Phần
Tự Luận. Chương một: Nguồn gốc Phật giáo
Chương một
I. NGUỒN GỐC PHẬT GIÁO
Gần ba mươi lăm thế kỷ về trước, dân tộc A-ly-an (Aryen) thâu
phục nước Ấn Độ và chia dân chúng ra làm bốn bực :
1. Chủng tộc Bà-la-môn (Brahmana), tức là các đạo sĩ học hành
uyên bác, giới hạnh đoan nghiêm; văn hóa học thuật của dân tộc đều ở
trong tay các bậc này cả.
2. Chủng tộc Sát đế lỵ (Ksatrya), tức là giòng giõi vua chúa.
3. Chủng tộc Phệ xá (Vaisya), tức là hạng buôn bán bình dân.
4. Chủng tộc Thủ đà la (Soudra), gồm những dân tộc tôi tớ lao
động.
Ngoài ra lại còn một chủng tộc là Ba-ly-a (Pariahs), tức là
những dân tộc mọi rợ.
Theo luật Bà-la-môn thì chỉ có ba chủng tộc trên là có quyền
đọc kinh học đạo mà thôi, còn hai chủng tộc dưới không có quyền gì và
phải làm nô lệ cho ba phái trên.
Bấy giờ toàn cõi ấn Độ chia làm rất nhiều nước nhỏ, thường
khi hòa chiến với nhau như đời Chiến quốc bên Trung Quốc, tuy đại thế
vẫn thu về nước Ma-kiệt-đà (Magadha) (như các nước chư hầu với đời Chu
Mạc vậy).
Nước này lớn nhất ở phía Nam sông Hằng hà (Gange), làm trung
tâm điểm cho toàn xứ Ấn Độ.
Trong những nước có danh tiếng nhất thời ấy, có nước
Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu)[7], vua tên là Tịnh Phạn (Sudhodana) Hoàng hậu
là Ma-ha Ma-da (Maha-maya) con vua A-nâu Thích-ca (Anu-sakya) nước
Câu-ly (Koly)[8]. Khi ấy vua Tịnh Phạn đã 50 tuổi và Hoàng hậu 45 tuổi
mới thọ thai lần đầu. Theo tục Ấn Độ, đàn bà phải về nhà cha mẹ mà sanh
con, và con sanh ra đều lấy họ mẹ, nên Hoàng hậu đã về nước Câu-ly, đản
sanh được Hoàng tử lấy tên là Tất-đạt-đa (Siddharta) và họ là Thích-ca
(Sakya).
Hoàng tử Tất-đạt-đa sau này là Phật Thích-ca, hiệu là Mưu-ni
(Mouni), nghĩa là vắng lặng, nhơn đức hoàn toàn.
Nơi sinh Ngài là vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini). Năm 1897 bác sĩ A
Fuhrer có đào được ở nơi ấy một trụ đá của vua A Dục (Asoka) (sau khi
Phật tịch diệt chừng 270 năm) đánh dấu chỗ của đức Phật giáng sinh.
Còn về niên đại giáng sinh của Ngài hiện có nhiều thuyết khác
nhau[9] . Theo thuyết phổ thông thì Ngài sanh ngày mồng 8 tháng tư âm
lịch đời Chiêu Vương nhà Chu (trước Tây lịch 1027 năm). Nhưng theo pháp
sư Pháp Châu, người Trung Quốc đã từng du học ở Tích Lan (Ceylan), dày
công nghiên cứu về lịch sử Phật, có dẫn chứng bằng mấy chục bộ sách vừa
văn Trung Quốc và văn Pali, thì Ngài sanh vào khoảng năm 563 trước Thiên
chúa giáng sanh.
Ngài tư bẩm thông minh từ thuở nhỏ. Bảy tuổi Ngài theo học
các đạo sĩ phái Bà-la-môn, như ông Tỳ-xa-mật-đa-la (Visvamitra) và ông
tướng võ S ằn-đề-đề-bà (Ksautidiva). Dần dần Ngài thông hiểu các khoa,
nhất là nghị luận, triết lý. Chính trong khi bắt đầu hiểu biết ấy, cũng
là khi Ngài bắt đầu cảm thấy chán nản cuộc đời vinh hoa phú quý và buồn
đau cho cuộc thế của nhân sinh.
