PHẬT GIÁO VÀ PHƯƠNG TÂY
Mối tương quan chưa rõ rệt
Phật giáo đã tìm thấy ở các nước
phương Tây một không gian mới mẻ để phát triển, tuy nhiên, quá trình
phát triển một nền Phật giáo phương Tây không phải là không có chướng
ngại và ngộ nhận. (Đây là bài viết của ông Fabrice
Midal đăng trong tạp chí Le Monde des Religions, số ngoại lệ 5, phát
hành tháng 6, 2007, đặc diệt dành riêng cho chủ đề về Phật giáo. Đây là
một tạp chí thuộc tổ hợp báo chí Le Monde. một trong những cơ quan thông
tin lâu đời và uy tín của nước Pháp. Hoang Phong lược dịch và ghi chú).
Vào cuối thế kỷ
XVII, nhà truyền giáo Alexandre de Rhôdes đã viết như sau trong quyển
sách của ông mang tên “Cathechimus in Octo Dies Divisus” (Sách giảng dạy
Giáo lý phân chia ra trong tám ngày): “Khi người ta hạ một gốc cây đốn
mạt và vô bổ, những cành còn dính trên thân cây rồi cũng sẽ phải rơi
xuống; tương tự như thế, khi mà tên độc ác và lường gạt Thích Ca (tức là
Phật) bị đánh bại, những sóng chế tín ngưỡng tôn thờ ảnh tượng xuất
phát từ đó cũng sẽ bị hủy diệt”.
Vào năm 1949, một tác giả
khác là ông Alfred Foucher viết một quyển sách về cuộc đời của Phật và
quyển sách này vẫn còn giữ một phần giá trị nào đó; trong quyển sách ấy
tác giả đã viết thêm vào như sau: “Trừ một vài người đặc biệt hiếu kỳ về
những thử nghiệm có tính cách du nhập ngoại lai, Phật giáo sẽ chỉ đón
nhận được rất ít tín đồ trên xứ sở chúng ta”.
Dần dà Phật giáo được
biết đến một cách cặn kẽ hơn và đã làm điêu đứng căn bản của cả nền tư
tưởng phương Tây, và cũng từ đó đã sinh ra nhiều hiềm khích. Không những
Phật giáo trước đây đã từng bị đối xử như một tín ngưỡng tôn thờ ảnh
tượng, một thứ tôn giáo giả mạo, mà hơn thế nữa, Phật giáo lại còn bị
đánh giá như một nền tư tưởng nguy hiểm, chủ trương một sự hủy diệt thật
khó hiểu.
Trong khi Phật giáo bị
xem như một chủ nghĩa hư vô, thì cùng lúc Tây phương lại phải đương đầu
với sự băng hoại của cả một hệ thống và giá trị đã được thiết lập từ
nhiều thế kỷ. Quả thật rất ít người có thể tin được rằng Phật giáo sau
này sẽ hội nhập vào Tây phương. Nhưng trên thực tế, ngày nay rất nhiều
những khái niệm Phật giáo đã đi thẳng vào ngôn ngữ hàng ngày của người
dân, chẳng hạn như những chữ, sự khẩn thiết về lòng từ bi (I’exigence de
compassion), hiện tượng vô thường (I’impermanence) (chữ này là một đặc
thù của Phật giáo), nghiệp (karma) và khái niệm về sự tương liên của tất
cả mọi hiện tượng (la notion d’interdépendance).
Tính cách toàn cầu
Trên thực tế, từ cuối thế
kỷ XIX, đặc biệt là trên lãnh thổ nước Pháp, Phật giáo đã bắt đầu được
kính nể. Tôn giáo này được nhìn nhận như một tôn giáo không thờ trời,
báo hiệu sự phát sinh của cả một kế hoạch có mục đích thế tục hóa, tách
nhà nước ra khỏi nhà thờ, giúp chống lại sự đô hộ của Thiên Chúa giáo,
ông Jules Ferry đã từng kinh ngạc và thán phục tính cách “thế tục” của
Phật giáo và đã quyết định đưa Phật giáo vào các giờ giảng dạy về luân
lý trong các trường học của nước Cộng hòa Pháp.
