Thiền sư Ajahn Sumedho là trụ trì của Trung Tâm Phật giáo Amaravati ở Anh quốc
và là vị đệ tử Tây phương kỳ cựu nhất của đại lão thiền sư quá cố Ajahn Chah
người Thái Lan.
Ở đây thiền sư Ajahn Sumedho ghi lại niềm hoan hỷ của ông
khi cảm nhận được công ơn của cha mẹ và thầy tổ.
Nếu một bên vai cõng mẹ,
này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm
tuổi; . . . Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối
thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng
chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ
đã làm nhiều cho con cái, họ nuôi dưỡng chúng, cho chúng cơm áo, sinh chúng ra
đời.
Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến
khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới,
khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan
tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo
ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như
vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.
(Tăng Chi Bộ
Kinh, HT Thích Minh Châu, Chương 2, Phẩm Tâm Thăng Bằng).
Cha tôi mất sáu
năm trước đây. Lúc đó ông đã chín mươi tuổi. Ông chưa hế bày tỏ tình thương hay
tình cảm tử tế nào đối với tôi. Vì thế từ thời thơ ấu tôi đã có cảm giác rằng
ông không hề thương tôi. Tôi mang cảm giác này đi gần suốt cuộc đời mình. Tôi
cũng chưa bao giờ có tình cảm yêu thương, hay bất cứ liên hệ thân thiết nào với
cha tôi. Lúc nào ông cũng máy móc, “Chào con, rất vui được gặp con”. Hình như
ông cảm thấy thoải mái với sự có mặt của tôi. Tôi nhớ, mỗi khi tôi trở về nhà
với tư cách là người tu sĩ Phật giáo, ông thường nói, “Hãy nhớ, đây là nhà của
cha, con phải làm theo ý cha”. Đó là câu chào của ông – khi tôi đã gấn năm mươi
tuổi đầu! Tôi không biết ông nghĩ là tôi sẽ làm gì.
Trước thời kinh tế
khủng hoảng, cha tôi là một nghệ sĩ có nhiều triển vọng. Cuộc khủng hoảng đã
tước đi tất cả mọi thứ mà cha mẹ tôi có, vì thế cha tôi phải đi bán giày để lo
cho chúng tôi. Rồi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, cha tôi đã quá tuổi
gia nhập quân đội. Nhưng ông rất muốn ủng hộ cuộc chiến đó bằng cách này hay
cách khác, nên ông trở thành một công nhân đóng tàu ở Seattle. Ông không thích
công việc đó, nhưng đó là cách tốt nhất mà ông có thể làm để ủng hộ cuộc chiến
tranh đó. Sau thế chiến, ông trở về với công việc bán giày và trở thành quản lý
của một cửa hàng bán sĩ các loại giày. Ông cũng không thật sự yêu thích công
việc đó, nhưng ông cảm thấy mình không còn trẻ để có thể tìm được một việc làm
nào khác. Ông đã không màng đến các sở thích của mình để lo cho sự sống của mẹ,
chị tôi và tôi.
Khi tôi lên đại học, vào những năm 1950, môn học thời
thượng lúc bấy giờ là triết học. Lúc đó những người trẻ tuổi đều có xu hướng đổ
lỗi cho người mẹ về tất cả những thất bại, bất như ý trong cuộc đời của họ.
Người mẹ là đối tượng bị nhắm vào, bị gán là nguyên nhân của mọi khổ đau của con
cái họ. Lúc đó tôi chưa thể nhận thức được rằng nỗi khổ đó là điều không thể
tránh trong cuộc sống. Dĩ nhiên mẹ tôi cũng không phải là người hoàn toàn, nên
hiển nhiên là có nhiều điều bà đã làm không thật tốt. Nhưng nói chung, sự hy
sinh, tận tụy, hết lòng thương yêu, lo lắng - không có gì thiếu sót - của mẹ
tôi, tất cả đều là nhằm để làm cho cuộc sống của cha tôi, chị tôi và tôi được
nhiều hạnh phúc trong khả năng mà bà có thể mang đến. Mẹ tôi không đòi hỏi gì
riêng cho bản thân, và những khi tôi hồi tưởng lại những điều này, thì katannu
(Pali), để chỉ cho lòng hàm ân đối với cha mẹ, lại phát khởi trong tâm
tôi.
Đức Phật khuyên chúng ta nên nhớ nghĩ đến những điều tốt đẹp mà cha
mẹ, các vị thầy, thân hữu, hay bất cứ ai, đã làm cho ta; và phải chú tâm làm
điều này, vun trồng nó, thay vì chỉ để nó xảy đến một cách tình cờ, ngẫu
nhiên.
