như thực tế tôi là người
Tây Tạng hay khác mầu da, tôn giáo, hay bối cảnh văn hóa, cho phép tôi có cảm
nghĩ đang gặp một người nào đó cũng giống như tôi. Tôi thấy rằng liên hệ với
người khác trên bình diện ấy dễ dàng làm cho việc trao đổi và giao tiếp với nhau
dễ hơn nhiều." Bằng điều đó, Ngài đứng dậy, mỉm cười, siết chặt tay tôi rất
nhanh, và lui về nghỉ tối.
Buổi sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục cuộc thảo
luận tại nhà Ngài.
"Tại Arizona, chúng ta nói đến nhiều về sự quan
trọng của từ bi trong quan hệ con người, và ngày hôm qua chúng ta thảo luận về
vai trò của thấu cảm để cải thiện khả năng quan hệ với người khác..."
"Phải", Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu.
"Thưa Ngài ngoài điều đó ra Ngài có thể cho thêm
phương pháp hay kỹ thuật đăc biệt nào không để giúp người ta tiếp xúc với người
khác hiệu quả hơn không?
"Cũng như tôi có nói ngày hôm qua chẳng có cách
nào mà bạn có thể tim thấy một hay hai kỹ thật đơn giản lại có thể giải quyết
tất cả các vấn đề. Dầu rằng nói là như vậy, tuy nhiên tôi nghĩ có một số nhân tố
khác có thể giúp tiếp xúc với người khác một cách khéo léo hơn. Trước tiên, hiểu
và đánh giá đúng những thông tin cơ bản mà bạn tiếp xúc là rất hữu ích. Ngoài ra
cởi mở và thành thật hơn nữa là những đức tính rất có ích khi tiếp xúc với người
khác."
Tôi chờ đợi, nhưng Ngài không nói gì thêm nữa.
"Ngài có thể cho biết phương pháp nào khác để
cải thiện mối quan hệ?
Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ ngợi một lúc rồi nói: "Không", Ngài cười.
Tôi cảm thấy những lời khuyên ít ỏi ấy quá đơn
giản và thực sự tầm thường. Tuy vậy khi điều đó dường như là tất cả những gì
Ngài đã nói về đề tài cho đến lúc này, chúng tôi quay sang đề tài khác.
Buổi tối hôm ấy, tôi được bạn hữu mời đến ăn cơm
chiều tại nhà một người bạn Tây Tạng tại Dharamsala. Bạn tôi sắp xếp buổi tối
hôm đó thật sôi nổi. Bữa ăn thật tuyệt, nổi bật với sự bày biện thật sững sờ các
món ăn đặc biệt, món ăn chính của Tây Tạng gọi là Mo Mos, một loại thịt hấp
ngon. Khi bữa ăn vẫn còn kéo dài, cuộc chuyện trò trở nên náo nhiệt hơn. Chẳng
mấy chốc, thực khách trao đổi những câu chuyện khó nghe về sự việc hết sức bối
rối mà họ đã từng làm trong khi say. Một vài người khách được mời dự gồm có một
cặp vợ chồng nổi tiếng đến từ Đức, người vợ là kiến trúc sư và người chồng, là
nhà văn, tác giả một tá sách.
Thích sách, nên tôi đã tới gần tác giả và bắt
chuyện. Tôi hỏi ông ta về việc viết văn của ông. Cấu trả lời của ông cộc lốc và
chiếu lệ, ông không giữ lịch sự và lạnh lùng. Nghĩ rằng ông không thân thiện mà
còn có tính trưởng giả học làm sang, tôi tức khắc không thích ông. Ít ra tôi đã
cố gắng liên hệ với ông, tôi tự an ủi và hài lòng rằng ông chỉ là một người khó
chịu và tôi quay sang trò chuyện với một vài người khách dễ thương hơn.
Ngày hôm sau, tôi tình cờ gập bạn tôi tại một
quán cà phê trong làng, và trong lúc uống trà tôi kể lại những sự kiện tối hôm
trước.
"... Tôi thực sự vui với tất cả mọi người ngoại
trừ Rolf, nhà văn ấy ... hình như quá tự cao tự đại hay đại loại như vậy...
không thân thiện" "Tôi biết ông ta mấy năm nay rồi" bạn tôi nói ".. Tôi biết ông
ta hay như vậy, nhưng đúng là ông ta hơi nhút nhát, và hơi dè dặt lúc đầu. ông
ta thực sự là một người tuyệt vời nếu ông biết ông ta..." Bạn tôi chưa thuyết
phục được tôi. Bạn tôi tiếp tục thanh minh, "Cho dù ông ta là một nhà văn thành
công, ông đã trải qua nhiều khó khăn trong đời ông. Rolf thực sự bị đau khổ rất
nhiều. Gia đình ông bị đau khổ khủng khiếp dưới bàn tay của Quốc Xã trong Thế
Chiến Thứ Hai. ông có hai người con mà ông hết sức tận tâm với chúng, lúc sinh
ra bị chứng rối loạn di truyền ít thấy làm cho chúng tật nguyền rất sớm về thể
xác và tinh thần. Và thay vì trở nên cay đắng hay sống một cuộc đời đọa đầy,
trước những khó khăn như thế ông đã chìa tay giúp đỡ mọi người, bỏ nhiều năm tận
tụy làm việc với những người tàn tật với tư cách một người tình nguyện. ông quả
là một người đặc biệt nếu ông biết ông ta".
Hóa ra tôi lại gặp Rolf cùng vợ ông ta vào cuối
tuần ấy tại một vùng đất nhỏ chạy dài dùng làm sân bay địa phương. Chúng tôi sẽ
cùng đi trên chuyến bay đi Đề Li, nhưng chuyến bay này bị hủy bỏ. Phải mất mấy
ngày nữa mới có chuyến bay khác., cho nên chúng tôi quyết định cùng nhau thuê
một chiếc xe và đi Đề Li, một cuộc hành trình 10 tiếng mệt nhoài. Một ít tin tức
về tiểu sử mà bạn tôi cho tôi biết đã thay đổi cảm nghĩ của tôi về Rolf, và
trong cuộc hành trình dài đi Đề Li tôi cảm thấy cởi mở hơn. Kết quả là tôi đã nỗ
lực đàm thoại với ông. Lúc đầu thái độ của ông vẫn như vậy. Nhưng chỉ một chút
ông cởi mở và bền chí, tôi sớm khám phá ra đúng như lời bạn tôi nói, sự lạnh
lùng của ông là do tính nhút nhát hơn là tính trưởng giả học làm sang. Chúng tôi
nói chuyện huyên thiên khi xe chạy trên con đường bụi bậm oi bức của miền quê
Bắc Ấn, càng đi sâu vào trò chuyện, ông càng chứng tỏ ông là một người ân cần,
chân thật và là người bạn đồng hành đáng tin cậy
Khi đến Đề Li, tôi nhớ lại lời khuyên của Đức
Đạt Lai Lạt Ma là "hãy tìm hiểu những thông tin cơ bản của một người" không phải
là sơ đẳng và nông cạn như lúc đầu ta tưởng. Tuy, có lẽ nó tầm thường nhưng
không đơn giản. Đôi khi nó là lời khuyên căn bản nhất và thẳng thắn nhất, loại
mà ta hay gạt đi vì cho là ấu trĩ, nó có thể là phương tiện hữu hiệu nhất để
thúc đẩy giao tiếp.
