TẬP II: THIÊN
NHÂN DUYÊN
CHƯƠNG I
12. TƯƠNG ƯNG NHÂN DUYÊN
I. Phẩm Phật Ðà.
I. Thuyết Pháp -- (Tạp 12.16, Ðại 2,85a) (S.ii,1)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Thắng Lâm), trong
vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch
Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói:
-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về lý Duyên khởi. Hãy
lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô
minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên
sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ
duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
được khởi lên. Như vậy toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Này các Tỷ-kheo,
như vậy gọi là tập khởi.
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành
diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do
danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt
nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ
diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết,
sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt.
5) Thế Tôn nói như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
II. Phân Biệt -- (Tạp 12.16, Ðại 2,85a) (S.ii,2)
1) Trú ở Sàvatthi (Xá-vệ).
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết và phân tích cho các Ông về lý
Duyên khởi. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô
minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên
sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ
duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là già chết? Cái gì thuộc chúng sanh
này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại
chúng sanh khác, bị già, yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn,
tuổi thọ tàn lụi, các căn chín muồi. Ðây gọi là già. Cái gì thuộc chúng
sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ
loại chúng sanh khác, sự từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn hư
hoại, thân thể vứt bỏ. Ðây gọi là chết. Như vậy đây là già, đây là chết.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là già chết.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sanh? Cái gì thuộc chúng sanh này
hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại
chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện
các uẩn, sự thành tựu các xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sanh.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu? Này các Tỷ-kheo, có ba hữu
này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủ? Này các Tỷ-kheo, có bốn thủ
này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Này các Tỷ- kheo,
đây gọi là thủ.
8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ái? Này các Tỷ-kheo, có sáu ái thân
này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Này các Tỷ-
kheo, đây gọi là ái.
9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ
thân này: thọ do nhãn xúc sanh; thọ do nhĩ xúc sanh; thọ do tỷ xúc sanh;
thọ do thiệt xúc sanh; thọ do thân xúc sanh; thọ do ý xúc sanh. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là thọ.
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xúc? Này các Tỷ-kheo, có sáu xúc
thân này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là xúc.
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ,
thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sáu xứ.
12) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác
ý; đây gọi là danh. Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo ra; đây
gọi là sắc. Như vậy đây là danh, đây là sắc. Ðây gọi là danh sắc.
13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức? Này các Tỷ-kheo, có sáu thức
thân này: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức.
14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Này các Tỷ-kheo, có ba hành
này: thân hành, khẩu hành, ý hành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành.
15) Này các Tỷ-kheo, thế nào là vô minh? Này các Tỷ-kheo, không rõ
biết Khổ, không rõ biết Khổ tập, không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết
Con đường đưa đến Khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh.
16) Như vậy này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức;
thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên
thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh
duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ
khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách
hoàn toàn, nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên
danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc
diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên
thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh
diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là toàn bộ
khổ uẩn này đoạn diệt.
III. Con Ðường... (S.ii,4)
1). .. Trú ở Sàvatthi... (như trên).
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông về tà đạo và
chánh đạo. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà đạo? Này các Tỷ-kheo, vô minh
duyên hành; hành duyên thức... (như trên)... như vậy là toàn bộ khổ uẩn
này tập khởi. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tà đạo.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh đạo? Do ly tham, đoạn diệt vô
minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt...
(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là chánh đạo.
IV. Vipassì (Tỳ-bà-thi) (Tạp 15.2-3, Ðại 2,101a) (S.ii,5)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
trước khi Ngài giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, đã
khởi lên tư tưởng sau đây: "Thật sự thế giới này đang lâm nguy, bị sanh,
bị già, bị chết, đoạn diệt và tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không
biết xuất ly, thoát khỏi già và chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi
nào biết đến xuất ly, thoát khỏi già và chết".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì suy nghĩ như sau: "Do cái gì
có mặt, già, chết có mặt? Do duyên gì, già, chết (sanh khởi)?". Sau khi
như lý tư duy, này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh
minh kiến như sau: "Do sanh có mặt, già chết có mặt. Do duyên sanh, già
chết (sanh khởi)".
4) Rồi Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, sanh
có mặt? Do duyên gì, sanh sanh khởi?". Sau khi như lý tư duy, này các
Tỷ- kheo, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do
hữu có mặt nên sanh có mặt. Do duyên hữu, sanh (sanh khởi)".
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, hữu có mặt? Do duyên gì, hữu (sanh khởi)?" Rồi này các Tỷ-
kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh
kiến như sau: "Do thủ có mặt, nên hữu có mặt. Do duyên thủ, hữu sanh
khởi".
6) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, thủ có mặt? Do duyên gì, thủ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-
kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh
kiến như sau: "Do ái có mặt nên thủ có mặt. Do duyên ái, thủ sanh khởi".
7) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, ái có mặt? Do duyên gì, ái sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo,
sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến
như sau: "Do thọ có mặt nên ái có mặt. Do duyên thọ, nên ái sanh khởi".
8) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, thọ có mặt? Do duyên gì, thọ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-
kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ phát sinh minh
kiến như sau: "Do xúc có mặt nên thọ có mặt. Do duyên xúc, thọ sanh
khởi".
9) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, xúc có mặt? Do duyên gì, xúc sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-
kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh
kiến như sau: "Do sáu xứ có mặt nên xúc có mặt. Do duyên sáu xứ, xúc
sanh khởi".
10) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, sáu xứ có mặt? Do duyên gì, sáu xứ sanh khởi?" Rồi này các
Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh
minh kiến như sau: "Do danh sắc có mặt nên sáu xứ có mặt. Do duyên danh
sắc, sáu xứ sanh khởi".
11) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, danh sắc có mặt? Do duyên gì, danh sắc sanh khởi?" Rồi này
các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do thức có mặt nên danh sắc có mặt. Do duyên
thức, danh sắc sanh khởi".
12) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, thức có mặt? Do duyên gì, thức sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-
kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh
kiến như sau: "Do hành có mặt nên thức có mặt. Do duyên hành, thức sanh
khởi".
13) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì có mặt, hành có mặt? Do duyên gì, hành sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-
kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh
kiến như sau: "Do vô minh có mặt nên hành có mặt. Do duyên vô minh, hành
sanh khởi".
14) Như vậy, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh
sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên
ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết,
sầu, bi, khổ, ưu, não được sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ
khổ uẩn này.
15) "Tập khởi, tập khởi", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước
chưa từng được nghe, với Bồ-tát Vipassì, nhãn khởi lên, trí khởi lên,
tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.
16) Và này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên già, chết không có mặt? Do cái gì diệt, già, chết
diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ tát Vipassì nhờ
trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do sanh không có mặt nên già chết
không có mặt. Do sanh diệt nên già chết diệt".
17) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên sanh không có mặt? Do cái gì diệt nên sanh diệt?" Rồi
này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sanh minh kiến như sau: "Do hữu không có mặt nên sanh không có mặt. Do
hữu diệt nên sanh diệt".
18) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên hữu không có mặt? Do cái gì diệt nên hữu diệt?" Rồi
này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sanh minh kiến như sau: "Do thủ không có mặt nên hữu không có mặt. Do
thủ diệt nên hữu diệt".
19) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên thủ không có mặt? Do cái gì diệt nên thủ diệt?" Rồi
này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sanh minh kiến như sau: "Do ái không có mặt nên thủ không có mặt. Do ái
diệt nên thủ diệt".
20) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên ái không có mặt? Do cái gì diệt nên ái diệt?" Rồi này
các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sanh minh kiến như sau: "Do thọ không có mặt nên ái không có mặt. Do thọ
diệt nên ái diệt".
21) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên thọ không có mặt? Do cái gì diệt nên thọ diệt?" Rồi
này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sanh minh kiến như sau: "Do xúc không có mặt nên thọ không có mặt. Do
xúc diệt nên thọ diệt".
22) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên xúc không có mặt? Do cái gì diệt nên xúc diệt?" Rồi
này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sanh minh kiến như sau: "Do sáu xứ không có mặt nên xúc không có mặt.
Do sáu xứ diệt, nên xúc diệt".
23) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì
không có mặt nên sáu xứ không có mặt? Do cái gì diệt nên sáu xứ diệt?"
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ,
phát sanh minh kiến như sau: "Do danh sắc không có mặt nên sáu xứ không
có mặt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt".
24) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì không có mặt nên danh sắc không có mặt? Do cái gì diệt nên danh sắc
diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ
trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do thức không có mặt nên danh sắc
không có mặt. Do thức diệt nên danh sắc diệt".
25) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì không có mặt nên thức không có mặt? Do cái gì diệt nên thức diệt?"
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ,
phát sanh minh kiến như sau: "Do hành không có mặt nên thức không có
mặt. Do hành diệt nên thức diệt".
26) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái
gì không có mặt nên hành không có mặt? Do cái gì diệt nên hành diệt?"
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ,
phát sanh minh kiến như sau: "Do vô minh không có mặt nên hành không có
mặt. Do vô minh diệt nên hành diệt".
27) Như vậy, do vô minh diệt nên hành diệt. Do hành diệt nên thức
diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt.
Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên
ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt
nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, diệt.
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
28) "Ðoạn diệt, đoạn diệt", này các Tỷ-kheo, trong các pháp từ trước
chưa từng được nghe, đối với Bồ-tát Vipassì, nhãn khởi nên, trí khởi
lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.
V. Sikhì (Thi-khí) (S.ii,9)
-- Này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác... (như trên)...
VI. Vessabhu (Tỳ-xá-phù) (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Vessabhu, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác... (như trên)...
VII. Kakusandha (Câu-lưu-tôn) (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác... (như trên)...
VIII. Konàgamana (Câu-na-hàm). (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác... (như trên)...
IX. Kassapa (Ca-diếp) (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác... (như trên)...
X. Mahà Sakya Muni Gotama: Ðại Thích-ca-mâu-ni Cù-đàm. (S.ii,10)
1) Tại Sàvatthi.
2) -- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng
Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Thật sự
thế giới này bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn
diệt và bị tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết sự xuất ly, thoát
khỏi già chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào được biết đến sự
xuất ly già chết".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì có mặt, già,
chết có mặt? Do duyên gì, già chết sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau
khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ, Ta phát sinh minh kiến như sau: "Do
sanh có mặt nên già chết có mặt. Do duyên sanh nên già chết sanh khởi".
4 - 13) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì có mặt,
sanh mới có mặt...hữu... thủ...ái...thọ...xúc...sáu xứ...danh
sắc...thức... hành... do duyên gì hành sanh khởi?"
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí
tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: "Do vô minh có mặt nên hành có mặt.
Do duyên vô minh nên hành sanh khởi".
14) Như vậy vô minh duyên hành, hành duyên thức...(như trên)...hữu
duyên sanh, sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như
vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
15) "Tập khởi, tập khởi", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước
chưa từng được nghe, chính nơi Ta, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi
lên, minh khởi lên, quang khởi lên.
16) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có
mặt, già chết không có mặt? Do cái gì diệt, nên già chết diệt?" Rồi này
các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát
sanh minh kiến như sau: "Do sanh không có mặt nên già chết không có mặt.
Do sanh diệt nên già chết diệt".
17) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có
mặt, sanh không có mặt. ..hữu. ..thủ. ..ái. ..thọ. ..xúc. ..sáu
xứ...danh sắc. ..thức. ..hành... Do cái gì diệt, hành diệt?"
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí
tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: "Do vô minh không có mặt nên hành
không có mặt. Do duyên vô minh diệt nên hành diệt".
27) Như vậy, vô minh diệt hành diệt; hành diệt, thức diệt... Như vậy
là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
28) "Ðoạn diệt, đoạn diệt", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ
trước chưa từng được nghe, chính nơi Ta nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ
khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.
II. Phẩm Ðồ Ăn
XI. Các Loại Ðồ Ăn (Tạp 15,9 Thực Ðại 2, 101c) (S.ii,11)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Thắng Lâm) trong
vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc )
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh
vật hay các loại chúng sanh được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh
thành được thọ sanh. Thế nào là bốn? Một là đoàn thực hoặc thô hoặc tế,
hai là xúc thực, ba là tư niệm thực, bốn là thức thực. Này các Tỷ-kheo,
bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh vật hay khiến cho các loại
chúng sanh được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ
sanh.
3) Và này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này do cái gì làm nhân, do cái
gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Bốn loại đồ
ăn này do ái làm nhân, do ái tập khởi, do ái tác sanh, do ái làm hiện
hữu.
4) Ái này, này các Tỷ-kheo, do cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi,
do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Ái do thọ làm nhân, do
thọ tập khởi, do thọ tác sanh, do thọ làm cho hiện hữu.
5) Thọ này, này các Tỷ-kheo, do cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi,
do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Thọ do xúc làm nhân, do
xúc tập khởi, do xúc tác sanh, do xúc làm cho hiện hữu.
6) Xúc này, này các Tỷ-kheo, do cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi,
do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Xúc do sáu xứ làm nhân,
do sáu xứ tập khởi, do sáu xứ tác sanh, do sáu xứ làm cho hiện hữu.
7) Sáu xứ này, này các Tỷ-kheo, do cái gì làm nhân, do cái gì tập
khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Sáu xứ do danh sắc
làm nhân, do danh sắc tập khởi, do danh sắc tác sanh, do danh sắc làm
cho hiện hữu.
8) Danh sắc này, này các Tỷ-kheo, do cái gì làm nhân, do cái gì tập
khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Danh sắc do thức
làm nhân, do thức tập khởi, do thức tác sanh, do thức làm cho hiện hữu.
9) Thức này, này các Tỷ-kheo, do cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi,
do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Thức do hành làm nhân,
do hành tập khởi, do hành tác sanh, do hành làm cho hiện hữu.
10) Những hành này, này các Tỷ-kheo, do cái gì làm nhân, do cái gì
tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu?Các hành này do
vô minh làm nhân, do vô minh tập khởi, do vô minh tác sanh, do vô minh
làm cho hiện hữu.
11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên
thức...(như trên )...như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
12) Nhưng do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, các
hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt...(như trên)...như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
XII. Moliya Phagguna (Tạp 15,10. Ðại 2,102) (S.ii,12).
1)...Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh
vật hay các loại chúng sanh được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh
thành được thọ sanh. Thế nào là bốn? Một là đoàn thực hoặc thô hoặc tế,
hai là xúc thực, ba là tư niệm thực, bốn là thức thực. Này các Tỷ-kheo,
bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh vật hay khiến cho các loại
chúng sanh được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ
sanh.
3) Khi được nói vậy, Tôn giả Moliya-Phagguna bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, ai ăn thức thực?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói: "Có ai ăn". Nếu Ta nói:
"Có kẻ ăn", thời câu hỏi: "Có ai ăn" là câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta
không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi Ta: "Bạch
Thế Tôn, thức thực là cho ai?", thời câu hỏi ấy thích hợp. Ở đây, câu
trả lời thích hợp là như sau: "Thức thực là duyên cho sự sanh thành, cho
sự tái sanh trong tương lai. Khi cái ấy hiện hữu, có mặt thời sáu xứ có
mặt. Do duyên sáu xứ, xúc có mặt".
4) -- Bạch Thế Tôn, ai cảm xúc?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói: "Có kẻ cảm xúc". Nếu Ta
nói: "Có kẻ cảm xúc", thời câu hỏi: "Ai cảm xúc" là câu hỏi thích hợp.
Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi
Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, xúc sanh khởi?", thời câu hỏi ấy thích
hợp. Ở đây câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên sáu xứ, xúc sanh
khởi. Do duyên xúc, thọ sanh khởi".
5) -- Bạch Thế Tôn, ai cảm thọ?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói: "Có người cảm thọ". Nếu
ta có nói: "Có người cảm thọ", thời câu hỏi: "Ai cảm thọ?" là câu hỏi
thích hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu
có ai hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, thọ sanh khởi?", thời câu hỏi
ấy thích hợp. Ở đây câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên xúc, thọ
sanh khởi. Do duyên thọ, ái sanh khởi".
6) -- Bạch Thế Tôn, ai khát ái?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói: "Có kẻ khát ái". Nếu Ta
nói: "Có kẻ khát ái", thời câu hỏi: "Ai khát ái" là câu hỏi thích hợp.
Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi
Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, ái sanh khởi", thời câu hỏi ấy thích
hợp. Ở đây, câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên thọ, ái sanh
khởi. Do duyên ái, thủ sanh khởi".
7) --Bạch Thế Tôn, ai chấp thủ?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói: "Có kẻ chấp thủ". Nếu Ta
nói: "Có kẻ chấp thủ", thời câu hỏi: "Ai chấp thủ" là câu hỏi thích
hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai
hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, thủ sanh khởi", thời câu hỏi ấy
thích hợp. Ở đây, câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên ái, thủ
sanh khởi. Do duyên thủ, hữu sanh khởi". Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
tập khởi.
8) Nhưng này Phagguna, do ly tham, đoạn diệt một cách hoàn toàn sáu
xứ nên xúc diệt. Do xúc diệt, nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do
ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh
diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là
toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
XIII. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp 14.10-11. Ðại 2,99a) (S.ii,14)
1) Trú ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không biết rõ
già, chết, không biết rõ già, chết tập khởi, không biết rõ già, chết
đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến già, chết đoạn diệt; không
biết rõ sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc...
thức... không biết rõ các hành, không biết rõ các hành tập khởi, không
biết rõ các hành đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến các hành
đoạn diệt; các vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không được chấp nhận là Sa-môn
giữa các Sa-môn, hay là Bà-la-môn giữa các Bà-la-môn. Và những bậc Tôn
giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại cũng không có thể với thắng trí tự
mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh và mục đích
Bà-la-môn hạnh.
3) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay là Bà-la-môn nào biết rõ già
chết, biết rõ già chết tập khởi, biết rõ già chết đoạn diệt, biết rõ con
đường đưa đến già chết đoạn diệt... biết rõ sanh... hữu... thủ... ái...
thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... biết rõ các hành, biết rõ
các hành tập khởi, biết rõ các hành đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến
các hành đoạn diệt; các Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được chấp nhận là
Sa-môn giữa các Sa-môn, hay là Bà-la-môn giữa các Bà-la-môn. Và những
bậc Tôn giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại có thể với thắng trí tự
mình giác ngộ, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn và mục đích Bà-la-môn
hạnh.
XIV. Sa Môn, Bà La Môn (S.ii,15)
1). .. Trú ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay là Bà-la-môn nào không biết
rõ những pháp này, không biết rõ những pháp này tập khởi, không biết rõ
những pháp này đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến những pháp này
đoạn diệt.
3) Những pháp gì họ không được biết rõ? Những pháp gì họ không được
biết rõ tập khởi? Những pháp gì họ không được biết rõ đoạn diệt? Những
pháp gì họ không được biết rõ con đường đưa đến đoạn diệt?
4) Họ không biết rõ già chết. Họ không biết rõ già chết tập khởi. Họ
không biết rõ già chết đoạn diệt. Họ không biết rõ con đường đưa đến già
chết đoạn diệt. Họ không biết rõ sanh... hữu... thủ... ái... thọ...
xúc... sáu xứ... danh sắc... thức...Họ không biết rõ các hành. Họ không
biết rõ các hành tập khởi. Họ không biết rõ các hành đoạn diệt. Họ không
biết rõ con đường đưa đến các hành đoạn diệt. Họ không biết rõ những
pháp này. Họ không biết rõ những pháp này tập khởi. Họ không biết rõ
pháp này đoạn diệt. Họ không biết rõ con đường đưa đến những pháp này
đoạn diệt.
5) Này các Tỷ-kheo, các Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không được chấp nhận
là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn.
Những bậc Tôn giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại, cũng không có thể
với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn
hạnh và mục đích Bà-la-môn hạnh.
6) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biết rõ được
những pháp này, biết rõ được những pháp này tập khởi, biết rõ được những
pháp này đoạn diệt, biết rõ được con đường đưa đến những pháp này đoạn
diệt.
7) Họ biết rõ pháp gì? Họ biết rõ những pháp gì tập khởi? Họ biết rõ
những pháp gì đoạn diệt? Họ biết rõ con đường đưa đến những pháp gì đoạn
diệt?
8) Họ biết rõ già chết. Họ biết rõ già chết tập khởi. Họ biết rõ già
chết đoạn diệt. Họ biết rõ con đường đưa đến già chết đoạn diệt...
sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức...
Họ biết rõ các hành. Họ biết rõ các hành tập khởi. Họ biết rõ các hành
đoạn diệt. Họ biết rõ con đường đưa đến các hành đoạn diệt. Họ biết rõ
những pháp này. Họ biết rõ những pháp này tập khởi. Họ biết rõ những
pháp này đoạn diệt. Họ biết rõ con đường đưa đến của những pháp này đoạn
diệt.
9) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được chấp nhận là
Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn.
Và những bậc Tôn giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại, với thắng trí, tự
mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh và mục đích
Bà-la-môn hạnh.
XV. Kaccàyanagotta: (Ca-chiên-diên Thị) (Tạp 12.19 Ðại 2,85c)
(S.ii,16)
1) Trú ở Sàvatthi (Xá-vệ)...
2) Rồi Tôn giả Kaccàyanagotta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kaccàyanagotta bạch Thế Tôn:
-- "Chánh kiến, chánh kiến", bạch Thế Tôn được nói đến như vậy. Bạch
Thế Tôn, cho đến như thế nào là chánh kiến?
4) -- Này Kaccàyana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan
này: có và không có.
5) Này Kaccàyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới tập
khởi, vị ấy không chấp nhận thế giới là không có. Này Kaccàyana, ai với
chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới đoạn diệt, vị ấy không chấp nhận
thế giới là có.
6) Này Kaccàyana, chấp thủ phương tiện và bị thiên kiến trói buộc,
phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với tâm không trú trước, chấp thủ
phương tiện ấy, không chấp thủ thiên chấp tùy miên ấy, không có chấp
trước, không trú trước, vị ấy không có nghĩ: "Ðây là tự ngã của tôi".
Khi khổ sanh thời xem là sanh, khi khổ diệt thời xem là diệt; vị ấy
không có nghi ngờ, không có phân vân, không duyên vào ai khác, trí ở đây
là của vị ấy. Cho đến như vậy, này Kaccàyana là chánh tri kiến.
7) "Tất cả là có", này Kaccàyana, là một cực đoan. "Tất cả là không
có" là cực đoan thứ hai.
Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccàyana, Như Lai thuyết pháp theo trung
đạo.
8) Vô minh duyên hành. Hành duyên thức... (như trên)... Như vậy là
toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh một
cách hoàn toàn, nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt...
(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
XVI. Vị Thuyết Pháp (Tạp 14.23-4. Thuyết Pháp, Ðại 2,100c)
(S.ii,18)
1) Tại Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Thuyết pháp, thuyết pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến.
4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về yếm ly, ly tham, đoạn diệt già và
chết, như vậy là đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp.
5) Nếu Tỷ-kheo thực hành về yếm ly, ly tham, đoạn diệt già chết, như
vậy là đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực hành các pháp và tùy pháp.
6) Nếu Tỷ-kheo giải thoát, không còn chấp thủ mọi yếm ly, ly tham,
đoạn diệt già chết, như vậy là đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được
Niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại.
7) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt sanh...
hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... hành...
(như trên)... Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về yếm ly, ly tham, đoạn diệt vô
minh, như vậy là đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp.
8) Nếu Tỷ-kheo thực hành về yếm ly, ly tham, đoạn diệt vô minh, như
vậy là đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực hành các pháp và tùy pháp.
9) Nếu Tỷ-kheo giải thoát, không còn chấp thủ mọi yếm ly, ly tham,
đoạn diệt vô minh, như vậy là đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được
Niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại.
XVII. Loã Thể (Tạp 12.20, Ðại 2,86a Ðại 14,768) (S.ii,18)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại
chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Ràjagaha để
khất thực.
3) Lõa thể Kassapa thấy Thế Tôn từ xa đi đến. Sau khi thấy, lõa thể
Kassapa đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi
thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng
một bên.
4) Ðứng một bên, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về một vấn đề. Nếu Tôn giả
Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi.
-- Này Kassapa, nay không phải thời để hỏi. Chúng ta đã vào trong
làng.
5) Lần thứ hai, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về một vấn đề. Nếu Tôn giả
Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi.
-- Này Kassapa, nay không phải thời để hỏi. Chúng ta đã vào trong
làng.
6) Lần thứ ba, lõa thể Kassapa... (như trên)... Chúng ta đã vào trong
làng.
Khi được nói vậy, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Nhưng không phải chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama nhiều chuyện.
-- Vậy hãy hỏi đi, này Kassapa, như Ông muốn.
7) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do tự mình làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
8) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
9) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do mình làm ra và do người
khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
10) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra,
không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
11) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?
-- Này Kassapa, không phải khổ không có. Khổ có, này Kassapa.
