Đoạn 25-32
- ĐOẠN
25: HÓA VÔ SỞ HÓA
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà?
Nhữ đẳng
vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương độ chúng sanh. Tu-bồ-đề!
Mạc
tác thị niệm. Hà dĩ cố? Thật vô hữu chúng sanh Như Lai độ giả.
Nhược
hữu chúng sanh Như Lai độ giả, Như Lai tắc hữu ngã, nhân, chúng
sanh, thọ
giả. Tu-bồ-đề! Như Lai thuyết hữu ngã giả tắc phi hữu ngã, nhi
phàm
phu chi nhân dĩ vi hữu ngã. Tu-bồ-đề! Phàm phu giả, Như Lai thuyết
tắc
phi phàm phu, thị danh phàm phu.
DỊCH :
GIÁO HÓA KHÔNG CÓ CHỖ
GIÁO
HÓA.
Này Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao?
Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế này: Ta sẽ độ chúng sanh.
Này
Tu-bồ-đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng
sanh
Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có
ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Này Tu-bồ-đề, Như Lai nói có ngã
ắt
không phải có ngã mà người phàm phu cho là có ngã. Này Tu-bồ-đề,
người
phàm phu đó Như Lai nói tức không phải phàm phu, ấy gọi là phàm
phu.
GIẢNG :
Lời đức Phật dạy thật thấu đáo,
Ngài chỉ đến chỗ tột cùng mà chúng ta si mê quá lắm! Tôi thường
thí
dụ như cái hồ bèo phủ kín trên mặt, có người lấy tay vạch bèo bày
nước
ra, thấy được một chút nước nhưng khi lấy tay lên, bèo phủ kín trở
lại.
Cái si mê của chúng ta như thế đó. Đây Phật bảo: Tu-bồ-đề, ông
nghĩ sao? Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ ta sẽ độ chúng sanh.
Đây
là những bệnh đức Phật chỉ cho chúng ta biết rõ. Thường khi chúng
ta
được một chút đạo đức là cứ nghĩ mình độ thiên hạ, độ người
này, người kia… Nhưng vừa nghĩ mình độ người là thấy mình thật,
người
thật, ta là người hay độ, kia là kẻ được độ. Nếu thấy mình thật,
người thật thì chưa phải, chưa xứng đáng là người giác ngộ, mà
không giác ngộ thì độ ai? Thế nên đức Phật bảo tiếp: Tu-bồ-đề,
chớ khởi nghĩ thế ấy, vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai
độ.
Nếu Như Lai còn thấy thật có chúng sanh thì còn ngã, còn nhân, còn
chúng
sanh… Cho nên độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh
được
diệt độ cũng là một ý nghĩ thâm sâu ở đây.
Nếu có chúng sanh Như
Lai độ đó
thì Như Lai ắt có ngã có nhân… Tại sao? Vì ta là người hay độ và
kia là chúng sanh được độ, như thế tức là có mình, có người, có
chúng sanh, có thọ giả, tức còn chấp ngã làm sao thành Như Lai? Vì
thế
cái nhìn của Ngài là: Như Lai nói có ngã đó ắt không phải có
ngã.
Có khi Phật cũng xưng "Ta" cũng như nói chuyện với quí vị tôi xưng
tôi vậy. Nói ta, nói tôi như là có ngã nhưng mà không phải ngã. Vì
sao?
Khi Ngài nói ngã, Ngài vẫn biết ta là tướng duyên hợp hư giả chớ
không
phải thật, còn phàm phu nói ta là ta thật. Vì thế nên nói rằng: Như
Lai nói ngã đó ắt không phải có ngã mà người phàm phu cho là có
ngã.
Phật cũng nói có ngã, cũng nói có chúng sanh, nhưng nói ngã, nói
chúng sanh
là nói theo danh từ của người thế gian. Vì muốn độ thế gian thì
phải
dùng danh từ thế gian, nhưng khi nói như thế Ngài vẫn thấy rõ
những cái
đó đều không thật, trái lại chúng ta nói cái nào là thật cái ấy…
Nên người phàm phu cho rằng có ngã. Nghe Phật nói phàm phu, chúng
ta lại tưởng
Phật chấp phàm phu thật nên Ngài lại nói: Phàm phu đó, Như Lai
nói tức
chẳng phải phàm phu, ấy gọi là phàm phu. Câu này có hai nghĩa.
Nói
phàm phu đó tức chẳng phải phàm phu. Tại sao? Phàm phu thật ra là
một giả
danh, mê thì gọi là phàm phu, nếu ngộ rồi thì đâu còn gọi là phàm
phu
nữa, vì thế phàm phu chỉ là một giả danh chớ không phải thật nên
nói
"Không phải phàm phu", nhưng trong lúc còn mê thì cũng tạm gọi là
phàm phu. Như thế nay nói mình là phàm phu cũng là tạm thôi, đừng
nghĩ mình
phải là phàm phu suốt kiếp, mai kia hết mê thì hết phàm phu. Vậy
đừng
mặc cảm chúng ta là phàm phu, mà phải thấy bây giờ mình là phàm
phu chỉ
là tạm thôi, khi hết mê thì hết phàm phu. Thế nên nhìn với con mắt
Phật
thì không chấp cố định, chúng ta có bệnh hay cố định Phật là Phật,
phàm phu là phàm phu. Đó là tôi nói theo tinh thần kinh Bát-nhã.
Nếu nói xa
hơn nữa thì Phật thấy ngay kẻ phàm phu có trí tuệ Phật, nên phàm
phu cũng
không phải phàm phu. Nếu nói rằng trong phàm phu có Phật tánh thì
phàm phu
đâu phải là phàm phu. Nghĩa thứ nhất là nghĩa của kinh vì những
danh từ
phàm, Thánh chẳng qua là những danh từ tạm chỉ lúc mê và lúc ngộ,
lúc
mê thì gọi là phàm phu, lúc ngộ gọi là Phật, là Thánh. Như thế
phàm
phu thật không cố định là phàm phu. Hiểu như thế, tất cả chúng ta
không có mặc cảm gì cả. Ngày nay là phàm phu, nhưng một ngày nào
đó
mình không phải là phàm phu nữa.
- ĐOẠN
26: PHÁP THÂN PHI TƯỚNG
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà?
Khả dĩ
tam thập nhị tướng quán Như Lai phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Như thị, như
thị!
Dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai. Phật ngôn: Tu-bồ-đề! Nhược dĩ
tam thập nhị tướng quán Như Lai giả, Chuyển Luân Thánh Vương tắc
thị
Như Lai. Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở
thuyết
nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai. Nhĩ thời Thế
Tôn
nhi thuyết kệ ngôn:
- Nhược dĩ sắc kiến ngã,
- Dĩ âm thanh cầu ngã,
- Thị nhân hành tà đạo,
- Bất năng kiến Như Lai.
DỊCH:
PHÁP THÂN CHẲNG PHẢI LÀ
TƯỚNG.
Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ
sao?
Có thể do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai chăng? Tu-bồ-đề thưa
rằng:
Như thế, như thế, do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai. Phật bảo:
Tu-bồ-đề,
nếu do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh
Vương tức
là Như Lai. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, như chỗ hiểu
của
con qua nghĩa Phật nói, không nên do ba mươi hai tướng mà xem Như
Lai. Khi
ấy Thế Tôn nói bài kệ:
- Nếu do sắc thấy ta,
- Do âm thanh cầu ta,
- Người ấy hành đạo tà,
- Không thể thấy Như Lai .
GIẢNG:
Sách Ấn Độ nói: Người có đủ
ba mươi hai tướng tốt, đi tu thì thành Phật, còn ở thế gian thì
làm
Chuyển Luân Thánh Vương. Như thế những Chuyển Luân Thánh Vương là
những
vị vua hiền có đủ ba mươi hai tướng tốt. Thế nên nếu do ba mươi
hai
tướng mà xem Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai
sao?
Trong đoạn này, đức Phật muốn
chỉ Như Lai là pháp thân bất sanh bất diệt. Pháp thân đó không
riêng đức
Phật mà tất cả chúng ta đều có. Nơi đức Phật thì nói ba mươi hai
tướng,
nơi chúng ta thì nói chừng mấy tướng? Chẳng do một tướng hoặc hai
tướng
tốt hoặc không tướng tốt nào mà thấy phải không? Đức Phật sợ chúng
ta lầm chấp pháp thân là tướng cho nên Ngài mới hỏi ngài Tu-bồ-đề:
Có
thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng? Không biết lúc này
ngài
Tu-bồ-đề muốn dùng lối trả lời sai để Phật dạy cho chúng ta, hay
là
Ngài nhận không đúng, có lẽ Ngài nhận chưa ra là phải hơn. Tại sao
tôi
dám nói như thế? Bởi vì trong kinh thường nói Bồ-tát từ Sơ địa trở
lên, lên mỗi địa là ngộ được một phần pháp thân, còn Thanh văn thì
chưa thấy được pháp thân. Đây nói về pháp thân nên ngài Tu-bồ-đề
nhận
lầm, Ngài nói rằng: Như thế, như thế, do ba mươi hai tướng mà thấy
Như
Lai. Phật liền quở: Nếu do ba mươi hai tướng thấy Như Lai thì
Chuyển
Luân Thánh Vương có ba mươi hai tướng là Như Lai rồi. Câu nói
sau đây
của ngài Tu-bồ-đề chứng minh được lời tôi nói ở trên. Ngài
Tu-bồ-đề
bạch Phật: Bạch Thế Tôn, như chỗ hiểu của con qua nghĩa Phật nói.