Mấy hôm sau tôi vẫn còn ở lại Đề Li, trên chặng
đường hai ngày trước khi trở về nhà. Thay đổi từ cái yên tịnh của Dharamsala làm
tôi khó chịu, và tôi ở trong tâm trạng bực bội. Ngoài việc vật lộn với cái nóng
ngột ngạt, ô nhiễm, và đông người, vỉa hè nhung nhúc những loại thú ăn thịt ở
thành thị dành cho Phố Xá Lừa Bịp. Đi bộ trên đường phố nóng như thiêu ở Đề Li,
một Người Phương Tây, một Người Ngoại Quốc, một Mục tiêu, bị xúm lại bởi hàng
nửa tá gái điếm mỗi đoạn đường, làm cho tôi cảm thấy như thể tôi là người xăm
chữ Ngố trên trán. Quả là nản lòng Sáng hôm ấy, tôi đã rơi vào mưu đồ bất lương
của hai kẻ bịp trên đường phố. Một đứa lấy sơn đỏ quẹt vào giầy tôi trong khi
tôi không để ý. Đi xuống cuối đường, kẻ đồng lõa, một em bé đánh giầy giả bộ
ngấy thơ, chỉ cho tôi biết giầy tôi dính sơn và đề nghị tôi cho nó đánh giầy với
giá thường lệ. Nó khéo léo đánh giầy tôi xong trong vòng ít phút. Sau khi xong,
nó thản nhiên đòi tôi một số tiền lớn - bằng số tiền lương hai tháng của nhiều
người tại Đề Li. Khi tôi không chịu, nó khẳng định là giá mà nó đã đề nghị
trước. Tôi phản đối, và thằng nhỏ bắt đầu kêu rống lên, làm một đám đông bấu đến
chung quanh tôi, nó khóc lóc và nói tôi từ chối không trả tiền công cho nó. Vào
cuối ngày đó, tôi được biết đó là một sự lùa bịp thông thường hay xẩy ra với
nhừng du khách vô tình, sau khi đòi số tiền lớn, thằng bé đánh giầy cố ý làm om
xòm để người đi đường xúm đông lại, với ý đồ tống tiền du khách bị bối rối và
muốn tránh cảnh tượng này.
Chiều hôm ấy, tôi dùng bữa cùng với một bạn đồng
sự tại khách sạn. Tôi đã quên hẳn những chuyện xẩy ra sáng nay khi bà hỏi tôi về
hàng loạt cuộc phỏng vấn gần đây của tôi với Đức Đạt Lạt Ma. Chúng tôi mải mê
bàn luận những khái niệm của Đức Đạt Lạt Ma về sự thấu cảm và tầm quan trọng của
việc đặt mình vào cách nhìn của người khác. Sau khi dùng bữa, chúng tôi nhẩy lên
một xe taxi đi thăm một số bạn bè chung của chúng tôi. Khi xe bắt đầu đi, những
ý nghĩ của tôi lại quay về vụ đánh giầy bịp bợm sáng nay, và khi những hình ảnh
tăm tối hiện trong tâm tôi, đột nhiên tôi nhìn vào đồng hồ tính tiền của xe.
"Ngưng lại Taxi! Ngưng lại" Tôi la lên. Bạn tôi
giật nảy mình vì sự bộc phát thình lình. Người tài xế giận dữ nhìn tôi qua kính
chiếu hậu. nhưng vẫn cho xe chạy.
"Đậu lại đi" tôi yêu cầu, giọng nói của tôi run
lên để lộ vẻ kích động. Bạn tôi hình như sửng sốt. Xe ngừng. Tôi chỉ vào đồng hồ
tính tiền, giận dữ chém tay vào không khí: "Ông không chỉnh lại đồng hồ. Hơn 20
đồng trên đồng hồ khi bắt đầu đi"
"Xin lỗi Ngài" Người tài xế nói bằng một giọng
buồn nản lạnh lùng càng làm tôi tức điên lên, "Tôi quên không vặn lại...Tôi sẽ
bắt đầu lại"
"Ông không vặn lại gì cả" Tôi bốp chát: "Tôi
chán ngấy các người đang cố gắng làm tăng tiền xe, chạy vòng vòng, hay làm bất
cứ cái gì có thể làm được để đánh lừa người ta... Tôi thật chán ngấy". Tôi lắp
bắp và nổi đóa với một xúc cảm ra vẻ cao đạo. Trông bạn tôi có vẻ bối rối. Người
tài xế chằm chằm nhìn tôi với cùng cái vẻ thách thức thường thấy ở những con bò
linh thiêng đi lang thang giữa đường phố Đề Li tấp nập này, chúng ngưng lại như
có ý định nổi loạn để cản trở giao thông. Anh ta nhìn tôi cứ như thể là cơn giận
của tôi chỉ là mệt nhọc và buồn bực. Tôi ném vài ru pi vào ghế trước và không
bình luận gì thêm nữa, mở cửa xe cho bạn tôi xuống xe ra ngoài. Chỉ vài phút
sau, chúng tôi lại gọi một taxi khác và chúng tôi lên xe tiếp tục cuộc hành
trình. Nhưng tôi không thể bỏ qua. Khi chúng tôi đi qua các dẫy phố tại Đề Li,
tôi tiếp tục phàn nàn là làm sao mà "ai" tại Đề Li này cũng lừa đảo du khách,
chúng tôi chẳng là gì cả mà chỉ là con mồi. Người bạn đồng sự của tôi lặng lẽ
nghe khi tôi huênh hoang và nói say sưa. Cuối cùng bà nói "Được, hai mươi Ru Pi
chỉ khoảng 25 xu (tiền Mỹ). Tại sao phải nổi giận chứ?" Tôi sôi lên với sự phẫn
nộ đạo đức giả. "Nhưng đó là nguyên tắc đáng quan tâm " Tôi tuyên bố: "Tôi không
hiểu sao mà bà lại có thể bình tĩnh trước toàn bộ sự việc này khi lúc nào nó
cũng xẩy ra. Bà không thấy khó chịu sao?"