Nhiều đệ tử của tôi, những người đầy lòng oán hận đối với cha mẹ
họ, đã hỏi tôi họ phải làm thế nào để phát triển lòng biết ơn đối với cha mẹ.
Dạy về lòng từ bi, hay metta, một cách quá cực đoan có thể phản tác dụng, khiến
họ thêm sân hận. Tôi nhớ có một phụ nữ, dự một trong các khóa tu của tôi, mỗi
lần nói đến việc phải rải tâm từ đến cho cha mẹ thì bà lại nổi giận. Sau đó bà
lại cảm thấy rất ân hận. Mỗi lần nghĩ về mẹ mình là bà chỉ cảm thấy oán hận. Đó
là vì bà chỉ sử dụng lý trí của mình; bà muốn thực hành từ bi, nhưng trong lòng
không có chút tình cảm từ bi nào.
Điều quan trọng là ta nhận ra được sự
xung đột giữa tình cảm và lý trí. Lý trí bảo rằng chúng ta cần tha thứ cho kẻ
thù, hay thương yêu cha mẹ mình, nhưng trong lòng chúng ta lại nghĩ: “Tôi không
thể tha thứ cho họ vì những gì họ đã gây ra cho tôi”. Vì thế, chúng ta chỉ cảm
thấy oán giận, hờn trách, hoặc chúng ta lại tự trách: “Tôi thiệt là người tồi tệ
vì tôi không thể tha thứ cho người. Chắc có gì đó không ổn đối với tôi”. Khi
điều đó xảy ra, tôi thấy việc sử dụng thiền tâm từ đối với chính các cảm xúc của
mình, rất hữu ích. Nếu trong lòng chúng ta nghĩ rằng cha mẹ đã không thương yêu,
tử tế với mình, thì ta nên có tâm từ đối với tình cảm đó; ta có thể nhìn, với
tâm không phán đoán, rằng đó thực sự là những tình cảm đang xảy ra trong lòng,
để chấp nhận tình cảm đó với lòng kiên nhẫn.
Một khi tôi đã bắt đầu chấp
nhận sự đối kháng của tôi đối với cha, hơn là đè nén nó, tôi đã có thể dần dần
giải tỏa điều đó. Khi chúng ta giải quyết vấn đề gì đó với tâm chánh niệm, chúng
ta có thể buông xả, và giải thoát bản thân ra khỏi sự trói buộc của nó. Việc
giải tỏa những xung đột như thế khiến ta càng có nhiều suy gẫm thêm về cuộc
đời.
Sống mà không có lòng biết ơn là một cuộc sống vô nghĩa. Nếu cuộc
đời chỉ là một chuỗi của những lời oán than về sự bất công, về những thua thiệt
mà ta đã gặp phải, nhưng lại không nhớ đến những may mắn đã từng đến với chúng
ta, thì chúng ta chắc chắn sẽ bị trầm cảm - một căn bệnh thường gặp trong xã hội
ngày nay. Chúng ta sẽ khó tìm được hạnh phúc trong cuộc sống: chúng ta sẽ nghĩ
rằng cái khổ của mình là vĩnh hằng.
Khi trở thành một tu sĩ Phật giáo ở
Thái Lan, tôi may mắn được gặp vị thầy, Luang Por Chah, mà nhiều người biết đến
với tên, Thiền sư Ajahn Chah, người đã là nguyên nhân để tôi đầy lòng hàm ân với
cuộc đời. Lúc đó tôi khoảng ba mươi ba hay ba mươi bốn tuổi, và tôi phải thú
nhận rằng tôi chưa hề có lòng hàm ân trong cuộc đời. Tôi vẫn còn chấp ngã nặng
nề, lúc nào cũng là tôi muốn gì, tôi nghĩ gì. Tuy nhiên, sau một thời gian tu
tập, khoảng năm thứ sáu trong cuộc đời tu của mình, tôi đã có được một trải
nghiệm sâu sắc, một trải nghiệm được coi như là katannu katavedia, hay lòng biết
ơn đối với cha mẹ mình.
Tôi đã xuất gia nhiều năm trước khi được gặp
ngài Ajahn Chah. Tôi rất ngưỡng mộ và tin tưởng vào Phật giáo, cũng như rất sốt
sắng để học và thực hành Phật pháp. Nhưng tận sâu thẳm vẫn là cái cảm giác của
ngã chấp, của tôi tu học, tôi thực hành. Khi xuất gia, tôi vẫn còn cầu mong:
“Tôi muốn được giải thoát. Tôi muốn được giác ngộ”. Tôi không quan tâm đến người
khác, đến cha mẹ, hay ngay cả đến thiền sư Ajahn Chah, là người đang giúp tôi tu
học. Tôi cũng nghĩ là ngài rất tốt vì đã giúp đỡ tôi, nhưng trong lòng tôi không
có cảm giác hàm ân.