Nhưng vì cớ gì một vị thiếu niên Hoàng tử sống một cuộc đời
đẹp đẽ, không bao giờ trực tiếp với đời mà lại có tâm lý ấy ? Rồi sau
đây tại sao Ngài biết đời khổ mà xót thương đến phải xả thân để tìm
phương giải thoát ? Chúng ta cần nên tìm sâu vào nguyên lý ấy.
Cứ suy mấy bậc thánh triết Trung Hoa ai cũng biết, bởi sống
giữa thời đại quá suy đồi, lớn hiếp bé, mạnh hiếp yếu, thì ngài Lý Đam
mới tạo ra được triết lý vô vi của đạo Lão; đời Xuân thu phong hóa đồi
bại (cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi không ra
tôi), thì Ngài Khổng Khâu mới sáng ra phép tu thân của đạo Nho. Như vậy
đủ rõ, hoàn cảnh giúp nên thánh triết, mà người trở nên thánh triết chỉ
là người muốn cải thiện thời thế. Nếu đời chiến quốc không phải là thời
phong kiến, và là đời sống thanh bình như thời Nghiêu, Thuấn thì đủ có
Khổng tử hay Lão tử, nước Trung Quốc cũng không thêm được món triết lý
nào.
Vậy nói đến Phật Thích-ca, tất cũng phải xét đến nguyên nhân
chánh đáng. Nguyên nhân chánh đáng ấy chính là lòng từ bi của Ngài,
nghĩa là suy đến hoàn cảnh Ngài.
Như trên đã nói, dân tộc ấn Độ bấy giờ chia ra làm năm phái
rõ rệt Ngài là giòng quý tộc. Nhưng xét ra giòng quý tộc chỉ có quyền mà
không có thế, vì bao nhiêu học thuật, luật pháp đều ở trong tay phái
Bà-la-môn cả. Một Hoàng tử thiếu niên có đủ tài như đức Thích-ca, thấy
vậy tất phải sinh lòng bất mãn cho cái chế độ ấy. Rồi Ngài lại thấy cái
khổ của những kẻ nô lệ gần Ngài. Ngài sinh ra bất bình với cái tập quán
bất công của dân tộc. Sự buồn rầu của Ngài khởi điểm từ đấy. Lại hằng
ngày Ngài thường nghe và thấy bao nhiêu chuyện đau khổ của nhân loại,
và, dù người được sanh vào nơi quyền quý, nơi mà người đời đã cho là
sung sướng, cũng không tránh khỏi bốn cái ách “sanh, lão, bệnh, tử”. Thế
là Ngài bắt đầu ngờ vực mới triết lý truớc sự sống đau khổ của loài
người.
Ngài lại càng buồn rầu khi thấy chỉ có mình Ngài cảm biết nỗi
đau khổ ấy, còn biết bao nhiêu người vẫn sống mê man.. ... tranh đua,
áp chế, cướp giết lẫn nhau, gây thêm cho nhau bao nhiêu là cảnh khổ não
thương tâm, mà người đời vẫn triền miên sống trong vòng tội lỗi tối tăm,
trong cảnh khổ không bờ bến mà không hề tự biết ? Nhơn đó Ngài mới nhóm
trong tâm một lý tưởng : “Phải tìm lấy chơn lý đủ cứu vớt chúng sinh ra
ngoài bể khổ”. Từ đó Ngài cố tìm trong kinh điển, trong đạo lý để mong
tìm thấy một chân lý mà giải luận cuộc nhân sanh.
Năm 16 tuổi, Ngài vâng lời vua cha cưới 3 vị phu nhân La-gia
(Gapika), Gia-du-đà-la (Yasodhara), Lộc-giả (Urganika). Bà Gia-du-đà-la
sanh được một con trai lấy tên là La-hầu-la. Nhưng càng ngày Ngài càng
chán nản đời sống tầm thường dù vợ đẹp con yêu ấy.