"Được, bà nói chậm rãi," Khó chịu một phút thôi,
nhưng tôi bắt đầu nghĩ tới những gì chúng ta nói chuyện trong bữa ăn trưa, về
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói đến tầm quan trọng khi nhìn nhận vấn đề bằng cách nhìn
của người khác. Khi bạn nóng giận thì tôi cố gắng nghĩ về những gì tôi có thể
cũng giống như người tài xế taxi Cả hai chúng tôi đều muốn ăn ngon, ngủ ngon,
cảm thấy dễ chịu, được yêu mến vân vân... Rồi tôi cố gắng tôi tưởng tượng chính
mình là người tài xế taxi, tôi ngồi suốt ngày trong chiếc xe ngột ngạt không máy
lạnh, có thể tôi cáu kỉnh và ganh ghét với người ngoại quốc giàu có... và cách
tốt nhất mà tôi có thể nghĩ tới là cố gắng làm cho sự việc "công bình", để được
hạnh phúc là tìm cách lừa gạt để lấy tiền. Nhưng vấn đề là, dù cho nó thành
công, bóp nặn được vài Ru Pi của du khách vô tình, tôi không thể tưởng tượng nổi
ngưới ta lại thỏa mãn với cách đó để được hạnh phúc hơn hay một cuộc sống vừa ý
hơn .. Dù sao, tôi càng nghĩ mình là người tài xế taxi, tôi càng bớt giận anh
ta. Cuộc sống anh ta có vẻ buồn buồn ..có nghĩa là, tôi vẫn không đồng ý về điều
anh ta đã làm, và chúng ta có quyền ra khỏi xe, nhưng đúng là tôi không thể nổi
giận đến mức ghét anh ta về chuyện đó..."
Tôi im lặng. Giật mình, thực ra tôi chưa hấp thụ
được bao nhiêu từ Đức Đạt Lai Lạt Ma. Lúc này, tôi bắt đầu hiểu giá trị thực
tiễn trong lời khuyên của Ngài, như "hiểu biết tiểu sử người khác", và đương
nhiên, tôi đã tìm được sự mẫu mực về cách thực hiện những nguyên tắc này trong
cuộc đời của Ngài đang truyền cảm hứng. Nhưng khi tôi nghĩ lại về hàng loạt cuộc
thảo luận với Ngài, bắt đầu từ Arizona, và bây giờ tiếp tục tại Ấn Độ, tôi nhận
ra rằng ngay từ lúc đầu, những cuộc phỏng vấn của chúng tôi có vẻ có không khí
bệnh viện, như thể tôi hỏi Ngài về khoa giải phẫu, ở trong trường hợp này, đó là
khoa giải phẫu tâm trí và tinh thần của con người. Tuy nhiên cho đến lúc này,
không biết làm sao mà tôi vẫn chưa nẩy ra ý áp dụng đầy đủ tư tưởng của Ngài vào
đời sống của tôi, ít ra không phải là lúc này - Tôi luôn có một ý định mơ hồ sẽ
cố gắng thực hiện những khái niệm của Ngài trong đời tôi ở một lúc nào đó trong
tương lai, có lẽ khi tôi có nhiều thì giờ hơn.
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ CỦA SỰ QUAN HỆ
Những cuộc đàm thoại với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại
Arizona bắt đầu bằng cuộc bàn thảo về nguồn gốc hạnh phúc. Mặc dầu thực tế là
Ngài chọn cuộc sống làm một nhà sư, nhưng các cuộc nghiên cứu cho thấy hôn nhân
góp phần thực tế mang đến hạnh phúc - mang đến sự riêng tư và mối liên kết chặt
chẽ làm tăng thêm sức khỏe và thỏa mãn cách sống chung. Hàng ngàn cuộc thăm dò
người Mỹ và Âu Châu cho thấy người có gia đình hài lòng và hạnh phúc với cuộc
sống hơn người độc thân hay người góa.- nhất là so với những người ly dị hay ly
thân.
Một cuộc thăm dò cho thấy sáu trong số mười
người Mỹ đánh giá hôn nhân của họ là "rất hạnh phúc" và cũng xem cuộc đời họ nói
chung là "rất hạnh phúc". Trong cuộc bàn luận về đề tài quan hệ con người, tôi
nghĩ rằng nếu đưa ra vấn đề là nguồn hạnh phúc chung cũng rất quan
trọng.
Ít phút trước giờ ấn định phỏng vấn Đức Đạt Lai
Lạt Ma, tôi ngồi với một người bạn ở hành lang lộ thiên của một khách sạn tại
Tuscon uống một ly nước mát giải khát. Đề cập đến chủ đề lãng mạn và hôn nhân mà
tôi dự định nêu lên trong cuộc phỏng vấn của tôi, bạn tôi và tôi động lòng trắc
ẩn nghĩ đến những người độc thân. Trong khi chúng tôi trò chuyện, một cặp vợ
chồng trẻ trông có vẻ lành mạnh, có thể là những người chơi gôn, sung sướng nghỉ
hè vào lúc cao điểm của mùa du lịch, ngồi bàn bên cạnh chúng tôi. Trông họ có vẻ
như đã lấy nhau khá lâu - không còn ở trong tuần trăng mật nữa, nhưng vẫn còn
trẻ và chắc chắn hãy còn mặn nồng. Rất tốt đôi, tôi nghĩ như vậy.
Nhưng vừa ngồi xuống họ bắt đầu cãi nhau.
"... Tôi đã bảo anh anh chúng ta bị trễ rồi",
người thiếu phụ buộc tội một cách gay gắt, giọng nói của cô ta khàn lạ thường,
tiếng rè của dấy thanh bị ngâm bởi nhiều năm thuốc lá và rượu."Bây giờ chúng ta
không có đủ thì giờ mà ăn. Tôi không thể ăn ngon miệng được."
"... nếu cô không chuẩn bị quá lâu ..." người
đàn ông phản pháo một cách vô ý thức bằng một giọng nhỏ nhẹ hơn, nhưng mỗi ấm
nặng trĩu khó chịu và hằn học.
Đốp lại."Tôi đã sẵn sàng từ nửa giờ trước rồi. Chính anh mới là người chậm
trễ vì phải đọc xong tờ báo" ...
Và cứ như thế lời qua tiếng lại không ngừng.