12) -- Như vậy, Tôn giả Gotama không biết, không thấy khổ.
-- Này Kassapa, không phải Ta không biết, không thấy khổ. Này
Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ.
13) -- Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải tự mình làm ra", Ngài
trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ
có phải do người khác làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này
Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải do tự mình làm ra và do
người khác làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược
hỏi: "Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra và không do
người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?", Ngài trả lời: "Không phải
vậy, này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?",
Ngài trả lời: "Không phải khổ không có. Khổ có, này Kassapa". Ðược hỏi:
"Như vậy Tôn giả Gotama, không biết, không thấy khổ?", Ngài trả lời:
"Này Kassapa, không phải Ta không biết, không thấy khổ. Này Kassapa, Ta
biết
khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ". Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên cho
con về khổ, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết cho con về khổ.
14) -- Một người làm và chính người làm ấy cảm thọ (kết quả). Này
Kassapa, như Ông gọi ban đầu "khổ do tự mình làm ra", như vậy có nghĩa
là thường kiến.
Một người khác làm và một người khác cảm thọ. Này Kassapa, như vậy
đối với người bị cảm thọ, được xảy ra như: "Khổ do người khác làm ra",
như vậy có nghĩa là đoạn kiến.
15) Này Kassapa, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo con
đường trung đạo. Vô minh duyên hành, hành duyên thức... Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly tham và đoạn diệt hoàn toàn vô
minh, các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như
vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
16) Khi được nghe nói vậy, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi
bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp
đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Và nay
con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn,
con xin xuất gia với Thế Tôn, con xin thọ đại giới.
17) -- Này Kassapa, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn
thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú; sau
khi sống bốn tháng biệt trú, nếu chúng Tăng đồng ý sẽ cho xuất gia, cho
thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người
sai biệt nhau.
18) -- Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn
xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng
biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho
xuất gia, cho thọ đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau
khi sống biệt trú bốn năm nếu chúng Tăng đồng ý, mong chúng Tăng cho con
xuất gia, cho con thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
19) Và lõa thể Kassapa được xuất gia với Thế Tôn và được thọ đại
giới.
20) Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Kassapa ở một mình, an tịnh,
không phóng dật, sống nhiệt tâm, tinh cần. Và không bao lâu vị này chứng
được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình hướng đến; đó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh
ngay trong đời sống hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng
đạt và an trú. Vị này chứng tri: "Sanh đã tận. Phạm hạnh đã thành, những
gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".
21) Và Tôn giả Kassapa trở thành một vị A-la-hán nữa.
XVIII. Timbaruka (Tạp 12.21 Ðại 2, 86b) (S.ii,22)
1) Trú ở Sàvatthi...
2) Rồi du sĩ Timbaruka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên những lời
chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, du sĩ Timbaruka bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ tự mình làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
4) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc khổ do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
5) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc khổ do tự mình làm ra và
do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
6) -- Thưa Tôn giả Gotama, lạc khổ không do tự mình làm ra, không do
người khác làm ra; vậy có phải lạc khổ do tự nhiên sanh?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
7) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải không có lạc khổ?
8) -- Này Timbaruka, không phải không có lạc khổ. Này Timbaruka, có
lạc khổ.
-- Nếu vậy, Tôn giả Gotama không biết, không thấy lạc khổ.
9) -- Này Timbaruka, không phải Ta không biết, không thấy lạc khổ.
Này Timbaruka, Ta biết lạc khổ. Này Timbaruka, Ta thấy lạc khổ.
10) -- Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do tự mình làm
ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi: " Thưa
Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do người khác làm ra?", Ngài trả lời:
"Không phải vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, có phải
lạc khổ do tự mình làm ra và do người khác làm ra?", Ngài đáp: "Không
phải vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, không phải do
tự mình làm ra, không do người khác làm ra, có phải lạc khổ do tự nhiên
sanh?", Ngài đáp: "Không phải vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn
giả Gotama, có phải lạc khổ không có?", Ngài đáp: "Này Timbaruka, không
phải không có lạc khổ, này Timbaruka, có lạc khổ". Ðược hỏi: "Như vậy
Tôn giả Gotama không biết, không thấy lạc khổ?", Ngài đáp: "Này
Timbaruka, không phải Ta không biết, không thấy lạc khổ. Này Timbaruka,
Ta biết lạc khổ. Này Timbaruka, Ta thấy lạc khổ". Vậy Tôn giả Gotama hãy
nói lên cho con về lạc khổ. Vậy Tôn giả Gotama hãy thuyết cho con về
lạc khổ.
11) -- Sự cảm thọ và người cảm thọ là cùng một người. Này Timbaruka,
như Ông nói ban đầu: "Lạc khổ do tự mình làm ra", Ta nói không phải vậy.
12) Cảm thọ và người cảm thọ là khác nhau, này Timbaruka, như vậy đối
với người bị cảm thọ, "lạc khổ do người khác làm ra", Ta nói không phải
vậy.
13) Này Timbaruka, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo
con đường trung đạo.
Vô minh duyên hành, hành duyên thức... (như trên)... Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này tập khởi. Do ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô minh, nên
các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... như vậy
là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
14) Khi được nói vậy, du sĩ Timbaruka bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn... (như trên)... Và nay con xin
quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Xin Tôn giả Gotama
nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng.
XIX. Bậc Hiền So Sánh Với Kẻ Ngu (Tạp 12.12, Ðại 2, 83c)
(S.ii,23)
1). .. Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Ðối với kẻ ngu, này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái
hệ phược, thân này được khởi lên như sau: Chỉ có thân này và danh sắc ở
ngoài. Như vậy là bộ hai này. Duyên bộ hai này có xúc, có sáu xứ. Do
cảm xúc bởi chúng, hoặc một trong hai, người ngu cảm thọ lạc khổ.
3) Ðối với bậc Hiền, này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy, bị phạm ái
hệ phược, thân này được khởi lên như sau: Chỉ có thân này và danh sắc ở
ngoài. Như vậy là bộ hai này. Duyên bộ hai này có xúc, có sáu xứ. Do cảm
xúc bởi chúng, hoặc một trong hai, người Hiền cảm thọ lạc khổ.
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, có gì phân biệt, có gì sai khác, có gì dị
biệt giữa bậc Hiền và kẻ ngu?
5) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn
bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ y chỉ. Bạch Thế Tôn,
lành thay, nếu Thế Tôn nói lên cho chúng con ý nghĩa lời nói này. Sau
khi nghe Thế Tôn giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
6) -- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
7) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy và bị tham ái hệ phược, thân
này của người ngu được sanh khởi. Vô minh ấy, người ngu không đoạn tận.
Tham ái ấy, người ngu không tận trừ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người ngu
sống Phạm hạnh không phải vì chơn chánh đoạn trừ khổ đau. Do vậy người
ngu, khi thân hoại mạng chung, đi đến một thân khác. Do đi đến một thân
khác, người ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não. Ta nói rằng: "Người ấy không thoát khỏi đau khổ".
8) Và này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái hệ phược, thân
người Hiền trí được sanh khởi. Vô minh ấy, người Hiền trí đoạn tận. Tham
ái ấy, người Hiền trí tận trừ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người Hiền trí
sống Phạm hạnh, vì chơn chánh đoạn trừ khổ đau. Do vậy, người Hiền trí,
khi thân hoại mạng chung, không đi đến một thân khác. Do không đi đến
một thân khác, vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não. Ta nói rằng: "Vị ấy thoát khỏi đau khổ".
9) Này các Tỷ-kheo, đây là sự phân biệt, đây là sự sai khác, đây là
sự dị biệt giữa bậc Hiền trí và người ngu.
XX. Duyên (Tạp 12.14, Ðại 2, 84b) (S.ii,25)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông lý duyên khởi và các
pháp duyên sanh. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Do duyên sanh,
này các Tỷ-kheo, già, chết khởi lên. Dầu các Như Lai có xuất hiện hay
không xuất hiện, an trú là giới tánh ấy, pháp trú tánh ấy, pháp quyết
định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn
chứng đạt định lý ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt,
Như Lai tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết, khai hiển, khai thị, phân
biệt, minh hiển, minh thị.
4) Do duyên sanh, này các Tỷ-kheo, nên có già, chết. Do duyên hữu,
này các Tỷ-kheo, nên có sanh. Do duyên thủ, này các Tỷ-kheo, nên có hữu.
Do duyên ái, này các Tỷ-kheo, nên có thủ. Do duyên thọ, này các
Tỷ-kheo, nên có ái. Do duyên xúc, này các Tỷ-kheo, nên có thọ. Do duyên
sáu xứ, này các Tỷ-kheo, nên có xúc. Do duyên danh sắc, này các Tỷ-kheo,
nên có sáu xứ. Do duyên thức, này các Tỷ-kheo, nên có danh sắc. Do
duyên các hành, này các Tỷ-kheo, nên có thức. Do duyên vô minh, này các
Tỷ-kheo, nên có hành. Dầu cho Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện,
an trú là giới tánh ấy, pháp trú tánh ấy, pháp quyết định tánh ấy, y
duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt tánh ấy.
Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt, Như Lai tuyên bố,
tuyên
thuyết, tường thuyết, khai hiển khai thị, phân biệt, minh hiển, minh
thị.
5) Do duyên vô minh, này các Tỷ-kheo, có các hành. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, ở đây là như tánh, bất hư vọng tánh, bất dị như tánh, y duyên
tánh ấy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là lý duyên khởi.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là duyên sanh pháp? Già, chết, này các
Tỷ-kheo, là vô thường, hữu vi, duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt
tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh.
7) Sanh, này các Tỷ-kheo, là vô thường, hữu vi, duyên sanh, biến hoại
tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh.
8) Hữu, này các Tỷ-kheo, là vô thường, hữu vi, duyên sanh, biến hoại
tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh.
9) -- 16) Thủ, này các Tỷ-kheo... ái, này các Tỷ-kheo... Thọ, này các
Tỷ-kheo... Xúc, này các Tỷ-kheo... Sáu xứ, này các Tỷ-kheo... Danh sắc,
này các Tỷ-kheo... Thức, này các Tỷ-kheo... Các hành, này các
Tỷ-kheo...
17) Vô minh, này các Tỷ-kheo, là vô thường hữu vi, duyên sanh, biến
hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh. Những pháp này,
này các Tỷ-kheo, được gọi là duyên sanh pháp.
18) Do vì, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử khéo thấy như chơn với
chánh trí tuệ lý duyên khởi này và các pháp duyên sanh này, nên chắc
chắn vị ấy không chạy theo quá khứ (với những câu hỏi): "Ta có mặt trong
quá khứ? Ta không có mặt không quá khứ? Ta là gì trong quá khứ? Ta có
mặt như thế nào trong quá khứ? Hay trước ta đã là gì, và nay trong quá
khứ ta là gì?"
19) Hay không chạy theo tương lai (với những câu hỏi): "Ta có mặt
trong tương lai? Ta không có mặt trong tương lai? Ta sẽ làm gì trong
tương lai? Ta có mặt như thế nào trong tương lai? Hay trước ta là gì, và
nay trong tương lai ta sẽ là gì?"
20) Hay nay các vị ấy sẽ khởi lên những nghi ngờ về tự mình trong
hiện tại như sau: "Ta hiện có mặt? Ta hiện không có mặt? Ta hiện là gì?
Ta hiện có mặt như thế nào?" Sự kiện như vậy không xảy ra.
21) Vì sao? Vì rằng vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo, đã khéo thấy như
chơn với chánh trí tuệ, định lý duyên khởi này với các pháp duyên sanh
này.
III. Phẩm Mười Lực
I. Mười Lực (Tăng 46,3, Ðại 2,776a) (S.ii,27)
1). .. Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Như Lai đầy đủ mười lực, đầy đủ bốn vô sở úy,
tự nhận vị trí Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử giữa hội chúng,
chuyển Pháp luân và nói rằng: "Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là
sắc đoạn diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập khởi, đây là thọ đoạn diệt.
Ðây là tưởng, đây là tưởng tập khởi, đây là tưởng đoạn diệt. Ðây là
hành, đây là hành tập khởi, đây là hành đoạn diệt. Ðây là thức, đây là
thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt".
Như vậy do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này sanh, cái kia
sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này diệt,
cái kia diệt.
3) Nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên thức... (như trên)... Như
vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
4) Do ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô minh nên hành diệt. Do hành
diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn
diệt.
II. Mừơi Lực (Tạp 14.6 Thập Lực, Ðại 2,98a) (S.ii,28)
1). .. Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Như Lai đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
3-4). ..
5) Như vậy, này các Tỷ-kheo, Pháp được Ta khéo thuyết, hiển thị, khai
thị, hiển lộ, các buộc ràng được cắt đoạn.
6) Như vậy, này các Tỷ-kheo, với Pháp được Ta khéo thuyết, hiển thị,
khai thị, hiển lộ, các buộc ràng được cắt đoạn, thật là đủ cho Thiện nam
tử do lòng tin xuất gia có thể bắt đầu tinh tấn (hành trì và nguyện).
Như vậy, này các Tỷ-kheo, với Pháp được Ta khéo thuyết, hiển thị, hiển
lộ các buộc ràng được cắt đoạn. Chắc chắn dầu chỉ còn lại da, gân và
xương trên thân, dầu thịt, máu trở thành khô cạn, mong rằng tinh tấn
lực, sẽ được kiên trì để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ trượng
phu lực, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng.
7) Khổ thay, này các Tỷ-kheo, là người sống biếng nhác, dính đầy các
pháp ác, bất thiện và mục đích lớn bị suy giảm! An lạc thay, này các
Tỷ-kheo, là người sống tinh cần, tinh tấn, viễn ly các ác, bất thiện
pháp, và mục đích lớn được viên mãn!
8) Này các Tỷ-kheo, không phải với cái hạ liệt có thể đạt được cái
cao thượng. Này các Tỷ-kheo, phải với cái cao thượng mới đạt được cái
cao thượng. Ðáng được tán thán, này các Tỷ-kheo, là Phạm hạnh này với sự
có mặt của bậc Ðạo Sư. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy tinh tấn lên để
chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc,
để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
9) Có vậy, sự xuất gia này của chúng ta sẽ không phải trống không, có
kết quả, có thành tích (Sa udrayà). Và những vật dụng chúng ta thọ dụng
như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc trị bệnh, dầu cho những
thứ này là khiêm tốn (vokàrà), đối với chúng ta sẽ có quả lớn, có lợi
ích lớn.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập. Này các
Tỷ-kheo, thấy được tự lợi là vừa đủ để tinh tấn không phóng dật. Hay này
các Tỷ-kheo, khi thấy lợi tha là vừa đủ để tinh tấn, không phóng dật.
Hay này các Tỷ-kheo, thấy lợi cả hai, là vừa đủ để tinh tấn, không phóng
dật.
III. Duyên(S.ii,29)
1)... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, đối với người biết, này các Tỷ-kheo, đối với
người thấy, Ta nói các lậu hoặc được đoạn diệt, không phải đối với người
không biết, không phải đối với người không thấy.
3) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào đối với người biết, đối với người
thấy, các lậu hoặc được đoạn diệt? Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây
là sắc đoạn diệt. Ðây là thọ... Ðây là tưởng... Ðây là hành... Ðây là
thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, đối với người biết, như vậy đối với người thấy, các lậu hoặc
được đoạn diệt.
4) Này các Tỷ-kheo, trong đoạn diệt ấy, trí về đoạn diệt, Ta nói rằng
trí ấy có duyên, không phải không có duyên.
5) Và này các Tỷ-kheo, duyên của trí về đoạn diệt là gì? Giải thoát
là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng giải thoát có duyên, không
phải không có duyên.
6) Và này các Tỷ-kheo, duyên của giải thoát là gì? Ly tham là câu trả
lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ly tham có duyên, không phải không có
duyên.
7) Và này các Tỷ-kheo, duyên của ly tham là gì? Yếm ly là câu trả
lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng yếm ly có duyên, không phải không có
duyên.
8) Và này các Tỷ-kheo, duyên của yếm ly là gì? Tri kiến như chân là
câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng tri kiến như chân có duyên,
không phải không có duyên.
9) Và này các Tỷ-kheo, duyên của tri kiến như chân là gì? Ðịnh là câu
trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng định có duyên, không phải không
có duyên.
10) Và này các Tỷ-kheo, duyên của định là gì? Lạc là câu trả lời. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng lạc có duyên, không phải không có duyên.
11) Này các Tỷ-kheo, duyên của lạc là gì? Khinh an là câu trả lời.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng khinh an có duyên, không phải không có
duyên.
12) Và này các Tỷ-kheo, duyên của khinh an là gì? Hỷ là câu trả lời.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hỷ có duyên, không phải không có duyên.
13) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hỷ là gì? Hân hoan là câu trả lời.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hân hoan có duyên, không phải không có
duyên.
14) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hân hoan là gì? Lòng tin là câu trả
lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng lòng tin có duyên, không phải không
có duyên.
15) Và này các Tỷ-kheo, duyên của lòng tin là gì? Khổ là câu trả lời.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng khổ có duyên, không phải không có duyên.
16) Và này các Tỷ-kheo, duyên của khổ là gì? Sanh là câu trả lời. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng sanh có duyên, không phải không có duyên.
17) Và này các Tỷ-kheo, duyên của sanh là gì? Hữu là câu trả lời. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hữu có duyên, không phải không có duyên.
18) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hữu là gì? Thủ là câu trả lời. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng thủ có duyên, không phải không có duyên.
19) Và này các Tỷ-kheo, duyên của thủ là gì? Ái là câu trả lời. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ái có duyên, không phải không có duyên.
20-25) Và này các Tỷ-kheo, duyên của ái là gì? Thọ là câu trả lời...
(như trên)...
Xúc là câu trả lời...
Sáu xứ là câu trả lời...
Danh sắc là câu trả lời...
Thức là câu trả lời...
Hành là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hành có duyên,
không phải không có duyên.
26) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hành là gì? Vô minh là câu trả lời.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức
duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ;
thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên
khổ; khổ duyên tín; tín duyên hân hoan; hân hoan duyên hỷ; hỷ duyên
khinh an; khinh an duyên lạc; lạc duyên định; định duyên tri kiến như
chân; tri kiến như chân duyên yếm ly; yếm ly duyên ly tham; ly tham
duyên giải thoát; giải thoát duyên trí về đoạn diệt.
27) Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đỉnh núi trời mưa nặng hột và nước
chảy theo triền thấp, tràn đầy hang núi, khe núi, thung lũng. Khi các
hang núi, khe núi, thung lũng được tràn đầy, thời ao nhỏ được tràn đầy;
ao nhỏ được tràn đầy thời ao lớn được tràn đầy; ao lớn tràn đầy thời
sông nhỏ được tràn đầy; sông nhỏ được tràn đầy thời sông lớn được tràn
đầy; sông lớn được tràn đầy thời biển lớn, đại dương được tràn đầy.
28) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức;
thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên
thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh
duyên khổ; khổ duyên tín; tín duyên hân hoan; hân hoan duyên hỷ; hỷ
duyên khinh an; khinh an duyên lạc; lạc duyên định; định duyên tri kiến
như chân; tri kiến như chân duyên yếm ly; yếm ly duyên ly tham; ly tham
duyên giải thoát; giải thoát duyên trí về đoạn diệt.
IV. Ngoại Ðạo (S.ii,32)
1)... Trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm).
2) Tôn giả Sàriputta vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Vương Xá
để khất thực.
3) Rồi Tôn giả Sàriputta suy nghĩ: "Thật là quá sớm để vào Vương Xá
khất thực. Ta hãy đi đến vườn của các du sĩ ngoại đạo".
4) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến vườn của các du sĩ ngoại đạo; sau khi
đến, nói lên với những du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, Tôn giả liền ngồi
xuống một bên.
Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một
bên:
5) -- Này Hiền giả Sàriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm. Này Hiền giả Sàriputta, có một
số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác
làm. Này Hiền giả Sàriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm. Này Hiền giả
Sàriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố
khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh.
6) Ở đây, này Hiền giả Sàriputta, Sa-môn Gotama thuyết như thế nào,
tuyên bố như thế nào? Và chúng tôi trả lời như thế nào để đáp đúng lời
Sa-môn Gotama tuyên bố; chúng tôi không xuyên tạc Sa-môn Gotama không
đúng sự thực. Pháp chúng tôi trả lời là thuận pháp; và một vị đồng pháp
nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
7) Chư Hiền giả, Thế Tôn đã nói khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do
duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Thế Tôn tuyên bố, không xuyên
tạc Thế Tôn không đúng sự thật, pháp được trả lời là thuận pháp, và một
vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
8) Ở đây, này chư Hiền, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm; khổ ấy chính do duyên xúc. Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác
làm; khổ ấy chính do duyên xúc. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương
về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm; khổ ấy
chính do duyên xúc... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp,
tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự
nhiên sanh; khổ ấy chính do duyên xúc.
9) Ở đây, này chư Hiền, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ
không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn
nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm. Họ chắc chắn
có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra. Và
những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự
mình làm và do người khác làm. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần
đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra. Và những Sa-môn, Bà-la-môn nào
chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm và không do
người khác làm, khổ do tự nhiên sanh. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ
không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra.
10) Tôn giả Ananda nghe câu chuyện giữa Tôn giả Sàriputta với các du
sĩ ngoại đạo ấy.
11) Rồi Tôn giả Ananda, đi khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn,
trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda đem
tất cả câu chuyện xảy ra giữa Tôn giả Sàriputta và các du sĩ ngoại đạo
trình bày lên Thế Tôn.
12) -- Lành thay, lành thay, này Ananda! Sàriputta trả lời như vậy là
trả lời một cách chơn chánh. Này Ananda, Ta nói rằng khổ do duyên mà
sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên
bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật, và một vị đồng pháp nào có
muốn cật vấn, cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
13) Ở đây, này Ananda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm, khổ ấy chính do duyên xúc. Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ
trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm, và không do người
khác làm, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do duyên xúc.
14) Ở đây, nàyAnanda, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp,
tuyên bố khổ do tự mình làm, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần
đến xúc, sự kiện như vậy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào...
(như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố
khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên
sanh, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy
không xảy ra.
15) Này Ananda, một thời Ta trú ở Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi
dưỡng các con sóc.
16) Rồi này Ananda, vào buổi sáng Ta đắp y, cầm y bát đi vào Vương Xá
để khất thực.
17) Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: "Thật là quá sớm đi vào
Vương Xá để khất thực. Vậy Ta hãy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo".
18) Rồi này Ananda, Ta đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo; sau khi
đến Ta nói lên với những du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, Ta ngồi xuống một
bên.
Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Ta đang ngồi một bên:
19) "-- Này Hiền giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm. Này Hiền giả Gotama, lại có một
số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác
làm. Này Hiền giả Gotama, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm. Nay Hiền giả
Gotama, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố
khổ không do tự mình làm và không do người khác làm, khổ do tự nhiên
sanh.
20) Ở đây, Tôn giả Gotama thuyết như thế nào? Chúng tôi trả lời như
thế nào để đáp đúng lời Tôn giả Gotama tuyên bố; chúng tôi không xuyên
tạc Tôn giả Gotama không đúng sự thật; pháp chúng tôi trả lời là thuận
pháp và một vị đồng pháp nào muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để
chỉ trích?"
21) Khi được nói vậy, này Ananda, Ta nói với các du sĩ ngoại đạo ấy:
"-- Này chư Hiền, Ta đã nói khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do
duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên bố, không xuyên tạc Ta
không đúng sự thật; pháp được trả lời là thuận pháp; và một vị đồng pháp
nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích".
22) Ở đây, chư Hiền giả, có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm; khổ ấy chính do duyên xúc. Có
những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Có những Sa-môn, Bà-la-môn
nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm và không do
người khác làm, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do duyên xúc.
23) Ở đây, chư Hiền giả, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp tuyên bố khổ do tự mình làm; họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không
cần đến xúc, sự kiện như vậy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn...
(như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp tuyên bố
khổ không do tự mình làm, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên
sanh. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy
không xảy ra.
24) -- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế
Tôn! Làm sao tất cả nghĩa được nói chỉ trong một câu. Bạch Thế Tôn, nếu
nghĩa này được nói rộng ra, nghĩa này sẽ sâu thẳm và có vẻ được xem là
sâu thẳm.
25) -- Vậy này Ananda, Ông hãy trình bày nghĩa ấy ở đây.
26) -- Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, già, chết
lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?"
Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau: "Già, chết, thưa
các Tôn giả, lấy sanh làm nhân, lấy sanh tập khởi, lấy sanh tác sanh,
lấy sanh làm hiện hữu". Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
27) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, sanh lấy gì
làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?". Ðược
hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời: "Sanh, thưa các Tôn giả, lấy hữu
làm nhân, lấy hữu tập khởi, lấy hữu tác sanh, lấy hữu làm hiện hữu".
Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
28) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, hữu lấy gì
làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?". Ðược
hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau: "Hữu, thưa các Tôn giả,
lấy thủ làm nhân, lấy thủ tập khởi, lấy thủ tác sanh, lấy thủ làm hiện
hữu". Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
29-31) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, thủ lấy gì
làm nhân... ái lấy gì làm nhân... thọ lấy gì làm nhân... (như trên)..".
Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, xúc lấy gì làm
nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?". Ðược
hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau: "Xúc, thưa các Hiền giả,
lấy sáu xứ làm nhân, lấy sáu xứ tập khởi, lấy sáu xứ tác sanh, lấy sáu
xứ làm hiện hữu. Thưa các Hiền giả, do sự ly tham, đoạn diệt hoàn toàn
các xúc xứ, xúc được đoạn diệt. Do xúc diệt, thọ diệt; do thọ diệt, ái
diệt; do ái diệt, thủ diệt; do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt, sanh
diệt; do sanh diệt, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự
đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này". Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con
trả lời như vậy.
V- Bhùmija (Tạp 14.1 Phù di, Ðại 2.95b) (S.ii,37)
1)...Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Bhùmija, vào buổi chiều, từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng
đậy, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến nói lên với Tôn giả
Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn
giả Bhùmija thưa Tôn giả Sàriputta:
3) -- Hiền giả Sàruputta, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm. Hiền giả Sàruputta, lại có
những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do người
khác làm. Hiền giả Sariputta, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm và do người khác làm. Hiền
giả Sàriputta, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp,
tuyên bố khổ lạc không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ lạc
do tự nhiên sanh.
4) Ở đây, này Hiền giả Sàriputta, Thế Tôn thuyết như thế nào, tuyên
bố như thế nào? Và chúng tôi trả lời như thế nào để đáp đúng lời Thế Tôn
tuyên bố; chúng tôi không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật; pháp
chúng tôi trả lời là thuận pháp; và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn
không tìm được lý do để chỉ trích?
5) -- Này Hiền giả, Thế Tôn đã nói lạc khổ do duyên mà sanh. Do duyên
gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Thế Tôn tuyên bố, không
xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật; pháp được trả lời là thuận pháp,
và không một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng tìm được lý do để chỉ
trích.
6) Ở đây, này Hiền giả, các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự mình làm; lạc khổ ấy chính do duyên xúc.
Các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Các Sa-môn, Bà-la-môn nào
chủ trương về nghiệp, tuyên bố là lạc khổ không do tự mình làm, không do
người khác làm, lạc khổ do tự nhiên sanh; lạc khổ ấy chính do duyên
xúc.
7) Ở đây, này Hiền giả, các Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự mình làm, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ
không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra. Các Sa-môn, Bà-la-môn
nào...(như trên)... Các Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp,
tuyên bố lạc khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, lạc khổ
do tự nhiên sanh, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự
kiện như vậy không xảy ra.
8) Tôn giả Ananda được nghe chuyện này giữa Tôn giả Sàriputta với Tôn
giả Bhùmija.
9) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda đem tất cả câu chuyện xảy ra như
thế nào giữa Tôn giả Sàriputta với Tôn giả Bhùmija bạch lên Thế Tôn.
10) -- Lành thay, lành thay! Này Ananda, Sàriputta trả lời như vậy là
trả lời một cách chơn chánh. Này Ananda, Ta nói rằng khổ là do duyên mà
sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên
bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật; pháp được trả lời là thuận
pháp và một vị đồng pháp nào cật vấn Ta không có thể tìm được lý do để
chỉ trích.
11) Ở đây, này Ananda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự mình làm, lạc khổ ấy chính do duyên xúc.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào
chủ trương về nghiệp, tuyên bố lạc khổ không do tự mình làm, không do
người khác làm, khổ lạc do tự nhiên sanh; khổ lạc ấy chính do duyên xúc.
12) Ở đây, này Ananda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự mình làm, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ
không cần đến xúc; sự kiện ấy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn
nào... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp,
tuyên bố lạc khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, lạc khổ
do tự nhiên sanh, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự
kiện ấy không xảy ra.
13) Này Ananda, chỗ nào có thân, do nhân thân tư niệm, thời nội thân
khởi lên lạc khổ. Chỗ nào có lời nói, này Ananda, do nhân khẩu tư niệm,
thời nội thân khởi lên lạc khổ. Chỗ nào có ý, này Ananda, do nhân ý tư
niệm, thời nội thân khởi lên lạc khổ.
14) Do duyên vô minh, hoặc tự chúng ta, này Ananda, làm các thân
hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Hoặc những người khác, này
Ananda, làm các thân hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Hoặc
với ý thức rõ ràng, này Ananda, làm các thân hành; do duyên ấy, nội
thân khởi lên lạc khổ. Hoặc không với ý thức rõ ràng, này Ananda, làm
các thân hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
15) Hoặc tự chúng ta, này Ananda, làm các khẩu hành; do duyên ấy, nội
thân khởi lên lạc khổ. Hoặc những người khác này Ananda làm các khẩu
hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
16) Hoặc với ý thức rõ ràng, này Ananda... (như trên)... Hoặc không
với ý thức rõ ràng, này Ananda, làm các khẩu hành; do duyên ấy, nội thân
khởi lên lạc khổ.
17) Hoặc tự mình, này Ananda, làm các ý hành; do duyên ấy, nội thân
khởi lên lạc khổ. Hoặc những người khác, này Ananda, làm các ý hành; do
duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
18) Hoặc với ý thức rõ ràng, này Ananda... (như trên)... Hoặc không
với ý thức rõ ràng, này Ananda làm các ý hành; do duyên ấy, nội thân
khởi lên lạc khổ.
19) Này Ananda, trong sáu pháp này, đều bị vô minh chi phối. Này
Ananda, với ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô minh, thân ấy không có; do
duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Khẩu ấy không có; do duyên ấy, nội
thân khởi lên lạc khổ. Ý ấy không có; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc
khổ. Chúng không phải là đồng ruộng, chúng không phải là căn cứ, chúng
không phải là xứ, chúng không phải là luận sự; do duyên ấy, nội thân
khởi lên lạc khổ.
VI. Upavàna (Ưu-ba-ma-na) (S.ii,41)
1). .. Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Upavàna đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Upavàna bạch Thế
Tôn:
3) -- Bạch Thế Tôn, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ do tự
mình làm. Bạch Thế Tôn lại có những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ do
người khác làm. Bạch Thế Tôn, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố
khổ do tự mình làm và do người khác làm. Bạch Thế Tôn, lại có những
Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác
làm, khổ do tự nhiên sanh.
4) Ở đây, bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết như thế nào, tuyên bố như thế
nào? Và chúng con trả lời như thế nào để đáp đúng lời Thế Tôn tuyên bố;
chúng con không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thực; pháp chúng con trả
lời là thuận pháp và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không
tìm được lý do để chỉ trích?.
5) -- Này Upavàna, Ta đã nói khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do
duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên bố, không xuyên tạc Ta
không đúng sự thực; pháp được trả lời là thuận pháp và một vị đồng pháp
nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
6) Ở đây, này Upavàna, những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ do tự
mình làm ra; khổ ấy chính do duyên xúc. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào...
(như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ không do mình làm ra,
không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do duyên
xúc.
7) Ở đây, này Upavàna, những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ do tự
mình làm, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như
vậy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn... (như trên)... Những Sa-môn,
Bà-la-môn tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác làm,
khổ do tự nhiên sanh. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc;
sự kiện như vậy không xảy ra.
VII. Duyên (S.ii,42)
1)... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên thức... (như
trên)... Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
3) Này các Tỷ-kheo, thế nào là già, chết? Cái gì thuộc chúng sanh này
hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại
chúng sanh khác, bị già yếu, suy nhược, hủ bại, tóc bạc, da nhăn, tuổi
thọ đồi bại, các căn chín muồi; đây gọi là già. Cái gì thuộc chúng sanh
này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại
chúng sanh khác, bị một diệt, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn tàn
lụn, thân thể hoại diệt, vứt bỏ; đây gọi là chết. Như vậy, đây là già,
đây là chết. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là già chết.
4) Do sanh khởi, già chết khởi. Do sanh diệt, già chết diệt. Ðây là
Thánh đạo tám ngành đưa đến già chết đoạn diệt tức là chánh tri kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sanh?...
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu?...
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủ?...
8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ái?...
9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ?...
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xúc?...
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu xứ?...
12) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là danh sắc?...
13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức?... (xem như trên, chương
Một, phẩm Một, II. 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13)
14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Này các Tỷ-kheo, có ba hành
này: thân hành, khẩu hành, ý hành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành.
Do vô minh khởi, hành khởi. Do vô minh diệt, hành diệt. Ðây là Thánh
đạo tám ngành đưa đến sự đoạn diệt các hành. Tức là chánh tri kiến...
chánh định.
15) Này các Tỷ-kheo, do vị Thánh đệ tử biết duyên như vậy, duyên tập
khởi như vậy, duyên đoạn diệt như vậy; biết rõ con đường đưa đến đoạn
diệt như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đạt tri
kiến, đạt kiến, đã đạt đến diệu pháp này, thấy được diệu pháp này, đã
đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ hữu học minh, đã nhập được pháp lưu, là
bậc Thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử.
VIII. Vị Tỷ Kheo (Tạp 14.14, Lão Tử, Ðại 2,99c) (S.ii.43)
1). .. Trú ở Sàvatthi.
2) Tại đây...
3) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hiểu rõ già chết, hiểu rõ già
chết tập khởi, hiểu rõ già chết đoạn diệt, hiểu rõ con đường đưa đến già
chết đoạn diệt...(như trên)...
4)... Hiểu rõ sanh...
5)... Hiểu rõ hữu...
6)... Hiểu rõ thủ...
7)... Hiểu rõ ái...
8)... Hiểu rõ thọ...
9)... Hiểu rõ xúc...
10)... Hiểu rõ sáu xứ...
11)... Hiểu rõ danh sắc...
12)... Hiểu rõ thức...
13)... Hiểu rõ hành, hiểu rõ hành tập khởi, hiểu rõ hành đoạn diệt.
14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là già chết? Cái gì thuộc chúng sanh
này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại
chúng sanh khác, bị già yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn,
tuổi thọ đồi bại, các căn chín muồi; đây gọi là già. Cái gì thuộc chúng
sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ
loại chúng sanh khác, bị một diệt, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn
tàn lụn, thân thể hoại diệt, vứt bỏ; đây gọi là chết. Như vậy đây là
già, đây là chết. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là già chết.
15) Do sanh khởi, già chết khởi. Do sanh diệt, già chết diệt. Ðây là
Thánh đạo tám ngành đưa đến già chết đoạn diệt, tức là chánh tri kiến...
chánh định.
16-24) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sanh... (như trên)... Này các
Tỷ-kheo, thế nào là hữu... Này các Tỷ-kheo, thế nào là thủ... Này các
Tỷ-kheo, thế nào là ái... là thọ... là xúc... là sáu xứ... là danh
sắc... là thức?...
25) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Có ba hành này, này các
Tỷ-kheo: thân hành, khẩu hành, ý hành. Ba hành này, này các Tỷ-kheo,
được gọi là hành.
Do vô minh khởi nên hành khởi. Do vô minh diệt nên hành diệt. Ðây
chính là Thánh đạo tám ngành đưa đến hành đoạn diệt. Tức là chánh tri
kiến...(như trên)...chánh định.
26) Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo biết rõ già chết như vậy, biết rõ già
chết tập khởi như vậy, biết rõ già chết đoạn diệt như vậy, biết rõ con
đường đưa đến già chết đoạn diệt như vậy.
27-36) Do biết rõ sanh như vậy... hữu... thủ...ái...thọ...xúc...sáu
xứ...danh sắc... thức... Do biết rõ hành như vậy, biết rõ hành tập khởi
như vậy, biết rõ hành đoạn diệt như vậy, do biết rõ con đường đưa đến
hành đoạn diệt như vậy.
37) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy được gọi là đạt tri kiến, đạt
kiến, đã đi đến diệu pháp này, thấy được diệu pháp này, đã đầy đủ hữu
học trí, đã đầy đủ hữu học minh, đã nhập được pháp lưu, là bậc Thánh
minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử.
IX. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp 14,12-3, Sa-môn, Bà-la-môn, Ðại
2,99b) (S.ii,42)
1)...Trú ở Sàvatthi.
2-12) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không
hiểu rõ già chết, không hiểu rõ già chết tập khởi, không hiểu rõ già
chết đoạn diệt, không hiểu rõ con đường đưa đến già chết đoạn diệt,
không hiểu rõ sanh...(như trên)... Hữu...thủ...ái...thọ...xúc...sáu
xứ...danh sắc...thức... không hiểu rõ hành, không hiểu rõ hành tập khởi,
không hiểu rõ hành đoạn diệt, không hiểu rõ con đường đưa đến hành đoạn
diệt;
13) Những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không được chấp nhận là Sa-môn giữa
các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn. Và những Tôn
giả ấy cũng không có thể ngay trong đời sống hiện tại, tự mình chứng ngộ
với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh hay mục đích
Bà-la-môn hạnh.
14-24) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào hiểu rõ già
chết, hiểu rõ già chết tập khởi, hiểu rõ già chết đoạn diệt, hiểu rõ
con đường đưa đến già chết đoạn diệt, hiểu rõ sanh... hữu... thủ...
ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... hiểu rõ hành, hiểu rõ
hành tập khởi, hiểu rõ hành đoạn diệt, hiểu rõ con đường đưa đến hành
đoạn diệt;
25) Những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được chấp nhận là Sa-môn giữa các
hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn. Và những Tôn giả ấy
ngay trong đời sống hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt
và an trú mục đích Sa-môn hạnh hay mục đích Bà-la-môn hạnh.
X. Sa Môn , Bà La Môn (như trên) (S.ii,46)
1)... Trú ở Sàvatthi.
2) Ở đây...
3) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không biết già
chết, không biết già chết tập khởi, không biết già chết đoạn diệt, không
biết con đường đưa đến già chết đoạn diệt; họ chắc chắn vượt qua già
chết và an trú; sự kiện như vậy không xảy ra.
4-12) Không biết sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ...
danh sắc... thức...
13) Không biết hành, không biết hành tập khởi, không biết hành đoạn
diệt, không biết con đường đưa đến hành đoạn diệt, họ chắc chắn vượt qua
các hành và an trú; sự kiện như vậy không xảy ra.
14) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biết già chết,
biết già chết tập khởi, biết già chết đoạn diệt, biết con đường đưa đến
già chết đoạn diệt; họ chắc chắn vượt qua già chết và an trú, sự kiện
như vậy có xảy ra.
15-23) Biết sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh
sắc... thức... biết hành, biết hành tập khởi, biết hành đoạn diệt; biết
con đường đưa đến hành đoạn diệt; họ chắc chắn vượt qua các hành và an
trú; sự kiện như vậy có xảy ra.
IV. Phẩm Kalara - Vị Sát Ðế Lị
I. Sanh (Tạp 14.3 Tập sanh, Ðại 2,95b) (S.ii.47)
1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi.
I
2) Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Sàriputta:
-- Này Sàriputta, trong kinh Paràyana, đoạn các câu hỏi của Ajita, có
bài:
Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
Này Sàriputta, lời nói tóm tắt này, ý nghĩa cần phải được nhận hiểu
một cách rộng rãi như thế nào?
Ðược nói vậy, Tôn giả Sàriputta giữ im lặng.
3) Lần thứ hai, Thế Tôn gọi Tôn giả Sàriputta... (như trên)... Lần
thứ hai, Tôn giả Sàriputta giữ im lặng.
4) Lần thứ ba, Thế Tôn gọi Tôn giả Sàriputta:
-- Này Sàriputta, trong kinh Karàyana, đoạn các câu hỏi của Ajita, có
bài:
Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
Này Sàriputta, lời nói tóm tắt này, ý nghĩa cần phải được nhận hiểu
một cách rộng rãi như thế nào?
Lần thứ ba, Tôn giả Sàriputta giữ im lặng.
II
5) -- Này Sàriputta, Ông có thấy cái này được sinh thành? Này
Sàriputta, Ông có thấy cái này được sinh thành?
6) -- Cái này được sinh thành. Bạch Thế Tôn, vị ấy với chánh trí tuệ
thấy như chơn cái này được sinh thành. Sau khi thấy như chơn với chánh
trí tuệ, lại thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với cái được
sinh thành, vị ấy thấy với chánh trí tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục sanh do một loại đồ ăn,
vị ấy lại thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt sự tục sanh do một
loại đồ ăn.
Do sự đoạn diệt của một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị sự
đoạn diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ. Do sự đoạn diệt một
loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn diệt. Sau khi thấy như
chơn với chánh tri tuệ, vị ấy thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt
đối với sự vật phải bị đoạn diệt. Như vậy, bạch Thế Tôn là bậc hữu học.
7) Và bạch Thế Tôn, như thế nào là thuần thục pháp hữu vi? Bạch Thế
Tôn, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ cái này được sinh thành. "Cái
này được sinh thành"; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, do sự
yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với cái được sinh thành, vị ấy được giải
thoát không có chấp thủ. Vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục
sanh do một loại đồ ăn. Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục
sanh do một loại đồ ăn, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự tục
sanh do một loại đồ ăn, vị ấy được giải thoát, không chấp thủ.
Do sự đoạn diệt của một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị
đoạn diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ. Do sự đoạn diệt một
loại đồ ăn, cái được sinh thành phải bị đoạn diệt; sau khi thấy như chơn
với chánh trí tuệ, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự vật phải
bị đoạn diệt, vị ấy được giải thoát, không có chấp thủ. Như vậy, bạch
Thế Tôn, là thuần thục pháp hữu vi.
8) Như vậy, bạch Thế Tôn, như đã được nói trong kinh Paràyana, đoạn
các câu hỏi của Ajita, có bài:
Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
Bạch Thế Tôn, lời nói tóm tắt này, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi
như vậy.
III
9) -- Lành thay, lành thay! Cái này được sinh thành, này Sàriputta,
vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ. Cái này được sinh thành; sau khi
thấy như chơn với chánh trí tuệ, lại thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn
diệt, đối với cái được sinh thành. Vị ấy thấy như chơn với chánh trí
tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn. Sau khi thấy như chơn với chánh trí
tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn, lại thực hành sự yếm ly, ly tham,
đoạn diệt đối với sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Do sự đoạn diệt của một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị
đoạn diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ. Do sự đoạn diệt với
một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn diệt; sau khi thấy
như chơn với chánh trí tuệ, vị ấy thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn
diệt đối với sự vật phải bị đoạn diệt.
Như vậy, này Sàriputta, là bậc hữu học.
10) Và này Sàriputta, như thế nào là thuần thục pháp hữu vi? Này
Sàriputta, cái này được sinh thành, vị ấy thấy như chơn với chánh trí
tuệ. Cái này được sinh thành; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ,
do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với cái được sinh thành, vị ấy được
giải thoát, không có chấp thủ.
Vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn,
đối với sự tục sanh do một loại đồ ăn, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt,
vị ấy được giải thoát, không chấp thủ.
Do sự đoạn diệt một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn
diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ. Do sự đoạn diệt một loại đồ
ăn, cái được sinh thành phải bị đoạn diệt; sau khi thấy như chơn với
chánh trí tuệ, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự vật phải bị
đoạn diệt, vị ấy được giải thoát không có chấp thủ.
Như vậy, này Sàriputta, là thuần thục pháp hữu vi.
11) Như vậy, này Sàriputta, như đã được nói trong kinh Paràyana, đoạn
các câu hỏi của Ajita, có bài:
Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
Này Sàriputta, lời nói tóm tắt này cần hiểu ý nghĩa một cách, rộng
rãi như vậy.
II. Kalàra (S.ii,50)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
I
2) Rồi Tỷ-kheo Kalàra Khattiya (dòng Sát-đế-lỵ) đi đến Tôn giả
Sàriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón
hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền
ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo Kalàra Khattiya nói với Tôn giả
Sàriputta:
-- Này Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo Moliyaphagguna đã từ bỏ học tập và
hoàn tục.
-- Vậy vị Tôn giả ấy, không tìm được sự an ủi trong Pháp và Luật này?
4) -- Vậy Tôn giả Sàriputta đã đạt được sự an ủi trong Pháp và Luật
này?
-- Này Hiền giả, tôi không có nghi ngờ gì!
5) -- Này Hiền giả, còn đối với tương lai?
-- Tôi không có băn khoăn, này Hiền giả.
6) Rồi Tỷ-kheo Kalàra Khattiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
7) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo Kalàra Khattiya bạch Thế Tôn:
-- Con được biết, bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta tuyên bố được chánh
trí như sau: "Sanh đã tận; Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm; không còn trở lại trạng thái này nữa".
8) Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:
-- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, gọi Sàriputta: "Hiền giả
Sàriputta, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả".
9) -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến,
nói với Tôn giả Sàriputta: "Bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả".
10) -- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Sàriputta vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
II
11) Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi một bên:
-- Này Sàriputta, có đúng sự thật chăng là Ông có tuyên bố đã chứng
được chánh trí: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"?
-- Bạch Thế Tôn, không phải với những câu ấy, với những chữ ấy, ý
nghĩa ấy được con nói đến như vậy.
12) -- Vậy với pháp môn nào, này Sàriputta, Thiện nam tử nói đến sự
chứng đắc trí, lời tuyên bố cần phải được xem đúng như lời tuyên bố.
13) -- Bạch Thế Tôn, chính con đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, không
phải với những câu ấy, với những chữ ấy, ý nghĩa ấy được con nói đến như
vậy".
14) -- Nếu họ có hỏi Ông, này Sàriputta: "Ông biết như thế nào, này
Sàriputta, Ông thấy như thế nào mà Ông tuyên bố trí đã được chứng đắc:
"Ta biết sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không
còn trở lui lại trạng thái này nữa" ?" Ðược hỏi vậy, này Sàriputta, Ông
trả lời như thế nào?
15) -- Nếu họ có hỏi con, bạch Thế Tôn: "Hiền giả biết như thế nào,
này Hiền giả Sàriputta, Hiền giả thấy như thế nào mà tuyên bố trí đã
được chứng đắc: "Ta đã biết, sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì
nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"?" Ðược hỏi vậy,
bạch Thế Tôn, con trả lời như sau:
16) "Vì rằng này Hiền giả, trong (danh từ) tận diệt, ta hiểu được là
sự tận diệt của nhân, chính do nhân ấy sanh sanh khởi. Sau khi hiểu được
nghĩa tận diệt trong (danh từ) tận diệt, ta mới biết: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa." "
Ðược hỏi như vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
17) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, sanh
lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện
hữu?" Ðược hỏi như vậy, này Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
18) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, sanh
lấy gì làm nhân... (như trên)... lấy gì làm hiện hữu?" Ðược hỏi vậy,
Bạch Thế Tôn, con trả lời như sau: "Sanh lấy hữu làm nhân, lấy hữu tập
khởi, lấy hữu tác sanh, lấy hữu làm hiện hữu". Ðược hỏi vậy, bạch Thế
Tôn, con trả lời như vậy.
19) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, hữu
lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?"
Ðược hỏi vậy này Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
20) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, hữu
lấy gì làm nhân... lấy gì làm hiện hữu?" Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con
trả lời như sau: "Hữu lấy thủ làm nhân, lấy thủ tập khởi, lấy thủ tác
sanh, lấy thủ làm hiện hữu". Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con trả lời như
vậy.
21) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, thủ
lấy gì làm nhân... (như trên)..".
22-23) -- Và này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả
Sàriputta, ái lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì
làm hiện hữu?" Ðược hỏi vậy, này Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
24) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, ái
lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì hiện hữu?".
Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau: "Này Hiền giả, ái
lấy thọ làm nhân, lấy thọ tập khởi, lấy thọ tác sanh, lấy thọ làm hiện
hữu". Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
25) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Làm sao, này Hiền giả
Sàriputta, Hiền giả biết như thế nào, Hiền giả thấy như thế nào, cảm thọ
diệu lạc ấy không tồn tại?" Ðược hỏi vậy, này Sàriputta, Ông trả lời
như thế nào?
26) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, Hiền
giả biết như thế nào, Hiền giả thấy như thế nào, cảm thọ diệu lạc không
tồn tại?" Ðược hỏi vậy, Bạch Thế Tôn con trả lời như sau:
27) "Này Hiền giả, có ba cảm thọ này. Thế nào là ba? Lạc thọ, khổ
thọ, phi khổ phi lạc thọ. Này Hiền giả, ba cảm thọ này vô thường, khi
biết được cái gì vô thường là khổ, thời cảm thọ diệu lạc ấy không tồn
tại".
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn con trả lời như vậy.
28) -- Lành thay, lành thay này Sàriputta! Pháp môn (phương tiện)
này, này Sàriputta, có thể trả lời tóm tắt như sau: Cái gì được cảm thọ,
cái ấy nằm trong đau khổ.
29) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Hiền giả được giải thoát như
thế nào, này Hiền giả Sàriputta, mà Hiền giả tuyên bố trí đã được chứng
đắc: "Ta biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"?" Ðược hỏi vậy, này
Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
30) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Hiền giả được giải thoát như
thế nào, này Hiền giả Sàriputta, mà Hiền giả tuyên bố trí đã được chứng
đắc: "Ta biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa"?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con
trả lời như sau:
31) "Do tự giải thoát, chư Hiền giả, do đoạn diệt tất cả chấp thủ, ta
sống an trú chánh niệm như vậy. Nhờ sống an trú chánh niệm như vậy, các
lậu hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy, và ta không chấp nhận tự ngã".
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
32) -- Lành thay, lành thay này Sàriputta! Pháp môn (phương tiện)
này, này Sàriputta, có thể trả lời tóm tắt như sau: Những cái gì được vị
Sa-môn gọi là lậu hoặc, ta không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đã được ta
diệt tận. Ta không còn phân vân gì nữa.
33) Nói vậy xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
III
34) Rồi Tôn giả Sàriputta, sau khi Thế Tôn đi chẳng lao lâu, liền bảo
các Tỷ-kheo:
35) -- Này chư Hiền giả, Thế Tôn hỏi ta câu hỏi thứ nhất mà ta chưa
được biết trước, lúc ấy trí ta còn chậm chạp. Nhưng này chư Hiền giả,
khi Thế Tôn tùy hỷ (trả lời câu) hỏi thứ nhất của ta, ta suy nghĩ như
sau:
36) "Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa trọn ngày với những văn cú sai khác,
với những pháp môn (phương tiện) sai khác, thời ta có thể trả lời Thế
Tôn về ý nghĩa ấy cho đến trọn ngày với những văn cú sai khác, với những
pháp môn sai khác.
37) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa trọn đêm với những văn cú sai khác,
với những pháp môn (phương tiện) sai khác, thời ta có thể trả lời Thế
Tôn về ý nghĩa ấy cho đến trọn đêm với những văn cú sai khác, với những
pháp môn (phương tiện) sai khác.
38) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa trọn đêm và trọn ngày với những văn cú
sai khác, với những pháp môn (phương tiện) sai khác, thời ta có thể trả
lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy cho đến trọn đêm và trọn ngày với những văn
cú sai khác, với những pháp môn (phương tiện) sai khác.
39) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn hai đêm hai ngày, ta có thể
trả lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy trọn hai đêm hai ngày.
40) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn ba đêm ba ngày, ta có thể trả
lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy trọn ba đêm ba ngày.
41) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn bốn đêm bốn ngày, ta có thể
trả lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy trọn bốn đêm bốn ngày.
42) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn năm đêm năm ngày, ta có thể
trả lời Thế Tôn về ý nghĩa này trọn năm đêm năm ngày.
43) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn sáu đêm sáu ngày, ta có thể
trả lời Thế Tôn về ý nghĩa này trọn sáu đêm sáu ngày.
44) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn bảy đêm bảy ngày với những
văn cú sai khác, với những pháp môn (phương tiện) sai khác, ta có thể
trả lời Thế Tôn về ý nghĩa này trọn bảy đêm bảy ngày với những văn cú
sai khác, với những pháp môn (phương tiện) sai khác".
IV
45) Rồi Tỷ-kheo Kalàra Khattiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn,
sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
46) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo Kalàra Khattiya bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta đã rống lên tiếng rống con sư tử
như sau: Này chư Hiền giả, Thế Tôn hỏi ta câu hỏi thứ nhất, mà ta chưa
được biết trước, lúc ấy trí ta còn chậm chạp. Nhưng này chư Hiền giả,
khi Thế Tôn tùy hỷ (trả lời câu) hỏi thứ nhất của ta, ta suy nghĩ như
sau: "Nếu Thế Tôn hỏi ta về ý nghĩa này trọn ngày với những văn cú sai
khác, với những phương tiện sai khác, ta có thể trả lời Thế Tôn về ý
nghĩa ấy cho đến trọn ngày với những văn cú sai khác, với những pháp môn
sai khác. Nếu Thế Tôn hỏi ta về ý nghĩa này cho đến trọn đêm... cho đến
trọn đêm và trọn ngày... cho đến trọn ba... trọn bốn..., cho đến trọn
năm... trọn sáu... trọn bảy đêm ngày với những văn cú sai khác, với
những phương tiện sai khác".
47) -- Này các Tỷ-kheo, pháp giới ấy (Dhammadhàtu) được Sàriputta
khéo thành đạt. Do khéo thành đạt pháp giới ấy, nếu Ta hỏi Sàriputta về ý
nghĩa này trọn ngày với những văn cú sai khác, với những phương tiện
sai khác, thời Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn
ngày, với những văn cú sai khác, với những phương tiện sai khác. Nếu Ta
hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn đêm với những văn cú sai khác,
với những phương tiện sai khác, thời Saụriputta có thể trả lời Ta về ý
nghĩa này cho đến trọn đêm với những văn cú sai khác, với những phương
tiện sai khác. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn đêm và
trọn ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn đêm
và trọn ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn cả
hai đêm và hai ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến
trọn cả hai đêm hai ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến
trọn cả ba đêm ba ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho
đến cả ba đêm ba ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn
bốn đêm bốn ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến bốn
đêm bốn ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn năm đêm
năm ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn năm
đêm năm ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn sáu đêm
sáu ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn sáu
đêm sáu ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này trọn bảy đêm bảy ngày
với những văn cú sai khác, với những pháp môn sai khác, Sàriputta có
thể trả lời cho Ta về ý nghĩa ấy cho đến trọn bảy đêm bảy ngày với những
văn cú sai khác, với những pháp môn sai khác.
III. Những Căn Bản Của Trí (Tạp 14.15 Chủng Trí, Ðại 2, 99c)
(S.ii,56)
1)... Ở Sàvatthi.
2). .. Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ thuyết về bốn mươi bốn căn bản của trí
cho các Ông. Hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bốn mươi bốn căn bản của trí?
4) Già chết trí, già chết tập trí, già chết diệt trí, trí về con
đường đưa đến già chết diệt.
5) Sanh trí, sanh tập trí, sanh diệt trí, trí về con đường đưa đến
sanh diệt.
6) Hữu trí, hữu tập trí, hữu diệt trí, trí về con đường đưa đến hữu
diệt.
7) Thủ trí, thủ tập trí, thủ diệt trí, trí về con đường đưa đến thủ
diệt.
8) Ái trí, ái tập trí, ái diệt trí, trí về con đường đưa đến ái diệt.
9) Thọ trí, thọ tập trí, thọ diệt trí, trí về con đường đưa đến thọ
diệt.
10) Xúc trí...
11) Sáu xứ trí...
12) Danh sắc trí...
13) Thức trí...
14) Hành trí, hành tập trí, hành diệt trí, trí về con đường đưa đến
hành diệt.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là bốn mươi bốn căn bản của trí.
15) Này các Tỷ-kheo, thế nào là già chết? Cái gì thuộc về chúng sanh
này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay bộ loại chúng
sanh khác, bị già yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ
đồi bại, các căn chín muồi; đây gọi là già. Cái gì thuộc chúng sanh này
hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại
chúng sanh khác, bị một diệt, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn tàn
lụn, thân thể hoại diệt, vất bỏ; đây gọi là chết. Như vậy là già, đây là
chết. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là già chết.
16) Do sanh tập khởi nên già chết tập khởi. Do sanh diệt nên già chết
diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành đưa đến già chết diệt; tức là chánh
tri kiến... chánh định.
17) Này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử biết già chết như vậy, biết già
chết tập khởi như vậy, biết già chết diệt như vậy, biết con đường đưa
đến già chết diệt như vậy.
18) Ðây là pháp trí của vị ấy. Vị ấy với pháp này được thấy, được
biết, được quả tức thời, được đạt đến, được thể nhập (pariyogathena)
hướng dẫn thái độ (nayam) của mình đối với quá khứ và tương lai.
19) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ đã hiểu rõ già chết,
đã hiểu rõ già chết tập khởi, đã hiểu rõ già chết diệt, đã hiểu rõ con
đường đưa đến già chết diệt, tất cả những vị ấy đều hiểu biết như vậy,
như vậy; như hiện nay Ta vậy.
20) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai sẽ hiểu rõ
(abhijanissanti) già chết, sẽ hiểu rõ già chết tập khởi, sẽ hiểu rõ già
chết diệt, sẽ hiểu rõ con đường đưa đến già chết diệt, tất cả những vị
ấy sẽ hiểu biết như vậy, như vậy; như hiện nay Ta vậy. Ðây tức là tùy
trí (anvaye nànam) của vị ấy.
21) Này các Tỷ-kheo, vì rằng vị Thánh đệ tử được thanh tịnh và thuần
tịnh hai loại trí, pháp trí và tùy trí; này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi
là Thánh đệ tử đạt tri kiến, (dithisampanno) đạt kiến, đã đi đến diệu
pháp này, đã thấy diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ hữu
học minh, đã nhập được pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ (nibbedhi
kapanno), đã đứng gõ vào cửa bất tử.
22) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sanh?...
23) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu?...
24) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủ?...
25) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ái?...
26) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ?...
27) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xúc?...
28) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu xứ?...
29) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là danh sắc?...
30) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức?...
31) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Có ba hành này, này các
Tỷ-kheo, thân hành, khẩu hành, ý hành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành.
32) Do vô minh tập khởi, hành tập khởi. Do vô minh tập khởi diệt,
hành diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành, con đường đưa đến hành diệt; tức
là chánh tri kiến... chánh định.
33) Vì rằng này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử biết hành như vậy, biết
hành tập khởi như vậy, biết hành diệt như vậy, biết con đường đưa đến
hành diệt như vậy. Ðây là pháp trí của vị ấy, vị ấy với pháp này được
thấy, được biết, được quả tức thời, được đạt đến, được thể nhập, hướng
dẫn thái độ (nayam) của mình đối với quá khứ, tương lai.
34) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ đã hiểu rõ các hành,
đã hiểu rõ hành tập khởi, đã hiểu rõ hành diệt, đã hiểu rõ con đường
đưa đến hành diệt; tất cả những vị ấy đều hiểu biết như vậy, như vậy;
như hiện nay Ta vậy.
35) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai sẽ hiểu rõ các
hành, sẽ hiểu rõ hành tập khởi, sẽ hiểu rõ hành diệt, sẽ hiểu rõ con
đường đưa đến hành diệt, tất cả những vị ấy sẽ hiểu biết như vậy; như
vậy, như hiện nay Ta vậy. Ðây tức là tùy trí của vị ấy.
36) Này các Tỷ-kheo, vì rằng vị Thánh đệ tử được thanh tịnh, thuần
tịnh hai loại trí, pháp trí và tùy trí; này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi
là vị Thánh đệ tử đạt tri kiến, đạt kiến, đã đi đến diệu pháp này, thấy
diệu pháp này, đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ hữu học minh, đã nhập được
pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử.
IV. Những Căn Bản Của Trí (Tạp 14.16 Chủng Trí, Ðại 2, 99c) (
S.ii.59)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông bảy mươi bảy căn bản
của trí. Hãy nghe và khéo tư niệm... Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bảy
mươi bảy căn bản của trí?
3) Trí biết rằng già chết do duyên sanh. Trí biết rằng không có sanh
thời không có già. Trí biết rằng trong quá khứ già chết cũng do duyên
sanh. Trí biết rằng không có sanh thời không có già chết. Trí biết rằng
trong tương lai già chết cũng do duyên sanh. Trí biết rằng không có sanh
thời sẽ không có già chết. Phàm khi nào có trí về trú pháp, chỗ ấy cũng
có trí tận pháp, hoại pháp, ly tham pháp, diệt pháp.
4) Trí biết rằng sanh do duyên hữu...
5) Trí biết rằng hữu do duyên thủ...
6) Trí biết rằng thủ do duyên ái...
7) Trí biết rằng ái do duyên thọ...
8) Trí biết rằng thọ do duyên xúc...
9) Trí biết rằng xúc do duyên sáu xứ...
10) Trí biết rằng sáu xứ do duyên danh sắc...
11) Trí biết rằng danh sắc do duyên thức...
12) Trí biết rằng thức do duyên hành...
13) Trí biết rằng hành do duyên vô minh. Trí biết rằng không có vô
minh thời không có hành. Trí biết rằng trong quá khứ hành cũng do duyên
vô minh. Trí biết rằng không có vô minh thời không có hành. Trí biết
rằng trong tương lai hành cũng sẽ do duyên vô minh. Trí biết rằng không
có vô minh thời sẽ không có hành. Phàm khi nào có trí về trú pháp, thời
cũng có trí về tận pháp, hoại pháp, ly tham pháp, diệt pháp.
14) Này các Tỷ-kheo, đây gọi là bảy mươi bảy căn bản của trí.
V. Do Duyên Vô Minh (Tạp 14.17-8 Vô Minh Tăng, Ðại 2, 100a)
(S.ii,60)
1) ... Trú ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, do duyên vô minh có hành; do duyên hành có
thức... như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
3) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là già chết? Và già chết này là của ai?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Thế nào là
già chết, và già chết này là của ai?", hay này Tỷ-kheo, Ông có thể nói:
"Già chết là khác và người già và chết là khác", hai câu hỏi này nghĩa
là một, chỉ có văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh
mạng và thân thể là một", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo,
chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể là khác", chỗ ấy không có
Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai thuyết pháp
theo trung đạo (và nói): "Do duyên sanh nên có già chết".
4) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là sanh và sanh này là của ai?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Thế nào là
sanh, và sanh này là của ai?", hay này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Sanh là
khác và người sanh là khác", hai câu hỏi này có nghĩa là một, chỉ có
văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể
là một", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà)
kiến: "Sinh mạng và thân thể là khác", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú.
Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo
(và nói): "Do duyên hữu nên có sanh".
5) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là hữu và hữu này của ai?
Thế Tôn nói:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể hỏi: "Thế nào là
hữu và hữu này của ai?", hay Ông có thể nói: "Hữu khác và người có hữu
này khác", hai câu hỏi này là một, chỉ có văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ
nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể là một", chỗ ấy không có Phạm
hạnh trú. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể là
khác", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan
này, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo (và nói): "Do duyên thủ nên có
hữu".
6) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là thủ và thủ này của ai?... (như
trên)... Do duyên ái nên có thủ.
7)... Do duyên thọ nên có ái...
8)... Do duyên xúc nên có thọ...
9)... Do duyên sáu xứ nên có xúc...
10)... Do duyên danh sắc nên có sáu xứ...
11)... Do duyên thức nên có danh sắc...
12)... Do duyên hành nên có thức...
13) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là các hành, và các hành này là của ai?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Thế nào là
các hành và các hành này là của ai?", hay này Tỷ-kheo, Ông có thể nói:
"Các hành là khác và người có các hành này là khác", hai câu hỏi này là
một, chỉ có văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng
và thân thể là một", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, chỗ nào
có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể là khác", chỗ ấy không có Phạm
hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai thuyết pháp theo
trung đạo và nói: "Do duyên vô minh nên có các hành". Này Tỷ-kheo, do sự
ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, các tạp luận (hý luận),
dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy hay bất cứ loại nào (sẽ được đoạn
tận...).
14) Như câu hỏi: "Thế nào là già chết và già chết này là của ai?".
Hay "Già chết là khác và người có già chết là khác?" hay "Sinh mạng và
thân thể này là một", hay "Sinh mạng và thân thể là khác", tất cả đều
được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho
không thể hiện hữu, khiến cho tương lai không thể sanh khởi. Này
Tỷ-kheo, do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, các tạp
luận, dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy hay bất cứ loại nào (sẽ được đoạn
tận...).
15) Như câu hỏi: "Thế nào là sanh và sanh này là của ai?". Hay "Sanh
là khác và người có sanh là khác", hay "Sinh mạng và thân thể là một",
hay "Sinh mạng và thân thể là khác", tất cả đều được đoạn tận, cắt đứt
từ gốc rễ làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể hiện hữu, khiến
trong tương lai không thể sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, do sự ly tham,
đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, các tạp luận, dị thuyết, xuyên tạc
liên hệ ấy hay bất cứ loại nào (sẽ được đoạn tận...).
16) Thế nào là hữu...
17) Thế nào là thủ...
18) Thế nào là ái...
19) Thế nào là thọ...
20) Thế nào là xúc...
21) Thế nào là sáu xứ...
22) Thế nào là danh sắc...
23) Thế nào là thức... Này các Tỷ-kheo, do sự ly tham, đoạn diệt vô
minh một cách hoàn toàn, các tạp luận, dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy
hay bất cứ loại nào (sẽ được đoạn tận...).
24) Như câu hỏi: "Thế nào là các hành và các hành này là của ai?".
Hay "Các hành là khác và người có các hành này là khác", hay "Sinh mạng
và thân thể là một", hay "Sinh mạng và thân thể là khác"; tất cả đều
được đoạn tận cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho
không thể hiện hữu, khiến cho trong tương lai không thể sanh khởi.
VI. Do Duyên Vô Minh (S.ii,63)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) ... Này các Tỷ-kheo, do duyên vô minh nên có các hành. Do duyên
hành nên có thức... như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
3) Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nói: "Thế nào là già chết và già
chết này của ai?" Hay này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nói: "Già chết là
khác và người có già chết là khác" hai câu này đồng một nghĩa, chỉ có
văn sai khác. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân
thể là một", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào có
(tà) kiến: "Sinh mạng là khác, thân thể là khác", chỗ ấy không có Phạm
hạnh trú. Này các Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan ấy Như Lai thuyết pháp
theo trung đạo, nói rằng: "Do duyên sanh có già chết.."..
4) Thế nào là sanh?...
5) Thế nào là hữu?...
6) Thế nào là thủ?...
7) Thế nào là ái?...
8) Thế nào là thọ?...
9) Thế nào là xúc?...
10) Thế nào là sáu xứ?...
11) Thế nào là danh sắc?...
12) Thế nào là thức?...
13) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nói: "Thế nào là các hành và
các hành này là của ai?" Hay này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nói: "Các
hành và người có các hành này khác", hai câu hỏi ấy đồng nghĩa, chỉ có
văn sai khác. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân
thể là một", chỗ ấy, này các Tỷ-kheo, không có Phạm hạnh trú. Này các
Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể là khác", chỗ ấy,
này các Tỷ-kheo, không có Phạm hạnh trú. Này các Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực
đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo nói rằng: "Do duyên vô minh,
có các hành".
14) Do sự đoạn diệt, ly tham vô minh một cách hoàn toàn, các tạp
luận, dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy hay bất cứ loại nào...
15) Thế nào là sanh?...
16) Thế nào là hữu?...
17) Thế nào là thủ?...
18) Thế nào là ái?...
19) Thế nào là thọ?...
20) Thế nào là xúc?...
21) Thế nào là sáu xứ?...
22) Thế nào là danh sắc?...
23) Thế nào là thức?...
24) "Thế nào là hành và những hành này là của ai?" Hay "Các hành là
khác và có ai có những hành này là khác", hay "Sinh mạng và thân thể là
một", hay "Sinh mạng và thân thể là khác"; tất cả những loại liên hệ này
được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho
không thể hiện hữu, khiến cho trong tương lai không thể sanh khởi.
VII. Không Phải Của Ông (Tạp 12.13, Phi Nhữ Sở Hữu, Ðại 2,
84a) (S.ii,64)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, thân thể này không phải của các Ông, không
phải của người khác.
3) Thân này, này các Tỷ-kheo, phải được xem là do hành động, do sắp
đặt, do sự cố ý, do sự cảm thọ trong quá khứ.
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đa văn khéo léo chân chánh
suy nghiệm định lý duyên khởi như sau:
5) "Cái này có mặt cái kia có mặt. Do cái này sanh khởi, cái kia sanh
khởi. Cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này diệt, cái
kia diệt. "Tức là do duyên vô minh có các hành. Do duyên hành có thức...
như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Do sự ly tham, đoạn
diệt vô minh một cách hoàn toàn, các hành diệt. Do các hành diệt nên
thức diệt... như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
VIII. Cetanà: Tư Tâm Sở (Tạp 14.19, Tư Lường. Ðại 2,100a)
(S.ii,65)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) ... Này các Tỷ-kheo, cái chúng ta tư niệm, tư lường, có thầm ý,
cái ấy trở thành sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên có mặt thời
thức có an trú. Do thức ấy an trú, tăng trưởng, nên trong tương lai, tái
hữu sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu có mặt trong tương lai, nên già
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn
bộ khổ uẩn này.
3) Này các Tỷ-kheo, nếu không có tư niệm, không có tư lường nhưng nếu
có thầm ý, (canuseti), cái ấy trở thành sở duyên cho thức an trú. Khi
nào sở duyên có mặt thời thức có an trú. Do thức ấy an trú, tăng trưởng,
nên trong tương lai, tái hữu sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu có mặt
trong tương lai, nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy
là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
4) Này các Tỷ-kheo, nếu chúng ta không có tư niệm, không có tư lường,
không có thầm ý, thời không có sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở
duyên không có mặt thời thức không an trú. Do thức ấy không an trú và
không tăng trưởng, nên trong tương lai tái hữu không sanh khởi. Do sanh
khởi tái hữu không có mặt trong tương lai, nên sanh, già chết, sầu, bi,
ưu, não được đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
IX. Tư Tâm Sở (Tạp 14.20 Tư Lường, Ðại 2, 100b) (S.ii,66)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, cái gì chúng ta tư niệm, chúng ta tư lường,
chúng ta có thầm ý, cái ấy trở thành (sở duyên) cho thức an trú. Do sở
duyên có mặt nên thức có an trú. Do thức ấy an trú và tăng trưởng nên có
sự hạ sanh danh sắc.
3) Do duyên danh sắc nên có sáu xứ. Do duyên sáu xứ nên có xúc. Do
duyên xúc nên có thọ... ái... thủ... hữu... sanh, già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
4) Này các Tỷ-kheo, nếu chúng ta không tư niệm, không tư lường nhưng
có thầm ý, thời cái ấy trở thành sở duyên cho thức an trú. Do sở duyên
có mặt nên thức có an trú. Do thức ấy an trú và tăng trưởng nên có sự hạ
sanh danh sắc.
5) Do duyên danh sắc nên có sáu xứ... như vậy là sự tập khởi của toàn
bộ khổ uẩn này.
6) Này các Tỷ-kheo, nếu chúng ta không tư niệm, không tư lường, không
có thầm ý, thời không có sở duyên cho thức an trú. Do sở duyên không có
mặt nên thức không an trú. Do thức ấy không an trú và không tăng trưởng
nên danh sắc không hạ sanh. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt... như vậy
là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
X. Tư Tâm Sở (Tạp 14.21 Tư Lường, Ðại 2, 100b) (S.ii,66)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) ... Này các Tỷ-kheo, cái gì chúng ta tư niệm, cái gì chúng ta tư
lường, cái gì chúng ta có thầm ý, cái ấy trở thành sở duyên cho thức an
trú. Do sở duyên có mặt nên thức an trú.
3) Do thức ấy an trú và tăng trưởng nên có thiên về, hướng về (hệ
trước: nati). Do có thiên về, hướng về nên có sự đi đến tái sanh. Do có
sự đi đến tái sanh nên có từ bỏ và sanh khởi. Do có từ bỏ và sanh khởi
nên trong tương lai sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh khởi.
Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
4) Này các Tỷ-kheo, nếu không có tư niệm, không có tư lường, nhưng
chỉ có thầm ý, thời cái ấy là sở duyên cho thức an trú. Do sự có mặt của
sở duyên nên thức an trú.
5) Do thức ấy an trú và tăng trưởng nên có thiên về, hướng về. Do có
thiên về, hướng về nên có sự đi đến tái sanh. Do có sự đi đến tái sanh
nên có từ bỏ và sanh khởi. Do có từ bỏ và sanh khởi, nên trong tương lai
sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi
của toàn bộ khổ uẩn này.
6) Này các Tỷ-kheo, nếu không có tư niệm, tư lường, không có thầm ý,
thời không có sở duyên cho thức an trú. Do sở duyên không có mặt nên
thức không có an trú.
7) Do thức ấy không an trú, không tăng trưởng nên không có thiên về,
hướng về. Do không có thiên về, hướng về nên không có đi đến tái sanh.
Do không có sự đi đến tái sanh nên không có từ bỏ và sanh khởi. Do không
có từ bỏ và sanh khởi nên trong tương lai sanh, già chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
V. Phẩm Gia Chủ - Thứ Năm
I. Năm Hận Thù Sợ Hãi (S.ii,68)
1) Trú ở Sàvatthi...
2) Rồi Gia chủ Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với Gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:
3) -- Khi nào, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử nhiếp phục được năm sợ
hãi, hận thù, khi nào được đầy đủ bốn dự lưu chi, khi nào Thánh lý
(nàya) nhờ trí tuệ được khéo thấy, được khéo thâm nhập, khi ấy, vị ấy
nếu muốn có thể tự mình tuyên bố cho mình: "Ta là người đoạn diệt được
địa ngục, đoạn diệt được bàng sanh, đoạn diệt được ngạ quỷ, đoạn diệt
được cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, ta không còn bị đọa lạc,
ta đã được quyết định, Chánh Ðẳng Giác là mục tiêu tối hậu (của ta)".