Năm 19 tuổi, khi sự chán nản lên đến cực độ, Ngài quyết bỏ vợ
con, bỏ cuộc đời vinh hoa phú quý, vào hang núi chịu đói rét, tu khổ
hạnh để mong tìm nghĩ được một phương pháp gì cứu loài người ra khỏi
vòng khổ ải, và bầy cảnh cực lạc trên thế gian. Trong mấy năm ấy, Ngài
đi tìm hỏi mấy vị đạo sĩ có danh tiếng, nhưng Ngài thấy triết lý của vị
nào cũng không được siêu thoát lắm. Ngài liền vào ẩn trong dãy Tuyết Sơn
(tức là núi Già-xà-gaya trong sách Phật ngày sau gọi là Khổ hạnh lâm)
để tu tập thiền định. Trong 6 năm trời tu khổ hạnh, nhưng Ngài không
thấy chứng được đạo quả gì. Ngài mới đi đến núi Tượng Đầu (Gajasirsa)
bên sông Ni-liên-thuyền (Nai-Rạdjjâna)[10] tắm rửa xong, Ngài thọ bát
sữa của mấy nàng mục nữ cúng, rồi Ngài ở đó một mình tỉnh tọa suy xét.
Ngài thề : "Ta ngồi ở đây nếu không chứng được đạo quả, thì dù có tan
nát thân này, ta quyết không bao giờ đứng dậy.”Dưới gốc cây Tất-bát-la
(Pippala), Ngài ngồi định tâm, vừa định tâm 48 ngày thì, một hôm, khi
sao mai vừa mọc, Ngài bỗng thấy trong tâm sáng suốt, rõ thấy chân lý của
vũ trụ và nguồn gốc sanh tử của chúng sinh: Ngài đã thành Phật. Bấy giờ
Ngài vừa 31 tuổi[11], ngày ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp lịch Trung
Hoa (Ngày nay ở Nam thành Patna chừng 110 cây số có thành Già gia (Gaya)
và cách thành này 13 cây số có linh địa gọi là Phật-đà Già-gia (Bouddha
Gaya), tức là chỗ Ngài thành Phật vậy. Còn cây Tất-bát-la là chỗ Ngài
ngồi nhập định, sau gọi là cây Bồ-đề, dấu tích nay vẫn còn.
Khi ấy Ngài yên lặng, hoàn toàn sống trong sự sáng suốt nhiệm
mầu của chân lý mà Ngài đã chứng ngộ, rồi Ngài trở lại với loài người
đem đạo lý ra mà thuyết pháp giáo hóa.
Từ đó Ngài chu du khắp các lưu vực sông Hằng hà, giáo hóa
được vô số chúng sinh đương mê muội, trở nên giác tĩnh, đều qui y Phật
pháp để tu hành diệt khổ, chứng đạo Niết-bàn.
Ngài thọ 80 tuổi và tịch diệt vào ngày rằm tháng hai, trong
một vườn cây gần thành Câu-thi-la (Kusinagara).
*
Sau khi Phật Niết-bàn, ngài Ma-ha Ca-diếp (Maha-kôsyapa) thay
Phật thống suất Tăng chúng, họp cả thảy 500 vị đệ tử Phật, ở thành
Vương-xá (Rajagrika) giảng tụng lại đạo lý của Phật đã dạy. Đồng thời ở
chỗ khác cũng có ngài Ba-sư-ca (Câspa) chiêu tập hàng vạn Tăng chúng
kiết tập Pháp tạng. Nhơn đó trong Phật giáo bắt đầu chia làm hai phái
Thượng tọa và Đại chúng.