Giống như nhà soạn kịch Hy Lạp Euripides nói, "Hôn nhân có thể tốt đẹp. Nhưng
khi hôn nhân thất bại, thì những người đó ở nhà như trong địa ngục"
Tranh luận, nhanh chóng leo thang, rồi chấm dứt
bằng nhữn lời than vãn về cuộc sống đôc thân. Bạn tôi đảo mắt và trích một câu
trong Seifeld, nói "Ờ phải, tôi muốn lấy vợ thật sớm!"
Chỉ ít phút trước đây, tôi có ý định bắt đầu
cuộc gặp bằng cách xin Đức Đạt Lai Lạt Ma ý kiến về niềm vui và ưu điểm của tình
yêu lãng mạn và hôn nhân. Thay vì như thế, khi vào phòng của Ngài tại khách sạn,
và sắp sửa ngồi xuống, tôi lại hỏi:"Tại sao Ngài lại cho là mâu thuẫn hình như
thường trong hôn nhân phát sinh?"
"Khi đề cập đến mâu thuẫn, đương nhiên có thể là
rất phức tạp". Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích.""Có thể có nhiều nhân tố liên
quan. Cho nên, khi chúng ta xử trí bằng cách cố gắng tìm hiểu những vấn đề quan
hệ, giai đoạn đầu tiên trong tiến trình này đòi hỏi phải suy ngẫm kỹ lưỡng về
bản chất và cơ sở căn bản của mối quan hệ ấy.
"Vậy, trước tiên, ta phải công nhận có nhiều
loại quan hệ khác nhau và hiểu biết những dị biệt giữa chúng. Thí dụ, hãy để qua
một bên vấn đề hôn nhân, ngay cả trong phạm vi tình bạn bình thường, chúng ta
cũng phải công nhận có những loại tình bạn khác nhau. Có khi tình bạn dựa vào
của cải, quyền thế, hay địa vị. Trong những trường hợp này, tình bạn còn tiếp
tục với điều kiện là bạn còn giữ được quyền thế, của cải và địa vị. Khi những
căn cứ ấy không còn, thì tình bạn cũng sẽ bắt đầu biến mất. Mặt khác có một loại
tình bạn khác. Tình bạn này không căn cứ vào tính toán về của cải, quyền thế và
địa vị mà đúng ra là cảm tính thực sự con người, một cảm tính gần gũi trong đó
có ý thức chia sẻ và quan hệ. Loại tình bạn hữu này là cái mà tôi gọi là tình
bạn chân chính vì nó không bị ảnh hưởng bởi tình trạng của cải, quyền thế và địa
vị của một cá nhân dù nó tăng hay giảm. Nhân tố giữ vững tình bạn chân chính là
cảm tính và tình cảm. Nếu bạn thiếu điều đó, bạn không thể giữ được tình bạn
chân chính. Chắc chắn chúng ta đã nói đến điều này trước đây và tất cả điều đó
là rất rõ ràng, nhưng nếu bạn đi vào vấn đề quan hệ, thường thường sẽ rất hữu
ích nếu biết dừng lại và suy ngẫm về cơ sở của mối quan hệ ấy.
Cũng giống như vậy, nếu ai đó vấp phải khó khăn
với chồng mình hoặc vợ mình, sẽ rất hữu ích nếu biết nhìn vào cơ sở căn bản của
mối quan hệ. đó. Chẳng hạn, bạn thường thấy nhiều mối quan hệ chỉ căn cứ vào sự
lôi cuốn giới tính ngay từ đầu. Khi một cặp mới gặp nhau, chỉ gặp nhau vài lần,
họ có thể yêu nhau say đắm và rất hạnh phúc." Ngài cười " nhưng bất cứ quyết
định nào về hôn nhân vào lúc ấy rất dễ lung lay. Về một ý nghĩa nào đó cũng như
người ta có thể trở nên mất trí, vì sức mạnh của cơn giận hay hận thù mãnh liệt,
về một ý nghĩa, người ta cũng có thể bị mất trí bởi sức mạnh của đam mê hay ham
muốn. Và đôi khi bạn có thể thấy trạng thái mà một cá nhân có thể cảm thấy, "ôi
người bạn trai của tôi, hay người bạn gái của tôi thực sự không phải người tốt,
không phải là người tử tế, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị lôi cuốn bởi anh ấy hay cô
ấy". Cho nên sự quan hệ dựa vào cái lôi cuốn ban đầu thật không thể tin cậy
được, thực sự không vững vàng vì nó căn cứ vào nhiều hiện tượng tạm thời. Cảm
giác này tồn tại rất ngắn ngủi, và sau một thời gian, cảm giác này không còn
nữa". Ngài bật tách tách ngón tay.."Cho nên đừng quá ngạc nhiên nếu kiểu quan hệ
như thế rơi vào chuyện rắc rối, và hôn nhân căn cứ vào điều đó cuối cũng rơi vào
rắc rối ...Nhưng ông nghĩ thế nào?
"Vâng, tôi phải đồng ý với Ngài về việc đó", tôi
trả lời." Hình như trong bất cứ mối quan hệ ngay cả những mối quan hệ nồng cháy,
sự say mê lúc ban đầu cuối cùng cũng nguội đi. Một số nghiên cứu cho thấy những
người coi sự say mê và lãng mạn lúc ban đầu là tối cần thiết cho quan hệ của họ,
cuối cùng đi đến vỡ mộng và ly dị. Ellen Bercheid, nhà tâm lý học xã hội của Đại
Học Minnesota,đã xem xét vấn đề và kết luận rằng không đánh giá đúng phân nửa
thời gian có giới hạn của tình yêu say đắm có thể hủy diệt mối quan hệ. Bà và
những đồng sự của bà cảm thấy mức độ ly dị gia tăng trên hai mươi năm qua một
phần liên quan việc người ta ngày càng coi trọng những kinh nghiệm cảm xúc rất
được tin cậy trong đời họ - những kinh nghiệm giống như tình yêu lãng mạn. Nhưng
có một vấn đề là những loại kinh nghiệm như vậy có thể rất khó đứng vững với
thời gian..." "Điều này hình như rất đúng" Ngài nói."Cho nên khi đề cập đến
những vấn đề quan hệ bạn sẽ thấy ý nghĩa quan trọng to lớn trong việc nghiên cứu
và hiểu biết bản chất cơ bản của mối quan hệ.
"Bây giờ, trong khi có một số quan hệ căn cứ vào
sự lôi cuốn giới tính ngay từ đầu, thì mặt khác, bạn có thể có những kiểu quan
hệ khác mà trong đó những người có tâm trạng điềm tĩnh có thể nhận thức rằng nói
về thân thể bề ngoài bạn trai hay bạn gái của tôi có thể không hấp dẫn nhưng anh
ấy hay cô ấy thực sự là một người tốt, một người tử tế hòa nhã. Sự quan hệ được
xấy dựng bằng điều đó hình thành loại liên kết lâu dài hơn vì nó thuộc loại giao
tiếp thành thật ở mức thực sự riêng tư và con người giữa hai người..."
