LƯỢC KHẢO
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là
Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau
truyền
sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
A- Những nhà phiên
dịch Phạn-Hán:
1- Ngài Cưu-ma-la-thập
(Kumãrajiva)
ở chùa Thảo Đường tại Trường An. Vào niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ
tư, tức là năm 402 Tây lịch, thuộc đời Dao Tần, Ngài dịch tên kinh
là
"Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật". Đây là bản có giá trị nhất, được
gọi là định bản, vì bản dịch này được mọi người dùng để trì tụng.
Bản này nằm trong bộ Tam Bảo tụng hằng ngày ( Kinh nhật tụng).
2- Ngài Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci)
đời Ngụy dịch tên kinh cũng đồng với bản trên tức là "Kim Cang
Bát-nhã ba-la-mật" vào khoảng 508 Tây lịch.
3- Ngài Ba-la-mật-đà (Paramàrtha)
-Trung Hoa dịch là Chân Đế- dịch vào đời Trần, khoảng giữa thế kỷ
thứ VI, để tên là "Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật".
4- Ngài Đạt-ma-cấp-đa
(Dharmagupta)
đời Tùy, khoảng đầu thế kỷ thứ VII dịch tên cũng đồng là "Kim
Cang Bát-nhã Ba-la-mật".
5- Ngài Huyền Trang đời Đường,
khoảng giữa thế kỷ thứ VII, dịch chung trong bộ Đại Bát-nhã, 600
quyển,
gồm 16 hội, "Kim Cang" là hội thứ 9, quyển 577 trong bộ Đại
Bát-nhã.
6- Ngài Nghĩa Tịnh, đời Đường
đầu thế kỷ thứ VIII, dịch tên kinh là "Phật thuyết năng đoạn
Bát-nhã
ba-la-mật-đa kinh". Ngài có đi Ấn Độ mang bản chữ Phạn về.
Sáu nhà dịch đồng một bản kinh,
nhưng về sau được chú ý nhất là bản của các ngài Cưu-ma-la-thập,
ngài
Huyền Trang và ngài Nghĩa Tịnh.
B- Những nhà sớ
giải:
Kinh Kim Cang rất được các thiền
sư và giảng sư Trung Hoa chú ý sớ giải, có cả thảy độ mười nhà.
1- Ngài Trí Khải đời Tùy để tên
là "Kim Cang Bát-nhã kinh sớ" gồm một quyển.
2- Ngài Kiết Tạng đời Tùy để tên
là "Kim Cang Bát-nhã sớ", gồm bốn quyển.
3- Ngài Khuy Cơ đời Đường để tên
là "Kim Cang Bát-nhã kinh tán thuật" gồm hai quyển.
4- Ngài Tông Mật tức ngài Khuê
Phong cũng ở đời Đường, để tên là "Kim Cang Bát-nhã kinh sớ luận
toát yếu" gồm hai quyển.
5- Ngài Trí Nghiêm cũng thuộc đời
Đường, để tên là "Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật kinh lược sớ" gồm
hai quyển.
6- Ngài Tử Cừ đời Tống, để tên
là "Kim Cang kinh toát yếu san định ký" gồm bảy quyển.
7- Ngài Tông Lặc và Như Khởi vào
đời Minh, để tên là "Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật chú giải" gồm một
quyển.
8- "Kim Cang chư gia" trích lời
giảng của các thiền sư .
9- Gần đây có ngài Thái Hư, để
tên là "Kim Cang giảng lục".
10- Gần đây nhất là cư sĩ Giang Vị
Nông, để tên là "Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật kinh giảng nghĩa".
C - Những nhà
phiên dịch Hán Việt:
1- Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch
trong bộ Tam Bảo tụng hằng ngày.
2- Hòa thượng Thiện Hoa dịch trong
bộ Phật Học Phổ Thông (tức là trong mười hai nấc thang giáo lý).
3- Thượng tọa Huệ Hưng dịch quyển
Kim Cang Giảng Lục của ngài Thái Hư.
4- Cư sĩ Đồ Nam dịch bản của
ông Giang Vị Nông.
Quyển Kim Cang chư gia cũng được
dịch.
D - Sự liên hệ giữa
kinh Kim Cang và Thiền tông.
Dĩ nhiên ai cũng biết đức Lục tổ
khi gánh củi vào khách điếm bán, thấy có người đang tụng kinh Kim
Cang,
đức Lục tổ nghe qua, tâm liền khai ngộ, mới hỏi thăm và được biết
là Ngũ tổ Huỳnh Mai dạy đồ đệ trì tụng "Kim Cang", do đó
Ngài tìm đến học đạo.
Trong Thiền tông lúc Tổ
Bồ-đề-đạt-ma
(Bodhidharma) truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, Tổ trao bốn quyển
kinh Lăng-già
(Lankà) để làm tâm ấn. Đến đời Ngũ tổ, thấy Kim Cang là quyển kinh
tối
yếu trong nhà Thiền, Ngài dạy: Chẳng những tăng ni mà cả cư sĩ đều
nên
trì tụng kinh Kim Cang. Ngũ tổ chủ trương dùng kinh Kim Cang để ấn
tâm,
thế nên khi Lục tổ đến học, vào trước giờ truyền y bát, Ngài đem
kinh Kim Cang ra giảng. Khi giảng đến câu Ưng vô sở trụ nhi sanh
kỳ tâm,
Lục tổ hoàn toàn liễu ngộ. Như vậy Lục tổ ngộ đạo và được truyền
y bát làm Tổ cũng nhân nơi kinh Kim Cang. Do đó chúng ta thấy rõ
tầm quan
trọng của kinh này đối với Thiền tông. Sau này kinh Kim Cang được
xem
như tâm ấn trong nhà Thiền. Trong các chùa, các thiền viện bộ kinh
này
được xem như kinh Nhật Tụng.
Ngài Khuê Phong cũng bảo: Kim Cang
là
bộ kinh quí đáng để ấn tâm.
Học kinh Kim Cang là học thẳng vào
phương pháp tu Thiền.
-ooOoo-