4) Thế nào là năm sợ hãi, hận thù được nhiếp phục?
5) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người sát sinh, vì duyên sát sinh
đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả
tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Ðối với vị đoạn tuyệt sát sanh, như
vậy sợ hãi, hận thù được nhiếp phục.
6) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người lấy của không cho, vì duyên
lấy của không cho đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận thù đưa đến trong
tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Ðối với vị đoạn tuyệt
lấy của không cho, như vậy sợ hãi, hận thù được nhiếp phục.
7) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người sống tà hạnh trong các dục,
vì duyên sống tà hạnh trong các dục đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận
thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Ðối
với vị đoạn tuyệt sống tà hạnh trong các dục vọng, như vậy sợ hãi, hận
thù được nhiếp phục.
8) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người nói láo, và duyên nói láo
đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả
tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Ðối với vị đoạn tuyệt nói láo, như vậy
sợ hãi, hận thù được nhiếp phục.
9) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người đắm say rượu men, rượu nấu,
và duyên đắm say rượu men, rượu nấu đưa đến trong hiện tại; sợ hãi hận
thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Ðối
với vị đoạn tuyệt đắm say rượu men rượu nấu, như vậy sợ hãi hận thù
được nhiếp phục.
Năm sự sợ hãi oán thù này được nhiếp phục.
II
10) -- Thế nào là bốn Dự lưu chi được đầy đủ?
11) Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử đầy đủ lòng tin bất động, đối
với Đức Phật: "Ðây là vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Tượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn".
12) Vị ấy đầy đủ lòng tin bất động đối với Pháp: "Ðây là Pháp do Thế
Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy,
có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu".
13) Vị ấy đầy đủ lòng tin bất động đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ
tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực
hạnh, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế
Tôn là bậc Như pháp hạnh; tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử
của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí,
đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở trên đời".
14) Vị ấy đầy đủ các giới đức, được bậc Thánh quý mến, không bị bể
vụn, không bị hủy hoại, không có tỳ vết, không có vết nhơ, đưa đến tự
do, được người trí tán thán, không bị nhiễm trước, đưa đến Thiền định,
bốn Dự lưu chi này được đầy đủ.
15) Thế nào là Thánh lý nhờ trí tuệ được khéo thấy, được khéo thâm
nhập?
16) Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử khéo chánh tư duy định lý
Duyên khởi như sau: "Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này không
có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này
diệt, cái kia diệt".
17) Tức là do duyên vô minh có hành. Do duyên hành có thức... (như
trên)... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Do ly tham,
đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên
thức diệt... (như trên)... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
này.
Ðây là Thánh lý nhờ trí tuệ được khéo thấy, được khéo thâm nhập.
18) Này Gia chủ, khi nào vị Thánh đệ tử nhiếp phục được năm sợ hãi
hận thù này, khi nào đầy đủ bốn Dự lưu chi này, khi nào Thánh lý này nhờ
trí tuệ được khéo thấy, được khéo thâm nhập, khi ấy vị ấy nếu muốn, có
thể tự mình tuyên bố cho mình: "Ta là người đoạn diệt được địa ngục,
đoạn diệt được bàng sanh, đoạn diệt được ngạ quỷ, đoạn diệt được cõi dữ,
ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, ta không còn bị đọa lạc, ta đã được
quyết định; Chánh Ðẳng Giác là mục tiêu tối hậu của ta".
II. Năm Sợ Hãi Hận Thù (S.ii,70)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn... (như trên)... Thế Tôn
nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Thánh đệ tử nhiếp phục được năm sợ
hãi hận thù, đầy đủ bốn Dự lưu chi, và khi nào Thánh lý nhờ trí tuệ được
khéo thấy, được khéo thâm nhập, khi ấy vị ấy nếu muốn, có thể tự mình
tuyên bố cho mình: "Ta là người đoạn diệt được địa ngục... (như trên)...
Chánh Ðẳng Giác là mục tiêu tối hậu của ta".
Thế nào là năm sợ hãi hận thù được nhiếp phục?
Này các Tỷ-kheo, sợ hãi hận thù do người sát sanh... này các Tỷ-kheo,
sự sợ hãi, hận thù do người lấy của không cho...
Này các Tỷ-kheo, sự sợ hãi, hận thù do người sống tà hạnh trong các
dục...
Này các Tỷ-kheo, sự sợ hãi, hận thù do người nói láo...
Này các Tỷ-kheo, sự sợ hãi, hận thù do người đắm say rượu men, rượu
nấu.
Năm sự sợ hãi hận thù này được nhiếp phục.
4) Thế nào là bốn Dự lưu chi được đầy đủ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đối với Phật... đối với
Pháp... đối với chúng Tăng... Ðầy đủ các giới đức được bậc Thánh quý
mến...
Bốn Dự lưu chi này được đầy đủ.
5) Thế nào là Thánh lý nhờ trí tuệ được khéo thấy, được khéo thâm
nhập?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử khéo chánh tư duy định lý
Duyên khởi như sau:... Ðây là Thánh lý nhờ trí tuệ được khéo thấy, được
khéo thâm nhập.
6) Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Thánh đệ tử nhiếp phục được năm sợ hãi
hận thù, được đầy đủ bốn Dưu lưu chi, Thánh lý nhờ trí tuệ được khéo
thấy, được khéo thâm nhập, vị ấy nếu muốn có thể tự mình tuyên bố cho
mình: "Ta là người đoạn diệt được địa ngục, đoạn điệt được bàng sanh,
đoạn diệt được ngạ quỷ, đoạn diệt được cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc
Dự lưu, ta không còn bị đọa lạc, ta đã được quyết định, Chánh Ðẳng Giác
là mục tiêu tối hậu của ta".
III. Khổ. (S.ii,71)
1) ... Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng sự tập khởi và sự đoạn diệt của
khổ. Hãy nghe...
I
3) -- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ tập khởi?
4) Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ hội
nên xúc khởi. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Này các
Tỷ-kheo, đây là khổ tập khởi.
5) Do duyên tai và các tiếng...
6) Do duyên mũi và các hương...
7) Do duyên lưỡi và các vị...
8) Do duyên thân và các xúc...
9) Do duyên ý và các pháp, ý thức khởi lên. Do ba cái tụ hội, nên có
xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Này các Tỷ-kheo,
đây là khổ tập khởi.
II
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ đoạn diệt?
11) Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ
hội, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do ly
tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên
hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não đều đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
này. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ đoạn diệt.
12) Do duyên lỗ tai và các tiếng, nên nhĩ thức sanh khởi...
13) Do duyên mũi và các hương, nên tỷ thức sanh khởi...
14) Do duyên lưỡi và các vị nên thiệt thức sanh khởi...
15) Do duyên thân và các xúc nên thân xúc sanh khởi...
16) Do duyên ý và các pháp nên ý thức sanh khởi. Do ba cái tụ họp nên
có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham,
đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu
diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
17) Này các Tỷ-kheo, đây là khổ đoạn diệt.
IV. Thế Giới (S.ii,73)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) ... Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về sự tập khởi và sự đoạn diệt
của thế giới. Hãy nghe...
I
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thế giới tập khởi?
4) Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ họp,
nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do duyên
ái nên có thủ. Do duyên thủ nên có hữu. Do duyên hữu nên có sanh. Do
duyên sanh, nên có già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Ðây là thế
giới tập khởi.
5) Do duyên lỗ tai và các tiếng...
6) Do duyên lỗ mũi và các hương...
7) Do duyên lưỡi và các vị...
8) Do duyên thân và các xúc...
9) Do duyên ý với các pháp, ý thức khởi lên. Do ba cái tụ họp nên có
xúc. Do duyên xúc nên có thọ... Do duyên sanh nên già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não, sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tập khởi của thế
giới.
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thế giới đoạn diệt?
11) Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ họp
nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly
tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên
hữu diệt... Ðây là sự đoạn diệt toàn bộ khổ uẩn này. Ðây là thế giới
đoạn diệt.
12) Do duyên lỗ tai và các tiếng...
13) Do duyên lỗ mũi và các hương...
14) Do duyên lưỡi và các vị...
15) Do duyên thân và các xúc...
16) Do duyên ý và các pháp, ý thức sanh khởi. Do ba cái tụ họp nên có
xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham,
đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu
diệt... Ðây là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
17) Này các Tỷ-kheo, đây là thế giới đoạn diệt.
V. Nàtika (S.ii,84)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Nàtika, trong căn nhà gạch.
2) Rồi Thế Tôn trong khi độc cư Thiền tọa tuyên thuyết pháp môn này:
3) -- Do duyên con mắt và các sắc nên nhãn thức sanh khởi. Do ba cái
tụ họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do
duyên ái nên có thủ... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
4) Do duyên lỗ tai và các tiếng...
5) Do duyên lỗ mũi và các hương...
6) Do duyên lưỡi và các vị...
7) Do duyên thân và các xúc...
8) Do duyên ý và các pháp nên ý thức khởi lên. Do ba cái tụ họp nên
có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do duyên ái nên
có thủ... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
9) Do duyên con mắt và các sắc nên nhãn thức sanh khởi. Do ba cái tụ
họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự
ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt
nên hữu diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
10) Do duyên lỗ tai và các tiếng...
11) Do duyên lỗ mũi và các hương...
12) Do duyên lưỡi và các vị...
13) Do duyên thân và các xúc...
14) Do duyên ý và các pháp nên ý thức sanh khởi. Do ba cái tụ họp nên
có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham,
đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu
diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
II
15) Lúc bấy giờ một vị Tỷ-kheo đang đứng nghe trộm Thế Tôn.
16) Thế Tôn thấy vị Tỷ-kheo đang đứng nghe trộm.
17) Sau khi thấy, Thế Tôn nói với vị Tỷ-kheo ấy:
-- Này Tỷ-kheo, Ông có nghe pháp môn này không?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
18) -- Này Tỷ-kheo, Ông hãy học pháp môn này. Này Tỷ-kheo, Ông hãy
học thuộc lòng pháp môn này. Này Tỷ-kheo, pháp môn (này) liên hệ đến mục
đích và căn bản Phạm hạnh.
VI. Một Vị (Bà-La-Môn) (Tạp 12.18 Tha, Ðại 2,85c) (S.ii,75)
1) ... Trú Tại Sàvatthi.
2) Rồi một vị Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế
Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu bèn ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, vị Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải người hành động là người cảm thọ?
-- Này Bà-la-môn, người hành động là người cảm thọ, ấy là một cực
đoan.
4) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải người hành động khác, người cảm
thọ khác?
-- Người hành động khác, và người cảm thọ khác, ấy là cực đoan thứ
hai. Này Bà-la-môn, từ bỏ hai cực đoan ấy, Thế Tôn thuyết pháp theo
trung đạo.
5) Do duyên vô minh nên có hành. Do duyên hành nên có thức. Do duyên
thức nên có danh sắc... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do
hành diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
6) Khi được nói vậy, vị Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
-- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Gotama! Thật là vi diệu, thưa Tôn
giả Gotama!... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến
mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.
VII. Jànussoni (S.ii,76)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với
Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm...
Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
3) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều có?
-- Này Bà-la-môn, tất cả đều có, ấy là một cực đoan.
4) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều không có?
-- Này Bà-la-môn tất cả đều không có, ấy là cực đoan thứ hai. Này
Bà-la-môn, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo.
5) Do duyên vô minh nên có hành. Do duyên hành nên có thức... (như
trên)... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Do sự ly tham, đoạn diệt vô minh ấy một cách hoàn toàn nên hành diệt.
Do hành diệt nên thức diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ
uẩn này.
6) Khi được nói vậy, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
-- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Gotama! Thật là vi diệu, thưa Tôn
giả Gotama!...
VIII. Thuận Thế Phái (S.ii,77)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi một Bà-la-môn thuộc phái Thuận Thế đi đến Thế Tôn...
Ngồi xuống một bên, vị Bà-la-môn thuộc phái Thuận Thế bạch Thế Tôn:
3) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều có?
-- Này Bà-la-môn, tất cả đều có, là chấp kiến thứ nhất của thế gian.
4) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều không có?
-- Tất cả đều không có, này Bà-la-môn, là chấp kiến thứ hai của thế
gian.
5) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều là một?
-- Tất cả đều là một, này Bà-la-môn, là chấp kiến thứ ba của thế
gian.
6) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều là nhiều?
-- Tất cả đều là nhiều, này Bà-la-môn, là chấp kiến thứ tư của thế
gian.
Này Bà-la-môn, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo con
đường trung đạo.
7) Do duyên vô minh nên có hành. Do duyên hành nên có thức... Như vậy
là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do
hành diệt nên thức diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
này.
8) Khi nghe nói vậy, vị Bà-la-môn thuộc phái Thuận Thế bạch Thế Tôn:
-- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Gotama!... con xin trọn đời quy
ngưỡng.
IX. Thánh Ðệ Tử (Tạp 14,8 Thánh đệ tử. Ðại 2,98b) (S.ii,77)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như
sau: "Do cái gì có mặt, cái gì hiện hữu? Do cái gì sanh khởi, cái gì
sanh khởi? Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì có mặt, danh
sắc hiện hữu? Do cái gì có mặt, sáu xứ hiện hữu? Do cái gì có mặt, xúc
hiện hữu? Do cái gì có mặt, thọ hiện hữu? Do cái gì có mặt, ái hiện hữu?
Do cái gì có mặt, thủ hiện hữu? Do cái gì có mặt, hữu hiện hữu? Do cái
gì có mặt, sanh hiện hữu? Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu?"
3) Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không duyên người khác, ở
đây có trí như sau: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này
sanh khởi, cái kia sanh khởi. Do duyên vô minh nên có hành. Do duyên
hành nên có thức. Do duyên thức nên có danh sắc... Do duyên sanh nên có
già chết. Vị ấy hiểu biết như vậy. Như vậy là sự sanh khởi của thế giới
này".
4) Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như sau:
"Do cái gì không có mặt, cái gì không hiện hữu? Do cái gì diệt, cái gì
diệt? Do cái gì không có mặt, hành không hiện hữu? Do cái gì không có
mặt, thức không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, danh sắc không hiện
hữu? Do cái gì không có mặt, sáu xứ không hiện hữu? Do cái gì không có
mặt, xúc không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thọ không hiện hữu? Do
cái gì không có mặt, ái không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thủ
không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, hữu không hiện hữu? Do cái gì
không có mặt, sanh không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, già chết
không hiện hữu?".
5) Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không duyên theo người
khác, ở đây có trí như sau: "Do cái này không có mặt, cái kia không hiện
hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt. Do vô minh không có mặt, các hành
không hiện hữu. Do các hành không có mặt, thức không hiện hữu. Do thức
không có mặt, danh sắc không hiện hữu. Do danh sắc không không có mặt,
sáu xứ không hiện hữu. Do sáu xứ không có mặt, xúc không hiện hữu. Do
xúc không có mặt, thọ không hiện hữu. Do thọ không có mặt, ái không hiện
hữu. Do ái không có mặt, thủ không hiện hữu. Do thủ không có mặt, hữu
không hiện hữu. Do hữu không có mặt, sanh không hiện hữu. Do sanh không
có mặt, già chết không hiện hữu". Vị ấy hiểu biết như vậy. Như vậy là sự
đoạn diệt của thế giới này.
6) Và này các Tỷ-kheo, vì rằng vị Thánh đệ tử như thật biết sự tập
khởi và sự đoạn diệt của thế gian như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử này được gọi là kiến đạt... (như trên)... đã đứng gõ cửa bất tử.
X. Thánh Ðệ Tử (S.ii,79)
1) ... Tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như
sau: "Có phải do cái gì có mặt, cái gì hiện hữu? Do cái gì sanh khởi,
cái gì sanh khởi? Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì có mặt,
thức hiện hữu? Do cái gì có mặt, danh sắc hiện hữu? Do cái gì có mặt,
sáu xứ hiện hữu? Do cái gì có mặt, xúc hiện hữu? Do cái gì có mặt, thọ
hiện hữu? Do cái gì có mặt, ái hiện hữu? Do cái gì có mặt, thủ hiện hữu?
Do cái gì có mặt, hữu hiện hữu? Do cái gì có mặt, sanh hiện hữu? Do cái
gì có mặt, già chết hiện hữu?".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không duyên một ai
khác, ở đây có trí như sau: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái
này sanh khởi, cái kia sanh khởi. Do vô minh có mặt, hành hiện hữu. Do
hành có mặt, thức hiện hữu. Do thức có mặt, danh sắc hiện hữu. Do danh
sắc có mặt, sáu xứ hiện hữu. Do sáu xứ có mặt, xúc hiện hữu. Do xúc có
mặt, thọ hiện hữu. Do thọ có mặt, ái hiện hữu. Do ái có mặt, thủ hiện
hữu. Do thủ có mặt, hữu hiện hữu. Do hữu có mặt, sanh hiện hữu. Do sanh
có mặt, già chết hiện hữu". Vị ấy hiểu biết như vậy. Như vậy là sự sanh
khởi của thế giới này.
4) Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không suy nghĩ như sau: "Có
phải, do cái gì không có mặt, cái gì không hiện hữu? Do cái gì diệt,
cái gì diệt? Do cái gì không có mặt, các hành không hiện hữu? Do cái gì
không có mặt, thức không hiện hữu... (như trên)... Do cái gì không có
mặt, già chết không hiện hữu?"
5) Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không duyên một ai khác, ở
đây có trí như sau: "Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu? Do
cái này diệt, cái kia diệt. Do vô minh không có mặt, các hành không
hiện hữu. Do các hành không có mặt, thức không hiện hữu. Do thức không
có mặt, danh sắc không hiện hữu. Do danh sắc không có mặt,sáu xứ không
hiện hữu. Do sáu xứ không có mặt, xúc không hiện hữu... (như trên)... Do
sanh không có mặt, già chết không hiện hữu". Vị ấy hiểu biết như vậy.
Như vậy là sự đoạn diệt của thế giới này.
6) Vì rằng này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử như thật biết sự tập khởi
và sự đoạn diệt của thế giới này như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử ấy được gọi là kiến đạt, vị ấy thấy diệu pháp này, vị ấy đầy đủ trí
của bậc hữu học, vị ấy đầy đủ minh của bậc hữu học, đã nhập được Pháp
lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ, là vị đã đứng gõ cửa bất tử.
VI. Phẩm Cây
I. Tư Lường (Tạp 12.10, Ðại 2,82c) (S.ii,80)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn
ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch
Thế Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tư lường, phải tư lường như thế nào
để chơn chánh diệt khổ một cách trọn vẹn?
-- Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm
lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm điểm tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn
nói lên ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng, các
Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
4) -- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
5) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đang tư lường, tư lường như
sau: "Sự đau khổ nhiều loại và đa dạng này khởi lên trên đời như già và
chết; sự đau khổ này lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh,
lấy gì làm hiện hữu? Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu? Do cái gì
không có mặt, già chết không hiện hữu?"
6) Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau: "Sự đau khổ nhiều loại và đa
dạng này khởi lên trên đời như già và chết, sự đau khổ này lấy sanh làm
nhân, lấy sanh làm tập khởi, lấy sanh làm tác sanh, lấy sanh làm hiện
hữu. Do sanh có mặt, già chết hiện hữu. Do sanh không có mặt, già chết
không hiện hữu".
7) Và vị ấy biết già chết, biết già chết tập khởi, biết già chết đoạn
diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến già chết đoạn diệt. Do
thực hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành.
8) Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một
cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt già chết.
9) Tư lường thêm nữa, vị ấy tư lường như sau: "Còn hữu này, do cái gì
làm nhân? Còn thủ này, do cái gì làm nhân? Còn ái này, do cái gì làm
nhân? Còn thọ này, do cái gì làm nhân? Còn xúc này... Còn sáu xứ này...
Còn danh sắc này... Còn thức này... Còn các hành này, do cái gì làm
nhân, cái gì tập khởi, cái gì tác sanh, cái gì làm hiện hữu? Do cái gì
có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì không có mặt các hành không hiện
hữu?"
10) Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau: "Các hành lấy vô minh làm
nhân, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm tác sanh, lấy vô minh
làm hiện hữu. Do vô minh có mặt, các hành hiện hữu. Do vô minh không có
mặt, các hành không hiện hữu".
11) Và vị ấy biết các hành, biết các hành tập khởi, biết các hành
đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến các hành đoạn diệt.
Do thực hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành. Này các
Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một cách trọn vẹn để
chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt các hành.
12) Này các Tỷ-kheo, nếu người nào bị vô minh chi phối, dự tính làm
phước hành, thức (của người ấy) đi đến phước. Nếu người ấy dự tính làm
phi phước hành, thức (của người ấy) đi đến phi phước. Nếu người ấy dự
tính làm bất động hành, thức (của người ấy) đi đến bất động.
13) Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đoạn tận vô minh, minh được
sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh sanh khởi, không dự tính làm
phước hành, không dự tính làm phi phước hành, không dự tính làm bất động
hành.
14) Không có dự tính, không có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì
ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn
toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy biết lạc thọ ấy vô thường, vị
ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm
giác khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ vô thường, vị ấy biết không nên tham
đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc
thọ, vị ấy biết thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy
biết không nên hoan hỷ.
16) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát
ly. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly.
Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm
thoát ly (visannutto).
17) Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: "Ta
cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ
tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng
của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả
những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân
được bỏ qua một bên".
18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của người thợ
gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để sức
nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân,
vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm
giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một
cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng
chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành
vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên".
19) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các
lậu hoặc có dự tính làm các phước hành, hay có dự tính làm các phi
phước hành, hay có dự tính làm các bất động hành?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
20) -- Hay nếu các hành không có mặt một cách trọn vẹn, do các hành
đoạn diệt, thời thức có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
21) -- Hay nếu thức không có mặt một cách trọn vẹn, do thức đoạn
diệt, thời danh sắc có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
22) -- Hay nếu danh sắc không có mặt một cách trọn vẹn, do danh sắc
đoạn diệt, thời sáu xứ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
23) -- Hay nếu sáu xứ không có mặt một cách trọn vẹn, do sáu xứ đoạn
diệt, thời xúc có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
24) -- Hay nếu xúc không có mặt một cách trọn vẹn, do xúc đoạn diệt,
thời thọ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
25) -- Hay nếu thọ không có mặt một cách trọn vẹn, do thọ đoạn diệt,
thời ái có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
26) -- Hay nếu ái không có mặt một cách trọn vẹn, do ái đoạn diệt,
thời thủ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
27) -- Hay nếu thủ không có mặt một cách trọn vẹn, do thủ đoạn diệt,
thời hữu có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
28) -- Hay nếu hữu không có mặt một cách trọn vẹn, do hữu đoạn diệt,
thời sanh có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
29) -- Hay nếu sanh không có mặt một cách trọn vẹn, do sanh đoạn
diệt, thời già chết có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
30) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Phải là như vậy, này
các Tỷ-kheo! Không thể khác vậy. Hãy tin ở Ta, này các Tỷ-kheo! Hãy
quyết định, chớ có nghi ngờ, chớ có phân vân! Ðây là khổ được đoạn tận.
II. Thủ (Tạp 12.4 Thủ, Ðại 2,80b) (S.ii,84)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, ai sống, thấy vị ngọt trong các pháp được chấp
thủ (upàdàniyadhammà), ái được tăng trưởng. Do duyên ái nên thủ có mặt.
Do duyên thủ nên hữu có mặt. Do duyên hữu nên sanh có mặt. Do duyên
sanh nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là toàn bộ
khổ uẩn này tập khởi.
3) Này các Tỷ-kheo, ví như một đống lửa lớn làm bằng mười xe củi, hay
hai mươi xe củi, hay ba mươi xe củi, hay bốn mươi xe củi đang cháy đỏ.
Tại đây có người thỉnh thoảng ném cỏ khô vào, và ném củi khô vào. Này
các Tỷ-kheo, như vậy đống lửa lớn ấy được nuôi dưỡng, được tiếp tế, có
thể cháy đỏ trong một thời gian dài.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp
được chấp thủ, ái được tăng trưởng. Do duyên ái nên thủ sanh khởi...
(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
5) Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các pháp được
chấp thủ, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên
hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
6) Này các Tỷ-kheo, ví như một đống lửa lớn làm bằng mười xe củi, hay
hai mươi xe củi, hay ba mươi xe củi, hay bốn mươi xe củi đang cháy đỏ.
Tại đấy không có người thỉnh thoảng ném cỏ khô vào, hay phân khô, hay
củi khô vào. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đống lửa lớn ấy do (nhiên liệu)
được tiếp tế trước tiêu diệt, do (nhiên liệu) khác không được đem lại,
không được nuôi dưỡng, bị tắt.