Tôi nghĩ rằng đó là chuyện tự nhiên, rằng cuộc đời
phải mang đến cho tôi những thứ đó - một thứ ngã mạn khó chấp nhận. Khi chúng
tôi lớn lên trong sự đầy đủ của một gia đình thuộc giai cấp trung lưu, chúng tôi
đã coi mọi thứ là chuyện đương nhiên. Cha mẹ tôi đã làm việc cực khổ để chúng
tôi được sống thoải mái, nhưng tôi luôn nghĩ là họ chưa làm đủ bổn phận, và rằng
đáng lý ra tôi phải được đầy đủ hơn nữa. Dầu đó không phải là những điều tôi nói
ra, nhưng thái độ tôi tỏ rõ điều đó, rằng tôi xứng đáng được có tất cả mọi thứ:
người khác phải chu cấp cho tôi tất cả; cha mẹ tôi phải mang đến cho tôi một
cuộc sống tốt nhất, vì tôi muốn được như thế. Do đó, tôi nghĩ bổn phận của
thiền sư Ajahn Chah là phải dạy dỗ, dìu dắt tôi!
Ở Thái Lan, tôi đã siêng
năng tu tập và quyết chí theo đuổi cuộc sống xuất gia của mình. Sau khi đã tham
dự năm mùa an cư (vassas), người tu sĩ trẻ không còn là sa di nữa, mà được tự do
rời khỏi tu viện. Tôi cảm thấy được ở bên thầy cũng tốt, nhưng tôi cũng muốn tự
đi con đường riêng của mình. Từ miền đông bắc tôi đi đến trung tâm Thái Lan. Sau
mùa an cư, tôi hành hương đến Ấn Độ. Đó là vào khoảng 1974, và tôi quyết định đi
như một tudong –một khất sĩ lang thang từ chỗ này đến chỗ kia, như một hình thức
tu khổ hạnh trong Phật giáo. Có người giúp tôi tấm vé để đi từ Bangkok đến
Calcutta, để rồi khi đến Calcutta, tôi chỉ có bình bát, y áo, và không tiền,
đúng theo điều luật của người tu. Ở Thái Lan thì dễ rồi, nhưng buổi ban đầu ở Ấn
Độ, với viễn ảnh lang thang đây đó mà không có gì, ngoài bình bát trong tay, là
điều khá đáng sợ. Năm tháng ở Ấn Độ đúng là một cuộc phiêu lưu đối với tôi,
khiến tôi có nhiều kỷ niệm rất thú vị về nơi chốn ấy. Với cuộc sống làm người
khất sĩ, tôi không gặp vấn đề gì ở Ấn Độ. Trong tất cả các quốc gia, dĩ nhiên là
nó phải ổn ở đây, vì đó là nơi Đức Phật đã sống và đã hoằng pháp.
Nhưng
tôi bắt đầu nghĩ đến thiền sư Ajahn Chah và nhận ra lòng tử tế mà ngài đã dành
cho tôi. Ngài đã chấp nhận cho tôi làm đệ tử, chăm lo, truyền dạy Phật pháp, và
giúp đỡ tôi bằng nhiều cách. Ngài còn là tấm gương để tôi soi vào. Một vị tỳ
kheo xứng đáng phải giống như ngài Ajahn Chah. Một người toàn vẹn, người đã tạo
cho tôi nguồn cảm hứng, người mà tôi rất muốn noi theo – và tôi phải thú nhận
rằng tôi không có cảm giác đó đối với nhiều người khác. Tôi không hề ấn tượng
với những mẫu người được tôn vinh ở Mỹ như John Wayne, tổng thống Eisenhower hay
Richard Nixon. Các ngôi sao điện ảnh hay thể thao cũng được coi trọng, nhưng
không có ai khiến tôi phải cảm phục.
Nhưng tôi đã tìm được người ấy ở
Thái Lan. Ngài là người nhỏ thó; tôi đứng cao vượt hẳn ngài. Điều khiến tôi ngạc
nhiên là khi chúng tôi ở bên nhau, sự hiện diện của ngài như bao trùm chúng tôi.