Nền luân lý nghiêm khắc
của Phật giáo, không có sự hiện diện của trời như “một kẻ ban thưởng và
báo thù” được ông Jules Ferry xem như một bằng chứng cụ thể cho thấy
rằng không cần có sự hiện hữu của Trời, con người cũng có thể trở thành
lương thiện được. Đạo đức thế tục là gì? ông Jules Ferry đã trả lời như
sau: “Nền đạo đức thế tục chính là thế này đây, chính nó dã được chứng
minh bằng sự kiện. Hai trăm triệu người đã noi theo nền đạo đức đó từ
hai mươi ba thế kỷ nay”.
Trong lúc nước Đức còn
câu nệ vào kinh sách Phệ-đà như là một tài liệu chung cho Ấn và Đức
quốc, thì nền Ấn học của Pháp đã tìm thấy trong thông điệp của Phật niềm
khát vọng nhắm vào sự an vui của cả nhân loại một niềm khát vọng rất
gần gũi với sứ mạng của nước Pháp. Các nhà nghệ sĩ như Van Gogh và
Gauguin đã tìm thấy nơi Đức Thích Ca Mâu Ni một bằng chứng về sự hoàn
thiện tâm linh, chứng tỏ tính cách toàn cầu của một thể dạng thiêng
liêng mà họ từng khát vọng.
Các vị thầy đầu tiên
Khởi sự từ những năm
1950, có các vị thầy thuộc Thiền phái Zen, và tiếp theo đó vào những năm
1960 là các vị thầy Tây Tạng, họ tiếp tục đến với phương Tây và đã
truyền lại một cách thật tài tình những gì họ được thụ hưởng từ trước.
Sự chung đụng ấy đã đánh dấu sự cáo chung của những huyễn tưởng mang
tính cách thuần túy văn chương về Phật giáo, những huyễn tưởng đó đã
chấm dứt, chúng không còn là những ước mơ nữa mà đã trở thành một phương
pháp tu tập có thể thực hiện được, giúp cho mọi người noi theo.
Tình trạng Phật giáo ngày nay
Hiệp hội Phật giáo Pháp
và Bộ Nội vụ ước tính có khoảng 600.000 Phật tử trên đất Pháp: một nửa
là những người Á châu, nửa còn lại là những người Pháp chính thống. Đồng
thời, người ta cũng ước tính có năm triệu người Pháp xem Phật giáo như
một tôn giáo mà họ cảm thấy gần gũi nhất. Vì những lý do lịch sử của
nước Pháp, Phật giáo đã thiết lập một cách vững chắc nhất trên phần đất
này với hàng trăm trung tâm thiền định. Ngôi chùa Tây Tạng lớn nhất Âu
châu tọa lạc ở vùng Bourgogne (Pháp quốc), và đạo tràng chính của Thiên
phái zen cũng tọa lạc ở vùng Touraine (Pháp quốc).
Nhưng thật ra thì bộ mặt
bên ngoài này đã che giấu những đe dọa trầm trọng. Thời kỳ tiên phong đã
chấm dứt. Phật giáo đã được biết đến một cách tường tận, nhưng sự thành
công của tôn giáo đó đã mở ra những hiểm nguy mới mà chính các vị thầy
cũng đã đưa ra những lời cảnh cáo. Ba vấn đề sau đây cần phải được đặc
biệt quan tâm.
Phật giáo bị thu gọn như một bát thuốc sắc
Phật giáo ngày càng được
giảng dạy như một phương pháp trị liệu cầu kỳ và đã được khử trùng cẩn
thận. Phật giáo trở thành một bài diễn văn đầy thiện cảm nhưng vô trách
nhiệm. Loại Phật giáo theo kiểu “bát thuốc sắc” như thế nhắm vào việc
xoa dịu những kẻ đã gởi mình vào đó. Nếu ý nghĩa tâm linh của Phật giáo
chưa bị gạt bỏ một cách đơn giản, thì vị trí của nó cũng thụt hẳn vào
bối cảnh phía sau. Một số các vị giảng sư đã trình bày Phật giáo như một
đường hướng chỉ đạo cho sự sống, một phương thức hữu hiệu giúp ích
trong công việc làm ăn, giúp đời sống tình dục nẩy nở toàn vẹn hơn, giúp
có một tài khoản ngân hàng đầy ắp hơn.
Trong khi ấy, lời giảng
huấn của Đức Phật lại nhấn mạnh về sự thật của khổ đau. Phủ nhận sự thật
đó, hoặc tìm cách thương lượng với khổ đau sẽ không còn đúng chút nào
với những lời giáo huấn của Đức Phật.