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các
pháp được chấp thủ, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
III. Kiết Sử (Tạp 12.3, Phật Phước, Ðại 2,79c) (S.ii,86)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) ... Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp kiết sử,
ái được tăng trưởng. Do duyên ái nên thủ có mặt. Do duyên thủ nên hữu có
mặt. Do duyên hữu nên sanh có mặt. Do duyên sanh nên già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, do duyên dầu và duyên tim, ngọn đèn dầu
được cháy đỏ. Tại đây có người thỉnh thoảng rót dầu thêm và khơi tim
lên. Này các Tỷ-kheo, ngọn đèn dầu ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp
tế như vậy, có thể cháy đỏ trong một thời gian dài.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp
kiết sử, ái được tăng trưởng. Do duyên ái nên thủ sanh khởi... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
5) Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các pháp kiết sử,
ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt.
Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não được đoạn diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
6) Ví như, này các Tỷ-kheo, do duyên dầu và do duyên tim, ngọn đèn
dầu được cháy đỏ. Tại đấy không có người thỉnh thoảng rót thêm dầu vào
và không khơi tim lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ngọn đèn ấy do (nhiên
liệu) được tiếp tế trước tiêu diệt và do (nhiên liệu) khác không được
đem thêm, không được nuôi dưỡng, sẽ bị tắt.
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các
pháp kiết sử, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
IV. Kiết Sử (S.ii,87)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, ví như duyên dầu và duyên tim, ngọn đèn dầu
được cháy đỏ. Tại đấy có người thỉnh thoảng rót thêm dầu và khơi tim
lên. Này các Tỷ-kheo, ngọn đèn dầu ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp
tế như vậy, có thể cháy đỏ trong một thời gian dài. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp kiết sử, ái được tăng
trưởng. Do duyên ái, thủ sanh khởi... (như trên)... Như vậy là toàn bộ
khổ uẩn này tập khởi.
3) Này các Tỷ-kheo, ví như duyên dầu và duyên tim, ngọn đèn dầu được
cháy đỏ. Tại đấy không có người thỉnh thoảng rót thêm dầu và khơi tim
lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ngọn đèn dầu ấy do chính (nhiên liệu)
được tiếp tế trước tiêu diệt, do (nhiên liệu) khác không được đem thêm,
không được nuôi dưỡng, sẽ bị tắt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống
thấy sự nguy hiểm trong các pháp kiết sử, ái được đoạn diệt. Do ái diệt
nên thủ diệt. .. (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
V. Cây Lớn (Tạp 12,2 Ðại Thọ, Ðại 2,79b) (S.ii,87)
1) ... Trú tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được chấp
thủ, ái được tăng trưởng. Do duyên ái, thủ sanh khởi... (như trên)...
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây lớn, các rễ của cây ấy đâm sâu
xuống dưới và đâm ngang, tất cả rễ ấy đều đem lên nhựa sống cho cây ấy.
Này các Tỷ-kheo, cây lớn ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp tế như
vậy, có thể đứng vững trong một thời gian dài. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được chấp thủ, ái được tăng
trưởng. Do duyên ái, thủ sanh khởi... (như trên)... Như vậy là toàn bộ
khổ uẩn này tập khởi.
4) Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các pháp được
chấp thủ, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên
hữu diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
5) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây lớn, có một người đến, cầm cái
cuốc và cái giỏ. Người ấy chặt đứt rễ của cây ấy. Sau khi đào cái mương,
người ấy nhổ các rễ lớn cho đến các rễ con, các rễ phụ. Rồi người ấy
chặt cây ấy thành từng khúc. Sau khi chặt cây thành từng khúc, người ấy
bửa, sau khi bửa, người ấy chẻ thành từng miếng nhỏ. Sau khi chẻ thành
từng miếng nhỏ, người ấy phơi giữa gió và nắng. Sau khi người ấy phơi
giữa gió và nắng, người ấy lấy lửa đốt. Sau khi lấy lửa đốt, người ấy
vun thành đống tro. Sau khi vun thành đống tro, người ấy sàng tro ấy
giữa gió lớn hay đổ tro ấy vào dòng nước mạnh cho nước cuốn đi. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, cây lớn ấy, rễ bị cắt đứt, làm thành như thân cây
ta-la, làm cho không thể tái sanh, trong tương lai không thể sống lại
được.
6) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy được sự nguy hiểm trong
các pháp chấp thủ, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
VI. Cây Lớn (S.ii,88)
1) ... Trú tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, ví như có một cây lớn, các rễ của cây ấy đâm
sâu xuống dưới và đâm ngang, tất cả rễ ấy đều đem lên nhựa sống cho cây
ấy. Này các Tỷ-kheo, cây lớn ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp tế
như vậy, có thể đứng vững trong một thời gian dài.
3) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp
được chấp thủ, ái được tăng trưởng. Do duyên ái nên thủ sanh khởi...
(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
4) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây lớn, có người đến, cầm cái cuốc và
cái giỏ. Người ấy chặt đứt rễ của cây ấy. Sau khi chặt đứt rễ, người ấy
đào một cái mương. Sau khi đào cái mương, người ấy nhổ các rễ lớn...
(như trên)... hay đổ tro vào dòng nước mạnh cho nước cuốn đi. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, cây lớn ấy, rễ bị cắt đứt, làm thành như thân cây
ta-la, làm cho cây ấy không thể tái sanh, trong tương lai không thể sống
lại được.
5) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các
pháp được chấp thủ, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
VII. Cây Non (Tạp 12,1 Chủng Thọ, Ðại 2, 79a) (S.ii.89)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp kiết sử,
ái được tăng trưởng. Do duyên ái, thủ được sanh khởi... (như trên)...
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
3) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây non, có người thỉnh thoảng vun xới
các rễ, thỉnh thoảng bỏ thêm phân, thỉnh thoảng tưới thêm nước. Này các
Tỷ-kheo, cây non ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp tế như vậy, có
thể lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp
kiết sử, ái được tăng trưởng. Do duyên ái, thủ sanh khởi... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
5) Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các pháp kiết sử,
ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt... (như trên)... Như vậy là
toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
6) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây non, có người đến, cầm cái cuốc và
cái giỏ. Người ấy chặt đứt rễ của cây ấy, sau khi chặt đứt, người ấy
đào cái mương. Sau khi đào cái mương, người ấy nhổ lên các rễ lớn cho
đến các rễ con và rễ phụ. Rồi người ấy chặt cây ấy thành từng khúc. Sau
khi chặt từng khúc, người ấy bửa. Sau khi bửa, người ấy chẻ thành từng
miếng nhỏ. Sau khi chẻ thành từng miếng nhỏ, người ấy phơi giữa gió và
nắng. Sau khi phơi giữa nắng và gió, người ấy lấy lửa đốt. Sau khi lấy
lửa đốt, người ấy vun thành đống tro. Sau khi vun thành đống tro, người
ấy sàng tro ấy giữa gió lớn hay đổ tro ấy vào dòng nước mạnh cho nước
cuốn đi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, cây non ấy, rễ bị cắt đứt, làm thành
như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, trong tương lai không
thể sống lại được.
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự nguy hiểm trong các
pháp kiết sử, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
VIII. Danh Sắc (S.ii, 90)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) ... Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp kiết sử,
danh sắc được sanh khởi. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
3) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây lớn, các rễ của cây ấy đâm thẳng
xuống dưới và đâm ngang ra, tất cả rễ ấy đem lên nhựa sống. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, cây lớn ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp tế như vậy,
có thể được đứng vững trong một thời gian dài.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp
kiết sử, danh sắc được sanh khởi... (như trên)...
5) Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự tai hại trong các pháp kiết sử,
danh sắc không có sanh khởi. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
6) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây lớn, có một người đến, cầm cái
cuốc và cái giỏ... (như trên)... Trong tương lai không thể sống lại
được.
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự tai hại trong các pháp
kiết sử, danh sắc không có sanh khởi. Do danh sắc diệt nên sáu xứ
diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
IX. Thức (S.ii, 91)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp kiết sử,
thức được sanh khởi. Do duyên thức, nên danh sắc sanh khởi... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
3) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây lớn, rễ của các cây ấy... (như
trên)...
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp
kiết sử, thức được sanh khởi. Do duyên thức nên danh sắc sanh khởi...
(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
5) Này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự tai hại trong các pháp kiết sử,
thức không sanh. Do thức diệt nên danh sắc diệt... (như trên)... Như vậy
là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
6) Này các Tỷ-kheo, ví như một cây lớn, có người đến, cầm cái cuốc và
cái giỏ... (như trên)... trong tương lai không thể sống lại được.
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai sống thấy sự tai hại trong các pháp
kiết sử, thức không có sanh khởi. Do thức diệt nên danh sắc diệt... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
X. Nhân (S.ii, 92)
1) Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kuru, tại một thị trấn của dân
chúng Kuru tên là Kammàsadamma.
2) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Bạch Thế Tôn, sâu xa thay là định lý Duyên khởi này, và sâu xa thật là
định nghĩa này. Nhưng đối với con định lý ấy có vẻ rõ ràng, minh bạch!
4) -- Chớ có nói vậy, này Ananda! Chớ có nói vậy, này Ananda! Sâu xa
thay, này Ananda là định lý Duyên khởi này, và sâu xa thật là định nghĩa
này. Này Ananda, chính vì không hiểu rõ pháp này, không giác ngộ, không
chứng nhập (pháp này) mà chúng sanh nay bị rối ren như cuộn chỉ, bị phủ
đầy bởi bệnh cằn cỗi, như cỏ munjà, như cây lau, không thoát khỏi sự
luân hồi trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
5) Này Ananda, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được chấp thủ, ái
được tăng trưởng. Do duyên ái, hữu có mặt. Do duyên hữu, sanh có mặt. Do
duyên sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là toàn
khổ uẩn này tập khởi.
6) Này Ananda, ví như một cây lớn, các rễ của cây ấy đâm xuống và đâm
ngang, tất cả rễ ấy đều hút lên nhựa sống cho cây ấy. Này Ananda, cây
lớn ấy được nuôi dưỡng như vậy, được tiếp tế như vậy, có thể đứng vững
trong một thời gian dài.
7) Cũng vậy, này Ananda, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được
chấp thủ, ái được tăng trưởng. Do duyên ái, thủ có mặt. Do duyên thủ,
hữu có mặt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
8) Này Ananda, ai sống thấy sự tai hại trong các pháp chấp thủ, ái
được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt... (như trên)... Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
9) Này Ananda, ví như một cây lớn, rồi có người đi đến, cầm cái cuốc
và cái giỏ. Người ấy chặt đứt rễ cây ấy. Sau khi chặt đứt rễ, người ấy
đào một cái mương. Sau khi đào mương, người ấy nhổ lên các rễ lớn cho
đến các rễ con, rễ phụ. Người ấy chặt cây ấy ra từng khúc. Sau khi chặt
ra từng khúc, người ấy bửa. Sau khi bửa, người ấy chẻ ra từng miếng nhỏ.
Sau khi chẻ ra từng miếng nhỏ, người ấy phơi giữa gió và nắng. Sau khi
phơi giữa gió và nắng, người ấy lấy lửa đốt. Sau khi lấy lửa đốt, người
ấy vun lại thành đống tro. Sau khi vun lại thành đống tro, hoặc người ấy
sàng trong gió lớn hay đổ vào dòng nước chảy mạnh để nước cuốn đi. Như
vậy, này Ananda, cây lớn ấy sẽ bị chặt đứt, làm thành như cây ta-la,
không thể nào tái sanh, không thể sanh khởi lại trong tương lai.
10) Như vậy, này Ananda, ai sống thấy tai hại trong các pháp được
chấp thủ, ái được đoạn diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên
hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt, nên già chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
VII. Ðại Phẩm Thứ Bảy
I. Hạng Người Ít Nghe (Tạp 12.7 Vô Văn, Ðại 2, 81c)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông
Anàthapindika.
2) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu có thể nhàm chán, viễn ly,
giải thoát thân do bốn đại tạo thành này.
3) Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì họ thấy được cái thân do bốn đại
tạo thành này được tăng, được giảm, được thủ, được xả.
Do vậy, ở đây kẻ vô văn phàm phu có thể nhàm chán, viễn ly, giải
thoát.
4) Và này các Tỷ-kheo, cái gọi là tâm, là ý, là thức, ở đây, kẻ vô
văn phàm phu không đủ để có thể nhàm chán, không đủ để có thể viễn ly,
không đủ để có thể giải thoát.
5) Vì sao? Ðã lâu ngày, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu đắm
trước, xem là của tôi, chấp thủ: "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngã của tôi".
Do vậy, ở đây, kẻ vô văn phàm phu không đủ để có thể nhàm chán, không
đủ để có thể viễn ly, không đủ để có thể giải thoát.
6) Này các Tỷ-kheo, thật tốt hơn cho kẻ vô văn phàm phu đi đến với
thân do bốn đại tạo thành này xem như là tự ngã, hơn là đối với tâm.
7) Vì sao? Này các Tỷ-kheo, thân do bốn đại tạo thành này được thấy
đứng vững một năm, đứng vững hai năm, đứng vững ba năm, đứng vững bốn
năm, đứng vững năm năm, đứng vững mười năm, đứng vững hai mươi năm, đứng
vững ba mươi năm, đứng vững bốn mươi năm, đứng vững năm mươi năm, đứng
vững một trăm năm, đứng vững nhiều hơn nữa. Còn cái gọi là tâm này, là ý
này, là thức này, này các Tỷ-kheo, cả đêm và ngày, khởi lên là khác,
diệt đi là khác.
8) Này các Tỷ-kheo, ví như một con khỉ trong khi đi lại trong rừng
núi, nắm lấy một nhành cây, bỏ nhành cây ấy xuống, nó nắm giữ một nhành
khác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái gọi là tâm, là ý, là thức này cả
đêm và ngày, khởi lên là khác, diệt đi là khác.
9) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử khéo chơn chánh tư
duy định lý duyên khởi: "Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này
sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do
cái này diệt, cái kia diệt". Ví như do duyên vô minh, các hành sanh
khởi. Do duyên hành, thức sanh khởi... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
tập khởi.
10) Do đoạn diệt, ly tham vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt.
Do hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn
này đoạn diệt.
11) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử, nhàm chán đối
với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối
với các hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán nên viễn ly; do viễn
ly nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết được: "Ta giải
thoát", vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên
làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
II. Hạng Người Ít Nghe (Tạp 12,8 Vô Văn, Ðại 2, 82a) (S.ii,95)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu có thể nhàm chán, có thể
viễn ly, có thể giải thoát đối với cái thân do bốn đại tạo thành này.
3) Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì họ thấy thân do bốn đại tạo thành này
được tăng, được giảm, được thủ, được xả. Do vậy, ở đây, kể vô văn phàm
phu có thể nhàm chán, viễn ly, giải thoát.
4) Và này các Tỷ-kheo, cái gọi là tâm, là ý, là thức, ở đây, kẻ vô
văn phàm phu không đủ để có thể nhàm chán, không đủ để có thể viễn ly,
không đủ để có thể giải thoát.
5) Vì sao? Ðã lâu ngày, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu đắm
trước, xem là của tôi, chấp thủ: "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngã của tôi". Do vậy, ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn
phàm phu không đủ để có thể nhàm chán, không đủ để có thể viễn ly, không
đủ để có thể giải thoát.
6) Này các Tỷ-kheo, thật tốt hơn cho kẻ vô văn phàm phu đi đến với
thân do bốn đại tạo thành này, xem như là tự ngã, hơn là đối với tâm.
7) Vì sao? này các Tỷ-kheo, thân do bốn đại tạo thành này được thấy
đứng vững một năm, đứng vững hai năm, đứng vững ba năm, đứng vững bốn
năm, đứng vững năm năm, đứng vững mười năm, đứng vững hai mươi năm, đứng
vững ba mươi năm, đứng vững bốn mươi năm, đứng vững năm mươi năm, đứng
vững một trăm năm, đứng vững nhiều hơn nữa. Còn cái gọi là tâm này, là ý
này, là thức này, này các Tỷ-kheo, cả đêm và ngày, khởi lên là khác,
diệt đi là khác.
8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử khéo chơn chánh tư
duy lý duyên khởi: "Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này sanh
cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này
diệt, cái kia diệt".
9) Này các Tỷ-kheo, do duyên xúc đưa đến cảm giác lạc thọ, nên lạc
thọ sanh khởi. Do duyên xúc đưa đến cảm giác lạc thọ ấy diệt, nên lạc
thọ được khởi lên do duyên xúc đưa đến cảm giác lạc thọ ấy diệt, lạc thọ
ấy được chấm dứt.
10) Này các Tỷ-kheo do duyên xúc đưa đến cảm giác khổ thọ, nên khổ
thọ sanh khởi. Do duyên xúc đưa đến cảm giác khổ thọ ấy diệt, nên khổ
thọ được khởi lên do duyên xúc đưa đến khổ thọ ấy diệt, khổ thọ ấy chấm
dứt.
11) Này các Tỷ-kheo, do duyên xúc đưa đến cảm giác bất khổ bất lạc
thọ, nên bất khổ bất lạc thọ sanh khởi. Do xúc đưa đến cảm giác bất khổ
bất lạc thọ ấy diệt, nên bất khổ bất lạc thọ được khởi lên do duyên xúc
đưa đến cảm giác bất khổ bất lạc ấy diệt, bất khổ bất lạc thọ ấy chấm
dứt.
12) Ví như, này các Tỷ-kheo, do hai khúc cây cọ xát hòa hợp nên sức
nóng được sanh, lửa được khởi lên. Do hai khúc cây ấy xa lìa tách biệt,
nên sức nóng ấy đoạn diệt, sức nóng ấy chấm dứt.
13) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên xúc đưa đến cảm giác lạc thọ
nên lạc thọ sanh khởi. Do xúc đưa đến cảm giác lạc thọ ấy diệt, nên lạc
thọ được khởi lên do duyên xúc đưa đến cảm giác lạc thọ ấy diệt, lạc thọ
ấy chấm dứt.
14) Do duyên xúc đưa đến cảm giác khổ thọ...
15) Do duyên xúc đưa đến cảm giác bất khổ bất lạc thọ, nên bất khổ
bất lạc thọ sanh khởi. Do duyên xúc đưa đến cảm giác bất khổ bất lạc thọ
ấy diệt, nên bất khổ bất lạc thọ ấy được khởi lên do duyên xúc đưa đến
cảm giác bất khổ bất lạc thọ ấy diệt, bất khổ bất lạc thọ ấy chấm dứt.
16) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối
với xúc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối
với thức. Do nhàm chán nên viễn ly; do viễn ly nên giải thoát. Trong sự
giải thoát trí khởi lên, biết rằng: "Ta đã giải thoát", vị ấy biết rõ:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở
lại trạng thái này nữa".
III. Thịt Ðứa Con (Tạp 15.11 Tử Nhục, Ðại 2, 102b) (S.ii,97)
1) ...Ở Sàvatthi.
2) ...Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại, hay
sự chấp thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay chúng sanh.
3) Thế nào là bốn? Ðoàn thực hoặc thô, hoặc tế; thứ hai là xúc; thứ
ba là tư niệm; thứ tư là thức.
Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại, hay sự chấp
thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay các loài chúng sanh.
4) Và này các Tỷ-kheo, đoàn thực cần phải nhận xét như thế nào?
5) Ví như, này các Tỷ-kheo, hai vợ chồng đem theo một ít lương thực
đi qua một quãng đường hoang dã, với một đứa con khả ái, thương mến.
6) Rồi này các Tỷ-kheo, trong khi hai vợ chồng ấy đang đi trên con
đường hoang vu, số lương thực ít ỏi ấy đi đến hao mòn, khánh tận. Và một
vùng hoang vu còn lại chưa được họ vượt qua.
7) Rồi này các Tỷ-kheo, hai vợ chồng người ấy suy nghĩ: "Ðồ lương
thực ít ỏi của chúng ta đã bị hao mòn, khánh tận; còn lại vùng hoang vu
này chưa được vượt qua; vậy chúng ta hãy giết đứa con một, khả ái, dễ
thương này, làm thành thịt khô và thịt ướp, ăn thịt đứa con và vượt qua
vùng hoang vu còn lại này, chớ để tất cả ba chúng đều bị chết hại".
8) Rồi hai vợ chồng ấy giết đứa con một, khả ái, dễ thương ấy, làm
thịt khô và thịt ướp, ăn thịt người con và vượt qua vùng hoang vu còn
lại ấy. Họ vừa ăn thịt con, vừa đập ngực (than khóc): "Ðứa con một ở
đâu? Ðứa con một ở đâu?"
9) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Họ ăn món ăn có phải để vui
chơi? Hay họ ăn món ăn để tham đắm? Hay họ ăn món ăn để trang sức? Hay
họ ăn món ăn để béo tốt?
-- Thưa không phải vậy, bạch Thế Tôn.
10) -- Có phải họ ăn các món ăn chỉ với mục đích vượt qua vùng hoang
vu?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
11) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói đoàn thực cần phải nhận xét
như vậy. Này các Tỷ-kheo, khi đoàn thực được hiểu biết, thời lòng tham
đối với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết. Khi lòng tham đối với năm
dục trưởng dưỡng được hiểu biết, thời không còn kiết sử, do kiết sử này,
một vị Thánh đệ tử bị trói buộc để phải sanh lại đời này.
12) Và này các Tỷ-kheo, xúc thực cần phải nhận xét như thế nào?
13) Này các Tỷ-kheo, ví như một con bò cái bị lở da, nếu nó đứng dựa
vào tường, thời các sanh vật sống ở tường cắn nó. Nếu nó đứng dựa vào
cây, thời các sanh vật sống ở cây cắn nó. Nếu nó đứng ở trong nước, thời
các sanh vật sống ở trong nước cắn nó. Nếu nó đứng giữa hư không, thời
các sanh vật giữa hư không cắn nó. Này các Tỷ-kheo, con bò cái ấy đứng
dựa vào chỗ nào, thời các sanh vật trong các chỗ ấy cắn nó. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, Ta nói xúc thực cần phải được nhận xét.
14) Này các Tỷ-kheo, khi xúc thực được hiểu biết, thời ba cảm thọ
được hiểu biết. Khi ba cảm thọ được hiểu biết, thời Ta nói rằng vị Thánh
đệ tử không có gì cần phải làm thêm nữa.
15) Và này các Tỷ-kheo, tư niệm thực cần phải nhận xét như thế nào?
16) Này các Tỷ-kheo, ví như một hố than hừng, sâu hơn một thân người,
chứa đầy than cháy đỏ rực, hừng cháy không có khói. Rồi một người đi
đến, muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, chán ghét khổ. Rồi hai người
lực sĩ đi đến, nắm chặt hai cánh tay người ấy, kéo người ấy đến hố than
hừng ấy. Này các Tỷ-kheo, người ấy quyết chí muốn lánh xa, tinh cần muốn
lánh xa, phát nguyện muốn lánh xa (hố than hừng ấy).
17) Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người ấy chỉ nghĩ như sau: "Nếu ta rơi
vào hố than hừng này, do nhân duyên ấy, ta đi đến chết, hay đi đến khổ
gần như chết". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng tư niệm thực cần
phải nhận xét.
18) Này các Tỷ-kheo, khi tư niệm thực được hiểu biết, thời ba ái được
hiểu biết. Khi ba ái được hiểu biết, Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không
có gì cần phải làm thêm nữa.
19) Và này các Tỷ-kheo, thức thực cần phải nhận xét như thế nào?
20) Ví như, này các Tỷ-kheo, người ta bắt một người ăn trộm, một
người phạm tội, dẫn đến vua và thưa: "Thưa Ðại vương, người này là người
ăn trộm, một người phạm tội. Hãy trừng phạt người ấy nếu như Ngài
muốn". Vị vua nói như sau về người ấy: "Các Ông hãy đi và đánh người này
với một trăm hèo vào buổi sáng". Và họ đánh người ấy với một trăm hèo
vào buổi sáng.
21) Rồi vị vua vào buổi trưa nói: "Này các Ông, người ấy như thế
nào?" -- "Thưa Ðại vương, người ấy vẫn còn sống". Rồi vua nói về người
ấy: "Này các Ông, các Ông hãy đi và đánh người này một trăm hèo vào buổi
trưa". Và họ đánh người ấy một trăm hèo vào buổi trưa.
22) Rồi vị vua vào buổi chiều nói: "Này các Ông, người ấy như thế
nào?" -- "Thưa Ðại vương, người ấy vẫn còn sống". Rồi vua nói về người
ấy: "Này các Ông, các Ông hãy đi và đánh người này một trăm hèo vào buổi
chiều".
23) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy trong ngày bị
đánh đến ba trăm hèo, do nhân duyên ấy có cảm thọ khổ ưu không?
-- Bạch Thế Tôn, chỉ bị đánh một hèo, do nhân duyên ấy có cảm thọ khổ
ưu, còn nói gì bị đánh đến ba trăm hèo!
24) -- Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói thức thực cần phải nhận xét.
