Vài Lời Trần Thuyết Của Linh
Sơn Phật Học Nghiên Cứu Hội
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Phật
giáo là một nền triết học huyền diệu cao siêu, muốn thâm nhập được, phải dày
công nghiên cứu.
Phật
pháp có đủ phương tiện thích ứng, chuyển mê khai ngộ, muốn thoát khổ được, phải
chí thành thực hành.
Gia chí
dĩ, đạo Phật danh gọi là một đạo đại hùng, đại lực, đại từ bi, tất nhiên có bản
nguyện chơn truyền, chứ không huyễn hoặc viễn vong; một nền giáo dục đức trí
gồm cả pháp thế gian và xuất thế gian, khế hiệp các căn cơ, không mê tín mà
chánh tín, không yểm thế mà cứu thế, không mơ hồ mà thực dụng, phù hạp với khoa
học thực nghiệm và lợi ích cho xã hội thực tế.
Hiện
nay, khắp năm châu thế giới đều xúc tiến công cuộc nghiên cứu Phật giáo hầu đem
tinh hoa thuần túy của Phật giáo bổ khuyết cho nền khoa học văn minh.
Các bậc triết nhân thông kim bác cổ, đều ca tụng giáo pháp Từ Bi của Phật là
một chơn lý tuyệt đối. Ðức Từ của Phật năng làm tất cả chúng sanh được vui, đức
Bi của Phật năng làm tất cả chúng sanh khỏi khổ.
Lòng Từ
Bi của Phật muốn cho pháp Phật hiển minh phổ biến bình đẳng ví như đám mưa, mưa
xuống thì các loài dù lớn dù nhỏ thảy đều gội nhuần giọt nước trong trẻo mát
mẻ. Phật giáo bác hẳn những thuyết độc tài chuyên chế, cũng không nhìn nhận các
sự nghe nhảm tin càn.
Có câu
: "Tàng văn tu tư, nhập Tam ma địa". Ðại ý dạy rằng tu hành
trước phải biết nghe cho tinh thông, do chỗ nghe đó mà suy nghĩ thật kỹ càng,
phân biệt chơn vọng, hiểu thông giáo lý, rồi nhất tâm tu hành sáng suốt, mới
vào được cảnh trí chánh định.
Nếu mỗi
người đều hiểu thấu đáo và hành triệt để Phật đạo tức là tinh thần từ bi vô
thượng được cụ thể hóa thật sự, thì ở trần gian không còn phân biệt nhân ngã,
diệt vọng các thành kiến cống cao kiêu mạng, bạo ngược hung tàn, xảo huyệt gian
phi, thù hằn ganh tỵ, ích kỷ mưu hại lẫn nhau; trái lại, ai ai cũng biết xả ác
thủ thiện, đoạn trừ tam độc tham sân si, biết sống hòa thuận và quý trọng nhau,
ái nhân như ái kỷ, tương thân tương trợ, bấy giờ thảm họa chiến tranh chắc phải
dứt tuyệt, ánh sáng hòa bình chiếu diệu khắp vũ trụ sơn hà, thiên hạ được no cơm
ấm áo, lạc nghiệp an cư, đó là chơn hạnh phúc mà người đời hằng mong ước!
Vậy
chúng ta phải cần nghiên cứu và thực hành đạo Phật.
Về phần
nghiên cứu, có sẵn tam thừa giáo lý, mười hai bộ chân kinh bí điển, tùy trí huệ
mà tham học.
Về phần
thực hành, hoàn bị cả tám vạn tư diệu pháp, bao hàm các giáo Ðốn Tiệm Mật
Quyền, Tạng Thông Biệt Viên tùy căn tánh mà lãnh thọ.
Nếu có
nghiên cứu mà không thực hành thì đạo hạnh khó nên.
Nếu
thực hành mà thiếu nghiên cứu, sợ vướng phải tà mị dị đoan.
Ðối với
người tu Phật, nghiên cứu và thực hành là hai bổn phận nên liên quan mật thiết.
Bổn hội - một đoàn thể tu Phật có đủ hai giới xuất gia và tại gia - vừa hòa
hiệp nhau để hành đạo, vừa chuyên cần tham khảo Phật giáo, và các triết học
Ðông Tây có bản chất khuyên người lánh dữ làm lành, đồng thời xây dựng xã hội
chơn thiện.
Bổn hội
sáng lập từ năm 1929, với danh hiệu: "NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
HỘI", nhờ ân đức cao cả của nhiều bậc Sa môn hoàn toàn hy sinh vì đạo như:
Ðại đức Như Trí, Ðại đức Trí Thiền, Ðại đức Từ Phong, Ðại đức Huệ Quang, Ðại
đức Chánh Quả, Ðại đức Thiện Du, Ðại đức Bích Liên, Ðại đức Liên Tôn v.v...
Trong
phái tại gia, nhờ có các vị đạo tâm Cư sĩ hết lòng hộ trì Tam Bảo như: Cụ Trần
nguyên Chấn, các Ông Nguyễn văn Cần, Huỳnh văn Quyền, Trần văn Khuê, Phạm ngọc
Vinh, Nguyễn văn Nhơn, Lê văn Phổ và Bà Lê thị Ngỡi v.v...
Trải
qua một thời kỳ từ năm 1932 đến 1944, Bổn hội có xuất bản bán nguyệt san "Từ
Bi Âm" và nhiều kinh sách nhằm mục đích trùng hưng Phật pháp, khua
chuông Bát Nhã, cảnh tỉnh nhân tâm, thuyết minh chánh lý, tịch trừ tà giáo, ứng
dụng tánh thể lục hòa, biểu dương tinh thần bạt khổ dữ lạc, đã gây nên một
thành tích tỏ rạng phong quang mà các phái chơn Phật tử đều hiểu rõ và công
nhận.
Ðặc
biệt nhất là Bổn hội có thành lập Pháp bảo phường tức thị một thư viện Phật
giáo, huy hoàng tích trử Ðại Tạng và Tục Tạng bằng Hán văn, đầy đủ tài liệu về
Kinh, Luật, Luận, thiết dụng trong việc nghiên cứu.
Ðành
rằng có bằng cớ hiển nhiên chứng tỏ Bổn hội đã đem toàn lực phục vụ Như Lai
pháp bảo, nhưng vầng trăng còn phải khi tròn khi khuyết, huống chi nhân sự
tránh sao khỏi lúc bổng lúc trầm...
Khởi
đầu từ năm 1945, trong số hội viên, các ngài Trưởng lão đạo cao đức cả thì lần
lượt vãng sanh, nhiều vị tu sĩ nhiệt tâm với đạo thì già nua bịnh hoạn; lại gặp
thời biến cố, nhân dân loạn lạc, thành thử Bổn hội tự đình chỉ tất cả công
việc, hầu như giải tán. Âu cũng là lẽ thạnh suy thường tình ở thế gian.
Ðại
phàm, Phật sự không phải là việc cá nhân mà là bổn phận chung của giới Phật tử.
Một hội Phật giáo tức là một đoàn thể học và hành Phật pháp, chớ không riêng
quyền độc đoán của ai được, cho nên hội Phật giáo có tính cách lưu truyền từ
đời này sang đời nọ, đời nào cũng biết cung cúc tận tụy, đề cao tôn chỉ đã nêu
rõ, thì việc làm thường xuyên hợp lý, trưởng dưởng âm chất.
Chiếu
theo luật thiên nhiên tiến hóa: "Ðời hiện tại thừa kế của thời quá khứ,
phải đào luyện cho thế hệ vị lai".
Người
tu Phật, suốt đời, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều giữ tròn quan niệm xây
dựng đạo đức, hoặc nhiều hoặc ít, ở ngày nay cũng như ở ngày mai.
Ðứng
trước một cơ quan đạo đức từng có công trình vĩ đại về phương diện hoằng pháp
lợi sanh như HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC ngộ phải tình trạng khiếm khuyết,
bên trong thì cô thế, bên ngoài thì kẻ ngoại cuộc thừa cơ hội dèm pha, toàn thể
hội viên thường trực không lẽ thờ ơ lãnh đạm mãi mà nhận thấy có nhiệm vụ nâng
đỡ.
Ở đời
ai có kinh nghiệm cũng thừa hiểu: việc làm dù thanh bạch cách nào cũng khó
tránh đuợc một phần dư luận đàm tiếu.
Thiết
tưởng, trên đường đạo đức chơn chánh, người có chí nguyện kiến công lập nghiệp,
khỏi phải phiền lòng vì đó mà thối chuyển.
Vả
chăng, đã mang danh Phật tử, dĩ nhiên hoàn toàn thâm tín ở chơn lý Nhơn quả.
Theo Khế kinh có dạy: chũng qua đắc qua, chũng đậu đắc đậu; làm lành gặp lành,
làm dữ gặp dữ, lành dữ đều báo ứng như bóng với hình, hình ngay bóng thẳng,
hình nghiêng bóng ngã, ba đời nhân quả tuần hoàn không một mảy sai lạc. Biết
gieo giống ngọt thì hưởng trái ngọt, gieo giống chua thì lãnh trái chua; ai
gieo giống nào thì gặt giống nấy. Nhất thiết duy tâm tạo...
Vì cớ
ấy, vào năm 1955, nhờ hồng đức quang minh của ngài Hòa thượng Thích Liểu Thoàn
là một bậc Tỳ kheo trì trai tịnh hạnh, giới thể trang nghiêm, chẳng quản công
lao khó nhọc, đứng làm Chứng minh Ðạo sư đỡ đầu cho Hội, lại nhờ sáng kiến của
cụ Trần Nguyên Chấn cư sĩ, là người có công hạnh giữ gìn châu toàn ngôi Pháp
bảo của Hội trong vòng ba mươi năm nay, cảm thấy tuổi già sức yếu, không đủ sức
khỏe để đảm đương việc Hội ủy nhiệm, chúng tôi kiểm điểm tổ chức lại và hợp
pháp hóa Hội, lấy danh hiệu là "LINH SƠN PHẬT HỌC NGHIÊN CỨU HỘI" (Nghị
định Chánh phủ chuẩn y ngày 30-11-1955) cho được thích nghi với thể lệ hiện
hửu.
Noi
gương các bậc tiền bối và thể theo tôn chỉ đã vạch sẵn, chúng tôi gồm có thất
chúng Phật tử, cùng nhau đoàn kết, không phân biệt giáo phái bỉ thử, hoặc giai
cấp giàu nghèo, chẳng những hòa đồng chí hướng, tinh tấn tu thân để lợi ích cho
phần tiêu cực, lại xin tái lập "Phật học Tùng thư" để tiếp tục ấn
hành kinh sách giúp ích cho giới tu hành nghiên cứu, hầu khỏi phụ đại nguyện
xuất thế độ sanh của Ðức Bổn Sư và công phu tích cực hoằng pháp của liệt Tổ.
Vẫn
biết chúng tôi là phàm phu tục tử, đức bạc tài sơ, phước mỏng nghiệp dày,
chướng nhiều huệ ít, tuy nhiên với tấm lòng vị tha, phụng sự chánh pháp tùy khả
năng, cố gắng tiến hành Phật sự, được bao nhiêu mừng bấy nhiêu, gọi là đóng góp
một phần nhỏ nhen vào công nghiệp vun bồi nền đạo đức, lợi lạc cho xã hội quần
sanh.
Ngưỡng vọng Phật Tổ tác đại chứng minh!
Việc
làm lớn lao mà sức người hửu hạn, chúng tôi tự xét lấy mình khuyết điểm đủ
điều, nếu không nhờ: "đức chúng như hải" của chư tôn Phật tử thì hiệu
quả chắc khó thành tựu mỹ mãn.
Bởi
nên, luôn luôn chúng tôi nhứt tâm cung khiêm tiếp đón những điều chỉ giáo cần
ích và thành kỉnh ghi tạc ân đức của các bậc thiện trí thức đã từng trong thời
dĩ vãng giúp đở, cũng như đương kim hộ trợ.