Đức Đại Lai Lạt Ma ngưng một chút như thể nghiền ngẫm về vấn đề rồi nói thêm,
"Đương nhiên tôi phải nói cho rõ ràng là người ta có thể có quan hệ tốt lành
mạnh bao gồm cả sự lôi cuốn giới tính như là một thành tố. Cho nên hình như có
loại quan hệ chính dựa vào vào sự lôi cuốn giới tính. Một loại hoàn toàn dựa vào
sự ham muốn giới tính. Trong trường hợp này, động cơ hay sự thúc đẩy đằng sau sự
liên kết thực sự chỉ là sự thỏa mãn tạm thời, sự vừa lòng trước mắt. Trong loại
quan hệ này, các cá thể gắn liền với nhau không thật là con người mà đúng hơn là
đối tượng. Loại quan hệ này không lành mạnh. Nếu sự quan hệ chỉ căn cứ trên sự
ham muốn giới tính, không có thành tố tôn trọng lẫn nhau, thì sự quan hệ này hầu
như trở thành mại dâm, trong đó cả hai bên dều không tôn trọng lẫn nhau. Sự quan
hệ lúc đầu xấy dựng trên ham muốn giới tính giống như căn nhà xấy dựng trên nước
đá, đúng lúc đá tan ra, căn nhà xụp.
"Tuy nhiên có một loại quan hệ thứ hai, cũng căn
cứ trên sự lôi cuốn giới tính, nhưng trong đó sự lôi cuốn thể xác không phải là
cơ sở chiếm ưu thế ưu tiên trong quan hệ này. Trong kiểu quan hệ thứ hai này, có
sự đánh giá căn bản đúng về giá trị của nhau căn cứ vào cảm nghĩ người kia là
người tốt, tử tế, và hòa nhã, và bạn có sự tôn trọng và phẩm giá của người kia.
Bất cứ sự quan hệ nào căn cứ trên tinh thần ấy sẽ lâu bền và chắc chắn đáng tin
cậy Loại này thích hợp hơn. Và muốn thiết lập loại quan hệ này, điều chủ yếu là
phải dành đủ thì giờ để hiểu nhau với ý thức chân thật, hiểu biết những đặc tính
căn bản của nhau.
"Cho nên, khi những bạn bè tôi hỏi tôi về hôn
nhân của họ, tôi thường hỏi lại họ đã quen nhau bao lâu rồi. Nếu họ nói mới có
mấy tháng, thì tôi thường nói:"Vậy quá ngắn ngủi". Nếu họ nói một vài năm, thì
tôi nói thế thì tốt. Bây giờ họ không những biết mặt hay bề ngoài, mà tôi còn
nghĩ, hiểu bản tính sâu xa của nhau" "Điều đó hồ như nhà Văn Mark Twain đã nói
"không có người đàn ông nào hay người phụ nữ nào thực sự hiểu tình yêu hoàn hảo
là gì cho đến khi họ đã thành hôn với nhau trong một phần tư thế kỷ..."
"Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu và nói tiếp tục:
Đúng.. cho nên, tôi nghĩ, nhiều vấn đề xẩy ra chỉ vì không đủ thì giờ để tìm
hiểu lẫn nhau. Dù sao, tôi nghĩ nếu ta
tìm cách xấy dựng mối quan hệ thực sự vừa ý, con đường tốt nhất dẫn tới điều đó
là phải hiểu biết bản tính sâu xa của người kia và quan hệ với anh ấy hay cô ấy
trên mức độ đó, thay vì chỉ chú trọng đến những đặc điểm bên
ngoài. Và trong kiểu quan hệ đó có vai
trò của tình thương chân chính.
"Bây giờ tôi nghe nhiều người nói hôn nhân của
họ có ý nghĩa sâu xa hpn trên sự quan hệ giới tính, hôn nhân đòi hỏi hai người
cố gắng liên kết với nhau, cùng nhau chia sẻ cuộc đời thăng trầm, chia sẻ niềm
riêng tư mật thiết. Nếu lời nói đó là chân thật, tôi tin tưởng đó là cơ sở thích
hợp để xấy dựng quan hệ. Quan hệ lành mạnh gồm có ý thức trách nhiệm và cam kết
với nhau. Đương nhiên, sự tiếp xúc thể chất, sự quan hệ giới tính thích đáng và
thông thường của một cặp vợ chồng, có thể đem đến một sự thỏa mãn nào đó, có thể
có hiệu quả làm dịu tâm. Nhưng rốt cuộc nói về mặt sinh học, mục đích chính của
quan hệ nhục dục là sinh sản. Và muốn thành công trong việc này, bạn cần phải có
ý thức tận tâm với con cái, để cho chúng có thể tồn tại và mau lớn. Vậy, phát
triển khả năng có ý thức trách nhiệm và cam kết có tính quyết định. Không có
điều đó, sự quan hệ chỉ mang lại sự thỏa mãn tạm thời. Chỉ cho vui". Ngài cười,
một nụ cười dường như kinh ngạc trước phạm vi mênh mông về cách ứng xử của con
người.
QUAN HỆ DỰA VÀO TÌNH CẢM LÃNG MẠN
Tôi cảm thấy kỳ quặc khi nói về tình dục và hôn
nhân với một người nay đã trên sáu mươi tuổi mà suốt đời độc thân. Ngài không
thấy ghét những vấn đề ấy, nhưng có một sự xuy xét độc lập trong những bình luận
của Ngài.
Nghĩ về cuộc nói chuyện của tôi với Ngài sau tối
hôm ấy, tôi chỉ nghĩ rằng còn một thành tố quan trọng trong quan hệ chưa được
nói đến, và tôi tò mò tôi muốn biết quan điểm của Ngài đối với vấn đề này ra
sao. Tôi đã nêu vấn đề này ra ngày hôm sau.
"Ngày hôm qua, chúng ta thảo luận về các mối
quan hệ và tầm quan trọng của việc đặt quan hệ thân thiết hay hôn nhân hơn cả
vấn đề nhục dục", tôi bắt đầu " Nhưng theo văn hóa Tây Phương, không phải chỉ là
hành động xác thịt mà toàn bộ ý niệm lãng mạn.- ý niệm phải lòng ai, yêu say đắm
người tình- được coi như một ham muốn cao độ. Trên màn ảnh, văn chương, và văn
hóa đại chúng, người ta đề cao loại tình yêu lãng mạn này. Quan điểm của Ngài
thế nào về vấn đề này?