Bởi
vì về pháp thân thì Ngài chưa ngộ, nên Ngài nói theo nghĩa Phật
nói,
chẳng nên do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai. Chúng ta thấy
Ngài
nói rất là dè dặt. Bấy giờ đức Phật mới kết thúc lại bằng một
bài kệ:
- Nếu do sắc thấy ta,
- Do âm thanh cầu ta,
- Người ấy hành đạo tà,
- Không thể thấy Như Lai.
Do sắc thấy ta tức do ba mươi
hai tướng, do âm thanh cầu ta tức là do những thứ tiếng mà cho là
Như
Lai. Cả hai sắc tướng và âm thanh là tướng sanh diệt, nếu dùng cái
sanh
diệt mà cầu Phật, đó là đạo tà, không thể thấy được pháp thân.
Bài kệ này cốt nói về pháp thân phi tướng.
Hiện nay có nhiều người xuyên tạc:
Không do sắc thấy ta, không do âm thanh cầu ta, ta đây là chỉ cho
Phật, như
vậy ở chùa thờ Phật thì có sắc, đóng chuông, đánh mõ tụng kinh ra
tiếng
đó là âm thanh, nếu lấy cái đó tu để cầu thành Phật là đạo tà,
không thể nào thấy Phật. Đó là lối xuyên tạc, thật là đại xuyên
tạc.
Ở đây Phật bảo: Không do sắc thấy ta, không do âm thanh cầu ta là
để
nói đó là hai tướng sanh diệt, dù âm thanh không tướng nhưng cũng
là
sanh diệt, đem cái sanh diệt để cầu Như Lai tức pháp thân bất sanh
bất
diệt thì không đúng, nên nói đó là hành đạo tà, không thể thấy
được
pháp thân. Như thế muốn thấy pháp thân phải làm sao? Như Phật đã
nói:
Không do ba mươi hai tướng mà thấy Phật. Phải nhận ngay khi tất cả
tâm
vọng tưởng lặng xuống rồi, lúc đó cái chân thật hiển lộ. Cái chân
thật đó không phải là cái sanh diệt nên không phải là sắc tướng,
là
âm thanh. Nếu chạy theo sắc tướng, âm thanh là lầm. Vậy ở chùa thờ
Phật,
tụng kinh gõ mõ đánh chuông có tiếng, như thế có phải đạo tà
không?
Dùng sắc, dùng thanh để dừng cái điên đảo vọng tưởng, để lặng
những
tâm niệm đang chạy theo sáu trần, như thế mượn âm thanh sắc tướng
để
lặng vọng tưởng rồi sẽ thấy Như Lai thì có lỗi gì? Đâu phải tà.
Còn những người không theo sắc tướng, nhưng không biết làm gì để
Như
Lai hiện thì có tà không? Hoặc là không theo sắc tướng, nhưng ngồi
tưởng
xuất hồn lên trời v.v… thì có tà không? Như thế là hiểu lầm, hiểu
sai.
Trong nhà Phật có nhiều lối tu,
tôi nói để quí vị rõ. Sự truyền bá đạo Phật đã hơn hai ngàn năm,
qua nhiều thời, nhiều vị đệ tử Phật có đủ khả năng, đủ sáng kiến,
nên các Ngài khéo linh động lập ra nhiều pháp tu, tuy cùng một
gốc. Theo
danh từ nhà Phật gọi là từ thể bất biến nhưng khéo tùy duyên, tuy
tùy
duyên mà thể vẫn bất biến. Nghĩa là từ chỗ chân thật Phật dạy, các
Ngài khéo tùy duyên, tùy thời, tùy căn cơ mà linh động, khi dùng
pháp
này, khi dùng pháp kia… Như người mới vào chùa không hiểu cách tu
hành
làm sao nhiếp tâm, cứ buông lung cho nó chạy ngược, chạy xuôi, bảo
ngồi
thiền thì họ chưa thông, hoặc bảo họ chăn trâu, họ không biết làm
sao
chăn, thì bảo: Thôi, cứ lên chùa tụng kinh, đánh chuông gõ mõ,
nhìn Phật,
cốt chú ý vào kinh đừng nghĩ bậy có tội! Khi lên gõ mõ tụng kinh
mà
không nghĩ bậy, thì đó là một giờ hoặc nửa giờ yên được một phần
vọng tưởng thì đâu phải là tà. Đó là phương tiện của kẻ sơ cơ, là
phương tiện trong giai đoạn động. Những người không hiểu cứ chấp
phải
ngồi khơi khơi để nó không ngơ như bầu trời không mới đúng, thì đó
là bệnh. Thế nên người tu phải khéo có phương tiện, với người thế
nào nên dùng hình sắc độ họ, với người thế nào nên dùng âm thanh
độ
họ v.v… tùy phương tiện để giúp họ dừng tâm điên đảo vọng tưởng,
đó là tài của người giáo hóa chớ đừng cố chấp. Nhưng đa số người
học hay cố chấp, nghe cái nào là chấp cái ấy, như nghe nói dùng
sắc
tướng âm thanh cầu ta là hành đạo tà, khi thấy cái gì có sắc
tướng
liền bảo đó là tà, cái gì có âm thanh liền bảo đó là tà… Đó là tự
mình tà chớ không phải đạo tà. Tự mình tà nghĩa là mình chưa biết
tới
chỗ cứu kính.
Tóm lại trong đoạn này đức Phật
cốt chỉ cho chúng ta thấy pháp thân không phải là sắc tướng, không
phải
là âm thanh. Âm thanh và sắc tướng là sanh diệt mà pháp thân là
bất sanh
bất diệt, nếu kẹt vào tướng và âm thanh, cho đó là thật, đó là đạo
tà. Nếu biết sắc tướng âm thanh là giả thì không phải tà. Thế nên
tôi thường dặn quí vị mỗi khi lễ Phật phải nhớ mãi câu chúng ta
đọc:
"Năng lễ sở lễ tánh không tịch". Chúng ta là người hay lạy, đức
Phật là vị để mình lạy, cả hai đều tự tánh là không, là lặng lẽ,
nhưng duyên hợp thì giả có. Chúng ta thấy rõ như vậy, chớ không
phải
thấy Phật ngồi trên bàn là thật và mình đây là thật. Hiểu như vậy
làm
sao gọi là tà được! Chỉ tại những người không hiểu, đọc là cứ đọc
thôi cho nên thành tà! Như thế nếu trì bốn câu kệ này, chúng ta có
thể
được công đức như Phật nói ở đoạn trước không? Nghĩa là nếu cứ
thọ trì mãi bốn câu này, thì chúng ta có thể tỉnh giác không? Đừng
nghĩ Như Lai là Phật Thích-ca. Phải nhớ Như Lai là pháp thân
thường hằng
của chúng ta. Pháp thân đó không thuộc sắc tướng thì đâu có chấp
ngã, nó cũng không thuộc âm thanh thì đâu có chấp âm thanh. Tất cả
âm
thanh sắc tướng sanh diệt đều không chấp tức là không hành đạo tà,
như thế mới thấy được pháp thân. Nếu nhớ và sống như thế thì
chúng ta giác ngộ rồi. Thế nên bài kệ này rất quan trọng.
ĐOẠN 27
: VÔ ĐOẠN, VÔ DIỆT
Tu-bồ-đề! Nhữ nhược tác
thị
niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu
tam-bồ-đề.
Tu-bồ-đề! Mạc tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc
A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Nhữ nhược tác thị niệm:
Phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, thuyết chư pháp đoạn
diệt,
mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề
tâm
giả, ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng.
DỊCH:
KHÔNG ĐOẠN, KHÔNG DIỆT.
Này Tu-bồ-đề, nếu ông
khởi nghĩ
thế này, Như Lai chẳng do các tướng cụ túc được Vô thượng Chánh
đẳng
Chánh giác. Tu-bồ-đề, chớ khởi nghĩ thế ấy, Như Lai không do tướng
cụ
túc mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tu-bồ-đề, nếu ông
khởi
nghĩ thế này: Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nói
các
pháp đoạn diệt, chớ khởi cái nghĩ này. Vì cớ sao? Vì người phát
tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với pháp không có nói tướng
đoạn
diệt.
GIẢNG:
Đây là đức Phật sợ khi nghe nói
tất cả sắc tướng thanh âm không phải là Phật, chúng ta lại tưởng
Phật
là ngoài thân năm uẩn mà có. Như thế thì thân năm uẩn này không
liên hệ
gì với Phật cả. Thế nên đến đây đức Phật liền xác nhận: Này
Tu-bồ-đề,
ông chớ khởi nghĩ thế này, Như Lai chẳng do các tướng đầy đủ mà
được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chớ khởi nghĩ như thế. Vì
sao? Vì Phật thành Phật là ngay nơi thân này mà thành, chớ đâu
phải
ngoài thân này. Nếu chúng ta nghĩ Phật ngoài thân này thì đó là
bệnh.