Trân
trọng thỉnh cầu thập phương chư sơn Thiền đức và hải nội thiện nam tín nữ giàu
lòng từ mẫn, giai đại hoan hỷ chiếu cố, hoặc trực giao hoặc gián tiếp, giúp
chúng tôi có đủ năng lực dõng mãnh làm tròn nhiệm vụ. Mong thay!
Xin
thành tâm cầu nguyện:
Nhất thiết chúng sanh.
Ðồng nghe Phật dạy.
Ðồng tỏ Phật kinh.
Ðồng ngộ Phật tâm.
Ðồng thành Phật đạo.
Nam Mô
Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Saigon, ngày 2 tháng 6 năm 1957.
TM.
LINH SƠN PHẬT HỌC NGHIÊN CỨU HỘI
Hội
Trưởng.
TỪ
QUANG.
BÁT NHÃ
BA LA MẬT ÐA TÂM KINH
Ðường
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.
Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã
Ba la Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lỵ tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc
tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệt phục như thị.
Xá Lỵ tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất
diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ
tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp,
vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí
vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba La Mật
Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo
mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba La Mật Đa cố, đắc
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị
đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ,
chơn thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú
viết:
"Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết
đế, bồ đề tát bà ha".
Việt Nam
Pháp sư Liên Tôn diễn nghĩa.
Ðức
Quán Tự Tại Bồ Tát, trong lúc ngài lực hành trí huệ sâu thẩm đạt đến cảnh giới
bờ bên kia, thì ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách sanh tử.
Nầy Xá Lỵ tử! Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc; sắc ấy tức là
không, không ấy tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, lại cũng như vậy.
Nầy Xá Lỵ tử! Thiệt tướng chơn không của các pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng
dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Vậy nên trong chơn không không có sắc;
không có thọ, tưởng, hành, thức; không có sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp;
không có giới hạn con mắt, cho đến không có giới hạn ý thức; không có vô minh,
cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không
khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế; không trí, cũng không đặng.
Vì cớ không
có chi đặng, nên bực Bồ đề tát đỏa nương theo Bát nhã Ba La Mật Đa ấy, tâm
không có chi ngăn ngại, do cớ không ngăn ngại, nên không có chi sợ hãi, xa lìa
tất cả mộng tưởng điên đảo, rốt ráo đặng tánh viên tịch.
Các đức
Phật trong ba đời, cũng nương theo Bát nhã Ba La Mật Đa ấy, đặng quả vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Vậy
biết Bát nhã Ba La Mật Đa là chú đại thần, chú đại minh, chú vô thượng, chú vô
đẳng đẳng, trừ được các thứ khổ, chơn thật chẳng phải dối.
Bởi nên
nói chú Bát nhã Ba La Mật Đa, thì liền thuyết ra chú rằng:
"Yết
đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha".
I.- CHÚ
GIẢI ÐỀ KINH
Nguyên
trong thời thứ tư, Phật thuyết đại bộ Bát nhã có hai mươi vạn bài tụng, lập
thành sáu trăm quyển, mà Tâm kinh này chính là Phật vì ông Xá lỵ Phất, mở hỏi
chỗ tu chứng của đức Quán Tự Tại Bồ Tát mà nói.
Kinh
này do bản chữ Phạn dịch ra Hán văn, trước sau cộng có năm nhà:
1. Bản
của ngài Cưu Ma La Thập ở đời Dao Tần dịch, hiệu là Ma ha Bát nhã Ba La Mật Ðại
Minh kinh;
2. Bản
của ngài Huyền Trang ở đời Ðường dịch, hiệu là Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh;
3. Bản
của ngài Bát nhã Ly Ngôn dịch, tên kinh cũng giống như của ngài Huyền Trang;
4. Bản
của ngài Pháp Nguyệt ở đời Ðường dịch, hiệu là Phổ Biến Trí Tạng Bát nhã Ba La
Mật Ða kinh;
5. Bản
của ngài Thi Hộ ở đời Tống dịch, hiệu là Phật thuyết Thánh mẫu Bát nhã Ba La
Mật Đa Tâm kinh.
Nay
diễn nghĩa kinh này y theo bản Hán dịch của ngài Huyền Trang, là có hai ý: một
là trong lúc ngài sang qua Tây Trúc cầu kinh, đi dọc đường gặp nhiều sự hiểm
trở, nhờ trì tụng kinh này, đi đến nơi được; hai là truyền bá trì tụng trong
thế gian xưa nay, phần nhiều đều y theo bản kinh này cả.
Kinh
này chỉ lấy pháp làm danh, chứ không kiêm có dụ như các kinh khác.
Nay
tuân theo ngài Thiên Thai, lập ra năm trùng huyền nghĩa mà giải thích đề kinh
như sau đây:
- Giải
thích danh hiệu của kinh;
- Biện
rõ thiệt thể của kinh;
- Xuyên
minh tông thú của kinh;
- Bàn
luận lực dụng của kinh;
- Phân
biệt giáo tướng của kinh.
A.-
GIẢI THÍCH DANH HIỆU CỦA KINH
Bát nhã
là tiếng Phạn, Tàu dịch là trí huệ - nhưng thiệt ra, chữ trí huệ không hàm hết
nghĩa lý sâu mầu của chữ Bát nhã, cho nên chư Tổ để y nguyên văn tiếng Phạn mà
không dịch ra.
Bát nhã
có ba nghĩa dưới đây:
1.-
Thiệt tướng Bát nhã:
Nghĩa
là nói không có tướng sanh tử, tướng Niết bàn và hết thảy các tướng sự vật, cho
đến không tướng này cũng không có nữa. Vậy gọi là Thiệt tướng Bát nhã.
2.-
Quán chiếu Bát nhã:
Nghĩa
là nói lấy tâm trí huệ soi rõ lý thiệt tướng, do đó trong trí tỏ sáng, ngoài lý
rõ ràng, rồi phá đặng màn mê hoặc mà hiển phát đặng lòng mầu của ba đức. Vậy
nên gọi là Quán chiếu Bát nhã.
3.- Văn
tự Bát nhã:
Cũng
gọi là phương tiện Bát nhã, nghĩa là nói lý vẫn vô hình tuyệt đường ngôn luận,
không thể nói được, nên phải y nơi văn tự mới rõ đặng nghĩa, rồi do rõ nghĩa
mới rõ đặng lý, lần lần thâm nhập đến cảnh giới vi diệu thì tánh văn tự vẫn
rỗng trống như hư không, chẳng có chi làm chỗ sở y nữa, tức là thiệt tướng.
Cũng ví như khi được cá và thỏ rồi thì nôm và bẩy đều quăng ném hết.
Vì
những người sơ học, nếu không do đường phương tiện thì khó vào đặng cửa diệu
nghĩa, cho nên nghĩa của văn tự là cảnh phương tiện; còn chỗ giải rõ nghĩa của
mình là trí phương tiện, nếu bỏ nó ra thì không thế gì rõ đặng thiệt tướng. Vậy
nên gọi là Văn tự Bát nhã và cũng gọi là phương tiện Bát nhã.
Nguyên
phương tiện bát nhã với quán chiếu bát nhã cũng khác mà cũng đồng, vì phương
tiện thì y nơi văn nghĩa mà rõ; đó là trí phân biệt chia rành sự cảnh, tức là
quyền trí. Còn quán chiếu thì y nơi thiệt tướng mà quán; đó là trí không phân
biệt, chiếu thẳng lý cảnh, tức là thiệt trí. Cho nên nói cũng khác. Nhưng quyền
trí tuy đối sự mà ngoài thiệt không có quyền. Còn thiệt trí tuy chiếu lý mà
ngoài quyền không có thiệt, tức thiệt tức quyền vốn không hai thể. Cho nên gọi
cũng đồng. Như trong kinh nói rằng chiếu kiến, tức là quán chiếu, nói rằng ngũ
uẩn giai không và nói rằng chư pháp không tướng, tức là thiệt tướng, còn nói
rằng độ nhất thiết khổ ách tức là phương tiện.
Huống
chi thiệt tướng tức là đức pháp thân. Quán chiếu tức là đức bát nhã, văn tự
phương tiện tức là đức giải thoát. Ba với một, vốn không phải là hai, thiệt ra
tâm của chúng ta sẵn đủ tất cả.
Ba la
mật đa là tiếng Phạn, Tàu dịch là bỉ ngạn đáo, nghĩa là đến bờ bên kia.
Theo
tiếng phương ngôn của xứ Thiên trúc thời xưa, hễ làm việc gì mà đặng kết quả mỹ
mãn, thì nói rằng đến bờ bên kia; cũng như tục ngữ nước ta lâu nay mỗi khi làm
việc gì chắc đặng, thì thường nói rằng làm cho tới bờ tới bến.
Vì thế,
trong thời kỳ Phật thuyết pháp, lấy tiếng phương ngôn đó thí dụ với cảnh giới
cứu cánh vậy.
Tại sao
gọi rằng bờ bên kia? Bởi chúng sanh ở trong cảnh sanh tử, ví dụ là bờ bên này;
còn chư Phật trụ vào cảnh Niết bàn, ví dụ là bờ bên kia. Cho nên chúng sanh,
nếu muốn giải thoát thì phải dùng trí huệ làm thuyền đặng qua khỏi dòng sông
phiền não đi đến bờ Niết bàn bên kia.
Như
trong kinh nói: Hành thâm Bát nhã Ba La Mật Ða thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, thì ngũ uẩn là sanh tử, chiếu kiến là thuyền, giai không là đến bờ bên
kia. Ðó là nói thắng lực tu hành đã sâu, công năng quán chiếu đã thấu, tức là
vào đặng cửa Ba la mật mà chứng lý chơn không.
Thế nên
do chúng sanh chẳng chứng đặng lý chơn không, là bởi sanh tử làm hại. Nếu trong
khi trí huệ đã hiễn phát, rõ hết các pháp đều không, cho đến không kia cũng
không luôn, tuyệt nhiên chẳng vướng vào đâu, thì khó gì sanh tử bờ bên này mà
chẳng lìa, và Niết bàn bờ bên kia mà chẳng đến được.
Nhưng
phải hiểu chổ cứu cánh của bờ bên kia không phải là dễ đến. Chẳng nói chi những
hạng phàm phu thiểu trí, mãn lo tạo nghiệp hữu lậu thì không ra khỏi tam giới
đã đành; đến như trí huệ của hàng nhị thừa, tuy kêu là vô lậu, mà chỉ đứng về
mặt thiên không, thì mới ly khỏi sanh tử phân đoạn, chớ chưa ly khỏi sanh tử
biến dịch, thì cũng chưa phải là huệ cứu cánh đến được bờ bên kia.
Thật ra
rõ cho thấu lý chơn không và pháp không, dứt cho hết hoặc phiền não chướng và
sở tri chướng, ly khỏi khổ phân đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử, chứng được
vui pháp thân đức và giải thoát đức, rồi an trụ vào trong cảnh giới vô trụ Niết
bàn của diệu giác, thì mới được gọi là huệ cứu cánh đáo bỉ ngạn vậy.
Kinh
này gọi là Tâm kinh, ví dụ như tâm thống lãnh các cơ quan tinh yếu, làm chủ cả
tứ chi ngũ tạng trong toàn thân người, thì cũng như kinh này, lời văn vắn tắt
chỉ có 260 chữ mà gồm hết chỗ lý thú thâm diệu trong hai mươi vạn bài tụng của
đại bộ Bát Nhã.
Tâm đại
khái có ba thứ khác nhau:
- Nhục
đoàn tâm.
- Duyên
lự tâm.
- Chơn
như tâm.
1.-
Nhục đoàn tâm: tức là trái tim ở trong ngũ tạng người, nó chỉ phó
thác theo tâm duyên lự và tâm chơn như mà thôi.