Không một chút do dự, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói:
"Tôi nghĩ rằng, chưa cần xét đến theo đuổi tình yêu lãng mạn có thể ảnh hưởng
sâu xa đến sự phát triển tinh thần ra sao, thậm chí từ quan điểm của lối sống
thông thường, lý tưởng hóa tình yêu lãng mạn có thể được coi là một cực đoan.
Không giống như những quan hệ căn cứ trên tình cảm chu đáo và chân thật, đây là
một vấn đề khác. Nó không thể được coi là tích cực, Ngài quả quyết."Nó dựa vào
ảo tưởng, không thể đạt được, cho nên nó là nguồn gốc của vỡ mộng. Vậy, trên cơ
sở đó nó không thể được coi như tích cực".
Giọng nói như kết thúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma,
cho thấy Ngài không có gì để nói thêm về đề tài này nữa. Vì xã hội chúng ta đặt
tầm quan trọng to lớn lên tình yêu lãng mạn, tôi cảm thấy Ngài bác bỏ sự cám dỗ
của tình yêu lãng mạn quá nh nhàng vì Đức Đạt Lai Lạt Ma được dạy dỗ trong tu
viện, tôi cho rằng Ngài không cảm nhận đầy đủ niềm vui của tình yêu lãng mạn, và
hỏi Ngài về những vấn đề liên quan đến tình yêu lãng mạn thì cũng chẳng khác gì
yêu cầu Ngài ra bãi đậu xe để Ngài giải quyết cái khó khăn của tôi về bộ truyền
lực của xe. Không được vừa lòng lắm, tôi lóng ngóng với ít điểm ghi chép rồi
chuyển sang đề tài khác.
Cái gì đã làm cho tình yêu lãng mạn quyến rũ đến
thế? Nhìn vào câu hỏi này, ta thấy Thần Ái Tình (Eros) - tình yêu lãng mạn, xác
thịt, say đắm - trạng thái ngấy ngất cuối cùng, là một ly cốc tay mạnh có các
thành phần văn hóa, sinh học, và tâm lý. Trong văn hóa Tây Phương, khái niệm về
tình yêu lãng mạn đã thăng hoa từ trên hai trăm năm qua dưới ảnh hưởng của chủ
nghĩa lãng mạn, một phong trào đã ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành sự nhận
thức của chúng ta về thế giới. Chủ nghĩa lãng mạn phát triển như là một sự bác
bỏ Thời Đại Ánh Sáng đó, nhân mạnh đến lý trí con người. Phong trào mới này đề
cao trực giác, xúc cảm, cảm tính và say mê. Nó nhân mạnh đến tầm quan trọng của
thế giới giác quan, kinh nghiệm chủ quan của cá nhân, và có khuynh hướng về thế
giới tưởng tượng, ảo tưởng, tìm cầu một thế giới không phải là - một quá khứ lý
tưởng hay tương lai không tưởng. Quan niệm này không những đã có một tác động
sâu xa vào văn học nghệ thuật mà còn vào cả chính trị và mọi mặt phát triển của
văn hóa của Tây Phương hiện đại.
Yếu tố hấp dẫn nhất trong khi theo đuổi tình yêu
lãng mạn là cảm giác yêu phải lòng. Những ảnh hưởng mạnh mẽ hoạt động thúc đẩy
chúng ta tìm kiếm cảm giác ấy, còn nhiều hơn cả sự suy tôn tình yêu lãng mạn mà
ta thấy từ văn hóa. Nhiều nhà nghiên cứu cảm thấy những sức mạnh ấy đã được lập
trình trong các gien từ lúc sinh ra đời. Cảm giác yêu phải lòng bao giờ cũng hòa
lẫn với cảm giác của sự lôi cuốn xác thịt, có thể là thành phần bản năng do gien
quyết định trong hành vi giao phối. Từ cái nhìn tiến hóa chức năng cá nhân của
sinh vật là sinh tồn, sinh sản, và bảo đảm sự tồn tại liên tục của giống loài.
Vì lợi ích tốt nhất của giống loài, cho nên nếu chúng ta được lập trình để yêu,
chắc chắn nó sẽ gia tăng lợi thế mà chúng ta kết đôi và sinh sản. Vì vậy, chúng
ta có những cơ cấu gắn liền giúp cho điều đó xẩy ra, đáp ứng một số tác nhân
kích thích, não bộ sản xuất và tiết ra những hóa chất tạo thành cảm giác phân
khích cái "đê mê" kết hợp với tình yêu. Và trong khi bộ não của chúng ta ngâm
với những hóa chất ấy, cảm giác đó áp đảo chúng ta đến mức mọi thứ khác dường
như bị ức chế .
Ảnh hưởng tâm lý thúc đẩy ta tìm cảm giác tình
yêu cũng hấp dẫn như ảnh hưởng sinh học. Trong tập khảo luận của Plato, Socrates
kể một câu chuyện huyền thoại về Aristophanes liên quan đến nguồn gốc tình yêu
xác thịt. Theo huyền thoại này, những cư dân đầu tiên trên trái đất là những
sinh vật tròn có bốn tay, bốn chân, và cùng với lưng và hông làm thành hình
tròn. Những sinh vật vô tính độc lập này rất cao ngạo và thường tân công các vị
thần. Để trừng phạt chúng, Thần Zeus phóng sấm sét vào chúng và phân đôi chúng
ra. Mỗi chúng sanh bây giờ là hai, nửa này mong mỏi hợp nhất với nửa kia. Thần
Ái Tình (Eros) ham muốn tình yêu mê say, lãng mạn, có thế được xem là khao khát
thời cổ muốn hợp nhất với nửa kia. Nó dường như là nhu cầu vô tình phổ biến của
con người. Cảm tính đó kéo theo cảm giác hợp nhất với người kia, ranh giới bị
phá tan, trở thành một với người mình yêu. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự sụp
đổ ranh giới cái tôi. Một số người nghĩ rằng tiến trình này bắt nguồn từ kinh
nghiệm sớm nhất của ta, một cố gắng vô thức để tái tạo kinh nghiệm có từ lúc còn
thơ ấu, trạng thái căn bản mà trong đó đứa trẻ hoàn toàn gần gũi với cha mẹ hay
người nuôi nâng lúc đầu
Bằng chứng cho thấy những đứa trẻ sơ sinh không
phân biệt chính chúng với phần còn lại của thế giới. Chúng không có ý thức nhận
dạng cá nhân hay ít ra cũng nhận dạng được mẹ, những người khác hay những đồ vật
chung quanh. Chúng không biết đâu là giới hạn của chúng và đâu là chỗ bắt đầu
của những cái khác. Chúng không biết gì là đồ vật đang tồn tại: đồ vật không có
sự tồn tại độc lập, nếu chúng không tác động qua lại với một đồ vật, đồ vật này
không tồn tại. Thí dụ, đứa trẻ đang cầm cái lúc lắc, nó nhận biết cái lúc lắc là
một phần của chính nó, và nếu cái lúc lắc bị lấy đi hay dấu đi, với nó cái lúc
lắc đó không còn tồn tại.