Pháp thân lồng sẵn trong thân sắc tướng. Chữ Như Lai ở đây phải
hiểu
là pháp thân, pháp thân đó có sẵn trong sắc thân này. Đừng bao giờ
nghĩ Như Lai chẳng do các tướng cụ túc mà được Vô thượng Chánh
đẳng
Chánh giác, vì chính được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là ngay
nơi
thân sắc tướng này. Như vậy để cho chúng ta biết không phải cầu
Phật
ngoài thân này mà ngay thân năm uẩn đã có pháp thân, đừng tách rời
nó
mà tìm Phật.
Tiếp theo, đức Phật dạy thêm:
Này Tu-bồ-đề, ông nếu khởi nghĩ thế này, người phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác nói các pháp đoạn diệt. Chớ khởi nghĩ như
thế.
Vì cớ sao? Vì người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
đối
với pháp không nói tướng đoạn diệt. Khi nói điều này, Phật lại
sợ
chúng ta chấp điều kia. Đức Phật bảo: Muốn cầu thành Phật thì phải
ngay nơi sắc thân này mà cầu. Nhưng lại sợ chúng ta hiểu lầm thân
sắc
tướng này hoại thì Phật mất sao. Tuy thân sắc tướng hoại nhưng
pháp
thân không mất, thế nên Phật bảo ông đừng nghĩ người phát tâm Vô
thượng
Chánh đẳng Chánh giác nói pháp đoạn diệt. Ngay trong thân sanh
diệt có
pháp thân bất sanh bất diệt. Khi nghe nói ngay trong sắc thân này
cầu Phật,
chúng ta nghĩ khi sắc thân đoạn diệt thì Phật cũng đoạn diệt luôn…
Đừng hiểu lầm như thế, vì người thành Phật không bao giờ nói các
pháp đoạn diệt. Chính điểm này là điểm mà tất cả người tu Phật
phải
để ý. Bởi vì chúng ta thường có hai thứ bệnh, bệnh chấp thường và
bệnh chấp đoạn. Chấp thường là nghĩ rằng trong thân mình có linh
hồn,
linh hồn đời đời không bao giờ mất. Chấp đoạn thì nói thân này
chết
rồi là hết, không còn gì nữa. Chúng ta phải thấy rõ thân này là
tướng
hư giả do tứ đại hợp. Đã là tướng hư giả thì khi tứ đại tan rã,
thân này không còn. Tứ đại là vô tri, nhưng trong tứ đại hợp này
có
cái tri giác. Tri giác lại chia hai phần, tri giác hư vọng sanh
diệt và tri
giác không hư vọng, không sanh diệt. Khi người ta chấp toàn vật
chất
thì đức Phật phá tứ đại là không thật. Khi người ta xem nhẹ phần
vật
chất, chấp nặng phần tinh thần thì đức Phật phá ngũ uẩn. Sắc uẩn
là
tứ đại; thọ, tưởng, hành, thức, bốn uẩn này thuộc về tinh thần.
Bốn
uẩn thọ, tưởng, hành, thức là tướng tâm sanh diệt, bốn tướng tâm
sanh diệt này không phải là ngã. Như thế là để phá chấp ngã về
thân,
chấp ngã về tâm. Khi thân giả và tâm giả này mất rồi thì Như Lai
tức
pháp thân hiện tiền. Thế nên pháp thân không phải là tướng đoạn
diệt.
Thân hư giả và tâm hư giả mất chớ không phải pháp thân mất, như
thế
là thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chớ không phải tới đó là
hết.
Có người nói Niết-bàn là viên tịch, chỗ đó lặng lẽ, hoàn toàn
không
có gì cả, đó là lầm lẫn, hiểu không thấu đáo. Đúng ra khi không
còn
những mầm sanh diệt, đó là chân thật giải thoát, đó là Như Lai bất
sanh bất diệt.
ĐOẠN 28
: BẤT THỌ, BẤT THAM
Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát dĩ
mãn
Hằng hà sa đẳng thế giới thất bảo trì dụng bố thí, nhược phục hữu
nhân tri nhất thiết pháp vô ngã, đắc thành ư nhẫn. Thử Bồ-tát
thắng
tiền Bồ-tát sở đắc công đức. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Dĩ chư Bồ-tát
bất thọ phước đức cố. Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Vân hà
Bồ-tát bất thọ phước đức?
- Tu-bồ-đề! Bồ-tát sở
tác phước
đức bất ưng tham trước, thị cố thuyết bất thọ phước đức.
DỊCH:
KHÔNG THỌ, KHÔNG
THAM TRƯỚC.
Này Tu-bồ-đề,
nếu Bồ-tát
dùng thất bảo đầy cả thế giới bằng số cát sông Hằng để đem bố
thí, nếu lại có người biết tất cả pháp là vô ngã được thành đức
nhẫn nhục, thì Bồ-tát này được công đức hơn vị Bồ-tát trước, vì
cớ sao? Này Tu-bồ-đề, do các vị Bồ-tát không thọ phước đức. Ngài
Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ-tát không thọ
phước đức?
- Này
Tu-bồ-đề! Bồ-tát làm phước
đức mà chẳng nên tham trước, thế nên nói chẳng thọ phước đức.
GIẢNG:
Trước hết đức Phật dùng hình
ảnh người đem của báu đầy cả số thế giới bằng số cát sông Hằng
ra bố thí. Quí vị thử tính xem bao nhiêu của báu? Không thể tính
nổi. Của
báu đầy dẫy thế giới mà mỗi thế giới là một hột cát của sông Hằng,
như thế không biết bao nhiêu thế giới và cũng không biết bao nhiêu
của
báu. Lại có người biết tất cả pháp là vô ngã, thành được đức nhẫn
nhục. Như thế là có hai đức, đức thứ nhất là trí tuệ, do trí tuệ
thấy tất cả pháp không có tự thể. Vô ngã là không có tự thể, do
thấy
các pháp duyên hợp, không có tự thể nên thực hành hạnh nhẫn nhục
được
viên mãn, đó là đức thứ hai. Đức Phật bảo: Vị Bồ-tát dùng trí biết
tất cả pháp vô ngã, nên thực hành được hạnh nhẫn nhục, được công
đức nhiều hơn vị Bồ-tát đem của báu đầy dẫy số thế giới bằng số
cát sông Hằng ra bố thí. Ngài hỏi: Vì cớ sao? Rồi Ngài giải thích:
Bởi
do các vị Bồ-tát đó không thọ phước đức. Thế nào gọi là không thọ
phước đức? Bởi vì chúng ta thấy tất cả pháp vô ngã, vô ngã thì
không có chủ tể, nghĩa là không có mình, dù cho làm tất cả hạnh
nhẫn
nhục hay tất cả công đức gì mà không thấy có mình thật thì không
có
thọ. Đây là đức Phật đặt trí tuệ lên hàng đầu. Công đức của chúng
ta được viên mãn là từ trí tuệ không thấy có ngã, bởi không thấy
ngã nên không thọ, không thọ nên phước đức mới lớn. Thế nên ở đây
chủ yếu là nói không thọ, mà không thọ gốc từ trí tuệ vô ngã. Dù
bố
thí của báu bao nhiêu đi nữa cũng không bằng do trí tuệ Bát-nhã
dẫn đầu
tu được hạnh nhẫn nhục. Người như thế được công đức vô kể, vì
người đó không có ngã. Như chúng ta hiện nay tu hạnh nhẫn nhục thì
hạnh
nhẫn nhụïc của mình hữu ngã hay vô ngã? Như quí phật tử hoặc tăng
ni
biết đạo chút ít, đều thầm nghĩ mình là người biết đạo thì không
bao giờ nên sân, không bao giờ có niệm ác với kẻ khác. Nhưng giả
sử có
người chạm tới quyền lợi của mình, quyền lợi nhỏ thôi, lúc đó
mình nghĩ: Đây là chạm đến quyền lợi mình, nhưng là phật tử hay là
người tu thì rán nhịn. Đến quyền lợi kha khá một chút, khả dĩ còn
rán được. Nhưng khi họ chạm đến quyền lợi thật to của mình, lúc đó
chắc hết nhẫn nổi. Đó là chưa nói đến khi họ làm nhục, đánh đập,
lúc đó mình nhẫn nổi không? Thế nên nhẫn nhục mà còn ngã, dù ngoại
tài hay nội tài, cũng khó đến ba-la-mật. Vì thế muốn nhẫn nhục
ba-la-mật
trước phải có trí tuệ Bát-nhã thấy rõ các pháp là vô ngã. Đã không
có ta thật thì còn ai làm khổ ta, ai hại ta?… Khi ấy mới nhịn được
tất
cả những điều khó nhịn. Thế nên đức Phật dạy, trước hết phải biết
các pháp là vô ngã rồi mới thực hành hạnh nhẫn nhục. Đó là điều
tiên
quyết, vì nhẫn mà không có trí tuệ Bát-nhã thì không bao giờ viên
mãn.