Có điều gì đó ở ngài khiến người ta muốn được gần gũi. Vì thế mỗi buổi chiều,
hay bất cứ khi nào có thể, tôi lại tự đi tìm đến thất của ngài; tôi không muốn
bỏ lỡ cơ hội nào để được gần gủi bên ngài. Có lần tôi hỏi ngài có gì để lôi cuốn
người ta đến vậy. Ngài đã trả lời, “Ta có đá nam châm”. Ngài đã dùng sức hút đó
để lôi cuốn người ta đến để ngài có thể dạy cho họ Phật pháp. Đó là cách ngài sử
dụng đặc tính đó của mình: không phải để thõa mản tự ngã, mà là để giúp đỡ người
khác.
Đức Phật, sau khi đạt được giác ngộ, lúc đầu đã nghĩ rằng Phật pháp
quá cao siêu để chúng sanh có thể thấu đạt, nên không thể truyền dạy cho họ. Sau
đó, theo truyền thuyết, một trong các vị trời đã đến và thưa, “Bạch Thế Tôn, xin
hãy vì những chúng sanh có ít bụi trong mắt, mà giảng Pháp”. Lúc đó Đức Phật
với tâm siêu việt của mình, quán sát xem ai là những người có thể hiểu được
Pháp. Đức Phật đã nghĩ đến các vị thầy cũ của mình, nhưng Đức Phật biết rằng cả
hai đã qua đời. Sau đó Đức Phật nghĩ đến năm người bạn đồng tu với Ngài thuở
trước, những người đã xa lánh ngài. Với lòng từ bi, Đức Phật lên đường đi tìm
năm người bạn đó, và đã giảng cho họ nghe về thuyết Tứ Diệu Đế. Điều này khiến
tôi cảm thấy katannu katavedita đối với Đức Thế Tôn. Thật là diệu kỳ: như tôi
đây, một kẻ sống ở thế kỷ này – lại có duyên lành được lắng nghe Phật pháp, và
Phật pháp tinh nguyên vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay.
Việc được có
một vị thầy đang tại thế (ND: ngài Ajahn Chah đã mất năm 1992) như thiền sư
Ajahn Chah không giống như việc bạn tôn thờ một vị tiên tri đã sống cách đây hai
ngàn năm trăm năm, mà thực sự là tôi được thừa hưởng sự truyền thừa từ chính Đức
Thế Tôn. Có lẽ do được đến viếng những thánh tích Phật giáo, mà lòng hàm ân của
tôi bắt đầu trở nên rất mãnh liệt. Lúc đó, khi nghĩ đến thiền sư Ajahn Chah ở
Thái Lan, tôi nhớ rằng tôi đã nghĩ: “Ta đã ở đủ năm năm rồi, giờ ta phải ra đi.
Ta sẽ chu du đây đó, thám hiểm vài nơi, làm những gì ta muốn, thoát khỏi sự quan
sát của ông thầy già”. Tôi nhận ra đúng là tôi đã bỏ chạy khỏi nơi
ấy.
Khi cảm giác hàm ân này trào dâng trong lòng, tôi chỉ muốn chạy về
Thái Lan và phủ phục dưới chân thiền sư Ajahn Chah. Làm sao bạn có thể đền đáp
ơn của một vị thầy như thế? Tôi không có tiền bạc gì, mà đó cũng không phải là
thứ Thầy tôi cần. Sau đó tôi nghĩ rằng cách tốt nhất tôi có thể làm để thầy tôi
vui là trở thành một tỳ kheo chân chính, và trở về đó để giúp đỡ thầy. Tôi sẽ
làm bất cứ điều gì thầy tôi muốn. Với ý nghĩ đó, tôi đã trở về Thái Lan, sau năm
tháng ở Ấn Độ, và đến đảnh lễ thầy. Đó là một sự cúng dường đầy hoan hỷ, không
phải là điều bó buộc, vì nó đã xuất phát từ lòng hàm ân (katannu), lòng biết ơn
đối với những duyên lành tôi đã được tiếp nhận.
Từ đó, tôi nhận thấy rằng
việc hành thiền của tôi bắt đầu có tiến bộ. Lòng ích kỷ hẹp hòi đã biến mất
trong tôi: việc tôi cố gắng mong cầu, ước muốn được hòa hợp, được tu tập, được
có một cuộc sống yên lành, giải thoát khỏi mọi bổn phận. Khi tôi buông bỏ tất cả
những ham muốn này, thì mọi thứ dường như lại ổn thoả. Những gì trước đây khó
khăn đối với tôi, như là việc định tâm, đã trở nên dễ dàng hơn, và tôi cảm thấy
cuộc sống trở nên an lạc hơn đối với mình.