Vào lúc mới sanh bộ não chưa hoàn toàn "kết nối
chắc chắn" nhưng khi đứa bé lớn lên thì bộ não trưởng thành, sự tác động qua lại
với thế giới trở nên tinh vi hơn và đứa bé dần dần phát triển ý thức nhận dạng
riêng, biết "tôi" hay đối lập với "cái khác". Cùng với điều đó, ý thức riêng
biệt phát triển, dần dà đứa bé phát triển nhận thức về giới hạn của mình. Sự
hình thành cá tính đương nhiên tiếp tục phát triển qua thời kỳ thơ ấu và thời kỳ
thanh niên rồi đứa trẻ vào đời. Ý thức về mình là ai xuất hiện là kết quả của sự
phát triển những hình dung bên trong, phần lớn đã hình thành do cảm nghĩ về
những tác động qua lại lúc ban đầu với những người quan trọng sống với nó, và
suy nghĩ về vai trò của chúng trong xã hội nói chung. Dần dần cá tính riêng, và
cấu trúc nội tâm lý trở nên phức tạp hơn.
Nhưng một số người vẫn tìm cách đi ngược trở lại
trạng thái cuộc sống trước đó, một trạng thái hạnh phúc trong đó không có cảm
giác bị cô lập, không có cảm giác bị phân cách. Nhiều nhà tâm lý hiện đại cảm
thấy kinh nghiệm có "tính tổng thể" được đưa vào tiềm thức, và khi trưởng thành
nó thấm vào sự tưởng tượng vô thức và riêng tư của mình. Họ tin là hòa mình vào
với người yêu khi một người "đang yêu" gợi nhớ lại kinh nghiệm hòa hợp với người
mẹ thời thơ ấu. Nó tái tạo cảm nghĩ kỳ diệu, một cảm nghĩ tuyệt đối, như thể là
mọi sự đều có thể làm được. Một cảm nghĩ như thế khó mà đẩy lùi.
Thảo nào mà sau này sự theo đuổi một mối tình
lãng mạn lại mạnh mẽ như thế. Vậy vấn đề này là thế nào, và tại sao Đức Đạt Lai
Lạt Ma lại dễ dàng quả quyết cho rằng theo đuổi mối tình lãng mạn là chuyện tiêu
cực?
Tôi coi vấn đề quan hệ dựa vào tình yêu lãng
mạn, nương vào tình cảm lãng mạn là nguồn gốc của hạnh phúc. Một bệnh nhân trước
đây của tôi, David, hiện ra trong tâm trí tôi. David, một kiến trúc sư 34 tuổi
về ngành xấy dựng vườn hoa và công viên, đến phòng bệnh của tôi với triệu chứng
điển hình của một sự suy nhược nghiêm trọng. Anh ta giải thích sự suy nhược này
là do một số công việc lặt vặt làm cho anh bị căng thẳng, nhưng "đại loại là mới
bắt đầu" Chúng tôi chọn cách dùng thuốc chống suy nhược, anh ta đồng ý, và chúng
tôi cho anh thử thuốc chống suy nhược bình thường. Thuốc chứng tỏ có hiệu quả,
trong vòng ba tuần lễ triệu chứng đau cấp tính của anh đã thuyên giảm và anh trở
lại làm việc bình thường. Tuy nhiên trong khi tìm hiểu bệnh sử của anh chảng mấy
chốc tôi nhận thức ra rằng thêm vào cái suy nhược cấp tính anh đã bị suy nhược
nhẹ (dysthymia), một dạng suy nhược kinh niên ở mức độ thấp ấm ỉ từ nhiều năm.
Sau khi bình phục chứng suy nhược cấp tính, chúng tôi bắt đầu tìm hiểu tiểu sử
của anh, đặt nền móng giúp chúng tôi tìm hiểu những động lực tâm lý bên trong đã
gây ra chứng suy nhược nhẹ từ nhiều năm. Sau một vài lần khám bệnh, một hôm
David vào phòng tôi với bộ dạng hớn hở. Anh nói " tôi cảm thấy tuyệt vời", "tôi
chưa bao giờ cảm thấy như vậy từ nhiều năm nay ".
Phản ứng của tôi về tin vui này là ngay lập tức
đánh giá xem liệu có phải là anh đã đi vào giai đoạn tính khí rối loạn thất
thường không, tuy nhiên điều đó không đúng.
Anh nói với tôi " Tôi đang yêu. Tôi gặp nàng
tuần trước tại chỗ tôi đấu thầu. Nàng là người đẹp nhất mà tôi đã từng được
thấy".
Tuần này đêm nào chúng tôi đều đi chơi với nhau,
quả thật chúng tôi là một cặp tâm hồn - hoàn toàn hợp với nhau. Tôi thật không
thể tin là như vậy! Tôi không hẹn hò gì hai ba năm nay, và đi đến chỗ nghĩ rằng
sẽ không bao giời có thể gặp được ai vùa ý, rồi thì bỗng nhiên có
nàng".
Trong suốt buổi nói chuyện với tôi, David liệt
kê những ưu điểm đáng chú ý của người bạn gái mới của mình."Tôi nghĩ rằng chúng
tôi hoàn toàn hợp nhau trên mọi phương diện. Không phải chỉ về xác thịt, chúng
tôi quan tâm giống nhau đến mọi sự, thật là dễ sợ sao mà chúng tôi lại suy nghĩ
giống nhau đến thế. Đương nhiên, tôi rất thực tế, và tôi hiểu rằng chẳng ai mười
phân vẹn mười. Một đêm nọ tôi hơi khó chịu một chút vì tôi nghĩ nàng có vẻ cợt
nhả vài gã trong câu lạc bộ mà chúng tôi đến chơi tại đây... nhưng cả hai chúng
tôi đều uống quá nhiều và cô ấy chỉ muốn vui mà thôi. Chúng tôi bàn cãi về
chuyện ấy, và sau mọi chuyển ổn thỏa".