2.-
Duyên lự tâm: là tâm hiện tiền của chúng ta hay chuyền níu theo
hoàn cảnh lục trần mà suy nghĩ phân biệt. Tâm ấy trong một niệm, nó chuyền níu
suy nghĩ đủ cả chín cõi, như là:
a. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo mười điều ác thượng phẩm, tức là tâm địa ngục.
b. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo mưới điều ác trung phẩm, tức là tâm ngạ quỷ.
c. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo mười điều ác hạ phẩm, tức là tâm súc sanh.
d. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo mười điều thiện hạ phẩm, tức là tâm A tu la.
e. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo mười điều thiện trung phẩm, tức là tâm Nhơn đạo.
f. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo mười điều thiện thượng phẩm, tức là tâm Thiên
đạo.
g. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo cảnh thiên không tịch diệt, tức là tâm Thinh văn.
h. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo lý Nhơn duyên tánh không, tức là tâm Duyên giác.
i. Khởi
niệm chuyền níu suy nghĩ theo pháp Lục độ tề tu, tức là tâm Bồ tát.
Vì hay chuyền níu suy nghĩ như vậy, nên gọi là tâm duyên lự.
3.-
Chơn như tâm: là tâm như lý chơn thiệt. Tâm ấy trong sạch sáng
mầu, không suy nghĩ, không phân biệt, ở trong ngàn muôn sai khác mà chẳng lộn,
trải đến đời này kiếp nọ mà thường còn, dựng cùng ba khoảng mà không tới không
lui, ngang giáp mười phương mà không dư không thiếu, ở nơi thánh không thêm, ở
nơi phàm không bớt; nếu nhận lầm tâm này theo hai thứ tâm kia thì mê, biết rõ
tâm này với hai thứ tâm kia thì ngộ; còn dung thông được cả ba làm một thể, thì
gọi là chứng.
Nhưng
nói đến cảnh giới ngộ và chứng ấy không phải dễ, vì phàm phu chỉ nhận nhục đoàn
tâm làm tâm, chớ chưa biết tới tâm duyên lự, huống chi là chơn tâm.
Còn
ngoại đạo, lấy tâm duyên lự làm chơn, nên nhận cái tướng tối tăm rối loạn làm
tâm tánh thiệt, rồi quyết định làm theo tâm ở trong thân, mà không biết từ nơi
sắc thân cho đến sơn hà, đại địa và hết thảy thiên hình vạn tượng, cũng đều là
vật trong chơn tâm hiện ra.
Bởi vậy
kẻ phàm mê ở trong tánh sáng suốt rỗng rang luống chịu khổ sanh tử; chư Phật
ngộ ở trong cảnh lưu chuyển sanh diệt mà thường trụ vui Niết Bàn.
Nếu
biết nguyên lai của pháp tánh, thể nó vẫn tròn sáng, không chi là căn thân khí
giới, là chư Phật, chúng sanh, bởi trong lúc tối sơ một niệm vọng động mà có
mười cõi thánh phàm khác nhau.
Vậy
phải truy cứu một niệm ấy có tự thể hay không tự thể; hễ không có tự thể thì do
đâu mà đến; cứ truy cứu mãi đến chỗ nước tột non cùng thì tự nhiên được cái
tiêu tức, rồi từ đó chấn chỉnh lại gia phong xưa của ta, thênh thang rộng rãi,
không có chi câu thúc và không có chi hệ lụy, thì chỗ nào chẳng phải là chỗ tự
tại, cái chi chẳng phải là tướng không của các pháp và đến đâu là chẳng phải
Tâm kinh.
Như thế
thì trời đất rỗng rang, một màu thanh tịnh, sống chết tới lui, nguyên không dấu
tích, trăng soi lòng sóng, Phật với chúng sanh vốn đồng một tánh thể chơn như.
Kinh tức là khế kinh. Khế nghĩa là khế hiệp, ý nói giáo pháp của Phật thuyết
ra, trên thì khế hiệp với lý của chư Phật và dưới thì khế hiệp với cơ của chúng
sanh.
Kinh nghĩa là pháp và nghĩa là thường, ý nói trong cả mười phương cũng đồng
tuân theo, nên gọi là pháp. Còn suốt cả ba đời cũng không dời đổi, nên gọi là
thường.
B.-
BIỆN RÕ THIỆT THỂ CỦA KINH
Kinh
này lấy thiệt tướng Bát nhã làm thể, tức như trong kinh nói mấy chữ không, mấy
chữ vô và sáu chữ bất (Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm), đó là hiển thiệt thể của kinh.
C.-
XUYÊN MINH TÔNG THÚ CỦA KINH
Kinh
nầy lấy quán chiếu Bát nhã làm tông, tức như trong kinh nói rằng quán, nói rằng
chiếu kiến, và nói rằng y (y Bát nhã), đó là minh tông thú của kinh.
Bởi vì
lý chơn không vẫn không tướng không danh, chẳng phải bàn tới và nghĩ kịp, cho
nên phải nhờ trí không phân biệt mới chiếu thấy được.
Huống
chi thiệt tướng là lý như như, quán chiếu là trí như như, ngoài trí không như,
ngoài như không trí, tức trí tức như, tức như tức trí, năng sở đều tuyệt, đối
đải đều vong, mà tuyệt và vong cũng đều chẳng phải, thiệt là tức nơi chơn tông
hiển chơn thể vậy.
D.- BÀN
LUẬN LỰC DỤNG CỦA KINH
Kinh
nầy lấy phương tiện Bát nhã làm dụng. Nghĩa là Bồ tát lấy trí phương tiện quyền
xảo mà hóa độ chúng sanh, tức như trong kinh nói độ nhất thiết khổ ách, và nói
năng trừ nhất thiết khổ, đó là hiển thị lực dụng của Kinh.
Vả lại,
kinh này lấy văn tự Bát nhã làm dụng, vì văn tự do nơi thiệt tướng mà lưu bố
ra, cho nên nương theo văn tự khởi quán, rồi trở lại quán thiệt tướng mà đăïng
chỗ lực dụng vậy.
E.-
PHÂN BIỆT GIÁO TƯỚNG CỦA KINH
Kinh
nầy lấy đại thừa thục tô (sữa chín) làm giáo tướng, nghĩa nói Phật từ lúc mới
thành đạo cho đến khi nhập Niết bàn, cộng có năm thời thuyết pháp, mà trong
thời thuyết Bát nhã này là dung thông các pháp, lóng sạch các tình chấp của nhị
thừa cũng như sữa luyện đến ba lần thì chín vậy.
II.-
GIẢI NGHĨA TÂM KINH
1.- Hán
văn:
Quán Tự
Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
độ nhất thiết khổ ách.
2.-
Việt dịch:
Ðức
Quán Tự Tại Bồ tát (3), trong lúc ngài lực hành trí huệ sâu thẩm đặt đến
cảnh giới bờ bên kia (4), thì ngài soi thấy năm uẩn đều không (5),
độ tất cả khổ ách sanh tử (6).
3.-
Giải nghĩa:
(1) Tam
tạng: nghĩa là ba tạng, tức là tạng Kinh, tạng Luật,
tạng Luận; ngài Huyền Trang thông hiểu hết thảy giáo pháp trong ba tạng ấy một
cách thâm thúy thấu đáo, đáng làm khuôn phép cho người, nên hiệu là Tam tạng
pháp sư.
(2)
Huyền Trang: Ngài họ Trần, tên Huyền Trang là dòng sau của Ông
Trần trọng Cung ở đời nhà Hán. Thuở nhỏ ngài gặp cảnh cùng khổn gian truân mà
đã sớm thông tam học; khi mười ba tuổi, ngài xuất gia nơi Tịnh Ðộ tự; qua mười
lăm tuổi, ngài với người anh lớn là ông Thiệp pháp sư đều vào Trường an trụ tại
chùa Trang nghiêm. Khi đó những kẻ đồng học ở nơi giảng tịch của ngài Ðạo Cơ,
ai ai cũng cảm phục ngài là bậc anh tài trong cửa Phật.
Ðến lúc
hai mươi lăm tuổi, ngài có chí muốn qua Tây Vức (Ấn độ), đặng nghiên cứu những
chổ chưa biểu quyết trong kinh điển; nhưng vì dâng biểu trần tấu mà quan Hữu ty
không chịu thông đạt đến vua, ngài bị trệ tích ở đó, nên rảo bước tới các Phiên
quốc mà học chữ Phiên.
Qua
niên hiệu Trinh Quán thứ ba, nhơn có lời sắc hạ của vua, ngài mới sang Tây Vức
được.
Khi ngài vừa đến nước Kế Tân, bị đường sá hiểm trở và nhiều ác thú làm ngăn
ngại, không biết tính làm sao vượt khỏi, ngài mới lưu trụ lại đó, từ sáng tới
chiều cứ ngồi suy nghĩ mãi. Bỗng ngài chợt thấy một ông Tỳ khưu già, ghẻ chóc
đầy mặt, máu mũ cùng mình, không biết ở đâu đi đến, ngồi một cách nghiêm nghị
ngay trước chỗ ngài vừa ngó ra.
Ngài
liền lại gần, lạy và cầu, thì ông Tỳ khưu già lập tức đọc Tâm kinh này, dạy
ngài tụng cho thuộc và trì niệm luôn luôn, thì tự nhiên vô hại. Quả nhiên, từ
đó về sau, quái vật bặt dấu, đường sá bình yên đi thẳng tới Ấn Ðộ.
Lúc đến
nơi gặp triều vua Giới Nhựt Vương, là một vị đế chủ nhân hiền cao đức, tiếp đải
ngài một cách rất long trọng. Vua bèn khai đại hội, sắc thỉnh các bậc thông
hiểu đạo lý ở các nước tề tập tại thành Khúc nữ; ngài được thỉnh thăng tọa,
xưng dương luận đại thừa, không ai dám vấn nạn chi cả.
Ðến
niên hiệu Trinh Quán thứ mười chín, ngài mới về tới kinh sư, đem dâng tại triều
những kinh sách bằng chữ Phạn do ngài thỉnh được, cộng có sáu trăm năm mươi bảy
bộ. Vua Thái Tông sắc cho ngài trụ nơi chùa Hoằng Phước để phiên dịch, sau vua
Cao Tông đổi cung Ngọc Ba làm chùa, khiến ngài ở đó dịch kinh Ðại Bát nhã.
Bước
qua tháng hai năm đầu hiệu Lân đức, ngài khiến đệ tử là pháp sư Phổ Quang sao
lục những kinh luận của ngài phiên dịch sang chữ Hán, cộng bảy mươi lăm bộ,
được một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển. Ngài thật có công đức vô lượng trong
việc hoằng pháp lợi sanh.
(3) Ðức
Quán Tự Tại Bồ Tát: Quán Tự Tại tức là đức Quán Thế Âm hầu
Phật A Di Ðà hoằng hoá trên cõi Tây phương Cực lạc, và cũng là đức Quán Thế Âm
nói trong kinh Pháp Hoa.
- Quán
là nói trí năng quán.
- Tự
tại là nói kiêm cả cảnh và trí. Nguyên chữ Quán Tự Tại, tiêu biểu có hai nghĩa:
nghĩa tự hành và nghĩa hóa tha.
a. Nói
về phần tự hành thì lấy trí năng quán chiếu cảnh sở quán, đều đặng lý sự vô
ngại. Vì lý tức là chơn như thuộc về cảnh chơn đế, sự tức là sanh diệt thuộc về
cảnh tục đế, chơn tức tục, cho nên lý không ngại sự; tục tức chơn, cho nên sự
không ngại lý. Bởi quán đạt một cách viên dung như vậy, nên kêu là Tự Tại.
b. Nói
về phần hóa tha, thì quán chiếu cơ duyên của chúng sanh, hiện thân thuyết pháp,
cứu độ một cách thong thả, như thuốc nhằm bệnh khá, chớ không có chi ngăn ngại,
nên gọi là Tự tại.
- Bồ
Tát: là tiếng Phạn nói tắt, nếu nói đủ thì gọi là Bồ đề tát đỏa. Tàu dịch là
giác hữu tình, nghĩa là đem chỗ tỏ biết của mình mà mở bày cho các loài hữu
tình, tức là nói những bực người, trên dùng trí huệ cầu đạo Bồ đề, dưới dùng bi
tâm cứu độ chúng sanh.