Hiểu như thế nên khi người nhẫn được tất cả điều khó nhẫn, đến
công đức người đó cũng không thọ nhận. Tại sao? Vì nhẫn nhục mà
không thấy mình nhẫn nhục nên không thọ phước đức. Còn chúng ta
mỗi
lần nhẫn được thì khoe khắp mọi người phải không? Thành ra vì
chúng
ta có ngã nên làm điều gì cũng thấy có thọ nhận cả. Trong đoạn này
đức Phật đề cao công đức hay phước đức bất thọ, và phước đức
bất thọ đó cũng do trí tuệ vô ngã mà ra. Thế nên khi ngài Tu-bồ-đề
hỏi
Phật: Thế nào là không thọ phước đức thì đức Phật bảo: Bồ-tát
làm phước đức không tham trước nên gọi là không thọ phước đức.
Sở dĩ chúng ta làm mà tham trước là vì có ngã, nếu vô ngã còn tham
trước
cái gì? Thế nên nói rằng không tham trước là phước đức lớn nhất.
ĐOẠN 29
: UY NGHI TỊCH TĨNH.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhân
ngôn:
Như Lai nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhân bất
giải ngã sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? Như Lai giả, vô sở tùng lai
diệc
vô sở khứ, cố danh Như Lai.
DỊCH:
BỐN OAI NGHI ĐỀU TỊCH
TĨNH.
Này Tu-bồ-đề,
nếu có người
nói Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, người ấy không
hiểu nghĩa của ta nói. Vì cớ sao? Như Lai đó không từ đâu đến cũng
không
đi đâu nên gọi là Như Lai.
GIẢNG:
Trong kinh Kim Cang có những chỗ
định
nghĩa Như Lai, như đoạn trước, tôi nhắc lại để quí vị nhớ. "Như
Lai giả, chư pháp Như nghĩa". Nghĩa Như của các pháp, đó là Như
Lai.
Ở đây nói: Như Lai giả, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh
Như
Lai. Như Lai là không từ đâu đến cũng không đi đâu nên gọi là
Như
Lai. Nói rằng: Như Lai không từ đâu đến, cũng không đi đâu, đó là
đứng
về phương diện nào mà nói? Đến và đi là hành động, mà hành động
tức
là tướng động, nếu nói Như Lai là tướng động thì không phải là Như
Lai. Trong đoạn trước đã định nghĩa: Như Lai là nghĩa như của các
pháp, nghĩa như tức là như như bất động. Tóm lại đoạn này nói Như
Lai là để chỉ cho pháp thân bất sanh bất diệt, không bao giờ dao
động.
Thấy được pháp thân bất động mới gọi là thấy Phật, chớ không phải
thấy đức Phật có ba mươi hai tướng. Tại sao? Vì nếu thấy có ba
mươi
hai tướng là Phật thì khi thân tứ đại rã Phật không còn sao? Như
Lai không
còn sao? Thế nên phải hiểu rõ Như Lai là chỉ cho pháp thân thanh
tịnh,
mà pháp thân thanh tịnh thì không đến, không đi. Vì thế trước hết
đức
Phật bảo: Nếu có người nói Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc
ngồi,
hoặc nằm, đó là không hiểu nghĩa Phật nói. Nếu thấy Như Lai
đến,
đi, ngồi, nằm, đó là Như Lai có hình tướng, có tác động, mà hình
tướng
tác động là sanh diệt. Nếu cho Như Lai là sanh diệt thì không hiểu
nghĩa
Phật nói. Thế nên trong đoạn này Phật chỉ rõ Như Lai là pháp thân
thanh
tịnh, bất sanh bất diệt, không đến, không đi, đó là để chúng ta
thấy
rõ Như Lai là tịch tĩnh, lặng lẽ thường hằng.
ĐOẠN 30 :
NHẤT HIỆP TƯỚNG LÝ
Tu-bồ-đề! Nhược thiện
nam tử,
thiện nữ nhân dĩ tam thiên đại thiên thế giới toái vi vi trần, ư ý
vân hà? Thị vi trần chúng ninh vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa,
Thế
Tôn! Hà dĩ cố? Nhược thị vi trần chúng thật hữu giả, Phật tắc bất
thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà? Phật thuyết vi trần chúng
tắc
phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng. Thế Tôn! Như Lai sở
thuyết tam
thiên đại thiên thế giới tắc phi thế giới, thị danh thế giới. Hà
dĩ
cố? Nhược thế giới thật hữu giả, tắc thị nhất hiệp tướng. Như
Lai thuyết nhất hiệp tướng tắc phi nhất hiệp tướng, thị danh nhất
hiệp
tướng.
- Tu-bồ-đề! Nhất hiệp
tướng giả
tắc thị bất khả thuyết, đản phàm phu chi nhân tham trước kỳ sự.
DỊCH:
LÝ MỘT HỢP
TƯỚNG
Này Tu-bồ-đề, nếu
người thiện
nam, thiện nữ đem thế giới tam thiên đại thiên này nghiền nát
thành bụi,
ý ông nghĩ sao? Số bụi này thật là nhiều chăng? Ngài Tu-bồ-đề
thưa: Bạch
Thế Tôn! Rất nhiều. Vì cớ sao? Nếu là bụi thật có đó thì Phật ắt
không nói là bụi nhiều. Vì cớ sao? Phật nói các bụi đó tức không
phải
là bụi, ấy gọi là bụi. Bạch Thế Tôn, Như Lai nói thế giới tam
thiên
đại thiên tức không phải thế giới, ấy gọi là thế giới. Vì cớ sao?
Nếu thế giới thật có thì ắt là một hợp tướng. Như Lai nói một hợp
tướng tức không phải một hợp tướng ấy gọi là một hợp tướng.
Này Tu-bồ-đề,
một hợp tướng
đó ắt không thể nói, chỉ người phàm phu tham trước việc ấy.
GIẢNG:
Trong đoạn này đầu tiên đức Phật
hỏi ngài Tu-bồ-đề: Giả sử có người nam, người nữ, đem thế giới
tam thiên đại thiên này nghiền nát thành bụi, số bụi đó nhiều
chăng?
Ngài Tu-bồ-đề trả lời là rất nhiều. Trả lời xong, Ngài không dừng
nơi
đó, Ngài giải thích thêm: Vì cớ sao? Vì bụi nếu thật có thì Phật
không nói là bụi, Phật nói bụi tức không phải bụi, ấy gọi là
bụi.
Chỗ này nhắc chúng ta nhớ trong đoạn trước tôi đã nói quá rõ rồi.
Nếu
chúng ta lầm chấp các pháp có thật thể tức là thế giới là thật thế
giới, hạt bụi là thật hạt bụi; lớn như thế giới, nhỏ như hạt bụi,
nếu tất cả lớn nhỏ đều chấp có một thật thể thì đó là cái nhìn
của phàm phu. Tại sao? Vì nếu thấy nó có thật thể tức là không
phải
tướng duyên hợp. Trái lại, con mắt trí tuệ Bát-nhã của Bồ-tát thấy
các pháp do duyên hợp, mà đã duyên hợp thì không cái nào có thật
thể.
Thế giới cũng là tướng duyên hợp nên không thật, chỉ theo phàm phu
giả
đặt tên là thế giới . Như vậy thế giới chỉ có giả danh mà không có
thật thể. To như thế giới mà chỉ có giả danh, còn nhỏ như hạt bụi
thì sao? Hạt bụi tuy quá nhỏ đối với thế giới, nhưng hạt bụi cũng
không phải là đơn vị cuối cùng. Nhỏ như hạt bụi cũng vẫn là một
hợp
thể do duyên hợp. Hạt bụi do duyên hợp nên không phải là hạt bụi,
nhưng
giả danh gọi là hạt bụi. Như thế để thấy rằng dù lớn, dù nhỏ đối
với con mắt trí tuệ đều thấy là tướng duyên hợp, chớ không một
cái gì tự có thật thể. Thường chúng ta có hai lối nhìn, hoặc cho
cái
nhỏ không thật mà cái lớn lại là thật, hoặc cho cái lớn là duyên
hợp
mà cái nhỏ là đơn vị cuối cùng. Cũng như viên đất bằng nắm tay,
đập
nát thành bụi, chúng ta cho viên đất là không thật, nhưng hạt bụi
là thật,
đó là đơn vị thật hợp thành viên đất, thế là chúng ta thấy cái lớn
là giả mà cái nhỏ là thật.
Chủ yếu Phật dạy ở đây là phải
nhìn cho tường tận tất cả pháp, không một pháp nào có hình tướng
mà
có thật thể. Như thế mới hiểu, mới thấy được lý duyên hợp. Từ thế
giới đến hạt bụi đều không có thật thể, nó là một hợp tướng,
nhưng hợp tướng cũng là giả danh, nên nói: Hợp tướng không phải
hợp
tướng, ấy gọi là hợp tướng. Cuối cùng Ngài kết lại một câu: Này
Tu-bồ-đề, một hợp tướng đó ắt không thể nói, chỉ người phàm phu
tham trước việc ấy. Nói là một hợp tướng thì không thể nói.