25) Này các Tỷ-kheo, khi thức thực đựơc hiểu rõ, thời danh sắc được
hiểu rõ. Khi danh sắc được hiểu rõ, thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử
không làm gì thêm nữa.
IV. Có Tham (Tạp 15.12-4. Ðại 2,102c) (S.ii,101)
1) ...Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn đưa đến sự tồn tại hay sự
chấp thủ tái sanh của các loài hữu tình hay các loài chúng sanh.
3) Thế nào là bốn? Ðoàn thực thô hoặc tế, xúc thực là thứ hai, tư
niệm là thứ ba, thức thực là thứ tư.
Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại hay sự chấp
thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay các loài chúng sanh.
4) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực, có tham, có hỷ, có ái,
thời có thức được an trú, tăng trưởng. Chỗ nào thức được an trú, tăng
trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các
hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái
sanh trong tương lai. Chỗ nào hữu được tái sanh trong tương lai, chỗ ấy
có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương
lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có não.
5) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực... (như trên)...
6) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực...
7) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, có tham, có hỷ, có ái,
thời có thức được an trú, tăng trưởng. Chỗ nào có thức được an trú, tăng
trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có
các hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được
tái sanh trong tương lai. Chỗ nào hữu được tái sanh trong tương lai, chỗ
ấy có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong
tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có não.
8) Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thợ nhuộm hay một người thợ vẽ.
Nếu có thuốc nhuộm hay sơn màu nghệ, màu xanh, hay màu đỏ, có một tấm
bảng khéo đánh bóng, một bức tường hay tấm vải, có thể phác họa hình
người đàn bà hay người đàn ông có đầy đủ chân tay.
9) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực, có tham, có hỷ,
có ái, thời có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào có thức an trú, tăng
trưởng chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các
hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy có hữu tái
sanh trong tương lai. Chỗ nào có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy có
sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương
lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có não.
10) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực...
11) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với niệm thực...
12) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, có tham, có hỷ, có ái,
thời có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào có thức an trú, tăng trưởng,
chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành
tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy có hữu tái sanh
trong tương lai. Chỗ nào có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy có
sanh, già, chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương
lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có não.
13) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có
hỷ, không có ái, thời không có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào không
có thức an trú, tăng trưởng, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào
không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào
không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương
lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có
sanh, già, chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già, chết trong
tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não.
14) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực...
15) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực ...
16) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có
hỷ, không có ái, thời không có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào không
có thức an trú, tăng trưởng, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào
không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào
không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương
lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có
sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già chết trong
tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não.
17) Ví như, này các Tỷ-kheo, một ngôi nhà có mái hay một dãy hành
lang có mái, có cửa sổ phía Bắc, phía Nam, hay phía Ðông. Khi mặt trời
mọc lên, ánh sáng ngang qua cửa sổ chiếu vào, thời chiếu vào chỗ nào?
-- Bạch Thế Tôn, chiếu vào tường phía Tây.
18) -- Này các Tỷ-kheo, nếu không có tường phía Tây, thời chiếu vào
chỗ nào?
-- Bạch Thế Tôn, chiếu trên đất.
19) -- Này các Tỷ-kheo, nếu không có đất, thời chiếu vào chỗ nào?
-- Bạch Thế Tôn, chiếu trên nước.
20) -- Này các Tỷ-kheo, nếu không có nước, thời chiếu vào chỗ nào?
-- Bạch Thế Tôn, không có chiếu ở đâu cả.
21) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có
tham, không có hỷ, không có ái...
22) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực...
23) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực...
24) Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có
hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an
trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ
ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng,
chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái
sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai.
Chỗ nào không có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy
không có sầu, không có khổ, không có não.
V. Thành Ấp (Tạp 12.5, Ðại 2,80b) (Tăng 384, Ðại 2) (S.ii,104)
1) ...Tại Sàvatthi.
2) -- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng
Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Thật sự thế giới
này bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt, và bị
tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết xuất ly khỏi già và chết; từ
nơi đau khổ này, không biết khi nào được biết đến xuất ly khỏi già và
chết".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: " Do cái gì có mặt,
già chết hiện hữu? Do cái gì, già chết sanh khởi?"
4) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do sanh có mặt nên già chết hiện hữu. Do duyên
sanh, nên già chết sanh khởi".
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt,
hữu hiện hữu? Thủ hiện hữu ? Ái hiện hữu ? thọ Hiện hữu? Xúc hiện hữu?
Sáu xứ hiện hữu? Danh sắc hiện hữu? Do duyên cái gì, danh sắc sanh
khởi?"
6) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do thức có mặt nên danh sắc hiện hữu. Do duyên
thức nên danh sắc sanh khởi".
7) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt,
thức hiện hữu. Do duyên cái gì, thức sanh khởi?"
8) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do danh sắc có mặt nên thức hiện hữu. Do duyên
danh sắc nên thức sanh khởi".
9) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Thức này trở lui, không
đi xa hơn danh sắc. Xa đến như vậy, chúng ta bị sanh, bị già, bị chết,
bị đoạn diệt, bị tái sanh, nghĩa là do duyên danh sắc, thức sanh khởi.
Do duyên thức, danh sắc sanh khởi. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi.
Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi..". Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập
khởi.
10) "Tập khởi, tập khởi". Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước
chưa từng được nghe, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh
khởi lên, quang khởi lên.
11) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có
mặt già chết không hiện hữu? Do cái gì diệt, già chết diệt?"
12) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do sanh không có mặt, nên già chết không hiện
hữu. Do sanh diệt, nên già chết diệt".
13) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: " Do cái gì không
có mặt, sanh không hiện hữu? Hữu không hiện hữu? Thủ không hiện hữu? Ái
không hiện hữu? Thọ không hiện hữu? Xúc không hiện hữu? Sáu xứ không
hiện hữu? Danh sắc không hiện hữu? Do cái gì diệt, danh sắc diệt?"
14) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do thức không có mặt, danh sắc không hiện hữu.
Do thức diệt nên danh sắc diệt".
15) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có
mặt, thức không hiện hữu? Do cái gì diệt, nên thức diệt ?"
16) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do danh sắc không có mặt, thức không hiện hữu.
Do danh sắc diệt nên thức diệt".
17) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Ta đã chứng đắc
con đường này đưa đến giác ngộ, tức là do danh sắc diệt nên thức diệt.
Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu
xứ diệt nên xúc diệt. ..(như trên)...Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
đoạn diệt".
18) "Ðoạn diệt, đoạn diệt". Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ
trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh,
quang sanh.
19) Ví như, này các Tỷ-kheo, một người khi đi qua một khu rừng, một
chặng núi, thấy được một con đường cũ, một đạo lộ cũ do những người xưa
đã từng đi qua. Người ấy đi theo con đường ấy, trong khi đi theo con
đường ấy, người ấy thấy được một cổ thành, một cố đô do người xưa ở, với
đầy đủ vườn tược, đầy đủ rừng cây, đầy đủ hồ ao với thành lũy đẹp đẽ.
20) Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy báo cáo với vua hay vị đại thần:
"Chư tôn hãy biết, trong khi đi ngang một khu rừng, một chặng núi, tôi
thấy được một con đường cũ, một đạo lộ cũ do những người xưa đã từng đi
qua. Tôi đã đi theo con đường ấy và thấy được một cổ thành, một cố đô do
người xưa ở, với đầy đủ vườn tược, đầy đủ rừng cây, đầy đủ hồ ao, với
thành lũy đẹp đẽ. Thưa các Tôn giả, hãy xây dựng lại ngôi thành ấy".
21) Rồi này các Tỷ-kheo, vị vua hay vị đại thần cho xây dựng lại ngôi
thành ấy. Và ngôi thành ấy, sau một thời gian lớn lên và trở thành một
thành phố phồn vinh, thịnh vượng, đông đúc, tràn đầy người ở.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy một con đường cũ, một đạo lộ cũ
do các vị Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua.
22) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường cũ, đạo lộ cũ ấy do các
vị Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua? Ðây chính là con đường Thánh đạo
tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Con đường ấy, này các
Tỷ-kheo, là con đường cũ, đạo lộ cũ do các bậc Chánh Ðẳng Giác thuở xưa
đã đi qua. Ta đã đi theo con đường ấy. Ði theo con đường ấy, Ta thấy rõ
già chết; Ta thấy rõ già, chết tập khởi; Ta thấy rõ già chết đoạn diệt;
Ta thấy rõ con đường đưa đến già chết đoạn diệt.
23-31) Ta đã đi theo con đường ấy. Ði theo con đường ấy; Ta thấy rõ
sanh... Ta thấy rõ hữu... Ta thấy rõ thủ... Ta thấy rõ ái... Ta thấy rõ
thọ... Ta thấy rõ xúc... Ta thấy rõ sáu xứ... Ta thấy rõ danh sắc... Ta
thấy rõ thức...
32) Ta đi theo con đường ấy. Ði theo con đường ấy, Ta thấy rõ các
hành; Ta thấy rõ các hành tập khởi; Ta thấy rõ các hành đoạn diệt, Ta
thấy rõ con đường đưa đến các hành đoạn diệt.
33) Cái được Ta biết rõ, Ta đã tuyên bố cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ được biết. Này các Tỷ-kheo, tức là Phạm hạnh này,
phồn vinh, thịnh vượng, quảng đại, chúng đa, người nhiều và được chư
Thiên, loài Người khéo léo trình bày.
VI. Xúc Chạm, Biết Rõ (Tạp 12.9, Xúc Pháp. Ðại 2.82a)
(S.ii,107)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Kuru, tại thị trấn dân chúng
Kuru tên là Kammàsadhamma.
2) Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- "Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế
Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông có nắm giữ với nội xúc hay không?
4) Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con có nắm giữ, với nội xúc.
5) -- Này các Tỷ-kheo, nhưng Ông nắm giữ nội xúc như thế nào?
6) Tỷ-kheo ấy trả lời. Với câu trả lời, Tỷ-kheo ấy không làm tâm Thế
Tôn thỏa mãn.
7) Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời. Bạch Thiện Thệ, nay đã đến thời Thế
Tôn nói về nội xúc. Sau khi nghe, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
8) -- Vậy này Ananda, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
9) Thế Tôn nói như sau:
-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi nắm giữ nội xúc, nắm giữ
nội xúc như sau: "Sự đau khổ đa loại, đa dạng này khởi lên ở đời với
già chết; sự đau khổ này lấy cái gì làm nhân, hay lấy cái gì làm tập
khởi, lấy cái gì làm tác sanh, lấy cái gì làm hiện hữu? Cái gì có mặt,
già chết hiện hữu? Cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?". Vị ấy
nắm giữ nội xúc, biết như sau: "Sự đau khổ đa loại, đa dạng này khởi
lên ở đời với già chết. Sự đau khổ này lấy sanh y làm nhân, lấy sanh y
làm tập khởi, lấy sanh y làm tác sanh, lấy sanh y làm hiện hữu. Do sanh y
có mặt, già chết hiện hữu. Do sanh y không có mặt, già chết không hiện
hữu". Vị ấy biết già chết. Vị ấy biết già chết tập khởi. Vị ấy biết già
chết đoạn diệt. Vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến già chết đoạn
diệt. Và nhờ thực hành như vậy, vị ấy trở thành một vị tùy pháp hành.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã thực hành để diệt tận khổ đau,
để đoạn diệt già chết một cách hoàn toàn.
10) Vị ấy lại nắm giữ thêm nội xúc và nắm giữ như sau: "Sanh y này
lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm tác sanh, lấy gì làm
hiện hữu? Cái gì có mặt, sanh y hiện hữu? Cái gì không có mặt, sanh y
không hiện hữu?". Vị ấy nắm giữ nội xúc, biết được như sau: "Sanh y lấy
ái làm nhân, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm tác sanh, lấy ái làm hiện
hữu. Do ái có mặt, sanh y hiện hữu. Do ái không có mặt, sanh y không
hiện hữu". Vị ấy biết sanh y, biết sanh y tập khởi, biết sanh y đoạn
diệt, và biết con đường thích ứng đưa đến sanh y đoạn diệt. Do thực hành
như vậy, vị ấy được gọi là tùy pháp hành.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã chơn chánh thực hành để tận
diệt đau khổ và đoạn diệt sanh y một cách hoàn toàn.
11) Vị ấy lại nắm giữ thêm nội xúc và nắm giữ như sau: "Nhưng ái này,
khởi lên tại chỗ nào được khởi lên, an trú tại chỗ nào được an trú?".
Vị ấy nắm giữ nội xúc, biết được như sau: "Tất cả những gì ở đời khả ái,
hấp dẫn, khởi lên; tại chỗ ấy, ái được sanh khởi; tại chỗ ấy, ái được
an trú. Và cái gì ở đời khả ái, hấp dẫn? Con mắt ở đời là khả ái, hấp
dẫn khởi lên; tại chỗ ấy, ái được sanh khởi; tại chỗ ấy ái được an trú".
12) ... Lỗ tai ở đời là khả ái, hấp dẫn...
13) ... Lỗ mũi ở đời là khả ái, hấp dẫn...
14) ... Lưỡi ở đời là khả ái, hấp dẫn...
15) ... Thân ở đời là khả ái, hấp dẫn...
16) ... Ý ở đời là khả ái, hấp dẫn khởi lên; tại chỗ ấy, ái được sanh
khởi; tại chỗ ấy, ái được an trú.
17) Này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ, là Sa-môn hay Bà-la-môn,
thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là
vô bệnh, thấy là an ổn, thấy là tự ngã, những người ấy làm ái tăng
trưởng.
18) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy làm sanh y tăng
trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy làm đau khổ tăng
trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể giải
thoát sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng họ không thể
giải thoát khỏi đau khổ.
19) Này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai là Sa-môn hay Bà-la-môn
thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là
tự ngã, thấy là vô bệnh, thấy là an ổn, những người ấy sẽ làm ái tăng
trưởng.
20) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy sẽ làm sanh y tăng
trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy sẽ làm đau khổ
tăng trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể
giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói họ không
có thể giải thoát khỏi đau khổ.
21) Này các Tỷ-kheo, những ai trong hiện tại là Sa-môn hay Bà-la-môn
thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là
tự ngã, thấy là vô bệnh, thấy là an ổn, những người ấy làm ái tăng
trưởng.
22) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy làm sanh y tăng
trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy làm đau khổ tăng
trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể giải
thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng họ không
thể giải thoát khỏi đau khổ.
23) Này các Tỷ-kheo, ví như một bình bằng đồng, đựng nước uống có
sắc, có hương, có vị và nước uống ấy có pha thuốc độc. Rồi một người đi
đến, bị nóng bức bách, bị nóng áp đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước và có
những người nói với người ấy như sau: "Này Bạn, bình đồng đựng nước
uống này, có sắc, có hương, có vị, và bình nước uống ấy có pha thuốc
độc. Nếu Bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, Bạn sẽ được thích thú về
sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, do nhân duyên ấy, Bạn có thể đi đến
chết, hay đau khổ gần như chết". Người kia có thể uống bình nước bằng
đồng ấy một cách hấp tấp không suy nghĩ, không từ bỏ. Người kia do nhân
duyên ấy, có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết.
24) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ, là Sa-môn hay
Bà-la-môn, phàm vật gì khả ái hấp dẫn ở đời...
25) ... Những ai trong tương lai...
26) Này các Tỷ-kheo, những ai trong hiện tại là Sa-môn hay Bà-la-môn,
thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là
tự ngã, thấy là vô bệnh, thấy là an ổn, những người ấy làm ái tăng
trưởng.
27) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy làm sanh y tăng
trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy làm đau khổ tăng
trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể giải
thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói họ không thể
giải thoát khỏi đau khổ.
28) Và này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ là Sa-môn hay
Bà-la-môn thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là khổ,
thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, những người ấy từ bỏ
ái.
Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏ sanh
y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ, những người ấy
đã được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói
rằng họ đã giải thoát khỏi đau khổ.
29) Và này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai là Sa-môn hay
Bà-la-môn, thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là
khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, những người ấy
sẽ từ bỏ ái.
30) Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y... Ta nói họ có
thể giải thoát khỏi đau khổ.
31) Còn những ai, này các Tỷ-kheo, trong hiện tại là Sa-môn hay
Bà-la-môn, thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là
khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, họ từ bỏ ái.
32) Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏ
sanh y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ, những
người ấy sẽ giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta
nói họ sẽ giải thoát khỏi đau khổ.
33) Ví như, này các Tỷ-kheo, một bình nước bằng đồng có sắc, có
hương, có vị, nhưng bị pha thuốc độc. Rồi có người đi đến, bị nóng bức
bách, bị nóng áp đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước. Có những người nói
với người ấy: "Này Bạn, bình nước bằng đồng này có sắc, có hương, có vị,
nhưng bình nước uống ấy bị pha thuốc độc. Nếu Bạn muốn, hãy uống. Trong
khi uống, Bạn sẽ thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, do
nhân duyên ấy Bạn có thể đi đến chết, hay đau khổ gần như chết".
34) Và này các Tỷ-kheo, người ấy có thể suy nghĩ như sau: "Ở đây, ta
có thể nhiếp phục khát nước này với uống rượu, hay nhiếp phục với ăn sữa
đông (sanh tô), hay nhiếp phục với ngậm muối, hay nhiếp phục với cháo
chua. Nhưng ta không có thể uống thứ này, nó khiến ta phải bất hạnh, đau
khổ lâu dài". Người ấy sau khi suy nghĩ, không uống và từ bỏ thứ nước
uống ấy. Do nhân duyên này, người ấy không đi đến chết, hay sự đau khổ
gần như chết.
35) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những ai trong thời quá khứ là Sa-môn
hay Bà-la-môn, thấy những gì khả ái hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là
đau khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, họ đoạn trừ
ái.
36) Những ai đoạn trừ ái, những người ấy đoạn trừ sanh y. Những ai
đoạn trừ sanh y, những người ấy đoạn trừ đau khổ. Những ai đoạn trừ đau
khổ, những người ấy được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não. Ta nói họ được giải thoát khỏi đau khổ.
37-38) Này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai...
39) Những ai trong thời hiện tại là Sa-môn hay Bà-la-môn, thấy những
gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là khổ, thấy là vô ngã, thấy
là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, họ từ bỏ ái.
40) Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏ
sanh y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ, những
người ấy được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta
nói rằng họ được giải thoát khỏi đau khổ.
VII.Bó Lau (Tạp 12.6 Lô, Ðại 2,81a) (S.ii,112)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahàkotthita trú ở Bàrànasi
(Ba-la-nại), tại Isipatana (chư Tiên đọa xứ) ở Migàdàya (rừng nai).
2) Rồi Tôn giả Mahàkotthita, vào buổi chiều từ chỗ Thiền tịnh độc cư
đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả
Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, bèn ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàkotthita nói với Tôn giả
Sàriputta:
-- Này Hiền giả Sàriputta, già chết do tự mình tạo ra, già chết do
người khác tạo ra, già chết do tự mình và do người khác tạo ra, hay già
chết không do tự mình tạo ra, không do người khác tạo ra, do tự nhiên
sanh?
4) -- Này Hiền giả Kotthita, già chết không do tự mình tạo ra, già
chết không do người khác tạo ra, già chết không do tự mình tạo ra và
người khác tạo ra, già chết cũng không phải không do tự mình tạo ra,
không do người khác tạo ra, không do tự nhiên sanh. Già chết do duyên
sanh.
5) -- Này Hiền giả Sàriputta, có phải sanh do tự mình làm ra, sanh do
người khác làm ra, sanh do tự mình làm ra và do người khác làm ra, hay
sanh không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, do tự nhiên
sanh?
6) -- Này Hiền giả Kotthita, sanh không do tự mình làm ra, sanh không
do người khác làm ra, sanh không do tự mình làm ra và người khác làm
ra, sanh cũng không phải không do tự mình làm ra, không do người khác
làm ra, không do tự nhiên sanh. Sanh do duyên hữu.
7-18) -- Này Hiền giả Sàriputta, hữu có phải do tự mình làm ra... thủ
có phải do tự mình làm ra... ái có phải do tự mình làm ra... thọ có
phải do tự mình làm ra... xúc có phải do tự mình làm ra... sáu xứ có
phải do tự mình làm ra...
19) ... Danh sắc có phải do tự mình làm ra, danh sắc có phải do người
khác làm ra, danh sắc có phải do tự mình làm ra và do người khác làm
ra, hay danh sắc có phải không do tự mình làm ra, không do người khác
làm ra, do tự nhiên sanh?
20) -- Này Hiền giả Kotthita, danh sắc không phải do tự mình làm ra,
danh sắc không phải do người khác làm ra, danh sắc không phải do tự mình
làm ra và do người khác làm ra, hay danh sắc cũng không phải không do
tự mình làm ra, không do người khác làm ra, không do tự nhiên sanh. Danh
sắc do duyên thức.
21) -- Này Hiền giả Sàriputta, có phải thức do tự mình làm ra, thức
do người khác làm ra, thức do tự mình làm ra và do người khác làm ra,
hay có phải thức không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, do
tự nhiên sanh?
22) -- Này Hiền giả Kotthita, thức không do tự mình làm ra, thức
không do người khác làm ra, thức không do tự mình làm ra và không do
người khác làm ra, hay thức cũng không phải không do tự mình làm ra,
không do người khác làm ra, không do tự nhiên sanh. Thức do duyên danh
sắc.
23) -- Nay chúng tôi hiểu lời nói của Hiền giả Sàriputta như sau:
"Này Hiền giả Kotthita, danh sắc không do tự mình làm ra, danh sắc không
do người khác làm ra, danh sắc không do tự mình làm ra và không do
người khác làm ra, danh sắc cũng không phải không do tự mình làm ra,
không do người khác làm ra, không do tự nhiên sanh. Danh sắc do duyên
thức".
24) Và nay chúng tôi hiểu lời nói của Hiền giả Sàriputta như sau:
"Này Hiền giả Kotthita, thức không do tự mình làm ra, không do người
khác làm ra, không do tự mình làm ra và người khác làm ra, cũng không
phải không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, không do tự
nhiên sanh. Thức do duyên danh sắc".
25) Này Hiền giả Sàriputta, cần phải hiểu như thế nào ý nghĩa lời nói
này?
-- Vậy này Hiền giả, tôi sẽ nêu một ví dụ. Nhờ có ví dụ, người có trí
hiểu được ý nghĩa lời nói.
26) Ví như hai bó lau dựa vào nhau mà đứng. Cũng vậy, này Hiền giả,
do duyên danh sắc, thức sanh khởi. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi. Do
duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi. Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi...
(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Này Hiền giả, nếu
một bó lau được kéo qua (một bên), bó lau kia liền rơi xuống. Nếu bó
lau kia được kéo qua (một bên), bó lau này được rơi xuống. Cũng vậy, này
Hiền giả, do danh sắc diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc
diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt...
(như trên)... như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
27) -- Thật vi diệu thay, Hiền giả Sàriputta! Thật hy hữu thay, Hiền
giả Sàriputta! Lời nói khéo nói này của Hiền giả Sàriputta và lời nói
với ba mươi sáu sự này của Hiền giả Sàriputta, chúng tôi xin tùy hỷ.
28) -- Này Hiền giả, nếu một Tỷ-kheo thuyết pháp để nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt già chết, thời đủ để được gọi là vị Tỷ-kheo thuyết pháp.
Này Hiền giả, nếu một Tỷ-kheo thực hành để nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt, già chết, thời đủ để được gọi là pháp tùy pháp hành. Này Hiền giả,
nếu một Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, vô minh được giải
thoát, không có chấp thủ, thời đủ để được gọi vị Tỷ-kheo đã đạt được
hiện tại Niết-bàn.
VIII. Kosambi (Tạp 14.9, Miệt-sư-la. Ðại 2,98c) (S.ii,115)
1) Một thời Tôn giả Musìla, Tôn giả Sàvittha, Tôn giả Nàrada, Tôn giả
Ananda trú ở Kosambi, vườn Ghosità.
I
2) Rồi Tôn giả Sàvittha nói với Tôn giả Musìla:
-- Này Hiền giả Musìla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền
thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng (àkàraparivitakkà), ngoài thẩm định và
chấp nhận quan điểm (ditthinijjhànakhanti), Tôn giả Musìla tự mình có
trí biết được: "Do duyên sanh, già chết sanh khởi".
3) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng, ngoài thẩm định và chấp nhận
quan điểm, tôi có biết được, tôi có thấy được: "Do duyên sanh, già chết
sanh khởi".
4) -- Này Hiền giả Musìla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận
quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết được: "Do duyên hữu, nên
sanh sinh khởi... (như trên)...
5) ... "Do duyên thủ nên hữu sanh khởi".
6) ... "Do duyên ái nên thủ sanh khởi".
7) ... "Do duyên thọ nên ái sanh khởi".
8) ... "Do duyên xúc nên thọ sanh khởi".