David trở lại phòng mạch tuần lễ sau đó và báo
cho tôi biết anh đã quyết định thôi không chữa bệnh nữa." Mọi sự đều tuyệt vời
trong đời tôi, tôi không thấy còn gì phải nói về chữa bệnh" Anh giải
thích."Chứng suy nhược của tôi đã hết, tôi ngủ như một đứa trẻ, tôi trở lại làm
việc rất tốt, tôi có quan hệ tuyệt vời, dường như càng ngày càng tốt hơn. Tôi
nghĩ rằng tôi đã được lợi ích gì đó trong những lần chữa bệnh, nhưng nay tôi
thấy không thể tốn kém tiền bạc để chữa bệnh khi không còn gì phải làm".
Tôi nói với anh tôi rất vui biết mọi việc tốt
đẹp với anh nhưng cũng nhắc anh lưu ý đến một vài vấn đề gia đình mà chúng ta
nhận biết có thể dẫn đến bệnh suy nhược kinh niên. Suốt lúc ấy những thuật ngữ
tâm thần thông thường như "đề kháng" và "bảo vệ" bắt đầu hiện ra trong tâm trí
tôi.
Anh không tin: "Được đây; có thể là những chuyện
mà một ngày nào đó, tôi sẽ xét đến" Anh nói. "Nhưng tôi thực sự nghĩ rằng phần
lớn do sự cô đơn, một cảm giác thiếu ai đó, cần phải có một người đặc biệt để
chia sẻ mọi thứ, và nay tôi đã tìm thấy nàng."
Anh nhất quyết muốn chấm dứt việc chữa trị vào
ngày đó. Chúng tôi sắp xếp để vị bác sĩ gia đình của anh theo dõi chế độ thuốc
men, phê duyệt và chấm dứt khám bệnh, tôi kết thúc với sự bảo đảm là phòng mạch
của tôi lúc nào cũng sẵn sàng tiếp đón anh.
Một vài tháng sau, David trở lại phòng mạch của
tôi.
"Tôi hết sức đau khổ", anh nói với một giọng
buồn nản. "Lần trước, tội gặp ông, mọi sự đều tuyệt vời. Tôi thực sự nghĩ rằng
tôi đã tìm được người bạn đời lý tưởng thậm chí tôi đã nghĩ đến việc hôn nhân.
Nhưng dường như tôi càng tiến gần bao nhiêu thì nàng lại càng lùi xa bây nhiêu.
Cuối cùng nàng đã chấm dứt quan hệ với tôi. Quả thật tôi bị suy nhược một đôi
tuần sau đó. Thậm chí tôi bắt đầu gọi điện thoại chỉ để nghe giọng nói của nàng,
và lái xe đến chỗ nàng làm việc chỉ để xem xe của nàng có ở đây không. Sau
khoảng một tháng tôi ốm vì làm việc đó - thật là quá nực cười - và dù sao triệu
chứng suy nhược của tôi cũng tăng lên. Tôi vẫn ăn uống, ngủ nghỉ tốt, vẫn đi làm
tốt, và tôi vẫn có dồi dào sức lực nhưng tôi vẫn cảm thấy như thể là mất mát một
phần nào trong tôi. Giống như tôi lại trở về với tình trạng trước đây, giống như
cảm tưởng mà tôi đã bị nhiều năm.
Tôi lại bắt đầu điều trị cho anh.
Dường như rõ ràng là nguồn hạnh phúc, tình ái
lãng mạn để lại nhiều điều khắc khoải. Và có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã biểu lộ sự
bác bỏ khái niệm tình yêu lãng mạn là cơ sở để quan hệ và Ngài mô tả tình yêu
lãng mạn chỉ là "ảo tưởng không thể đạt được", không đáng nỗ lực. Quan sát kỹ
lưỡng hơn, có lẽ Ngài đã mô tả bản chất của tình yêu lãng mạn một cách khách
quan chứ không phải dưa ra phán xét giá trị tiêu cực bị ảnh hưởng sau nhiều năm
tu tập với tư cách một nhà sư. Ngay cả nguồn tham khảo khách quan như tự điển
cũng chứa đựng một tá định nghĩa về "lãng mạn", "mơ mộng", có quá nhiều cách nói
như "truyện hư cấu", "sự cường điệu", "sự bày tỏ sai lầm", "không có thật hay
tưởng tượng", "không thực tiễn", "không có cơ sở thực tế", " tiêu biểu cho hay
bận tâm với sự làm tình hay tỏ tình được lý tưởng hóa" vân vân... Hiển nhiên dọc
tiến trình văn minh Tây Phương đã có một sự thay đổi. Quan niệm thời cổ Thần Ái
Tình (Eros), với ý nghĩa cơ bản hợp thành một, hay hợp nhất với người kia, nay
đã có ý nghĩa mới. Tình yêu lãng mạn chỉ đạt được phẩm tính giả tạo, có hương vị
gian lận và dối trá, một phẩm tính khiến Oscar Wilde chán nản nhận xét
"Khi yêu, bao giờ cũng bắt đầu bằng cách
tự lừa dối mình, rồi bao giờ cũng chấm dứt bằng cách lừa dối người khác. Đó là
cái mà thế giới gọi là tình yêu lãng mạn".
Ở phần trước, chúng ta đã khảo sát vai trò của
sự thân mật và riêng tư như một thành phần quan trọng trong hạnh phúc con người.
Không có gì nghi ngờ gì về việc đó cả. Nhưng nếu tìm cách kéo dài sự thỏa mãn
trong quan hệ, nền móng của quan hệ ấy phải vững chắc. Chính vì lý do đó mà Đức
Đạt Lai Lạt Ma khuyến khích chúng ta nên xét đến cơ sở căn bản của mối quan hệ,
nếu chúng ta thấy mình đang ở trong quan hệ sắp trở thành tồi tệ. Sự lôi cuốn
xác thịt, và thấm chí cả cảm tưởng mạnh của sự phải lòng nhau, có thể đóng vai
trò trong việc hình thành sự ràng buộc đầu tiên giữa hai người, thu hút họ gắn
bó với nhau, giống như keo dán, tác nhân liên kết đầu tiên cần phải kết hợp với
những chất liệu khác trước khi chúng có thể dính chặt lâu dài nhau. Nhận biết ra
những chất liệu này, chúng ta quay trở lại với cách giải quyết của Đức Đạt Lai
Lạt Ma là phải xấy dụng mối quan hệ mạnh mẽ - quan hệ của chúng ta dựa vào những
đức tính về sự yêu mến, tình thương, tôn trọng lẫn nhau là con người. Quan hệ
dựa trên những đức tính ấy giúp chúng ta đạt được mối liên kết sâu xa và có ý
nghĩa không chỉ với người tình, hay chồng vợ mà còn với bạn bè, người quen, và
cả những người lạ - thực tế là bất cứ con người nào. Nó mở ra vô số khả năng và
cơ hội cho việc giao tiếp.
-ooOoo-