(4)
Trong lúc ngài lực hành trí huệ sâu thẩm đạt đến cảnh giới bờ bên kia: tức là
nói diệu hạnh Bát nhã có cạn có sâu; cạn là nhơn không Bát nhã, sâu là pháp
không Bát nhã.
- Nhơn
không Bát nhã, nghĩa là nói những hàng nhị thừa đã đặng huệ nhơn không, rõ thấy
nhơn ngã cứu cánh không có, chẳng còn vọng kể thân ngũ uẩn làm ta như kẻ phàm
phu, nên gọi là nhơn không.
Nhưng
tuy rõ nhơn ngũ uẩn là giả mà còn kể pháp ngũ uẫn là thiệt, tức là chưa đạt tới
lý pháp không, nên gọi là cạn.
- Pháp
không Bát nhã, nghĩa là nói Bồ tát dùng diệu huệ quán chiếu thấy các pháp đều do
nơi các duyên sanh ra, chứ nguyên lai không có tự tánh, nên gọi là pháp không.
Vì huệ pháp không ấy đã rõ rệt, tức là chứng quả Bồ đề, nên gọi là sâu.
Bởi
kinh này gạn riêng huệ nhơn không cạn cợt của nhị thừa ra, hiển huệ pháp không
sâu thẩm của Bồ tát, nên nói là hành thâm Bát nhã.
Gia chí
dĩ đức Quán Tự Tại Bồ tát, cũng có lúc gặp cơ Tiểu thừa như Thinh văn Duyên
giác, thì ngài quyền hiện thân Thinh văn Duyên giác, tỏ bày chỗ sở chứng nhơn
không thiển trí. Kinh này nói hành thâm Bát nhà ba la mật đa thời, là để phân
biệt thời này là thời Bồ tát vào pháp không thâm trí chớ chẳng phải thời vào
nhơn không thiển trí vậy.
(5) Soi
thấy năm uẩn đều không: nghĩa nói do trí dụng của Bồ tát thông
đạt, soi thấy bản lai của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng sanh,
chẳng diệt; nếu đã chẳng sanh chẳng diệt, thì tự thể vốn không. Cho nên nói
rằng năm uẩn đều không.
Nhưng phải hiểu đó là Bồ tát ở trên uẩn pháp hiện tiền thấy vẫn không, chớ
chẳng phải đợi khi tan rã mới là không.
(6) Ðộ
tất cả khổ ách sanh tử: nghĩa nói Bồ tát đã chứng thấy lý chơn
không, tự nhiên hết sự phiền lụy ưu não, dứt được khổ sanh tử phân đoạn và biến
dịch, chứng được quả vui Bồ đề và Niết bàn. Cho nên nói rằng độ tất cả khổ ách.
1.- Hán
văn:
Xá Lỵ
tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc,
thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị.
2.-
Việt dịch:
Này Xá
Lỵ tử! (7) Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc; sắc ấy tức
là không, không ấy tức là sắc. Thọ tưởng hành thức (8), lại cũng như
vậy.
3.- Giải
nghĩa:
(7) Xá
Lỵ tử (tức là Xá Lỵ Phất) là người trí huệ bậc nhất
trong hàng đệ tử của Phật, cho nên Phật đối với ông mà thích nghi như vậy.
(8) Sắc
thọ tưởng hành thức, gọi là năm uẩn. Ðại ý Phật nói rằng hoạn sắc, thể vốn là
chơn không, cho nên sắc chẳng khác gì không; còn chơn không hiện ra hoạn sắc,
cho nên không chẳng khác gì sắc.
Nhưng
tuy nói là chẳng khác, mà hai tướng (không và sắc) hãy còn thì sợ trụ vào tình
nghi chấp, nên Phật mới nói lại rằng hoạn sắc ấy tức là chơn không, chơn không
ấy tức là hoạn sắc, nghĩa là nói ngoài hoạn sắc ra, thì không có chơn không, và
ngoài chơn không ra, thì không có hoạn sắc; sắc và không tiêu mất, chỉ rõ là
một tâm mà thôi.
Nếu sắc uẩn đã thế, thì trong bốn uẩn kia như thọ chẳng khác gì không, không
chẳng khác gì thọ, mà thọ ấy tức là không, không ấy tức là thọ; cho đến thức
chẳng khác gì không, không cũng chẳng khác gì thức, mà thức ấy tức là không,
không ấy tức là thức, lý cũng như vậy.
Trong
đoạn này chia làm bốn phần giải thích như sau:
- Trừ
mối nghi của Tiểu thừa.
- Thích
mối nghi của Bồ tát.
- Minh
nghĩa chánh.
- Giải
quán hạnh.
a. Trừ
mối nghi của Tiểu thừa: vì kinh này vạch riêng huệ nhơn không của
Tiểu thừa, hiển thị huệ pháp không của Ðại thừa Bồ tát, cho nên đối về Tiểu
thừa tông có hai phái nghi là:
(a)-
Phái Tiểu thừa thân và trí chưa diệt, thì nghi rằng Tông Tiểu thừa đây tuy thân
và trí chưa diệt, thấy trong pháp ngũ uẩn không ta không người, vậy cũng gọi là
pháp không rồi, chớ có khác gì với nghĩa pháp không của Ðại thừa.
Nhưng Tông Tiểu thừa chỉ thấy trong pháp ngũ uẩn không ta không người kêu là
pháp không, vậy thì uẩn với không có khác, chớ chẳng phải như Ðại thừa rõ hết
các pháp ngũ uẩn đều do nơi các duyên giả hiệp sanh ra, mà tự tánh của nó gốc
thiệt là không.
Nên kinh này nói sắc chẳng khác gì không và không chẳng khác gì sắc, tức là
hiển tự tánh của ngũ uẩn vốn không, phá nghĩa uẩn khác không của phái Tiểu
thừa.
(b)- Phái Tiểu thừa thân và trí đều hết rồi, thì nghi rằng Tông Tiểu thừa đây,
thân và trí đều hết rồi, thì sắc và thọ tưởng hành thức cũng đều diệt hết trơn,
không còn chi nữa, vậy tức là pháp không, chớ có khác gì với nghĩa pháp không
của Ðại thừa.
Nhưng
Tông Tiểu thừa đó sau khi uẩn diệt rồi mới không, chớ chẳng phải như Ðại thừa
hiện ở trên uẩn pháp rõ tự thể của nó tức là không, chẳng cần phải diệt.
Nên kinh này nói sắc tức không và không tức sắc, tức là phá cái nghĩa sắc diệt
rồi mới không của phái Tiểu thừa.
b.
Thích mối nghi của Bồ Tát, trong Bảo tánh luận nói rằng ông Không
Loạn Ý Bồ tát có ba điều nghi là:
(a)-
Nghi không khác với sắc là nói tướng của không là rỗng thông, còn tướng của sắc
thì chất ngại, danh nghĩa khác nhau, cho nên chấp lấy không ở ngoài sắc.
(b)- Nghi diệt hết sắc rồi mới không, cho nên chấp lấy cái không đoạn diệt.
(c)- Nghi không là vật, nói ngoài sắc ra thì có cái vật riêng, là thể chơn
không, cho nên chấp lấy không làm có.
Nên
kinh này nói sắc chẳng khác gì không là đoạn nghi thứ nhất; nói sắc tức là
không là đoạn nghi thứ hai; còn nói không tức là sắc là đoạn nghi thứ ba. Nếu
ba mối nghi của ông Không Loạn Ý Bồ tát đoạn được, thì pháp thể chơn không tự
nhiên hiển hiện.
Nhưng
phải hiểu ông Không Loạn Ý Bồ tát nói trên còn ở về địa vị Thập tín, hoặc tâm
chưa hết, dụ dự còn nhiều, nên mới có mối nghi như vậy, chớ bậc Ðại thừa Bồ tát
không còn mối nghi ấy nữa.
a. Minh
nghĩa chánh, là nói sắc với không đối với nhau có ba nghĩa
giải dưới đây:
(a)- Nghĩa trái hẳn nhau tức như trong kinh nói trong không chẳng có sắc, nghĩa
là ở trong không chẳng có sắc thì biết không nó hại sắc mà làm cho tướng sắc
phải ẩn. Nếu chuẩn theo ý kinh đã nói trong không chẳng có sắc, tức là trong
sắc cũng chẳng có không, vì sắc trái hẳn với không, hễ không hiện thì sắc phải
vong, mà sắc còn thì không phải ẩn; cho nên gọi rằng trái nhau.
(b)-
Nghĩa chẳng ngăn ngại nhau là nói nếu sắc đã là hoạn sắc, thì toàn thể của nó
là không, cho nên nó chẳng ngăn ngại với không; còn không đã là chơn không, thì
nó hay hiện ra sắc, cho nên nó chẳng ngăn ngại với sắc. Nếu không mà ngại với
sắc, thì không ấy là đoạn không, chớ chẳng phải là chơn không; nếu sắc mà ngại
với không, thì sắc ấy là thiệt sắc, chớ chẳng phải hoạn sắc (Hoạn sắc là sắc
giả mị không thiệt; đoạn không là không sau khi sắc diệt rồi).
(c)-
Nghĩa hay làm lẩn nhau là nói nếu hoạn sắc ấy thể của nó chẳng phải là không,
thì nói chẳng thành đặng hoạn sắc, vì cho nó là không, nên mới có thành hoạn
sắc.
Kinh
Ðại phẩm nói: nếu các pháp chẳng không, tức là không đạo không quả gì hết.
Trung luận nói: vì có không, cho nên các pháp mới đặng thành.
Ðó là
sắc hay làm ra không.
Vả
chăng sắc đã hay làm ra không, thì chơn không nó cũng tùy duyên hay làm ra sắc
vậy.
Bởi nên lấy chơn không đối chiếu với sắc thì thông cả bốn nghĩa như vầy:
- Nghĩa
bỏ mình thành kia là nói nếu không tức là sắc, thì rõ rằng bỏ chơn không
của mình mà thành hoạn sắc kia, cho nên hoạn sắc hiện thì chơn không phải ẩn.
- Nghĩa tiêu kia hiển mình là nói nếu sắc tức là không, thì rõ rằng tiêu
hoạn sắc kia mà hiển chơn không của mình, cho nên hoạn sắc hết thì chơn không
rõ rệt.
- Nghĩa mình và kia đều còn là nói sắc chẳng khác gì không, gọi là hoạn
sắc, tức nghĩa sắc còn; không chẳng khác gì sắc kêu là chơn không, tức nghĩa
không còn. Vì sắc với không chẳng ngăn ngại nhau, cho nên còn thì còn hết cả
hai.
- Nghĩa mình kia đều mất là nói sắc tức là không, ấy là không đoạt mất
sắc; không tức là sắc, ấy là sắc đoạt mất không. Nếu sắc với không đã cướp đoạt
lẫn nhau, thì hai tướng cũng đều mất hết.
Nếu
chơn không đối với hoạn sắc có bốn nghĩa như vậy, thì hoạn sắc đối với chơn
không cũng chẳng khác nào.
Vậy thì
biết hoạn sắc dù mất dù còn cũng không ngăn ngại, chơn không dù ẩn dù hiện cũng
đều tự tại, sắc với không, không với sắc chỉ là một thiệt tướng mà thôi, chớ có
chi đâu mà chấp không chấp sắc.
b. Giải
quán hạnh: Quán hạnh có ba đoạn, giải thích như sau:
(a)-
Quán hoạn sắc tức không thì thành hạnh chỉ; quán chơn không tức hoạn sắc thì
thành hạnh quán; không với sắc chẳng hai chẳng khác, một niệm hiện thành, tức
là hạnh chỉ và quán đều tu mới là cứu cánh.
Chỉ
nghĩa là chỉ tuyệt vọng niệm, thuộc về môn không và cũng là môn chơn như.
Quán
nghĩa là quán trí thông suốt, thuộc về môn có và cũng là môn sanh diệt.