Sự vinh quang của Phật giáo và công việc kinh doanh
Khi đưa Phật giáo vào Tây
phương, các vị thấy đã cảnh giác cho biết tệ trạng băng hoại của Phật
giáo ngay trên xứ sở của họ và cho thấy cần thiết phải có một cuộc cách
mạng, dù rằng cách mạng trong mục đích bảo tồn lấy truyền thống mà họ đã
được thừa hưởng. Tuy nhiên ngày nay, trong rất nhiều học phái, người ta
thấy khuynh hướng thụt lùi lại để trở thành một thứ tín ngưỡng mang
nặng giáo điều và đậm màu tăng lữ. Cái cảm tính trực thuộc vào thành
phần một Tăng đoàn lại lấn lướt và trở nên quan trọng hơn là lòng quyết
tâm tu tập một cách sáng suốt.
Tiếc thay, chỉ có quyết
tâm tu tập một cách sáng suốt mới có đủ khả năng lột được mặt nạ và cả
những hành vi đạo đức giả của những con người như chúng ta. Khái niệm về
các vị đạo sư và các vị thầy đã tạo ra những cung cách xử sự ngây thơ
quá độ, xa lìa với những truyền thống từ nghìn xưa. Phật giáo đã trở
thành một sản phẩm thương mại cần phải mở rộng thêm thị trường.
Một Đông phương lý tưởng hóa
Kết quả là người ta đang
chứng kiến hiện tượng một Đông phương được lý tưởng hóa, đưa đến sự lầm
lẫn giữa đạo pháp của Đức Phật và những phong tục của các dân tộc Á
châu. Cũng như tất cả các tôn giáo khác, và ngược lại với những ảo giác
đang lan truyền ngày nay, Phật giáo đã từng bị lợi dụng trong những mục
đích chính trị, kể cả những tội ác. Nhiều thể chế Phật giáo đã tự đánh
lạc hướng, trở thành những ý thức hệ hiếu chiến, chẳng hạn như việc bào
chữa cho cuộc “thánh chiến tạo dựng một trật tự mới cho miền Đông Á
châu” trong kỳ Đệ nhị Thế chiến vừa qua tại Nhật Bản.
Thiền sư Kodo Sawaki,
thầy của Thiền sư Deshimaru đã từng giải thích như sau: “Trong sự sinh
hoạt của phần lớn các tập thể tăng lữ, người ta an phận ngồi đọc hoặc
tụng kinh một cách thật ngu xuẩn, đắm chìm trong trạng thái đờ đẫn và
lười biếng; các nhà sư thì tập trung tất cả sinh hoạt và tâm trí vào một
thực tại hời hợt (...). Các “vị sư”ấy đã khinh thường sự tu tập, chẳng
bao giờ chịu thiền định và như thế họ sẽ chẳng bao giờ đạt được sự
chứng ngộ.
Ngoài những công việc
Phật sự thường nhật mà họ thực thi như một cái máy, họ chỉ biết tán gẫu
với nhau qua những mẩu chuyện phù phiếm. Họ bị sa lầy trong thói quen
thường ngày, sống như những người say rượu và chết như những người đang
chìm đắm trong một giấc mơ. Tất cả những gì họ đang đi tìm là một cuộc
sống an bình và không lo nghĩ. Phải chờ đến lúc nào đây dể cho họ mở mắt
ra .
Nêu lên những sự kiện
trên đây quả thật là một việc quan trọng giúp chúng ta tránh sự lầm lẫn
không phạm vào sự đồng hóa Phật giáo với một hình thức ưa chuộng những
du nhập ngoại lai, giúp cho những người Tây phương như chúng ta nhận
định một cách minh bạch và không chấp nhận một hệ thống tăng lữ sai lầm.
Căn bệnh khủng hoảng của tình trạng phát triển quá nhanh
Phật giáo ngày nay đang
phải đương đầu với căn bệnh khủng hoảng vì tăng trưởng quá nhanh. Trong
từng vùng địa lý du nhập, Phật giáo đều dựa vào những tập quán địa
phương, và do đó cũng có lý khi phân biệt thành nhiều thứ Phật giáo, như
Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Tây Tạng hay Phật giáo Thái Lan. Vì vậy,
trong cái hữu lý đó, cũng thật là hợp lý khi nhìn nhận sự phát sinh của
một nền Phật giáo “Tây phương”. Hình như yếu tố ấy cũng là một yếu tố
không thể thiếu sót giúp cho Phật giáo Tây phương trường tồn.