Rồi lần hồi đến kỳ kiết tập thứ hai (sau Phật Niết-bàn hơn
100 năm), kỳ kiết tập thứ ba (sau Phật Niết-bàn hơn 200 năm), và kỳ kiết
tập thứ tư (sau Phật Niết-bàn chừng 600 năm); qua các kỳ kiết tập ấy
lần lượt lại chia thành 20 bộ phái; tuy có chia ra nhiều bộ phái như
vậy, mà vẫn tôn thờ một giáo chủ: Phật Thích-ca, và giáo lý đều nương
vào lời Ngài dạy từ trước làm thánh điển.
Trong bốn kỳ kiết tập kể trên, hai kỳ đầu chỉ nhóm chúng lại
rồi các vị Thượng tọa lên đàn giảng tụng lại những lời Phật dạy cho nhớ
thôi, mãi đến hai kỳ kiết tập sau mới có biên chép thành kinh điển. Kết
quả thành hai lối văn : văn Phạn và văn Pali. Phật giáo nhờ đó truyền bá
hầu khắp toàn cõi Ấn Độ, cho đến ngày nay đã thành thế giới hóa.
Gần đây các học giả âu Châu nghiên cứu Phật giáo, lấy nước Ấn
Độ làm trung tâm, đem Phật giáo chia làm Nam phương Phật giáo và Bắc
phương Phật giáo. Như hiện nay Phật giáo truyền ớ Tích Lan (Ceylan),
Miến Điện, Xiêm La, Lào, Cao Mên, v.v. . . gọi là Nam phương Phật giáo
Phật giáo truyền ở Népal, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bổn, v.v. . . và cả
đến Việt Nam ta gọi là Bắc phương Phật giáo. Sở dĩ gọi Nam phương và
Bắc phương chỉ là sự phân chia về địa lý, chớ không phải nói về Đại
thừa, Tiểu thừa; chẳng qua có thể nói Bắc truyền Phật giáo phần nhiều
thuộc về phát triển Phật giáo ; Nam truyền Phật giáo so lại gần với
nguyên thỉ Phật giáo.
Nam phương Phật giáo theo kinh điển văn Pali ; Bắc phương
Phật giáo theo kinh điển văn Phạn.
*
Kể từ khi Phật giáo chia thành bộ phái rồi thì mỗi bên chấp
mỗi kiến giải khác nhau, tranh nhau nghị luận thật đã ráo riết, khiến
trên lịch sử Phật giáo Ấn Độ, về khoảng trước thế kỷ thứ nhất, thứ hai
Đại thừa Phật giáo cơ hồ không còn lưu hành nữa. Mãi đến đầu thế kỷ, ở
Bắc ấn Độ có ngài Mã Minh ra đời, làm luận Đại thừa khởi tín, cùng nhờ
sức ủng hộ của vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniska), ngài hết sức tuyên bố phục
hưng giáo lý Đại thừa, từ đó Đại thừa lần thạnh.
Sau đó 100 năm, lại có ngài Long Thọ nối tiếp ra đời, làm
luận Trung quán, luận Thập nhị, luận Trí độ v.v… làm Khai tổ về Đại thừa
Không tôn và cả Chơn ngôn tôn nữa. Đại thừa Phật giáo nhơn đó càng được
phát dương lên mãi.
Nối nghiệp ngài Long Thọ, có hai vị đệ tử là Long Trí và Đề
Bà, cả hai ngài cùng làm luận giảng đạo phá dẹp ngoại đạo, Tiểu thừa,
hoằng dương Đại thừa (Phật giáo truyền vào ta lúc này).
Đương thời ở Bắc Ấn Độ, Tiểu thừa giáo vẫn còn thạnh hành; có
ngài Ha-lê-bạt-ma (Hari-mamlan) chiết trung học lý của các bộ phái, làm
ra luận Thành thật, phát huy đạo lý về Nhơn không, Pháp không, rất có ý
tổng hợp cả Đại thừa và Tiểu thừa trong đó. Tiểu thừa Phật giáo ở Ấn Độ
đến đây có thể bảo là chung kết.