Tại
sao? Vì nó là hư giả, không thể nói là có, là không, nhưng người
phàm
phu không biết, tham trước cho là thật. Trên nhân gian này, tất cả
những
gì có hình, có tướng, sắc, thanh, hương v.v… quí vị kiểm lại xem
có
cái nào không phải là tướng duyên hợp hay không? Cái nào cũng là
tướng
duyên hợp, thế mà phàm phu chúng ta cho nó là thật hay giả? Nếu
chúng ta
nói: Chậu bông của tôi giả. Có người khác nói: Giả thì cho tôi đi!
Khi
đó chúng ta nói thế nào? Tuy nói giả mà ai xin thì không cho. Nói
giả sợ
người ta xin, thành ra thấy cái gì cũng thật nên quí, mà quí thì
tham trước.
Thế nên sự liên hệ là từ chỗ thấy các pháp là thật, rồi sanh ra
tưởng
nó là quí và tâm tham trước theo đó mà sanh . Bởi chiếc xe tôi
thật,
nhà của tôi thật nên tôi quí, tôi phải cố bảo vệ, tất cả sự vật
đều như thế cả. Thế nên những gì mình thấy là thật, đều quí, đều
tham trước. Không phải chúng ta bi quan, tạo ra một cái tưởng
tượng không
đâu, mà đây đúng là chúng ta nhìn bằng trí tuệ, thấy được lẽ thật.
Nói đến cái nhà thì biết nó là tướng duyên hợp, không có thật thể.
Nếu nói cái nhà thật thì thử hỏi cái gì thật là nhà? Vách tường
không
phải nhà, kèo cột không phải nhà… Chẳng qua là nhiều tướng nhỏ
chung
hợp thành một tướng lớn, tướng lớn đó tạm đặt tên là cái nhà. Vậy
cái nhà là danh từ tạm đặt để chỉ một hợp tướng, mà hợp tướng
là do duyên hợp thì đâu có cái gì là chủ, nên nó không có tự thể
hay
không có thật thể. Đó là một lẽ thật, chúng ta nhìn đúng lẽ thật
chớ
không phải bi quan. Nhìn đúng lẽ thật nên không có tâm tham trước,
do không
tham trước nên không mắc kẹt ở thế gian. Trái lại vì nhìn không
đúng
lẽ thật nên khởi tâm tham trước, do đó mất một cái gì là lòng quặn
đau, đến khi cái ngã mất thì đau vô ngần, vì thế nên cứ quanh quẩn
trong thế gian không có ngày ra.
Phật bảo một hợp tướng không
thể nói là có, không thể nói là không. Quí vị phải hiểu tinh thần
Đại
thừa cốt chỉ thẳng lý duyên hợp, cho nên không quyết định nơi hai
cái
có và không. Ai thấy các pháp thế gian thật có, thật không là
bệnh. Thế
mà lâu nay đại đa số người học kinh Bát-nhã đều nói học Bát-nhã là
chấp không. Chấp không là bệnh tối kỵ với tinh thần Bát-nhã. Thấy
có, thấy không là thấy hai bên, trái với lý Bát-nhã. Bát-nhã nói
các
pháp duyên hợp nên không thật, vì duyên hợp nên không phải có, vì
duyên
hợp nên không phải không. Nói duyên hợp là giả tướng nên không
phải
có mà cũng không phải không. Thế gian chỉ một mặt nói có hoặc nói
không, nhưng ta thấy rõ các tướng duyên hợp không phải có, không
phải
không nên không thể nói được, không thể nói cho họ hiểu được. Vì
thế
mà đức Phật bảo một hợp tướng ắt không thể nói, chỉ vì người phàm
phu tham trước việc ấy.
Quí vị đã thấy rõ ý nghĩa sâu
xa của kinh Đại thừa là không cho chúng ta kẹt một bên nào, hoặc
có, hoặc
không. Kim Cang và Bát-nhã nói các pháp do duyên hợp không có tánh
thật, chớ
không phải không ngơ. Như cái bàn, đối với con mắt trí tuệ Bát-nhã
nó
có hay không? Con mắt trí tuệ Bát-nhã thấy cái bàn không có tự
thể, do
duyên hợp nên chỉ có giả danh. Giả danh là tên tạm, tạm gọi là
bàn,
không phải không ngơ, nhưng tìm thật thể thì không có, chớ nói cái
bàn
không như hư không này thì đó là dốt. Nhiều người không hiểu nghe
câu Thị
chư pháp không tướng bất sanh bất diệt v.v… liền cho rằng
Bát-nhã
nói cái gì cũng không. Không đây là không có tướng thật, vì nó là
duyên hợp. Cũng như tôi nói không có một nắm tay thật mà do năm
ngón co
lại, nhưng khi co lại thì có nắm tay không? Nói đúng theo trí tuệ
Bát-nhã là nắm tay không có thật thể, chỉ giả danh tạm gọi là nắm
tay, đủ duyên hợp lại tạm gọi là nắm tay. Như thế khi duyên hợp
không thể nói không, khi duyên tan đâu thể nói có. Chính người
không hiểu
Bát-nhã mới chấp không, nói cái này có là chấp thật có, nói cái
kia
không là chấp thật không. Trí tuệ Bát-nhã nhìn tường tận các pháp
nên
không cố định một pháp nào là thật thể, vì đó là tướng duyên hợp,
đã là duyên hợp thì không phải là không hẳn. Thế nên mới dùng
những
chữ "như huyễn, như hóa" nghĩa là duyên hợp thì có, duyên ly tán
thì không, chớ không phải không ngơ. Hiểu như thế mới không lầm ý
nghĩa
của lời Phật dạy trong kinh Kim Cang và Bát-nhã.
ĐOẠN 31 : TRI KIẾN BẤT SANH
- Tu-bồ-đề! Nhược nhân
ngôn: Phật
thuyết ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến,
Tu-bồ-đề,
ư ý vân hà? Thị nhân giải ngã sở thuyết nghĩa phủ?
- Phất dã Thế Tôn! Thị
nhân bất
giải Như Lai sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố, Thế Tôn thuyết ngã kiến,
nhân
kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến tức phi ngã kiến, nhân kiến,
chúng
sanh kiến, thọ giả kiến thị danh ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh
kiến,
thọ giả kiến.
- Tu-bồ-đề! Phát
A-nậu-đa-la
tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, ư nhất thiết pháp ưng như thị tri, như
thị
kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng. Tu-bồ-đề! Sở ngôn
pháp
tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng.
DỊCH:
TRI KIẾN CHẲNG SANH.
- Này
Tu-bồ-đề, nếu có người
nói Phật nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến,
này
Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Người ấy hiểu nghĩa của ta nói chăng?
- Bạch Thế
Tôn, không hiểu vậy.
Người ấy không hiểu nghĩa của Như Lai nói. Vì cớ sao? Thế Tôn nói
ngã
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức chẳng phải ngã
kiến,
nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, ấy gọi là ngã kiến, nhân
kiến,
chúng sanh kiến, thọ giả kiến.
- Này
Tu-bồ-đề, người phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với tất cả pháp nên như thế
mà
biết, như thế mà thấy, như thế mà tin hiểu, không sanh pháp tướng.
Này
Tu-bồ-đề, nói là pháp tướng đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp
tướng,
ấy gọi là pháp tướng.
GIẢNG:
Trong phần này, trước tiên đức
Phật phá ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Nhiều
người
đọc tụng trong kinh, thấy đức Phật thường nói ngã, nhân, chúng
sanh, thọ
giả, do đó họ tưởng nói ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả là thật, và
có cái hiểu về ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thật v.v… Thế nên
đức
Phật bảo: Nếu cho ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả
kiến
là thật, là không hiểu nghĩa Phật nói. Tại sao? Bởi vì Phật nói
ngã
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức không phải ngã
kiến,
nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, ấy gọi là ngã kiến, nhân
kiến,
chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Như thế, tất cả bốn tướng ngã,
nhân, chúng sanh, thọ giả, dù trong kinh có nói, nhưng đức Phật
nói không
phải như phàm phu nói. Phàm phu nói ngã là ngã thật, nhân là nhân
thật,
chúng sanh là chúng sanh thật, thọ giả là thọ giả thật, tóm lại
nói
cái nào là thật cái ấy. Trái lại, đức Phật có khi nói ta nói,
nhưng chữ
ta là ngã đó không giống như phàm phu. Ngài thấy rõ ngã, nhân,
chúng sanh,
thọ giả chỉ là tướng duyên hợp hư giả, nên ngã kiến, nhân kiến,
chúng sanh kiến, thọ giả kiến không phải ngã kiến, nhân kiến,
chúng
sanh kiến, thọ giả kiến. Thấy bốn tướng đó, nhưng bốn tướng đó
không phải thật, vì đó là tướng duyên hợp, vì trên giả danh người
ta
nói ngã, nói nhân, nói chúng sanh, thọ giả thì Phật cũng phải nói
như thế
cho họ hiểu. Vì thế phải thấy rõ chỗ Phật nói bốn tướng là hư giả
không thật, chỉ có giả danh thôi.