Sự khẩn thiết của lòng từ
bi trong lòng Phật giáo không cho phép Phật giáo tự thỏa mãn khi lặp đi
lặp lại phần giáo lý và bất chấp đến những biến đổi của thế giới ngày
nay, bất chấp những thiên tai vì khí hậu đổi thay, bất chấp nhân loại
đang bị mất gốc, bất chấp sự bành trướng của chủ nghĩa hư vô, bất chấp
sự khủng hoảng tâm thần, căn bệnh của thời đại tân tiến. Phải chăng tất
cả những thứ đó đã tạo ra cái thực tại khổ đau mà tất cả chúng ta đang
phải đương đầu?
Hoàng Phong (lược dịch và ghi chú)
Lời của người dịch
Phật giáo là một tôn giáo
phi giáo điều, chỉ dựa vào chân lý, lòng từ bi vô biên, kính trọng con
người và tôn trọng mọi hình thức của sự sống. Vì thế, qua lịch sử, Phật
giáo đã thích nghi với tất cả mọi xã hội, phong tục và văn hóa. Phật
giáo đã hội nhập với Lão giáo ở Trung Quốc để trở thành Phật giáo Trung
Quốc. Phật giáo cũng hòa lẫn với hương vị của Trà đạo và tính khí của
người Nhật để trở thành Phật giáo Nhật Bản.
Tại Việt Nam, phong tục
thờ cúng ông bà và tôn thờ thần thánh cũng hội nhập một cách hài hòa với
Phật giáo. Pháp lý Phật giáo bao gồm những khái niệm như Tứ diệu đế,
Thập nhị Nhân duyên, Ngũ uẩn, Vô thường, sự tương liên của vạn vật
(Duyên khởi). tính Không,... làm nòng cốt cho tất cả mọi truyền thống và
tất cả mọi học phái Phật giáo: từ Nam tông đến Bắc tông, từ Phật giáo
Tích Lan cho đến Phật giáo Tây Tạng. Tất cả đều tôn trọng cốt lõi đó của
Phật giáo và phần thêm thắt là tùy vào phong tục, tập quán, văn hóa và
màu sắc địa phương.
Phật giáo phương ấy cũng
thế, không phải là một ngoại lệ. Phật giáo du nhập vào phương Tây được
thừa hưởng những gia tài vô cùng quý báu: khoa học, triết học, kỹ thuật,
truyền thống dân chủ, tổ chức xã hội... Phật giáo phát triển trên một
nền móng xã hội phương Tây đang gánh chịu những khủng hoảng gây ra bởi
sự bất tương xứng giữa vật chất và tâm linh: giữa sự phát triển cao độ
về khoa học, kỹ thuật, triết học, văn hóa và một truyền thống tâm linh
cứng nhắc, lỗi thời, mang nặng tính cách giáo điều. Cái gia tài khoa
học, triết học, kỹ thuật và văn hóa cao độ của phương Tây đã góp phần
không nhỏ trong việc xây dựng một nền Phật giáo gọi là “Phật giáo phương
Tây”.
Chẳng những Phật giáo là
một tôn giáo phi giáo điều mà còn là một tôn giáo phi biên giới. Không
giống như một số các tôn giáo khác mang tính cách quốc gia, chẳng hạn
như Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo.... Phật giáo đã hội nhập vào các
quốc gia phương Tây một cách khá tự nhiên. Vì thế người dịch
không hoàn toàn đồng ý với tác giả bài viết trên đây khi ông cho rằng sự
tương quan giữa Phật giáo và phương Tây chưa được rõ rệt, tuy rằng phải công nhận có những sự hiềm khích, mặc dù không đáng kể.
Người dịch cũng không
hoàn toàn đồng ý với cái nhìn quá nghiêm khắc của tác giả về tình trạng
của Phật giáo ở phương Tây và cả ở Á châu. Bài viết của ông rất bộc
trực, thẳng thắn và uyên bác, biểu lộ một phần tính khí của ông, đồng
thời cũng bày tỏ những lo âu và hoài vọng của ông mong muốn cho tinh túy
giáo lý của Đức Phật được tôn trọng, nguyên vẹn và rốt ráo, việc tu học
phải nỗ lực, chuyên cần và lương thiện.