Cho nên
trên đây nói rằng chỉ là duyên theo lý chơn như vô vi mà xa lìa các tướng; nếu
các tướng đã xa lìa, thì vọng niệm phải chỉ tuyệt. Ðó là nghĩa nương theo môn
chơn như tu hạnh chỉ.
Nói
rằng quán là duyên theo sự sanh diệt hữu vi mà phát thông chỗ trí giải, nếu chỗ
trí giải đã phát thông, thì những tánh tướng nhỏ nhiệm đều chiếu thấy rõ ràng.
Ðó là nghĩa nương theo môn sanh diệt tu hạnh quán.
Nói chỉ
quán đều tu là nói tức nơi quán tu chỉ, biết sắc gốc là không; tức nơi chỉ tu
quán, rõ không tức là sắc, sắc với không chẳng khác, chỉ và quán đều tu, chẳng
phải trước, chẳng phải sau mới thành được chánh hạnh. Vậy nên gọi là cứu cánh.
(b)- Thấy hoạn sắc tức là chơn không, nên thành trí vô thượng bồ đề, chẳng trụ
nơi sanh tử như kẻ phàm phu chấp sắc làm có; thấy chơn không tức là hoạn sắc,
nên thành đại bi độ sanh cứu khổ, chẳng trụ nơi Niết bàn như hàng quyền tiểu
trụ về một mặt thiên không.
Vì sắc
với không cảnh chẳng phải hai, bi và trí niệm không phải khác, Niết bàn sanh tử
chẳng trụ nơi nào mà thành cái hạnh vô trụ xứ.
(c)-
Ngài Trí Giả đại sư y nơi kinh Anh lạc mà lập ra nghĩa "Nhất tâm tam
quán" như vầy:
- do giả quán vào không quán là nói sắc tức là không.
- do
không quán vào giả quán là nói không tức là sắc.
- không
quán với giả quán bình đẳng là nói sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì
sắc.
Nói tóm
lại, đoạn kinh này phát huy nguyên lai của uẩn pháp vốn tánh không, nhưng vì
một niệm bất giác lúc tối sơ, nên vọng sanh ra căn thân (năm căn), khí giới
(sáu trần); do đó chúng sanh trong lục đạo chấp sắc làm thiệt có, lưu chuyển
trên đường sanh tử; nhị thừa ly sắc chấp không, trụ luôn vào cảnh Niết bàn; chỉ
có bực đại thừa Bồ tát tỏ ngộ lý sắc không chẳng khác toàn là một vị chơn không
mà thôi.
Nếu cử
một sắc uẩn như thế, thì tất cả thọ tưởng hành thức trong năm uẩn kia, cũng đều
là pháp giả mị ở trên thể tự chứng của chơn như chớ không chi lạ.
Vậy biết
uẩn chẳng khác gì không, không chẳng khác gì uẩn, uẩn tức là không, không tức
là uẩn. Nếu mê theo uẩn thì cũng như nước kết lại thành giá; ngộ đặng uẩn thì
cũng như giá tiêu ra nước. Nước là ví dụ với chơn không, giá là ví dụ với ngũ
uẩn.
PHÁP
NGŨ UẨN HIỆP SẮC KHAI TÂM
Tất cả
y báo và chánh báo trong mười cõi thánh phàm chỉ do sắc tâm bao quát, nếu chư
Phật ngộ thì sắc tâm vốn không ngăn ngại; chúng sanh mê thì sắc với tâm có phân
cách nhau.
Cũng
bởi sắc với tâm cách nhau mới có mê tâm mê sắc. Mê tâm thì hôn trầm tán loạn,
có chấp mà chẳng dung thông, chấp tâm là đoạn diệt, chấp tâm là thường tồn, đều
không rõ tâm vốn rỗng rang vắng lặng. Mê sắc thì đối với các cảnh tiền trần,
sanh lòng tham yêu mến tiếc, rồi hàng ngày cứ truy cầu theo nó, không biết nó
là vật hoạn hóa, không thiệt.
Cho nên
Phật khai ra bốn câu dưới đây để tiêu thích các thứ mê kia:
1.- Vì
những kẻ mê tâm nhiều, mê sắc ít, nên ngài nói pháp ngũ uẩn khai tâm hiệp sắc.
2.- Vì những kẻ mê sắc nhiều, mê tâm ít, nên ngài nói pháp thập nhị nhập khai
sắc hiệp tâm.
3.- Vì
những kẻ sắc và tâm đều mê, nên ngài nói pháp thập bát giới sắc tâm đều khai.
4.- Vì những kẻ sắc và tâm đều chẳng mê, nên ngài chỉ nói hai chữ sắc và tâm,
tức là đặng dung thông vô ngại.
Trong
bài có ba biểu đồ, rất tiếc không thể đưa vào đây được, xin tóm lược như sau:
1.-
Biểu đồ: NGŨ UẨN (*)
KHAI
TÂM HIỆP SẮC
Gồm có:
==> Sắc
hiệp làm một ==> Sắc: Năm căn, năm cảnh và hết thảy vật chất hữu
tình ==>Sắc pháp: mê sắc ít nên hiệp sắc làm một.
==> Tâm
khai làm bốn ==> Thọ, tưởng, hành, thức:
- Thọ: Khi
căn đối cảnh rồi tâm nạp thọ lấy ngoại cảnh.
- Tưởng: Khi
căn đối cảnh rồi tâm tưởng tượng lấy sự vật.
- Hành: Ðối
cảnh rồi tâm nghĩ những điều hành thiện, hành ác.
- Thức: Ðối
cảnh tâm phân biệt rõ biết những sự vật.
==> Tâm
pháp: Mê tâm nhiều nên khai tâm làm bốn.
(*) Theo
bản cựu dịch gọi là "Ấm", còn bản tân dịch gọi là "Uẩn".
"Ấm"
nghĩa là che tối; "Uẩn" nghĩa là chất chứa. Vì nó chất chứa các
nghiệp hữu vi mà làm cho che tối chơn tánh, nên phải gồm cả hai nghĩa ấy mà giải,
thì mới đủ ý được.
2.-
Biểu đồ: MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
Gồm có:
==> Hai
chi về nhân đời quá khứ:
- Vô
minh: Một niệm vọng động che tối chơn tánh.
- Hành: Nhơn
có vọng động mới tạo ra nghiệp.
==>Năm
chi về quả đời hiện tại:
- Thức: Giống
nghiệp phát ra cái biết phân biệt.
- Danh
sắc: Thức tâm là danh, phôi thai là sắc.
- Lục
nhập: Sáu căn hoàn thành theo vào trần cảnh.
- Xúc: Căn
cảnh gặp nhau phát sanh xúc động.
- Thọ: Căn
cảm theo cảnh nạp thọ vào lòng.
==> Ba
chi về nhơn đời hiện tại:
- Ái: Nạp
thọ cảnh ngoài sanh lòng ưa muốn.
- Thủ: Những
cảnh ưa muốn tìm giữ cho đặng.
- Hữu: Do
ssụ tìm giữ biếnthành nhơn quả.
==> Hai
chi về quả đời vị lai:
- Sanh: Bởi
có nghiệp nhơn mới sanh đời sau.
- Lão
tử: Do sanh nên chịu đau khổ già chết.
==>
Vô minh, ái, thủ ==> Phiền não đạo ==> Hoặc. Do Hoặc tạo
nghiệp.
==> Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão tử ==> Khổ đạo
==> Quả
==>
Hành, hữu ==> Nghiệp đạo. Do Nghiệp cảm Quả.
Tóm
lại:
- Vô
minh, ái, thủ thuộc phiền não.
- Hành,
hữu, hai chi về nghiệp đạo.
- Thức,
danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão tử, bảy chi này về khổ đạo.
3.-
Biểu đồ: MƯỜI TÁM GIỚI
TÂM và
SẮC ÐỀU KHAI
Gồm có:
==> Căn
giới: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
==> Trần
giới: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Căn và
trần duyên nhau sanh ra:
==> Năm
căn nội sắc.
==> Năm
trần ngoại sắc.
==> Tâm
số pháp.
==> Vô
biểu sắc.
- Căn
giới và trần giới ==> Sắc pháp
==> Thức
giới: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ==> Tâm vương ==> Tâm
pháp
Phật vì
những kẻ mê tâm và mê sắc (cảnh), nên nói pháp mười tám giới để phá trừ cái mê
kia. Nghĩa là: bên "tâm" thì khai ra làm bảy giới và tâm số pháp
trong pháp trần giới. Còn bên "sắc" thì khai ra làm mười giới và vô
biểu sắc cũng trong pháp trần giới. Cọng là mười tám giới.
1.- Hán
văn:
Xá Lỵ
tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất
giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức; vô nhãn nhĩ tỷ thiệt
thân ý; vô sắc thanh hương vị xúc pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
2.-
Việt dịch:
Này Xá
Lỵ tử! Thiệt tướng chơn không của các pháp, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ
chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt (9).
Vậy nên
trong chơn không không có sắc, không có thọ tưởng hành thức (10); không
có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc tiếng hương vị xúc pháp; không có giới
hạn con mắt, cho đến không có giới hạn ý thức (11).
3.-
Giải nghĩa:
(9) Thiệt
tướng chơn không của các pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng
thêm chẳng bớt. Ðây là phát minh tướng chơn không của các pháp, tánh của nó
vẫn tuyệt đải, cũng là hiễn thị chỗ thiệt địa bên bờ kia là tuyệt đải vậy. Vì
tướng chơn không của các pháp tức là chỗ thiệt địa bên bờ kia, mà chỗ thiệt địa
bên bờ kia tức là tướng chơn không của các pháp.
Các
pháp là chỉ năm uẩn, sáu pháp ,mười hai xứ, mười tám giới hạn, mười hai nhân
duyên và bốn đế vậy.
Chúng
sanh mê nên thấy có các pháp, chư Phật ngộ thì rõ là tướng chơn không.
Nếu giải tắt thì các tướng chơn không đã là tuyệt đải, chẳng phải như sắc của
hoạn sắc và không của ngoan không; nó vẫn không từ đâu mà tới, thì cái gì là
sanh; nó cũng không chỗ nào mà đi, thì cái gì là diệt; nó cũng không nhiểm theo
sanh tử, thì cái gì là dơ,; nó cũng không trụ vào Niết bàn, thì cái gì là sạch;
nó vẫn không thiếu, thì cái gì là thêm; nó cũng chẳng dư, thì cái gì là bớt.
Còn như
giải rộng ra, thì có ba đoạn thích như sau này:
- Vị
thích.
- Pháp
thích.
- Quán
hạnh thích.
a.- Vị
thích chia làm ba vị:
(a)- Giải
về vị sanh diệt là nói những kẻ phàm phu, từ hồi vô thỉ nhẩn lại, cứ chết
chỗ nọ sanh chỗ kia, hết kiếp này tới kiếp khác, trôi lăn trong biển sanh tử
không khi nào cùng, gọi là vị sanh diệt. Chơn không vẫn lìa những tướng ấy, cho
nên nói rằng chẳng sanh chẳng diệt.
(b)- Giải
về vị dơ sạch (cấu tịnh) là nói các bực Bồ tát trong thập địa, phần chướng
hoặc chưa hết, phần tịnh hạnh đã tu, tức là vị dơ sạch. Chơn không vẫn xa lìa
những tướng ấy, cho nên nói rằng chẳng dơ chẳng sạch.