Đến đây đức Phật muốn tóm kết
lại cho những người tu cầu thành Phật hiểu biết đúng nghĩa Phật
dạy
nên Phật bảo: Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đối
với
tất cả pháp nên biết như thế, thấy như thế và tin hiểu như thế.
Như
thế nghĩa là thế nào? Thế giới không phải thế giới, ấy gọi là thế
giới, chúng sanh không phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh, ngã
kiến
không phải ngã kiến, ấy gọi là ngã kiến… Phải thấy như vậy, biết
như vậy và tin hiểu như vậy thì mới có thể tiến tới quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Trái lại nếu thấy có cái gì là thật, cố
định
thì không thể tiến đến đó, vì Phật là giác ngộ, nếu còn thấy các
pháp thật là si mê thì làm sao giác ngộ được? Thế nên phải thấy
đúng
như vậy thì mới giác ngộ. Như thế là chẳng sanh pháp tướng
tức
là không khởi chấp, không thấy có một pháp tướng nào thật. Vừa nói
pháp tướng, Ngài lại sợ người ta cho pháp tướng là thật, nên liền
bác: Này Tu-bồ-đề, nói pháp tướng đó, Như Lai nói tức chẳng
phải
pháp tướng, ấy gọi là pháp tướng.
Tóm lại tất cả danh ngôn mà đức
Phật lập ra, Ngài đều bắt chúng ta phải thấy nó không có thật thể,
chỉ có giả danh thôi, thấy rõ như thế mới đúng trí tuệ Bát-nhã.
Nếu
còn một cái gì chúng ta cho là thật, là chưa thấy đúng với tinh
thần
Bát-nhã. Như vậy chúng ta thấy Phật cố định là thật hay không?
Thấy
thế nào cho đúng với tinh thần Phật dạy? Nếu nói chúng sanh không
phải
chúng sanh ấy gọi là chúng sanh, thì Phật cũng phải nói: Phật
không phải
Phật, ấy gọi là Phật, chớ nếu nói Phật thật thì cũng là không hiểu
Phật. Hiểu như thế mới thấy khi thì Phật bác danh từ chúng sanh,
khi
thì Phật bác ngay cả danh từ A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Phật
cũng nói không có sở đắc, sở chứng… Tóm lại, Phật chỉ cho chúng ta
thấy tất cả danh ngôn Phật lập ra đều là không có thật thể, chỉ là
giả danh, phải thấy hoàn toàn như thế mới là đúng trí tuệ Bát-nhã.
Nhiều khi chúng ta có cái bệnh là những danh từ thế gian thì cho
là giả,
nhưng danh từ Phật, Bồ-đề, Giác ngộ, Như Lai … thì cho là thật. Vì
thế
chúng ta phải thấy thấu đáo cả hai bên xuất thế gian và thế gian
có lập
ra cũng đều là giả danh.
ĐOẠN 32 : ỨNG HÓA PHI CHÂN
Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhân
dĩ mãn
vô lượng a-tăng-kỳ thế giới thất bảo, trì dụng bố thí; nhược hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát bồ-đề tâm giả, trì ư thử kinh,
nãi
chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì độc tụng, vị nhân diễn thuyết, kỳ phước
thắng bỉ. Vân hà vị nhân diễn thuyết? Bất thủ ư tướng, như như bất
động. Hà dĩ cố?
- Nhất thiết hữu vi pháp,
- Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
- Như lộ diệc như điện,
- Ưng tác như thị quán.
Phật thuyết thị kinh dĩ,
trưởng
lão Tu-bồ-đề cập chư Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
nhất
thiết thế gian thiên, nhân, a-tu-la văn Phật sở thuyết, giai đại
hoan hỷ,
tín thọ phụng hành.
DỊCH:
ỨNG HÓA KHÔNG PHẢI THẬT.
Này Tu-bồ-đề,
nếu có người
đem bảy báu bằng thế giới trải qua số kiếp vô lượng a-tăng-kỳ để
bố thí. Nếu có người thiện nam, người thiện nữ phát tâm bồ-đề
đem kinh này cho đến bốn câu kệ v.v… thọ trì, đọc tụng, vì người
diễn nói thì phước của người này còn hơn phước của người kia. Thế
nào là vì người diễn nói? Chẳng thủ nơi tướng, như như bất động.
Vì
cớ sao?
- Tất cả pháp hữu vi,
- Như mộng, huyễn, bọt,
bóng,
- Như sương cũng như điện,
- Nên khởi quán như thế.
Phật nói kinh
này rồi, trưởng lão
Tu-bồ-đề và chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả
thế
gian trời, người, a-tu-la nghe Phật nói đều rất vui mừng, tin thọ
và
vâng làm.
GIẢNG:
Trong đoạn trước, đức Phật bảo:
Giả sử có người đem của báu đầy cả số thế giới bằng số cát
sông Hằng ra bố thí, công đức không bằng người dùng trí biết tất
cả
các pháp là vô ngã và ứng dụng để tu hạnh nhẫn nhục. Ở đây đức
Phật lại bảo: Đem bảy báu đầy cả thế giới trải qua thời gian vô số
vô biên kiếp ra bố thí. Đoạn trước là đứng về mặt không gian mà
nói (thế giới nhiều bằng cát sông Hằng), còn đoạn này là đứng về
mặt
thời gian là vô lượng a-tăng-kỳ. A-tăng-kỳ là vô số, nghĩa là trải
qua thời gian vô lượng vô số, mà mỗi thời gian đều đem bảy báu đầy
cả thế giới ra bố thí. Lại một người khác, hoặc nam, hoặc nữ phát
tâm bồ-đề đem kinh này cho đến chỉ bốn câu kệ v.v… thọ trì, đọc
tụng vì người diễn nói thì phước của người này hơn phước của người
kia. Nghe như thế ai mà không thích. Nhưng tiếp theo đức Phật liền
đặt
câu hỏi: Thế nào là vì người diễn nói? Đoạn này nêu rõ ba trường
hợp:
Thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói, nhưng đức Phật chỉ hỏi
trường
hợp thứ ba thôi, tuy trường hợp thứ ba nhưng gồm cả hai trường hợp
trước rồi. Ngài dạy tiếp: Chẳng thủ nơi tướng, như như bất
động,
thì thọ trì cũng chẳng thủ nơi tướng, như như bất động, đọc
tụng
cũng chẳng thủ nơi tướng, như như bất động, vì người diễn nói cũng
chẳng thủ nơi tướng, như như bất động, đó là công đức hơn người
bố thí bảy báu trải qua số kiếp vô lượng vô biên. Như thế đâu phải
là đơn giản. Người nay cứ nghe nói thọ trì, đọc tụng bèn đem ra
đọc
mãi, cho đó là tôi thọ trì kinh Kim Cang rồi tính được một phẩm
hai phẩm…
(một phẩm là sáu mươi quyển), một đời tôi thọ trì được ba phẩm
kinh Kim Cang và cho đó là hay. Như thế người này đã căn cứ trên
chữ
nghĩa để thọ trì, lại thêm tính phẩm, tính số lượng nữa thì đối
với
tướng là thủ tướng. Hiểu như thế mới thấy rõ lời Phật dạy chớ
nhiều khi chúng ta bị lầm, chỉ nhớ mấy chữ thọ trì đọc tụng chớ
không nhớ phần sau, mà chủ yếu là phần sau. Chúng ta thấy Phật
thật
là khéo, nếu là chúng ta, đến khi hỏi, thế nào cũng hỏi luôn cho
đủ
ba phần, còn Phật chỉ hỏi có phần sau, chỉ hỏi thế nào là vì người
diễn nói và dạy rằng: "Chẳng thủ tướng, như như bất động"
và bỏ lửng phần thọ trì đọc tụng. Như thế để thấy rằng Ngài biết
đi đến chỗ "Chẳng thủ tướng, như như bất động" rất khó,
chúng sanh ít ai làm nổi. Nếu giải nghĩa trùm luôn e thấy khó
không ai
làm, nên Ngài chỉ nói vì người diễn nói là chẳng thủ tướng, như
như
bất động, mà không đề cập đến hai phần trên, nhưng văn thể là như
thế. Người không hiểu cho rằng thọ trì đọc tụng là thường, còn vì
người diễn nói mới là chẳng thủ tướng, như như bất động, thôi rán
thọ trì đọc tụng để được phước. Thế nên nhiều khi chúng ta học
kinh mà không nắm vững ý kinh, cứ chấp từng đoạn và lấy đó làm sở
đắc, đó là điều nguy hiểm. Hiểu như thế chúng ta mới hiểu rõ tại
sao đức Phật bảo công đức trì kinh Kim Cang là vô lượng vô biên,
hơn tất
cả công đức. Vì dùng trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả pháp tướng không
thật, do đó không chấp vào một tướng nào nên mới không thủ tướng.