Tuy nhiên, con người thật
là phức tạp, từ tính khí cho đến trình độ hiểu biết là đa dạng và khác
nhau. Vô minh dày đặc và cùng khắp, nhưng giáo lý của Phật và lòng từ bi
của Ngài thì không phân biệt và loại bỏ bất cứ một chúng sinh nào.
Chú thích:
1. Fabrice Midal: Tấn sĩ
Triết học, giảng dạy về Phật giáo tại các Đại học Paris. Ông là một cư
sĩ khá trẻ, tu theo Phật giáo Tây Tạng, ông cạo đầu và quy y khi còn
đang là sinh viên, ông viết khá nhiều sách về Phật giáo và thường được
phỏng vấn trên Đài Truyền hình Pháp. Ông cũng là Chủ tịch một hiệp hội
Phật giáo tại Pháp.
2. Alexandre de Rhôdes
(1591-1660): A-lịch-Sơn Đắc Lộ, còn gọi là cha Đắc Lộ, là một nhà truyền
giáo thuộc dòng Tên. Ông đã từng bị các chúa nhà Nguyễn trục xuất ra
khỏi Việt Nam sáu lần trong vòng 20 năm, nhưng mỗi lần ông đều lén lút
tìm cách len lỏi trở lại để truyền giáo. Ông có công chuyển cách viết
tiếng Nôm sang mẫu tự La tinh và từ đó đã khai sinh ra chữ Quốc ngữ.
Ngày nay, một đường phố và ít nhất có một trường học tại thành phố Hồ
Chí Minh mang tên ông, đồng thời chân dung của ông cũng được treo tại
Viện Ngôn ngữ học Việt Nam để tỏ lòng biết ơn ông.
3. Alfred Foucher (1865-
1952): không phải là một tác giả vô danh, ông đã hai lần làm Giám dốc
Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole d’Extrême orient) vào những năm 1901,
1905 đến 1907, Giám đốc Trường Ecole Pratique des Hautes Etudes (1974),
Giáo sư Trường Collège de France (1919). Giám đốc Trường Văn minh Ấn Độ
(1928-1938)... tất cả đều là những cơ quan nghiên cứu và giáo dục uy tín
và cao cấp của nước Pháp.
4. Jule Ferry: (1832-
1893): là một luật gia, nhà báo và chính trị gia, từng là dân biểu Quốc
hội. Bộ trưởng và Chủ tịch nhà nước (Tổng thống) ông đã đưa ra một số
những đạo luật tách rời nền giáo dục Pháp ra khỏi nhà thờ. ban hành giáo
dục cưỡng bách và miễn phí cho cấp tiểu học, v.v... ông được người Pháp
xem là cha đẻ của nền giáo dục thế tục và cũng là một người tiên phong
khai sáng nền Cộng hòa Pháp. Ngày nay rất nhiều trường học và đường phố
của nhiều tỉnh thành lớn trên đất Pháp mang tên ông. Bài viết trên đây
là một bài viết cho độc giả Pháp nên tác giả Fabrice Midal không nói rõ
Jules Ferry là ai, vì các người Pháp có ít nhiều hiểu biết về lịch sử
đều biết đến Jules Ferry.
5. Hai trăm triệu người
là có ý nói đến số Phật tử trên toàn thế giới vào thế kỷ XIX, ngày nay
con số này cao hơn nhiều. Hai mươi ba thế kỷ thật ra cũng không chính
xác lắm, vì từ khi có Phật giáo đến thế kỷ XIX của Jules Ferry ít nhất
cũng phải hai mươi bốn thế kỷ.
6. Kinh luân của đạo Bà La Môn.
7. Hai họa sĩ trứ danh của thế kỷ XIX, các bức họa của họ đã trở nên vô giá.
8. Taisen Deshimaru
(1914-1982): là một thiền sư người Nhật, thường được xem như là “Bồ đề
Đại ma” của Tây phương vì chính ông đã đưa Thiền học zen (học phái Tào
Động) vào Pháp và Âu châu.
(Đây là bài
viết của ông Fabrice Midal đăng trong tạp chí Le Monde des Religions, số
ngoại lệ 5, phát hành tháng 6, 2007, đặc diệt dành riêng cho chủ đề về
Phật giáo. Đây là một tạp chí thuộc tổ hợp báo chí Le Monde. một trong
những cơ quan thông tin lâu đời và uy tín của nước Pháp).