9) ... "Do duyên sáu xứ nên xúc sanh khởi".
10) ... "Do duyên danh sắc nên sáu xứ sanh khởi".
11) ... "Do duyên thức nên danh sắc sanh khởi".
12) ... "Do duyên hành nên thức sanh khởi".
13) ... "Do duyên vô minh nên hành sanh khởi".
14) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận
quan điểm, tôi biết được, tôi thấy được: "Do duyên vô minh, các hành
sanh khởi".
15) -- Này Hiền giả Musàa, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài sự thẩm định và chấp
nhận quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết như sau: "Do sanh
diệt, nên già chết diệt".
16) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận
quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: "Do sanh diệt, nên già
chết diệt".
17) -- Này Hiền giả Musàa, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận
quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết như sau: "Do hữu diệt,
nên sanh diệt".
18-24)... "Do thủ diệt, nên hữu diệt... Do ái diệt, nên thủ diệt...
Do thọ diệt, nên ái diệt... Do xúc diệt nên thọ diệt... Do sáu xứ diệt,
nên xúc diệt... Do danh sắc diệt, nên sáu xứ diệt... Do thức diệt, nên
danh sắc diệt... Do hành diệt, nên thức diệt... Do vô minh diệt, nên
hành diệt".
25) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận
quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: "Do vô minh diệt, nên
hành diệt"
26) -- Này Hiền giả Musìla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận
quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết như sau: " Do hữu diệt là
Niết-bàn".
27) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
truyền thuyết, ngoài thẩm lự, các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp
nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: "Do hữu diệt là
Niết-bàn".
28) -- Như vậy, Tôn giả Musìla là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu
hoặc?.
29) Khi nghe nói vậy, Tôn giả Musìla giữ im lặng.
II
30) Rồi Tôn giả Nàrada nói với Tôn giả Sàvittha:
-- Này Hiền giả Sàvittha, lành thay nếu tôi được hỏi câu này. Hãy hỏi
tôi câu hỏi này, và tôi sẽ trả lời cho Hiền giả câu hỏi này.
31) -- Tôn giả Nàrada hãy lấy câu hỏi này. Tôi sẽ hỏi Tôn giả Nàrada
câu hỏi này. Và Tôn giả Nàrada hãy trả lời cho tôi câu hỏi này.
32-57)... -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin... tôi biết như
sau, tôi thấy như sau: "Do hữu diệt là Niết-bàn".
58) -- Như vậy, Tôn giả Nàrada là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu
hoặc?
59) -- Này Hiền giả, "Do hữu diệt là Niết-bàn", tôi khéo thấy như
chơn nhờ chánh trí tuệ. Nhưng tôi không phải là vị A-la-hán đã đoạn tận
các lậu hoặc.
60) Ví như trên một con đường hoang vắng có một giếng nước. Tại đấy
không có dây, không có gàu nước. Rồi có người đi đến, bị nóng bức bách,
bị nóng áp đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước. Người ấy ngó xuống giếng và
biết được: "Giếng này có nước", nhưng đứng chịu, thân thể không chạm
nước.
61) Cũng vậy, này Hiền giả, "Hữu diệt là Niết-bàn", tôi khéo thấy như
chơn nhờ chánh trí tuệ, nhưng tôi không phải là vị A-la-hán đã đoạn tận
các lậu hoặc.
III
62) Khi được nói vậy,Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Sàvittha:
-- Này Hiền giả Sàvittha, nói như vậy thời Hiền giả nói gì về Tôn giả
Nàrada?
63) -- Này Hiền giả Ananda, nói như vậy, tôi không nói gì về Tôn giả
Nàrada, ngoài sự tốt lành, ngoài sự tốt đẹp.
IX. Nước Thủy Triều Dâng (S.ii,118)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong vườn ông
Anàthapindika.
2) Tại đây...
3) -- Này các Tỷ-kheo, khi nào biển lớn dâng lên thời các sông lớn
dâng lên; khi nào các sông lớn dâng lên thời các sông nhỏ dâng lên; khi
nào các sông nhỏ dâng lên thời các hồ lớn dâng lên; khi nào các hồ lớn
dâng lên thời các hồ nhỏ dâng lên.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào vô minh dâng lên thời các hành
dâng lên; khi nào các hành dâng lên thời thức dâng lên; khi nào thức
dâng lên thời danh sắc dâng lên; khi nào danh sắc dâng lên thời sáu xứ
dâng lên; khi nào sáu xứ dâng lên thời xúc dâng lên; khi nào xúc dâng
lên thời thọ dâng lên; khi nào thọ dâng lên thời ái dâng lên; khi nào ái
dâng lên thời thủ dâng lên; khi nào thủ dâng lên thời hữu dâng lên; khi
nào hữu dâng lên thời sanh dâng lên; khi nào sanh dâng lên thời già
chết dâng lên.
5) Này các Tỷ-kheo, biển lớn không dâng lên thời sông lớn không dâng
lên; sông lớn không dâng lên thời sông nhỏ không dâng lên; sông nhỏ
không dâng lên thời hồ lớn không dâng lên; hồ lớn không dâng lên thời hồ
nhỏ không dâng lên.
6) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh không dâng lên thời các hành
không dâng lên; các hành không dâng lên thời thức không dâng lên; thức
không dâng lên thời danh sắc không dâng lên; danh sắc không dâng lên
thời sáu xứ không dâng lên; sáu xứ không dâng lên thời xúc không dâng
lên; xúc không dâng lên thời thọ không dâng lên; thọ không dâng lên thời
ái không dâng lên; ái không dâng lên thời thủ không dâng lên; thủ không
dâng lên thời hữu không dâng lên; hữu không dâng lên thời sanh không
dâng lên; sanh không dâng lên thời già chết không dâng lên.
X. Susìma (Tạp 14.5 Ðại 2,96b) (S.ii,119)
1) Như vậy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ
nuôi dưỡng con sóc.
I
2) Lúc bấy giờ Thế Tôn được cung kính, được tôn trọng, được kính lễ,
được cúng dường, được tôn sùng và Ngài nhận được các vật dụng cúng dường
như y áo, ẩm thực, sàng tọa và dược phẩm trị bệnh.
3) Chúng Tỷ-kheo cũng được cung kính, được tôn trọng, được kính lễ,
được cúng dường, được tôn sùng và cũng nhận được các vật cúng dường như y
áo, ẩm thực, sàng tọa và dược phẩm trị bệnh.
4) Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính, không được tôn
trọng, không được kính lễ, không được cúng dường, không được tôn sùng và
cũng không nhận được các vật dụng cúng dường như y áo, ẩm thực, sàng
tọa và dược phẩm trị bệnh.
II
5) Lúc bấy giờ du sĩ Susìma trú ở Ràjagaha cùng với đại chúng du sĩ.
6) Rồi hội chúng du sĩ của Susìma nói với du sĩ Susìma:
-- Thưa Hiền giả Susìma, ngài hãy đi đến và sống Phạm hạnh dưới sự
chỉ dẫn của Sa-môn Gotama. Sau khi ngài học Chánh pháp xong hãy nói lại
cho chúng tôi. Sau khi chúng tôi học pháp ấy chúng tôi sẽ nói lại với
các gia chủ. Như vậy chúng tôi sẽ được cung kính, được tôn trọng, được
kính lễ, được cúng dường, được tôn sùng và chúng tôi sẽ nhận được các
vật dụng cúng dường như y áo, ẩm thực, sàng tọa và dược phẩm trị bệnh.
7) -- Thưa vâng, các Hiền giả.
Du sĩ Susìma nghe theo hội chúng của mình, liền đi đến Tôn giả
Ananda; sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Tôn giả
Ananda; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi
xuống một bên.
III
8) Ngồi xuống một bên, du sĩ Susìma nói với Tôn giả Ananda:
-- Này Hiền giả Ananda, tôi muốn sống Phạm hạnh trong Pháp và Luật
này.
9) Rồi Tôn giả Ananda đưa du sĩ Susìma đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
10) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, du sĩ Susìma này nói như sau: "Này Hiền giả Ananda,
tôi muốn sống Phạm hạnh trong Pháp và Luật này".
11) -- Vậy Ananda, hãy cho Susìma xuất gia.
12) Và du sĩ Susìma được xuất gia dưới sự chỉ đạo của Thế Tôn và được
thọ đại giới.
13) Lúc bấy giờ nhiều vị Tỷ-kheo ở trước mặt Thế Tôn đã tuyên bố
chánh trí như sau: "Chúng tôi biết rằng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."
"
IV
14) Tôn giả Susìma được nghe: Nhiều Tỷ-kheo trước mặt Thế Tôn đã
tuyên bố chánh trí như sau: "Chúng tôi biết rõ rằng: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái
này nữa.""
15) Rồi Tôn giả Susìma đi đến các Tỷ-kheo; sau khi đến nói lên với
những Tỷ-kheo ấy những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời
chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
16) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Susìma nói với các Tỷ-kheo ấy:
-- Có đúng sự thật chăng, chư Tôn giả ở trước mặt Thế Tôn đã tuyên bố
chánh trí như sau: "Chúng con biết rõ rằng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa""?
-- Thưa có vậy, này Hiền giả.
17) -- Nhưng, chư Tôn giả biết như vậy, thấy như vậy chắc chứng được
nhiều loại thần thông khác nhau: Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân; hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua
núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở
trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết-già
đi trên hư không như con chim; với bàn tay chạm và rờ vào mặt trăng và
mặt trời, những vật có oai lực, đại oai thần như vậy. Có thể sử dụng
thân một cách tự tại cho đến cõi Phạm thiên?
-- Thưa không phải vậy, này Hiền giả.
18) -- Vậy có phải chư Tôn giả biết như vậy, thấy như vậy, chứng được
thiên nhĩ thông thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng: chư
Thiên và loài Người, xa và gần?
-- Thưa không phải vậy, này Hiền giả.
19) -- Vậy có phải chư Tôn giả biết như vậy, thấy như vậy, với tâm
của mình biết được tâm của các chúng sanh khác, các loài Người khác: Tâm
có tham biết là tâm có tham; tâm không tham biết là tâm không tham; tâm
có sân biết là tâm có sân; tâm không sân biết là tâm không sân; tâm có
si biết là tâm có si; tâm không si biết là tâm không si; tâm chuyên chú
biết là tâm chuyên chú; tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Ðại hành tâm
biết là đại hành tâm; không phải đại hành tâm biết không phải là đại
hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng
biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định; tâm không
Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải
thoát; tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát?
-- Thưa không phải vậy, này Hiền giả.
20) -- Vậy có phải chư Tôn giả biết như vậy, thấy như vậy, nhớ được
nhiều đời quá khứ. Như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười
đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm
đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp,
nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia
ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ
khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng
họ như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ,
ta được sanh ra ở đây". Như vậy, chư Tôn giả nhớ đến nhiều đời sống quá
khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết?
-- Thưa không phải vậy, này Hiền giả.
21) -- Vậy có phải chư Tôn giả biết như vậy, thấy như vậy, với thiên
nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Chư Tôn
giả biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ
thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những
chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, làm những ác hạnh về lời nói,
những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh này làm những
thiện hạnh về thân, làm những thiện hạnh về lời nói, làm những thiện
hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp
theo chánh kiến. Những người ấy sau khi thân hoại mạng chung được
sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy, với thiên nhãn
thanh tịnh siêu nhân, các vị thấy sự sống chết của chúng sanh. Các vị
biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô
xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ?
-- Thưa không phải vậy, này Hiền giả.
22) -- Vậy có phải chư Tôn giả biết như vậy, thấy như vậy, sau khi
vượt khỏi Sắc giới, thân cảm xúc Vô sắc giới, an trú vào tịch tịnh giải
thoát?
-- Thưa không phải vậy, này Hiền giả.
23) -- Hay ở đây, có phải chư Tôn giả vừa trả lời như vậy, vừa không
chứng được các pháp này?
24) --Này Hiền giả, không có chứng được gì.
25) -- Như thế nào?
-- Thưa Hiền giả Susìma, chúng tôi chứng được tuệ giải thoát.
26) -- Tôi không biết được ý nghĩa một cách rộng rãi lời nói vắn tắt
này của chư Tôn giả. Lành thay nếu được chư Tôn giả nói lên cho tôi, để
tôi có thể hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi lời nói vắn tắt này của chư
Tôn giả!
27) -- Này Hiền giả Susìma, dù cho Ông có biết hay Ông không biết,
chúng tôi chứng được tuệ giải thoát.
V
28) Rồi Tôn giả Susìma từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
29) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Susìma trình bày lên Thế Tôn tất cả
câu chuyện với các Tỷ-kheo ấy.
30) -- Này Susìma, trước hết là trí về pháp trú, sau là trí về
Niết-bàn.
31) -- Bạch Thế Tôn, con không hiểu được ý nghĩa một cách rộng rãi
lời nói vắn tắt này của Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn nói
lên cho con để con có thể hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi, lời nói vắn
tắt này của Thế Tôn!
32) -- Này Susìma, dù cho Ông có biết hay Ông không có biết, trước
hết là trí về pháp trú, sau là trí về Niết-bàn. Này Susìma, Ông nghĩ thế
nào? Sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn?
33) -- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi
chúng ta quán vật ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là
tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
34) -- Thọ là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
35) -- Tưởng là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
36) -- Các hành là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
37) -- Thức là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu
chúng ta quán vật ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là
tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
38) -- Do vậy, này Susìma, cái gì thuộc sắc pháp quá khứ, vị lai hay
hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả
sắc pháp cần phải được quán như chơn như sau: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
39) Cái gì thuộc thọ quá khứ, vị lai hay hiện tại... (như trên)...
40) Cái gì thuộc tưởng quá khứ, vị lai hay hiện tại... (như trên)...
41) Cái gì thuộc hành quá khứ, vị lai hay hiện tại... (như trên)...
42) Cái gì thuộc thức quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại,
thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức cần phải quán như
chơn với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
43) Này Susìma, thấy như vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với
sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với
các hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly
tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta
đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". Này Susìma,
Ông có thấy chăng: "Do duyên sanh, già chết sanh khởi"?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
44) ...
45) -- "Do duyên thủ, hữu sanh khởi?" Này Susìma, Ông có thấy chăng?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
46) -- Này Susìma, Ông có thấy chăng: "Do duyên ái, thủ sanh khởi"?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
47) -- "Do duyên thọ, ái sanh khởi. Do duyên xúc, thọ sanh khởi. Do
duyên sáu xứ, thọ sanh khởi. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi. Do
duyên thức, danh sắc sanh khởi. Do duyên hành thức sanh khởi. Do duyên
vô minh, hành sanh khởi". Này Susìma, Ông có thấy chăng?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
48) -- "Do sanh diệt, già chết diệt", này Susìma, Ông có thấy chăng?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
49) -- "Do hữu diệt, nên sanh diệt", này Susìma, Ông có thấy chăng?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
50) -- "Do thủ diệt, nên hữu diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thọ
diệt nên ái diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt.
Do danh sắc diệt, nên sáu xứ diệt. Do thức diệt, nên danh sắc diệt. Do
hành diệt nên thức diệt. Do vô minh diệt, nên hành diệt!". Này Susìma,
Ông có thấy chăng?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
51) -- Nhưng này, biết như vậy, thấy như vậy, Ông có chứng được các
thần thông nhiều loại sai khác: Một thân hiện ra nhiều thân; nhiều thân
hiện ra một thân; hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua
núi như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở
trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết-già
đi trên hư không như con chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy. Có thể sử dụng
thân một cách tự tại cho đến cõi Phạm thiên?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
52) -- Này Susìma, có phải biết như vậy, thấy như vậy, với thiên nhĩ
thanh tịnh siêu nhân, Ông có thể nghe hai loại tiếng, tiếng chư Thiên và
tiếng loài Người, tiếng xa và tiếng gần?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
53) -- Này Susìma, có phải biết như vậy, thấy như vậy, với tâm của
mình biết được tâm của chúng sanh sai khác, của loài Người sai khác. Với
tâm có tham, Ông biết được tâm có tham... với tâm không giải thoát, Ông
biết được là tâm không giải thoát; với tâm giải thoát, Ông biết được là
tâm giải thoát?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
54) -- Này Susìma, có phải biết như vậy, thấy như vậy, Ông có thể nhớ
được nhiều đời quá khứ sai khác. Như một đời... (như trên)... Ông có
thể nhớ được nhiều đời quá khứ sai khác cùng với các nét đại cương và
các chi tiết?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
55) -- Này Susìma, nhưng biết như vậy, thấy như vậy, với thiên nhãn
thanh tịnh siêu nhân, Ông có thể thấy các chúng sanh chết đi sanh lại...
Ông có thể biết các chúng sanh tùy theo hạnh nghiệp của họ?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
56) -- Này Susìma, nhưng biết như vậy, thấy như vậy, có phải sau khi
vượt khỏi các sắc pháp, với thân cảm thọ vô sắc pháp Ông an trú với tịch
tịnh giải thoát?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
57) -- Nay ở đây, này Susìma, với câu trả lời như vậy, với những pháp
này không chứng được, này Susìma, có phải Ông không làm được điều này?
VI
58) Rồi Tôn giả Susìma cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
-- Một tội lỗi con đã vi phạm, bạch Thế Tôn, vì ngu đần, vì si mê, vì
bất thiện. Con đã xuất gia như một người ăn trộm pháp trong Pháp và
Luật khéo giảng này. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận con tội lỗi
này là một tội lỗi để con ngăn ngừa trong tương lai!
59) -- Này Susìma, thật sự Ông đã phạm tội, vì ngu đần, vì si mê, vì
bất thiện, Ông đã xuất gia như người ăn trộm pháp trong Pháp và Luật
khéo giảng này.
60) Ví như, này Susìma, người ta bắt được một người ăn trộm, một
người phạm tội, dắt đến cho vua và thưa: "Thưa Ðại vương, đây là người
ăn trộm, người phạm tội. Ðại vương hãy gia phạt người ấy theo hình phạt
nào như Ðại vương muốn". Vua ấy nói như sau: "Các Ông hãy đem người này,
lấy dây thật chắc trói cánh tay người này thật chặt về phía sau, cạo
đầu người ấy đi, dắt người ấy đi xung quanh trên một xe nhỏ với một cái
trống, đi từ đường này tới đường khác, từ ngả ba này đến ngả ba khác,
dắt người ấy ra khỏi cửa thành phía Nam, và hãy chặt đầu người ấy tại
thành phía Nam".
Những người kia vâng theo lời vua dạy, lấy dây thật chắc trói cánh
tay người ấy thật chặt về phía sau, cạo trọc đầu, dắt người ấy đi xung
quanh trên một xe nhỏ với một cái trống, đi từ đường này tới đường khác,
từ ngả ba này tới ngả ba khác, dắt người ấy ra khỏi cửa thành phía Nam,
và chặt đầu người ấy tại thành phía Nam.
61) Này Susìma, Ông nghĩ thế nào? Người ấy do nhân duyên như vậy có
cảm thọ khổ ưu hay không?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
62) -- Này Susìma, dù cho người ấy do nhân duyên như vậy cảm thọ khổ
ưu, hay không cảm thọ khổ ưu, thời sự xuất gia với tư cách ăn trộm pháp
trong Pháp và Luật khéo thuyết này, do nhân duyên ấy phải rơi vào và
chịu đựng khổ báo còn kịch liệt hơn và quả báo còn đau đớn hơn.
63) Này Susìma, Ông thấy phạm tội là phạm tội và như pháp phát lộ,
nên chúng ta chấp nhận tội ấy cho Ông. Này Susìma, như vậy Luật của bậc
Thánh được tăng trưởng, khi thấy được phạm tội là phạm tội và như pháp
phát lộ để ngăn giữ trong tương lai.
VIII. Sa Môn, Bà La Môn: Phẩm Thứ Tám
71. I. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp
14.12-3, Sa-môn, Bà-la-môn, Ðại 2,99b) (S.ii,129)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ở vườn ông
Anàthapindika.
2) Ở đây Thế Tôn...
3) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không biết già
chết, không biết già chết tập khởi, không biết già chết đoạn diệt, không
biết con đường đưa đến già chết đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, những
Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, giữa các Sa-môn không được chấp nhận là Sa-môn,
hay giữa các Bà-la-môn không được chấp nhận là Bà-la-môn; và những Tôn
giả ấy không tự mình với thắng trí đạt được, chứng được và an trú trong
hiện tại mục đích Sa-môn hạnh và mục đích Bà-la-môn hạnh.
4) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biết già
chết... (như trên)... biết con đường đưa đến già chết đoạn diệt. Này các
Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, giữa các Sa-môn được chấp nhận
là Sa-môn, hay giữa các Bà-la-môn được chấp nhận là Bà-la-môn; và những
Tôn giả ấy tự mình với thắng trí đạt được, chứng được và an trú ngay
trong hiện tại mục đích Sa-môn hạnh và mục đích Bà-la-môn hạnh.
72-80. (II-X).
... Trú ở Sàvatthi.
Họ không biết sanh...
Họ không biết hữu...
Họ không biết thủ...
Họ không biết ái...
Họ không biết thọ...
Họ không biết xúc...
Họ không biết sáu xứ...
Họ không biết danh sắc...
Họ không biết thức...
XI. (S.ii,130)
Họ không biết hành... Họ không biết hành tập khởi, họ không biết hành
đoạn diệt, họ không biết con đường đưa đến hành đoạn diệt.... .. tự
mình với thắng trí đạt được, chứng được và an trú ngay trong hiện tại
mục đích Sa-môn hạnh và mục đích Bà-la-môn hạnh.
IX. Trung Lược Phẩm
...Trú ở Sàvatthi.
I. Ðạo Sư... (S.ii,130)
1) -- Này các Tỷ-kheo, đối với ai không như thật biết và thấy già
chết, người ấy cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí đối với
già chết. Ðối với ai không như thật biết và thấy già chết tập khởi,
người ấy cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí đối với già chết
tập khởi. Ðối với ai không như thật biết và thấy già chết đoạn diệt,
người ấy cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí đối với già chết
đoạn diệt. Ðối với ai không như thật biết và thấy con đường đưa đến già
chết đoạn diệt, người ấy cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí
đối với con đường đưa đến già chết đoạn diệt.
2) Này các Tỷ-kheo, đối với ai không như thật biết và thấy sanh...
3) Này các Tỷ-kheo,. .. không như thật biết và thấy hữu...
4) Này các Tỷ-kheo... không như thật biết và thấy thủ...
5) Này các Tỷ-kheo... không như thật biết và thấy ái...
6) Này các Tỷ-kheo... không như thật biết và thấy thọ...
7) Này các Tỷ-kheo... không như thật biết và thấy xúc...
8) Này các Tỷ-kheo... không như thật biết và thấy sáu xứ...
9) Này các Tỷ-kheo... không như thật biết và thấy danh sắc...
10) Này các Tỷ-kheo... không như thật biết và thấy thức...
11) Này các Tỷ-kheo, đối với ai không như thật biết và thấy hành,
người ấy cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí đối với các
hành. Ðối với ai không như thật biết và thấy các hành tập khởi, người ấy
cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí đối với các hành tập
khởi. Ðối với ai không như thật biết và thấy các hành đoạn diệt, người
ấy cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí đối với các hành đoạn
diệt. Ðối với ai không như thật biết và thấy con đường đưa đến hành đoạn
diệt, người ấy cần phải tìm đến bậc Ðạo Sư để có như thật trí đối với
con đường đưa đến các hành đoạn diệt.
II. Học Tập (Tạp 15.4 Tu Tập, Ðại 2,101b) (S.ii,131)
... Này các Tỷ-kheo, đối với ai không như thật biết và thấy già chết,
người ấy cần phải học tập để có như thật trí đối với già chết...(I.11)
III. Tu Tập (Yoga) (Tạp 15.5, Tam-ma-đề, Ðại 2,101b)
(S.ii,131)
... Này các Tỷ-kheo, đối với ai không như thật biết và thấy già chết,
người ấy cần phải tu tập để có như thật trí đối với già chết...(I.11)
IV. Dục (S.ii,132)
... Dục cần phải thực hành...(I.11)
V. Nỗ Lực (S.ii,132)
... Nỗ lực cần phải thực hành...(I.11)
VI. Bất Thối Chuyển (S.ii,132)
... Bất thối chuyển cần phải thực hành...(I.11)
VII. Nhiệt Tâm (S.ii,132)
... Nhiệt tâm cần phải thực hành...(I.11)
VIII. Tinh Tấn (S.ii,132)
... Tinh tấn cần phải thực hành...(I.11)
IX. Kiên Trì (S.ii,132)
... Kiên trì cần phải thực hành...(I.11)
X. Chánh Niệm (S.ii,132)
... Chánh niệm cần phải thực hành...(I.11)
XI. Chánh Tri (S.ii,132)
... Chánh tri cần phải thực hành...(I.11)
XII. Không Phóng Dật (S.ii,132)
... Không phóng dật cần phải thực hành... (I.11)