Không chấp tướng mà hằng sống với tâm đưa tất cả chúng sanh vào vô
dư Niết-bàn, đó là như như bất động. Như thế chỗ như như bất động
là cái không sanh, không diệt. Chúng ta sống được với nó, vì người
diễn
nói, thử hỏi công đức không hơn công đức của người đem bảy báu đầy
khắp cả không gian hoặc là suốt cả thời gian mà bố thí sao? Của
báu
là cái hữu tướng, là vô thường, còn như như bất động là không có
tướng,
không vô thường nên không sanh diệt. Sống được với cái không sanh
diệt,
và đem cái không sanh diệt chỉ cho người nhận, thì phước đức không
lớn
là gì?
Đến đây đức Phật dạy thêm :
- Nhất thiết hữu vi pháp,
- Như mộng huyễn, bào ảnh,
- Như lộ diệc như điện,
- Ưng tác như thị quán.
Những gì có hình tướng, có
động
tác bị vô thường sanh diệt đều gọi là pháp hữu vi. Có nhiều người
nói: Ở chùa thờ tượng Phật, đánh chuông, đánh trống, đó là tướng
hữu
vi, chúng tôi không như vậy, chúng tôi chỉ thờ một tấm vải, hay
chúng
tôi chỉ thắp một cây hương trên bàn không, hay chúng tôi dùng tấm
vải
vẽ chữ Phật thôi, đó là vô vi. Tuy nhiên còn có cây hương, có tấm
vải,
có cái bàn cũng là hữu vi mất rồi. Thế mà người ta cứ lầm, không
hiểu
được ý nghĩa chính của đạo Phật. Hữu vi nghĩa là tất cả những gì
có tướng mạo, có tướng mạo đều bị vô thường, sanh diệt. Như tượng
Phật bằng gỗ, bằng xi măng có tướng mạo thì vô thường, tấm vải có
tướng mạo thì cũng vô thường, cây nhang có tướng mạo thì cũng vô
thường.
Cả đến những niệm tưởng cũng là tác động sanh diệt thì cũng là hữu
vi. Tất cả pháp hữu vi đều như giấc mộng, đều huyễn hóa, đều như
bong bóng khi hạt mưa rơi, đều như bóng của người, của cây, của
vật
không thật, cũng như sương mù, điện chớp, chúng ta phải khởi quán
như
thế mới không thủ tướng, mới như như bất động. Nếu thấy có cái
thật,
tức là thủ tướng mà thủ tướng thì tâm động. Tôi nói một ví dụ gần
nhất như chúng ta mặc chiếc áo thật sạch, bất thần có người tay
dính
đầy lọ chụp vào vai chúng ta thì thế nào? Mình động không? Vì mình
chấp
cái tướng sạch nên thấy chiếc áo dơ là nổi sân liền. Thế nên thủ
tướng
thì động, trái lại nếu không chấp tướng thì như như bất động, rõ
ràng như vậy, đó là tôi nói những việc hết sức nhỏ. Đến những việc
lớn hơn như thân mạng thì động liên miên… Giả sử có người nào nghe
nói ngày mai bị tử hình thì đêm nay người đó ngồi thiền yên lặng
được không? Quí vị tưởng tượng xem đêm đó ngồi thiền yên lặng hay
là trằn trọc suốt đêm hay khóc thôi là khóc? Như thế để thấy còn
chấp
tướng là không bao giờ an ổn được.
Đến đây tôi kể cho quí vị câu
chuyện như sau: Vua nước Kế Tân nghe lời sàm thần nói Tổ Sư Tử
truyền
bá tà pháp làm nhiễu loạn lòng dân. Vua tay cầm kiếm đi đến chỗ
Tổ,
hỏi: "Nghe nói Ngài thấy năm uẩn đều không phải chăng?" Tổ bảo:
"Phải". Vua nói: "Nếu thấy năm uẩn đều không, Ngài cho tôi
cái đầu được không?" Tổ bảo: "Năm uẩn đã không, sá gì cái
đầu". Vua liền chặt đầu Tổ.(1)
Qua câu chuyện này, vua Trần Thái
Tông có lời niêm:
- Tương đầu lâm bạch nhẫn
- Du như trảm xuân phong.
Dịch:
- Đem đầu kề gươm bén
- Dường như chém gió xuân.
Chúng ta thấy người xưa đạt
đạo đến như thế, đó là người tự tại khi sanh tử. Còn chúng ta vì
thấy tất cả đều thật nên nghe động đến tứ đại này thì tâm rối
loạn, không bao giờ an ổn được. Vì thế nếu không dùng trí hằng
quán,
hằng thấy như lời Phật dạy thì không thể nào không chấp tướng,
không
thể nào như như bất động được. Quí vị thấy Phật dạy có hệ thống
rõ ràng, muốn được như như thì trước phải đừng chấp tướng, còn
chấp
tướng thì đừng nói như như. Bài kệ trên dạy ta phải dùng trí hằng
thấy,
hằng quán tất cả pháp hữu vi, từ thân đến cảnh, những gì có hình
tướng,
có tác động, đều là vô thường sanh diệt nên như huyễn, như hoá,
như
bào, như ảnh…
Phật nói kinh này rồi trưởng lão
Tu-bồ-đề và các Tỳ-kheo v.v… đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành. Vậy
quí vị có hoan hỷ, tín thọ phụng hành không? Hoan hỷ thì có thể
có,
còn tín thọ phụng hành thì xem ra có vẻ khó phải không?
Tôi tóm tắt lại xem bộ kinh Kim
Cang dạy chúng ta những gì? Toàn bộ kinh Kim Cang chia làm ba mươi
hai phần,
trong ba mươi hai phần này, chủ yếu có hai điểm chánh, điểm thứ
nhất
là ngài Tu-bồ-đề hỏi làm sao hàng phục tâm, điểm thứ hai là hỏi
làm
sao an trụ tâm. Khi ngài Tu-bồ-đề hỏi hàng phục tâm, an trụ tâm là
hỏi
cho ai? Cho người cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có
người
thiện nam, thiện nữ phát tâm tu hành, cầu giác ngộ làm sao hàng
phục
tâm, làm sao an trụ tâm? Hàng phục tâm, an trụ tâm là hai điểm chủ
yếu
của bộ kinh. Đức Phật dạy như thế nào? Lý đáng thì câu hỏi đầu là
an trụ tâm, câu hỏi kế là hàng phục tâm, nhưng khi trả lời, Phật
dạy
hàng phục tâm trước rồi an trụ tâm sau. Đức Phật dạy: Muốn hàng
phục
tâm thì phải phát tâm độ tất cả chúng sanh, thai sanh, thấp sanh
v.v…
vào Vô dư y Niết-bàn mà không có chúng sanh được diệt độ. Nói tóm
lại
muốn hàng phục được tâm thì phải độ tất cả những niệm tưởng về
có sắc, niệm tưởng về không sắc, về có tưởng, về không tưởng v.v…
vào chỗ vô sanh, đưa chúng vào chỗ vô sanh không còn tăm dạng.
Muốn an
trụ tâm phải làm sao? Đức Phật dạy: Muốn tâm an trụ thì đối với
sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là đối với sáu trần Bồ-tát bố
thí không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị,
xúc,
pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, tức là không để
cho tâm
kẹt vào sáu trần. Tâm không dính với sáu trần thì đó là trụ tâm.
Như
thế sáu trần là cái cớ để tâm mình động, nghĩa là mắt thấy sắc,
tâm chạy theo sắc, là tâm động. Trái lại mắt thấy sắc mà tâm không
chạy theo sắc, là tâm trụ, tai nghe tiếng mà tâm không chạy theo
tiếng,
là tâm trụ, trụ mà không trụ, trụ chỗ không trụ. Còn thấy sắc mà
chạy
theo sắc là không phải trụ, trụ nơi sắc tức là kẹt nơi sắc thì tâm
mình động chớ không phải trụ, không trụ nơi sắc thì tâm mới thật
an
trụ.
Như thế muốn trụ tâm, thì đừng
dính với sáu trần, muốn hàng phục tâm thì buông xả mọi vọng tưởng.
Vọng tưởng hết, đó là hàng phục được tâm, không theo sáu trần, đó
là an trụ tâm. Tuy nói hai mà dường như không phải hai, vì an trụ
tức
là hàng phục, hàng phục tức là an trụ, nhưng tại sao lại nói thành
hai?
Hàng phục với an trụ, quí vị thấy cái nào sâu hơn? Nếu chữ hàng
phục
có công năng là phải dùng sức để đàn áp thì chữ trụ là chỉ buông
xả
rồi thôi. Thế nên hàng phục là giai đoạn đầu, giai đoạn sơ cơ, khi
tâm
còn chạy theo cảnh, theo người tức là theo sáu trần một cách mạnh
mẽ.