Lần cuối cùng khi đến thăm cha
tôi, tôi đã quyết định sẽ tạo ra một không khí ấm cúng giữa hai chúng tôi trước
khi người ra đi. Trong thập niên cuối đời của cha tôi, ông rất đau khổ vì bệnh
tật. Ông bị thấp khớp nặng, nên luôn đau đớn, cộng thêm chứng bệnh Parkinson.
Dần dần, chúng tôi phải đem ông vào viện dưỡng lão. Ông không còn có thể cử động
được. Ông còn có thể trò chuyện và chuyển động mắt, nhưng các phần khác của cơ
thể đều bất động. Ông rất đau khổ vì những gì đã xảy ra cho ông, vì trước đó ông
là một người khỏe mạnh, không cần nhờ vả đến ai.
Khi gặp lại ông, thấy cơ
thể ông cần được xoa bóp, nên tôi nói, “Để con xoa bóp chân ba”. “Không, con
không cần phải làm thể”. “Ba cần phải được xoa bóp, nếu không nằm một chỗ sẽ bị
hâm da. Con thực sự muốn làm thế mà”. Cha tôi vẫn cố từ chối, nhưng tôi thấy ông
có vẻ không còn quyết liệt nữa. “Cần phải làm thế ba à”, tôi nói. “Con thực sự
muốn làm thế à?” ông hỏi tôi. “Dạ phải”.
Tôi bắt đầu xoa bóp chân, đùi,
cổ, vai, tay và mặt ông; ông thật sự thích thú sự gần gũi này. Đó là lần đầu
tiên ông được chăm sóc như thế. Sự xúc chạm này đầy ý nghĩa, đó cũng là một cách
biểu hiện tình cảm. Và tôi bắt đầu nhận ra rằng cha tôi thực sự rất thương yêu
tôi, nhưng ông đã không biết làm sao diễn tả điều đó. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và
tràn đầy lòng biết ơn.
LỜI DẠY CỦA THIỀN SƯ AJAHN CHAH VỀ CHA
MẸ:
Đôi khi những lời dạy về sinh, lão, bịnh, tử, không được người ta
sẵn sàng tiếp nhận. Nhất là ở phương Tây, khi bạn bắt đầu nói về những điều này,
thì người ta sẽ đứng lên, bỏ đi. Họ không muốn già. Nên những người già thường
bị bỏ rơi.
Ở các nước phương Tây, hình như tập tục của họ là, dẹp bỏ
người già qua một bên để người trẻ có thể lo cho cuộc sống của riêng họ. Dĩ
nhiên là những người trẻ này, rồi cũng già thôi, rồi cũng đến phiên họ bị bỏ
rơi. Khi còn trẻ, chúng ta cần quán sát và suy gẫm về người già. Đó là nghiệp,
có phải không? Tôi đã cố gắng giải thích điều này với những người Tây phương,
rằng nếu họ bỏ rơi người khác, sau này họ cũng sẽ bị bỏ rơi. Khi già, chúng ta
nên nghĩ đến người trẻ. Và người trẻ nên nghĩ đến người già. Tất cả đều tương
quan nhau, giống như những mắt xích trong một sợi dây xích.
Paul Breiter chuyển ngữ từ tiếng Thái
(Chuyển ngữ sang tiếng
Việt, theo A Gift of Gratitude, Tricycle Review, Winter 2006).
Ajahn Sumedho, thế danh là Robert Jackman. Ông sanh năm 1934 tại
thành phố Seattle, tiểu bang Washington, Mỹ và lớn lên trong một gia đình đạo
Tin Lành cùng với một người chị. Từ năm 1951 đến 1953, ông học tiếng Trung Hoa
và sử học tại Đại học Washington. Sau đó ông làm cán bộ y tế cho Hải quân Mỹ.
Làm y tế được bốn năm, ông quyết định đi học trở lại và tốt nghiệp bằng cử nhân
khoa Đông phương học. Nhờ ngành học này, ông được làm quen với Đạo Phật qua sách
vở; và bốn năm làm y tế trong Bộ Hải quân Mỹ đã cho ông cơ hội tiếp xúc với Giáo
hội Phật giáo Nhật Bản.
Năm 1966, ông đến Thái Lan, tìm hiểu thêm về đạo
Phật, tu thiền và sau đó thọ giới sa di tại một ngôi chùa quê hẻo lánh thuộc
tỉnh Nong Khai, miền đông bắc Thái Lan. Sư tu học thiền minh sát (Vipassana) với
ngài Ajahn Chah tại tu viện Wat Nong Pah Pong, thuộc tỉnh Ubon trong hơn 10
năm.