Đến sau khi Phật Niết-bàn hơn 900 năm, có ngài Vô Trước sanh ở
Bắc Ấn Độ, sau đến Trung Ấn, đề xướng giáo nghĩa Đại thừa Duy thức. Có
em là ngài Thế Thân nguyên trước vốn người theo học Tiểu thừa, có làm
luận Cu-xá, sau theo anh học Đại thừa, rồi cả hai ngài đều cực lực phát
dương giáo nghĩa Đại thừa Duy thức.
Vào khoảng 1000 năm sau khi Phật Niết-bàn là thời kỳ Phật
giáo Ấn Độ phát triển đến chỗ rực rỡ, có nhiều bậc Đại đức, nhiều vị
luận sư ra đời, tuyên truyền giáo lý.
Nhưng đến sau khi Phật Niết-bàn khoảng 2000 năm, đạo
Bà-la-môn được cơ phục hưng, họ hết sức bài xích Phật giáo. Lại có Hồi
giáo ở Thổ-nhĩ-kỳ (Turquie) xâm nhập Ấn Độ, dùng thủ đoạn khốc liệt, gia
hại Phật giáo, đập tháp phá chùa, hủy diệt chánh pháp. Vì thế Phật giáo
phải bị suy diệt, hầu đến tuyệt tích! Các nhà viết sử Phật giáo Ấn Độ
chấm dấu ngay từ đó.
Nhưng đến thế kỷ 19, nước Anh xâm lăng Ấn Độ đồng thời với
văn hóa nước ấy, người Âu châu họ rất để tâm nghiên cứu, ngày thảy tiến
tới. Nên với giá trị phổ biến của Phật giáo, họ đã nhận thức một cách
đặc biệt và xôn xao khen ngợi. Khi đó, người Ấn Độ cũng bắt đầu kinh
ngạc, nhìn cái văn hóa nước mình, mới lên tiếng kêu gào : Phục hưng Phật
giáo.
Rayendrachilala tiên sanh là một học giả Phật giáo đầu tiên,
xuất hiện giữa phong trào nghiên cứu văn hóa ấn Độ của người Âu Tây.
Người căn cứ vào 144 loại kinh về Phạn bản ở Népal, làm ra quyển “Népal
Phật giáo Phạn bổn” (Thelitasanskrit Buddhist Lilterature of Népal). Năm
1888 lại có cho xuất bản quyển “Tiểu phẩm Bát-nhã”. Đối với sự nghiên
cứu Phật giáo người rất là có công.
Năm 1893 có Sarat Chandrodas tiên sanh lại đề xướng lên hội
“Nghiên cứu thánh điển Phật giáo Ấn Độ và nhân loại học thuật”. Khi ấy
lại càng kích thích người Ấn Độ đối với cơ vận nghiên cứu Phật giáo.
Đại Bồ-đề hội là một đoàn thể rất có thế lực trong công cuộc
vận động phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ hiện thời. Sáng lập vào năm 1891,
chi bộ đều có đặt ở các chỗ như là Nữu-ước, Luân Đôn v.v. . . Sự bố giáo
hầu khắp Âu Mỹ. Rồi đến toàn Tích Lan Phật giáo đại hội (1918), toàn Ấn
Độ Phật giáo đại hội (1928), trước sau thành lập, đều xây dựng trên một
mục đích “Chấn hưng Phật giáo”.
Đến như hiện nay nhân dân Ấn Độ tổng kê được là 301.894 vạn
người, tựu trung Phật giáo đồ chiếm được số 1157 vạn.
Như vậy ta đủ thấy quang cảnh thạnh đạt đến dường nào!
[7] Nay là xứ Piprava gần thánh
Gorakrpur. phía Nam nước Népal.
[8] Nam là
Rummindei của nước Tarai.
[9] Những niên
đại Phật giáng sanh của các thuyết : 1023 - 585 - 624 - 623 -566 - 559 -
557 - 487 - 456 trước Thiên chúa giáng sanh.
[10] Nay là
sông Phalgu.
[11] Có sách
nói Ngài 29 tuổi Xuất gia, 35 tuổi Hành đạo. Lại có sách nói Ngài 39
tuổi Hành đạo.