Nếu mình không có phương tiện, không khéo dùng sức mạnh để trị nó
thì dừng không được. Vì thế mỗi một niệm tưởng nào dấy lên thì
trong giai đoạn đầu mình phải nhìn, phải phá nó bằng mọi phương
tiện,
hoặc biết nó là vọng rầy la nó, hoặc thấy nó giả dối buông bỏ nó,
đó gọi là hàng phục. Vì lúc đó tâm còn hung hăng, cho nên phải tận
dụng
khả năng đập đánh nó, nó mới dừng. Còn nói đến an trụ là đối với
sáu trần không dính mắc, thấy sắc mà không theo sắc, đó là lúc tâm
hơi
thuần rồi, nghe tiếng mà không theo tiếng, đó là thuần rồi. Thế
nên
giai đoạn an trụ là giai đoạn thứ hai khi nó thuần thục. Vì thế
Phật
trả lời từ hàng phục đến an trụ, vì giai đoạn hàng phục là giai
đoạn
dụng công nhiều, còn giai đoạn an trụ là thấy nghe đều buông nên
nhẹ
nhàng hơn. Tỉ dụ như chúng ta vừa thấy cảnh, tâm liền duyên theo
cảnh
tức thì mình phải nói đây là vọng, là giả dối, theo cái vọng này
là
sai, dụng công la rầy, quở phạt nó, đó là hàng phục, còn an trụ
thì chỉ
là buông xả. Thế là hai giai đoạn khác nhau rõ ràng, từ hàng phục
chúng
ta đi đến chỗ an trụ, một bên dụng công mạnh, một bên dụng công
nhẹ,
nhẹ là vì nó hơi thuần rồi. Cả hai phần này đều nhắm vào nội tâm.
Tuy nhiên nếu chỉ có hai phần
trên thì quyển kinh Kim Cang chưa ứng dụng được, cần phải có phần
thứ
ba, tức là phải dùng trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả pháp là tướng
duyên
hợp không có tự tánh, chỉ có giả danh. Bởi chỉ có giả danh nên
không
một pháp nào thật, do đó không chấp vào pháp và không chấp pháp
thì mới
có thể hàng phục, an trụ được tâm. Thế nên điều thứ ba là phải
dùng trí tuệ thấy tất cả pháp không thật, chỉ có giả danh. Thế
giới
không phải thế giới, ấy gọi là thế giới, chúng sanh không phải
chúng
sanh, ấy gọi là chúng sanh… Phật lặp đi lặp lại ý nghĩa đó để
chúng
ta hằng dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu tất cả pháp là hư giả, rồi
sau đó mới hàng phục được tâm, mới an trụ được tâm. Như thế phần
thứ ba dường như là sau mà lại ở trước. Bài kệ cuối cùng đức Phật
dạy:
- Nhất thiết hữu vi pháp
- Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
- Như lộ diệc như điện,
- Ưng tác như thị quán.
Phật bảo phải thấy, phải khởi
quán như vậy thì mới hàng phục, mới an trụ được tâm, còn nếu không
thấy như thế thì không thể nào làm được hai việc trên. Vì vậy phần
này ở sau mà thành ra trước, bởi vì đức Phật phải trả lời hai câu
hỏi
của ngài Tu-bồ-đề trước, rồi Ngài mới chỉ cách tu dùng lối quán
chiếu
để việc hàng phục được dễ, việc an trụ thực hiện được. Nếu thiếu
phần quán chiếu không thể nào hàng phục tâm và cũng không thể nào
an trụ
tâm. Vì thế học Bát-nhã chúng ta phải dùng trí tuệ quán chiếu các
pháp
do duyên hợp, không có thật thể, chỉ có giả danh. Đó là triết lý
"Tánh không duy danh", thể tánh các pháp là không thật, chỉ có giả
danh, vì giả danh nên nó không phải thật có, cũng không phải thật
không;
không kẹt hai bên, đó là tinh thần trung đạo của đạo Phật. Trái
lại
nếu kẹt một bên nào hoặc có, hoặc không đều là chưa giải thoát.
Như
vậy Kim Cang là trung đạo, chớ không phải chấp không. Hiểu lý Kim
Cang
là hiểu lý trung đạo, không kẹt vào có và không. Thế nên đúng ra
chúng
ta tu thì trước phải dùng trí tuệ thấy các pháp tự tánh là không,
duyên hợp giả có, kế đó mới hàng phục tâm rồi sau mới an trụ tâm.
Thứ tự là như thế, nếu chúng ta không ứng dụng thì không thế nào
có
kết quả. Nhiều khi học một bộ kinh rồi muốn ứng dụng tu, ta không
biết
ứng dụng thế nào, không biết chỗ nào là then chốt của sự tu hành.
Nay
chúng ta phải thấy rõ đầu tiên là ta dùng bốn câu kệ cuối: Quán
tất
cả pháp hữu vi như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, như điện, hằng
quán
như thế là chúng ta đã có trí tuệ Bát-nhã rồi mới không chấp
tướng.
Không chấp tướng rồi mới hàng phục tâm, hàng phục tâm rồi mới an
trụ
tâm, như thế mới như như bất động và như như bất động là thọ trì
kinh Kim Cang, là đọc tụng kinh Kim Cang, là diễn nói kinh Kim
Cang. Được
như vậy thì phước đức như thế nào? Ở đây tôi nói phước đức sau
cùng
phải không?
Tôi nhắc lại đứng về không
gian, người đem của báu bằng tam thiên đại thiên thế giới bố thí
cũng
không bằng trì bốn câu kinh Kim Cang. Đứng về thời gian, dù đem
của báu
bằng quả địa cầu bố thí trong muôn ngàn kiếp cũng không bằng trì
bốn
câu kinh Kim Cang. Ngay nơi thân mạng, giả sử buổi sáng đem số
thân bằng
số cát sông Hằng, buổi trưa đem số thân bằng số cát sông Hằng,
buổi
chiều đem số thân bằng số cát sông Hằng bố thí cũng không bằng trì
bốn
câu kinh Kim Cang. Nói tóm lại là bố thí nội tài, ngoại tài, dù
bao nhiêu
đi nữa cũng không bằng ứng dụng trì kinh Kim Cang. Như thế là đức
Phật
so sánh tất cả pháp hữu vi không bì được với pháp vô vi bất sanh
bất
diệt. Không thủ tướng như như bất động, đó là vô vi, còn chấp
tướng
là hữu vi. Do đó, quí vị thấy từ giai đoạn thứ nhất là hàng phục
tâm đến giai đoạn thứ hai là an trụ tâm, giai đoạn thứ ba là quán
các
pháp huyễn hóa, giai đoạn thứ tư là so sánh công đức trì kinh. Giờ
đây
chúng ta đổi lại, đầu tiên là phải quán tất cả pháp hữu vi là hư
giả
huyễn hóa, kế đến mới hàng phục tâm, kế là an trụ tâm và sau hết
mới
nói đến công đức vô lượng vô biên, sánh với tất cả công đức hữu
vi không công đức nào bì kịp. Đó là trọn vẹn tinh thần quyển kinh
Kim
Cang. Bốn điều này nếu quí vị nhớ ứng dụng tu được mới biết khả
năng, diệu dụng, kết quả sau khi mình tu như thế nào.
Tóm lại người ứng dụng thọ trì
bốn câu kinh Kim Cang là chẳng chấp tướng, như như bất động, hay
vì người
diễn nói cũng đều là chẳng chấp tướng, như như bất động. Đó là chỗ
then chốt. Như như bất động là gì? Tức là Như Lai. Thế nên nói chư
pháp như nghĩa hay Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở
khứ.
Như như bất động nên mới không từ đâu đến và không đi đâu, chư
pháp
như nghĩa, đó là như. Quí vị thấy có hệ thống rõ ràng, chúng ta tu
bắt
đầu từ quán chiếu các tướng duyên hợp hư huyễn chỉ có giả danh rồi
dần dần hàng phục tâm, rồi an trụ được tâm, kết quả là Như Lai,
không
còn nghi ngờ gì cả. Như Lai tức là Phật. Bao nhiêu đó đủ tu thành
Phật
chớ không còn gì khác, thỉ chung rõ ràng như vậy. Nếu hiểu như thế
thì
việc ứng dụng tu có đầu đuôi, gốc ngọn; nếu biết ứng dụng để tu
thì đó là xứng đáng học kinh Kim Cang, tu theo kinh Kim Cang và
gọi là thọ
trì đọc tụng kinh Kim Cang, chớ đừng có nhớ bốn câu kệ rồi nói bốn
câu kệ dễ thuộc quá. Đi đâu cũng lẩm nhẩm nhất thiết hữu vi
pháp,
như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị
quán
và nói tôi trì kinh Kim Cang, hoặc đi đâu cũng đọc nhược dĩ sắc
kiến
ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như
Lai,
hoặc đọc câu phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến
chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai, rồi nói đó là tôi trì
kinh
Kim Cang. Nếu cứ đọc như thế mãi, đó là động chớ chưa phải
"Như", mà động thì chưa phải là chỗ "Như như bất động"
như Phật nói ở đây. Đã thế còn tính phẩm nữa thì là thủ tướng, mà
thủ tướng cũng không phải như như. Như vậy quí vị đã hiểu rõ trì
kinh Kim Cang là như thế nào rồi phải không?
(1) Tổ Sư Tử là vị Tổ thứ 24
ở Ấn Độ.
-HẾT-
-ooOoo-