(c)- Giải
về vị thêm bớt (tăng giảm) là nói trong vị Phật quả, chướng hoặc sanh tử
trước chưa hết mà nay hết, tức là nghĩa giảm; công đức tu nhơn trước chưa tròn
mà nay tròn, tức là nghĩa tăng. Chơn không vẫn xa lìa những tướng ấy, cho nên
nói rằng chẳng thêm chẳng bớt.
b.- Pháp
thích nói chơn không ấy tuy là sắc, nhưng khi duyên hợp thì sắc sanh, khi
duyên ly thì sắc diệt, chơn không chẳng tùy theo duyên hợp ly ấy mà có sanh có
diệt. Khi mê thì thuận theo dòng vô minh, thì gọi là dơ, khi ngộ thì huệ trí
hiển hiện, thì gọi là sạch. Chơn không chẳng tùy theo lúc mê ngộ này mà có dơ
có sạch. Ðến khi chứng quả thì hai chướng (phiền não và sở trí) trừ hết, gọi là
bớt; ba đức (bát nhã, giải thoát và pháp thân) đầy đủ, gọi là thêm. Chơn không
chẳng tùy theo sự tu chứng ấy mà có thêm có bớt.
c.- Quán
hạnh thích có ba pháp là:
(a)-
Ðối với pháp biến kế, là những pháp ở trong vọng tâm kế tính là thiệt có, thì
quán nó là không tướng; vì những pháp vọng kế ấy ví như nhận sợi dây lầm tưởng
con rắn mà nguyên lai chẳng phải thiệt có. Nếu chẳng phải thiệt có, tức là
không, nếu đã không thì chẳng có chi sanh diệt.
(b)-
Ðối với pháp y tha, là những pháp do nơi nhân duyên hòa lẫn nhau mà khởi, thì
quán nó không sanh; vì duyên theo các duyên mà thành nhiểm tịnh pháp, chớ thiệt
không có thể khá sanh; cũng như sợi dây do nơi gai mà thành, nguyên lai thiệt
thể của dây vốn không có vậy.
(c)-
Ðối với pháp viên thành, thì quán không tánh, vì pháp vọng kế và y tha trên đó
là không tướng không sanh, chỉ rành một chơn không thiệt tướng, cũng ví như
tướng rắn và tướng dây đã mất, thì chỉ còn là sợi gai. Nhưng trong chơn không
tuy chẳng có pháp vọng kế, y tha mà chơn không chẳng bớt, còn quán trí đã chiếu
rõ là lý viên thành mà chơn không cũng chẳng thêm.
Vậy thì
biết bản lai chỉ có tánh viên thành, do duyên hợp duyên ly mà thành ra tánh y
tha, do chấp thiệt có ngả có pháp mà thành ra tánh biến kế. Nếu rõ pháp sở chấp
chẳng có và tánh tùy duyên vẫn không, thì y tha với biến kế vẫn rỗng rang, thể
viên thành tự nhiên hiển hiện.
Quán
như vậy, tức là thấy đuợc duy tâm thì còn có chi là sanh diệt, cấu tịnh và tăng
giảm.
(10) Trong chơn không không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức
đây là lời kết lại năm uẩn đã nói ở trước cho rõ ràng; trong chơn không thiệt
tướng bản lai không có uẩn pháp; vì uẩn pháp đều là nhân duyên hòa hợp mà vọng
sanh, nhân duyên biệt ly mà vọng diệt. Cho nên ngộ được chơn tánh rồi, thì nhân
duyên tự không, uẩn pháp do đâu mà có đuợc.
(11) Không
có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc tiếng hương vị xúc pháp; không có giới
hạn con mắt cho đến không có giới hạn ý thức. Mắt, tai , mũi, lưỡi, thân, ý
là sáu căn; sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp là sau trần; nhãn thức, nhĩ thức,
tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức là sáu thức. Hợp cả sáu căn sáu trần là
mười hai xứ; hợp cả sáu thức nữa là mười tám giới hạn.
Căn là
cội, nói sáu cội gốc sở y của thức; trần là bụi, nói sáu bụi làm nhơ bẩn tự
tâm; xứ là chỗ, nói căn chạy vào trần, trần nhiểm vào căn và cung là chỗ của
sáu thức do đó phát sanh; giới hạn là nói căn ở trong, trần ở ngoài, thức sanh
vào giữa, phần nào đều có giới hạn riêng phần nấy.
Không
có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nói nguyên lai sáu căn gốc chẳng
phải có; nhưng vì nhơn các thứ vọng trần (sáng tối, động tịnh, thông nghẹt,
ngọt lạt, hiệp ly, sanh diệt) vào trong tánh thể diệu viên, phát sanh thấy
duyên với sắc trần sáng tối; nghe duyên với thinh trần động tịnh; ngửi duyên
với hương trần thông nghẹt; nếm duyên với vị trần ngọt lạt; giác (biết) duyên
với xúc trần hiệp ly, tri (biết) duyên với pháp trần sanh diệt, đều kết thành
sáu căn thắng nghĩa.
Ban sơ
thành tướng vi tế kêu là thắng nghĩa căn (tức căn nguyên của sáu căn),
đến lúc thành tướng thô đại gọi là phù trần căn, tức là mắt tai mũi lưỡi
thân ý, do đó thành điên đảo, chuyền níu theo ngoại cảnh chạy ra ngoài, mắt
theo sắc, tai theo tiếng, mũi theo hương, lưỡi theo vị, thân theo xúc (đụng
chạm), ý theo pháp (sự vật). Vì vậy thành ra sáu căn phù trần.
Nếu do
lai của sáu căn vọng phát như thế, thì là một hoạn pháp ở trên tánh chơn không,
dù sanh dù diệt mặc tình, rèn tánh tuyệt đải của chơn không vẫn thanh tịnh,
chẳng dung một vật gì, thì có cái gì ở trong chơn không. Cũng ví như mảnh gương
sáng, khi ảnh tượng rọi vào thành sắc, khi ảnh tượng hết rọi thì thành không,
dù sắc dù không, bản thể trạm tịnh của gương vẫn thường rỗng suốt, không có lưu
một vật gì trong gương.
Không
có sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp. Trần là những sở đối của sáu căn, như các
thứ sắc tướng (tướng hoạn sắc và tướng ngoan không) là sở đối về sự thấy của
con mắt; các thứ tiếng (tiếng loài hữu tình và vô tình) là sở đối về sự nghe
của lỗ tai; các thứ hương (hương ở thân người, thân vật và ở nơi chất cây cỏ)
là sở đối về sự ngửi của lỗ mũi; các thứ vị (ngọt, đắng, cay, chua, mặn, lạt)
là sở đối về sự nếm của lưỡi; các thứ xúc (nóng, lạnh, trơn, nhám, cứng, mềm)
là sở đối về sự đụng chạm của thân thể; các thứ pháp (hết thảy sự vật) là sở
đối về sự phân biệt của tâm ý. Thế gọi là sáu trần.
Cho nên
trong kinh Lăng nghiêm, đối về căn trần, Phật nói các sắc với sự thấy đều không
có xứ sở, đều là hư vọng chẳng thiệt cho đến về thinh trần, hương trần, vị
trần, xúc trần và pháp trần, Phật cũng đều nói không có xứ sở và hư vọng chẳng thiệt.
Nếu là hư vọng, tự nơi nó vốn không phải là có; huống chi chơn không là chỗ
thiệt địa bên bờ kia, siêu việt ở ngoài thân cảnh và là chỗ sắc và không chẳng
đến được, thì có chi gọi là sáu trần.
Không
có giới hạn con mắt cho đến không có giới hạn ý thức, là
lời nói lược, nếu nói đủ thì phải nói: không có giới hạn của mắt tai mũi lưỡi
thân ý; không có giới hạn của sắc tiếng hương vị xúc pháp; không có giới hạn
của nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thân, ý thức.
Thức
nghĩa là biết, trong khi sáu căn đối với sáu trần rõ biết phân biệt. Nhưng sự
biết (thức) đã do nơi căn trần duyên đối mà có, khi ly căn trần ra tức là thức
không thể có, vì căn trần đã không, thì do đâu phân biệt gọi là thức.
Nói tóm
lại, chơn không thiệt tướng, thể nó vẫn xa lìa hết thảy các pháp phàm thánh cho
nên không có tướng uẩn, nhập, xứ, giới, duyên, đế, tu, chứng chi cả.
Vì thể
bản lai của nó rỗng rang vắng lặng, chẳng dung một vật gì tích tụ vào trong che
khuất nó được. Cho nên kinh nói rằng không có năm uẩn.
Nếu thể
của nó rỗng rang vắng lặng thì có chi là thân, cảnh, là năng nhập sở nhập, và
do đâu phân ra căn trong trần ngoài và thức giữa mà thành giới hạn được. Cho
nên kinh nói rằng không có sáu căn, sáu trần và mười tám giới như vậy.
1.- Hán
văn:
Vô vô
minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ tập
diệt đạo; vô trí, diệc vô đắc.
2.-
Việt dịch:
Không
vô minh, cũng không vô minh hết, cho đến không già chết, cũng không già chết
hết (12); không khổ đế, tập dế, diệt đế, đạo đế (13); không trí
cũng không đặng.(14)
3.-
Giải nghĩa:
(12) Không
vô minh, cũng không vô minh hết, cho đến không già chết, cũng không già chết
hết, đây là nói trong chơn không thiệt tướng chẳng có tướng lưu chuyển và tướng
hoàn diệt.
Mười
hai nhân duyên là: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ,
hữu, sanh, lão tử.
- Vô
minh nghĩa là không tỏ rõ, si mê từ hồi vô thỉ, đối với các sự lý không
hiểu được minh bạch. Vô minh có hai cách mê: Một là mê về quả dị thục là không
rõ các nghiệp bất thiện hay chiêu cảm quả báo ác thú nếu phát khởi những điều
tội lỗi. Hai là mê về nghĩa chơn thiệt là không rõ được chơn lý các hạnh vô
thường (sanh diệt luôn luôn); các pháp là vô ngã (không ai là tác chủ), cho đến
không rõ biết các nghiệp hữu lậu là khổ, và Niết bàn là vắng lặng an vui. Nên
dù có xa lìa những nghiệp bất thiện trong ác thú, cũng còn hy vọng quả nhơn
thiên khoái lạc mà phát khởi những hạnh tu phước tu thiền theo pháp thế gian.
- Hành
nghĩa là làm, tức phi nghiệp hữu lậu đã tạo tác từ đời quá khứ. Ba nghiệp ấy là
nghiệp phước, nghiệp phi phước và nghiệp bất động.
a.- Nghiệp
phước[i] tức là nghiệp thiện là những sự bố thí trì giới rồi cảm sanh được
phước báo sung sướng ở cõi nhơn thiên.
b.-
[i]Nghiệp phi phước tức là nghiệp bất thiện tạo những điều sát sanh,
trộm cướp, tà dâm, rồi thọ tội báo nơi đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hay
làm những kẻ bần củng hạ tiện ở trong nhơn loại.
c.- Nghiệp
bất động tức là nghiệp định, tu theo phép thiền quán thế gian, rồi cảm sanh
được định quả ở các cõi trời sắc giới và vô sắc giới.
- Thức
nghĩa là nghiệp thức, một niệm do nơi nghiệp thiện hay ác của đời quá khứ thọ
thai trong đời hiện tại. Thức ấy chính là thức A lại da thứ tám, làm cội gốc sở
y cho các pháp, là ông chủ luân hồi; khi loài hữu tình sanh thì nó tới trước,
khi chết thì nó đi sau, làm cho sanh tử nối nhau không khi nào dứt.
- Danh
sắc - danh là nói thọ tưởng hành thức bốn uẩn ấy thuộc về tâm pháp, chỉ có
tên chớ không thể hiện ra được. - sắc là nói thân căn do nơi tứ đại tạo thành,
thuộc về sắc pháp. Trong khi thức trụ thai rồi, nó giữ danh sắc ấy, rồi lần lần
các căn của thân mới đầy đủ.
- Sáu
nhập tức là sáu căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý) và cũng là sáu xứ làm chỗ sở
y cho các thức.
- Xúc
nghĩa là đụng chạm, rờ rẩm, tiếp xúc khi thân căn đầy đủ ra khỏi thai rồi, thì
căn, cảnh, thức lại tùy thuận lẫn nhau sanh ra tánh xúc; ví như con nít khi mới
lên ba, đối với mọi sự vật, nó chưa rõ biết chi là khổ vui, gặp cái gì cũng
muốn cầm nắm mà chơi nên gọi là xúc.
- Thọ
nghĩa là cảm thọ; ví như con nít đến độ sáu tuổi trở lên, trong khi tiếp xúc sự
vật, đã lần lần biết được những sự vui buồn mà cảm thọ vào lòng.
- Ái
nghĩa là ưa muốn; ví như con nít độ mười hai tuổi trở lên thì tình ưa muốn đã
phát sanh ra nhiều.
- Thủ
nghĩa là nhiễm lấy không chịu rời; ví như con người khi đã thành nhơn, tình ưa
muốn càng mạnh nên đối với những cảnh thích chí vừa lòng thì mưu cầu cầm giữ
cho được.
- Hữu nghĩa là nghiệp, hột giống nghiệp thức trong tam giới đã có ái và
thủ, hai thứ ấy thấm nhuần, thì đầy đủ công năng hiện sanh.
- Sanh
nghĩa là thọ sanh, do nghiệp thiện ác đã tạo nơi đời hiện tại, lôi kéo vào
trong lục đạo tứ sanh mà thọ sanh báo thân về đời sau.
- Lão
tử nghĩa là già chết, khi đã thọ sanh về đời sau thì thân ngũ uẩn lần lần
suy yếu rồi tan rã.
Trong
mười hai pháp trên đây, vì thủ nghĩa hay chiêu cảm lấy quả báo, nên kêu là
nhân, lại hay tư trợ sanh nhơn, nên kêu là duyên. Nhơn cũng như hột giống đã
sẵn có mầm hay sanh, mà duyên thì cũng như các thứ: đất, nước, khí ấm và ánh
sáng của mặt trời giúp cho hột giống phát sanh vậy. Trong kinh nói không vô
minh, cũng không vô minh hết, không già chết, cũng không già chết hết là đại
lược tướng lưu chuyển và hoàn diệt đầu tiên với tướng lưu chuyển và hoàn diệt
cuối cùng.
Nếu nói
đủ, thì phải nói, không có vô minh cũng không có vô minh hết, không có hành
cũng không có hành hết, không có thức cũng không có thức hết, không có danh sắc
cũng không có danh sắc hết, không có sáu nhập cũng không có sáu nhập hết, không
có xúc cũng không có xúc hết, không có thọ cũng không có thọ hết, không có ái
cũng không có ái hết, không có thủ cũng không có thủ hết, không có hữu cũng
không có hữu hết, không có sanh cũng không có sanh hết, không có già chết cũng
không có già chết hết.
Mười
hai nhân duyên ấy gồm cả nhân quả ba đời và đủ cả hoặc, nghiệp, khổ ba đạo. Bởi
vì một niệm vọng động trong lúc tối sơ, mê tánh chơn không, làm mất trí huệ,
cho nên kêu là vô minh, là hoặc đạo. Do hoặc vô minh ấy tạo ra những nghiệp
thiện ác, cho nên kêu là hành, là nghiệp đạo.
Từ cảm
hoặc vô minh và tùy theo nghiệp hành của đời quá khứ, khởi ra biết điên đảo mà
đi đầu thai, nên gọi là thức. Khi đầu thai rồi mới có danh thức tâm và sắc phôi
thai, nên gọi là danh sắc; đến lúc thân hình thành mãn, ra khỏi thai bào, nên
gọi là lục nhập; rồi căn đối với cảnh phát sanh ra tánh ưng, cầm nắm, rờ nó
những vật này vật khác, nên gọi là xúc; do có xúc nên mới lãnh nạp những cảnh
toại lòng, nên gọi là thọ.
Vì vậy
thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ kêu là thân quả báo và cũng kêu là khổ
đạo.
Cũng bởi có thân quả báo nơi đời hiện tại, xúc trần nạp cảnh sanh ra tâm yêu
muốn, thương ghét, nên gọi là ái, do có ái mới sanh mới sanh tâm mưu cầu, cầm
giữ, nên gọi là thủ; do có yêu muốn và mưu cầu cầm giữ sai lầm, mới cảm có hột
giống thiện ác trong tam giới, nên gọi là hữu.
Từ đó
mới thừa theo nghiệp nhơn đời hiện tại, thọ sanh thân đời sau, nên gọi là sanh;
rồi do sanh ấy mới có già chết, nên gọi là lão tử. Cho nên sanh và lão tử thuộc
về quả vị lai và cũng thuộc về khổ đạo.
Vì lẽ
hoặc, nghiệp, khổ cứ quanh đi lộn lại làm nhơn đời này, làm quả đời khác, làm
cho chúng sanh trôi lăn trong biển sanh tử, như bánh xe nước, nước chảy thì xe
quay không khi nào dứt. Thuận quán như vậy gọi là môn lưu chuyển.
Còn
nghịch quán thì những khổ cảnh của sanh tử là do nơi hữu mà ra, hữu do nơi thủ,
thủ do nơi ái, ái do nơi thọ, thọ do nơi xúc, xúc do nơi lục nhập, lục nhập do
nơi danh sắc, danh sắc do nơi thức, thức do nơi hành, hành do nơi vô minh; mà
vô minh vốn không tự thể, toàn thể là diệu tánh chơn không bản lai rỗng rang
vắng lặng thì vô minh do đâu mà phát khởi được.
Nếu vô
minh đã không do đâu phát khởi, tức là nghĩa vô minh diệt, vô minh diệt thì
hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt
thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt
thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh
diệt, sanh diệt thì lão tử diệt, hoàn về tánh thể chơn không. Nghịch quán như
thế gọi là môn hoàn diệt.
Thế nên
chơn không thiệt tướng vốn không tướng, lại cũng không cái không tướng nữa;
nhưng vì đối với tướng hoạn sắc nên phải kêu là thiệt tướng và đối với không
ngoan không mà phải kêu là chơn không. Thật ra nếu gọi nó là cái gì cũng không
trúng, hoặc nói nó giống cái gì cũng không nhằm. Cũng như cảnh giới bờ bên kia
là đối với tướng sanh tử ở cõi này gọi là bờ bên này, bất đắc dỉ phải chỉ cái
vô tướng Niết bàn gọi là bờ bên kia; thiệt ra nó đã vô tướng thì lấy đâu làm xứ
sở gọi là bờ bên kia.
Nếu chơn không đã tuyệt nhiên không tướng và cũng không cái không tướng, thì
trong chơn không có gì là tướng lưu chuyển mà gọi là vô minh, hành cho đến sanh
lão tử. Cho nên kinh nói rằng trong chơn không không có vô minh, cho đến không
có lão tử là thế.
Huống
chi kinh nói trong chơn không không có vô minh, cho đến không có lão tử là nói
bản lai vẫn không, chớ chẳng phải nói trước có rồi sau mới không; nếu bản lai
đã không, thì cái gì là tướng hoàn dìệt mà gọi là hết.
Cũng ví
như trong nhà, nếu có rác mà quét sạch rồi, thì mới gọi là hết; nguyên bản lai
vốn không có rác, thì cái quét hãy còn không có, huống chi cái gì nói rằng hết.
Cho nên kinh nói trong chơn không cũng không có vô minh hết, cho đến cũng không
có lão tử hết là nghĩa như vậy.
Nhưng
phải hiểu rằng, trên đây là nói trong chơn không không có vô minh, cũng không
có vô minh hết, cho đến không có lão tử, cũng không có lão tử hết, đó là nói
pháp mười hai nhân duyên, tự tánh của nó không có tướng lưu chuyển và tướng
hoàn diệt, thì quán hạnh không do đâu lập được, chớ không phải nói ngoài nó ra
còn có thể chơn không khác nữa, vì tự tánh của nó là chơn không vậy.
(13) Không
khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Khổ là những việc làm khổ lụy cho đời người;
tập là những thứ phiền não hoặc nghiệp nhóm góp đã nhiều kiếp; diệt là tịch
diệt Niết bàn; đạo là tám món chánh đạo; đế là thánh trí xét kỷ. Bốn món ấy
nhơn nào quả nấy quyết định không sai.
Do có
nhơn phiền não hoặc nghiệp nhóm góp nhiều đời, chiêu cảm khổ quả sanh tử, quanh
lộn theo bánh xe luân hồi không khi nào thoát khỏi. Ðó là nhơn quả thế gian,
thuộc về phần nhiểm (dơ bẩn).
Nếu
biết quả báo sanh tử là khổ, lo đoạn trừ nhơn phiền não hoặc nghiệp đã nhóm
góp, lấy tám món chánh đạo làm chỗ tu nhơn, tức là chứng đặng Niết bàn lạc quả.
Ðó là nhơn quả xuất thế gian, thuộc về phần tịnh (trong sạch).
Nhưng
tự tánh của các pháp là chơn không, mà chơn không là tuyệt đải, không nhiểm
không tịnh, không sanh tử, không Niết bàn, thì có gì bức bách mà gọi là khổ; có
gì nhóm họp mà gọi là tập; có gì phải chứng mà gọi là diệt; có gì phải tu mà
gọi là đạo. Cho nên kinh nói rằng không có khổ tập diệt đạo là vậy.
(14) Không
trí cũng không đặng là nói chẳng những trong chơn không không có các pháp năm
uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, mười hai nhân duyên và bốn đế như đã
nói ở trước, cho đến cái trí biết đặng không ấy cũng không có. Nếu trí biết
không đã không có, thì lý sở dỉ biết là không lại do đâu mà có được.
Trí và
lý đã không có thì có chi là tâm năng chứng mà gọi rằng trí, có chi là pháp sở
chứng mà gọi rằng đặng. Cho nên kinh nói không trí cũng không đặng là nghĩa như
vậy.
1.- Hán
văn:
Dĩ vô
sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa, y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái
ngại cố; vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam
thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri
Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú,
thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố
thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
"Yết
đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha".
2.-
Việt dịch:
Vì cớ
không có chi đặng, nên bực Bồ đề tát đỏa nương theo Bát nhã Ba la mật đa ấy,
tâm không có chi ngăn ngại; do cớ không có chi ngăn ngại, nên không có chi sợ
hãi, xa lìa tất cả mộng tưởng điên đảo, rốt ráo đặng tánh viên tịch.
Các đức
Phật trong ba đời, cũng nương theo Bát nhã Ba la mật đa ấy, đặng quả vô thượng
chánh đẳng chánh giác (15).
Vậy
biết Bát nhã Ba la mật đa là chú đại thần, chú đại minh, chú vô thượng, chú vô
đẳng đẳng (16), trừ được các thứ khổ, chơn thật chẳng phải dối (17).
Bởi nên
nói chú Bát nhã Ba la mật đa, thì liền thuyết ra chú rằng:
"Yết
đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha".
3.-
Giải nghĩa:
(15) Từ
câu: Vì cớ không có chi là đặng... đến câu: đặng quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Bồ đề
tát đỏa là tiếng Phạn nói đủ; nói tắt chỉ gọi là Bồ tát.
- Niết
bàn là tiếng Phạn; Tàu dịch có nhiều nghĩa, nhưng ở đây chỉ giải theo nghĩa
Viên tịch là đủ. Viên tịch tức là tròn đủ vắng lặng, nghĩa nói các đức đều hoàn
toàn và các chướng đều dứt sạch.
- A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề là tiếng Phạn; Tàu dịch là vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nghĩa là nói bực chánh đẳng chánh giác cao cả không có chi
trên nữa.
Ðại ý đoạn này nói cũng vì các pháp: uẩn, nhập, xứ, giới, duyên, đế cho đến trí
năng chứng và lý sở chứng đã nói trước kia không có chi là đặng, mà không đặng
ấy tức là tướng chơn không bát nhã.
Cho nên
Bồ tát nương theo đó, hoặc chẳng vướng lòng, cảnh không ngăn trí, bao nhiêu
nghiệp lụy thảy đều giải thoát; ngoài ra không có cái sợ về nỗi thiên ma ngoại
đạo nhiểu loạn làm cho thối thất đạo tâm, ác duyên sanh tử được dứt bặt, trong
không có chướng phiền não và sở trí làm cho tự tâm muội theo vô minh, mộng theo
tứ tướng, hoặc nhơn sanh tử được sạch trong. Nhờ vậy Bồ tát đặng rốt ráo tánh
viên tịch (Niết bàn)
Huống
chi chẳng những Bồ tát nương theo chơn không bát nhã làm gốc tu nhơn mà đặng
như vậy, cho đến các đức Phật trong ba đời từ chỗ phát tâm khởi hạnh, nhẩn tới
trải qua các vị đoạn hết các chướng, thành đặng ba đức, chứng quả bồ đề, cũng
đều nương theo chơn không bát nhã để làm căn bản phát hạnh.
Kinh
Ðại Bát nhã nói: tuy thông đạt các pháp tự tánh đều không, các Bồ tát do Bát
nhã ba la mật đa chứng đặng quả vô thượng bồ đề, vần bánh xe diệu pháp, độ vô
luợng chúng sanh; tuy chứng bồ đề mà không có chi là chứng, vì những pháp chứng
cùng chẳng chứng,đều không khá đặng. Cũng bởi cớ không khá đặng ấy, nên không
có chi là năng chứng, sở chứng.
Kinh
Niết Bàn nói: không có chi đặng thì kêu rằng huệ, Bồ tát đặng huệ ấy, nên gọi
rằng không có chi đặng.
Lại
không có chi đặng thì kêu rằng đại Niết bàn, Bồ tát an trụ trong đại Niết bàn
chẳng thấy tánh tướng của các pháp, cho nên gọi rằng không có chi đặng.
Ngài
Chơn Thật Huệ Bồ tát nói: Phật pháp chẳng khá biết, rõ vậy gọi là biết, chư
Phật tu như thế một pháp chẳng khá đặng. Ngài lại nói: Các pháp vốn không trụ,
định xứ chẳng khá đặng, chư Phật trụ ở đó, rốt ráo chẳng động lay.
Nàng
Thiên nữ trong kinh Tịnh Danh nói rằng: nếu có đặng có chứng là bọn tăng thượng
mạn ở trong Phật pháp; không thấy không đặng, thì mới chứng đặng; đặng với
không đặng đều tuyệt danh ngôn, chẳng phải lìa cái có đặng mà chứng cái không
đặng; vậy mới là thiệt không đặng.
Xét vậy
thì biết ở trong chơn không có cái có rất mầu, trong cái không đặng mà đặng cái
đặng rất diệu. Nhưng có trong chơn không nguyên chẳng phải đối với không mà gọi
rằng có theo chỗ thường kiến của phàm phu; cũng chẳng phải không cái ngã mà có
pháp, hay không cái có mà có cái không, theo chỗ sở chấp của Tiểu thừa; lại
cũng chẳng phải có mà gọi rằng trong vũ trụ có một đấng thần ngã làm chủ tể hết
thảy vạn hữu, theo chỗ tín ngưởng của ngoại đạo.
Thiệt
ra chơn không tùy duyên hiện có các pháp, các pháp là tướng chơn không, cho nên
những nhơn thập độ và quả bồ đề cũng đều do nơi chơn không mà thành lập.
Bởi không đạt tới lý ấy, nên không biết không đặng mà có đặng, mà đặng ấy tức
là không đăïng, chớ chẳng phải được có đặng, rồi trở lại khởi tâm chứng đắc,
chấp pháp hữu vô, thành ra sai đường lạc lối. Phàm phu bị chướng phiền não rối
loạn tự tâm, làm cho tâm không giải thoát được, nên tạo ra những nghiệp thiện
ác phải thọ khổ quả sanh tử luân hồi.
Tiểu
thừa bị chướng sở tri ngăn che diệu huệ, làm cho huệ không chỗ phát triển,
chẳng rõ được tự tâm và chẳng thông đạt tánh tướng của các pháp; nên tuy ra
khỏi tam giới mà cũng ở vào địa vị quyền hạ chớ không thành Phật.
Rất đổi
những hạng người chấp có thần ngã và chấp không đoạn diệt, phải bị đọa lạc vào
ma giới và vô gián, như các ngoại đạo.
Vậy nên
những người học Bát nhã, cần phải biết diệu dụng của chơn không, nương theo vô
sở đắc của Bát nhã làm chỗ khởi hành, mới mong một ngày kia rõ thấy thiệt
tướng, đạt đến cảnh giới bên bờ kia.
(16) Từ
câu: Vậy biết Bát nhã ba la mật đa... đến câu: là chú vô đẳng đẳng.
Trong
đoạn này là lời kết khen công năng siêu thắng của Bát nhã.
- Chú
tiếng Phạn gọi là Ðà la ni; Tàu dịch là Tổng trì. Nay kinh này nói chú là tổng
nhiếp tất cả giáo hiển mật trong đại tạng, không còn có nghĩa lý chi lọt ra
ngoài được. Chú cũng có nghĩa là chú nguyện là mỗi khi Phật thuyết pháp, hằng
chú nguyện cho chúng sanh đều đặng như Phật.
Ðại ý
nói rằng chư Phật và Bồ tát đều nương theo Bát nhã mà đặng qua Bồ đề Niết bàn,
cho nên biết công năng của Bát nhã là rất thần, rất minh, tột cao, tột bực,
không có pháp nào hơn.
Xin lược
cử bốn đức chia làm ba phần giải thích như sau:
a.-
Giải thích theo pháp:
(a)-
Diệu huệ không lường, trừ được hoặc chướng, nên gọi là đại thần chú.
(b)- Do huệ không lường mà trí giám sáng suốt, không còn mờ ám, nên gọi là đại
minh chú.
(c)-
Huệ ấy khó nghĩ bàn, siêu việt cao cả, trên hết các bực quyền tiểu, nên gọi là
vô thượng chú
(d)-
Rốt lại chỉ có huệ ấy rất mầu, không chi sánh đặng, nên gọi là vô đẳng đẳng
chú.
b.- Giải thích theo công năng:
(a)-
Năng lực không lường của diệu huệ phá đặng chướng phiền não, nên gọi là đại
thần chú.
(b)-
Năng lực sáng suốt của diệu huệ phá được hoăïc vô minh, nên gọi là đại minh
chú.
(c)- Từ lúc ban đầu phát tâm nhẩn đến sau rốt lên bực đẳng giác, năng lực của
diệu huệ nhơn vị cao tột, nên gọi là vô thượng chú.
(d)-
Lại cũng do huệ ấy chứng đặng bực diệu giác cực quả, muôn đức đầy đủ, công năng
ấy không chi sánh bằng, nên gọi là vô đẳng đẳng chú.
c.-
Giải thích theo quả vị:
(a)-
Diệu huệ không lường ấy chẳng phải phàm phu có được, nên gọi là đại thần chú.
(b)- Những hàng Tiểu thừa tuy dứt được phiền não, ra khỏi tam giới, chưa trừ
được vô minh và chưa đoạn được tri chứng; nay diệu huệ sáng suốt không ngần,
siêu việt ở ngoài phạm vi quyền tiểu, nên gọi là đại minh chú.
(c)-
Những bực đẳng giác tuy hai chướng đều ly, một tâm rõ rệt, nhơn vị hãy còn bực
diệu giác cao hơn; nay diệu huệ cứu cánh tột bực, không có chi trên nữa, nên
gọi là vô thượng chú.
(d)-
Quả vị sở chứng của các Phật thì bằng nhau, ngoài ra không ai sánh được bực ấy,
nên gọi là vô đẳng đẳng chú.
Nhưng
phải hiểu rằng ba phần giải thích trên đây là tán thán thể diệu huệ, đã có thể
thì phải có dụng, cho nên kể đến công năng; chỗ diệu dụng đã cương minh, thì
tất phải có quả chứng.
Trong
Trí luận nói: "Ông Ðế Thích bạch với Phật rằng: "Bát nhã Ba la mật đa
là một chú thuật lớn nhứt trong các chú thuật vì có năng lực thường thí cái vui
đạo đức cho chúng sanh.
Còn cái
vui trong các chú thuật của ngoại đạo, thì hay khởi sự phiền não và tạo nghiệp
bất thiện, rồi bị đọa vào ác đạo.
Các chú
thuật kia hay tùy theo sự ham muốn nóng giận mà tạo ác. Còn chú Bát nhã Ba la
mật đa có năng lực diệt được các thứ bịnh chấp trước về thiền định, đạo pháp và
Niết bàn, huống chi là bịnh tham sân mà chẳng trị được. Vậy nên gọi là đại
thần, đại minh, vô thượng, vô đẳng đẳng".
(16) Trừ
được hết thảy các thứ khổ, chơn thật, chẳng phải dối. Câu này là lời tổng
kết công năng siêu thắng của Bát nhã.
Ðại ý
nói rằng chú này có năng lực trừ được vô lượng khổ ách, an trí hết thảy chúng
sanh ở trên địa vị đại thừa, không còn một mảy nào khó khăn ở trong hai thứ
sanh tử phân đoạn và biến dịch.
Bởi vì
trong các thứ khổ do nơi hoặc nghiệp gây ra, chú này hiển thị tướng chơn không,
quét sạch hết thảy hoặc chướng, thì còn đâu tạo thành nghiệp nhơn thọ lấy khổ
quả. Cũng ví như mặt trời mọc thì bao nhiêu sương tuyết đều tan.
Nhưng
phải hiểu rằng câu: Năng trừ nhứt thiết khổ này, tức là độ nhứt thiết khổ ách ở
trước, vì sợ tín tâm của chúng sanh tin không tới, nên nói lập lại bảo cho biết
rằng: năng lực trừ khổ, cứu khổ của Bát nhã, là quyết định chơn thật như vậy,
chớ không phải dối.
(17) Từ
câu: Cho nên nói chú Bát nhã Ba la mật đa... đến câu: Bồ đề tát bà ha.
Trước kia đã khai thị về hiển liểu Bát nhã rồi, nay lại phát minh về bí mật Bát
nhã, cốt ý dạy cho những người học Bát nhã rõ lý tức hiển tức mật, công dụng
huyền diệu không thể nghĩ lường.
Chú là
lời nói bí mật của chư Phật, đến bực nhơn vị Bồ tát cũng không rõ được huống
chi là phàm phu. Phật dạy cứ chuyên tâm trì tụng, tự nhiên trừ được hoặc
chướng, thêm được phước duyên.
Bởi
không thể lấy phàm ngữ giải nghĩa được, nếu có giải chỉ là cưỡng giải tức là
gắng gượng giải nghĩa mà thôi.
Thuở
xưa, các bực Tiên đức chú giải Tâm kinh cũng có luận về nghĩa cưỡng giải như
đưới đây:
"Yết
đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha".
Theo
Phạn ngữ thì giọng đọc giống như vầy: "Yaté, yaté, para yaté, para so
yaté, boddhi waha".
- Yết
đế: nghĩa là độ.
- Yết
đế, yết đế: tự độ độ tha.
- Ba
la yết đế: độ cho đến bờ bên kia, tức là bờ giác.
- Ba
la tăng yết đế: khắp độ tất cả chúng sanh đồng đến bờ bên kia.
- Bồ
đề tát bà ha: cho mau được hoàn toàn giác ngộ.
KHUYẾN
TU
Ba vạn sáu ngàn ngày tợ huyễn!
Sống nhân luân trông thấy những buồn lòng.
Sanh già bệnh chết khổ long đong,
Mãn suy tính có không mà nghiệp tạo.
Dục đắc an thân tầm chánh đạo,
Vô như hướng Phật ngộ chơn tâm.
Thuyền từ bi đưa khỏi bến mê lầm,
Gương phước huệ sáng soi cơn mộng túy.
Tín, Hạnh, Nguyện, phụng trì chơn lý,
Thời đương lai thoát kiếp phù trầm.
Thành công căn bổn là Tâm!
TỪ
QUANG.
- HẾT -
Nguyệt San Liên Hoa Số 402 Tháng 02 năm 2004
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen Thực Hiện