I.3 Chương ba: III. Địa thế nước Việt Nam
Muốn khảo sát lịch sử của một dân tộc nào, bất cứ về phương diện gì, đều phải căn cứ vào địa thế đất nước của dân tộc ấy để làm chỗ lập định. Vì hoàn cảnh sanh hoạt của dân tộc đều ảnh hưởng hình thế khí hậu và cương vực của đất nước. Nhất là về phương diện Phật giáo của dân tộc Việt Nam, người đọc sử lại cần biết rõ điều kiện địa lý. Vì Phật giáo vốn của nước ngoài truyền vào bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Cứ theo hình thế cương vực hiện thời, thì nước Việt Nam ta chiếm hết bảy phần mười cõi Đông Dương (người ta thường gọi gồm cả là Ấn Độ Chi Na), vì địa thế ở giữa nước Ấn Độ và Trung Hoa. Ấn Độ Chi Na là một bán đảo ở giữa biển Trung Hoa và vịnh Băng-gan (Bengale), cấu thành bởi mấy dãy núi từ Tây Tạng chạy về miền Đông Nam đến biển, xòe ra như hình giải quạt. Ở giữa các dãy núi ấy là những thung lũng, đầu thì hẹp rồi dần dần tỏa ra thành cao nguyên và bình nguyên. Những sông lớn như sông Nam (Ménam), sông Khung hay sông Cửu Long và sông Nhị, đều phát nguyên từ Tây Tạng chạy theo các thung lũng ấy, rồi bồi thành một dãy trung châu ở dọc bờ biển từ Bắc đến Nam. Đó là đại khái vị trí của nước Việt Nam.
Còn nòi giống dân tộc Việt Nam, theo tục truyền thì là nòi giống Tiên Rồng, mà căn cứ vào sự nghiên cứu của những nhà Sử học gần đây, nhất là những giáo sư ở trường Viễn Đông Bác Cổ thì có mấy thuyết :
1. Có người cho tổ tiên ta phát tích từ Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di cư xuống miền Trung châu Bắc kỳ.
2. Ông Aurousseau có dẫn chứng cổ điển rất rõ ràng, chỗ Tổ tiên ta là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước Sở (đời Xuân Thu) đánh đuổi phải chạy xuống phía Nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc kỳ và phía Bắc Trung kỳ (đời thượng cổ địa thế nước ta là từ Quảng Đông, Quảng Tây đến phía Bắc Trung kỳ).
3. Theo nhiều nhà Nhân chủng học khác thì, ở đời tối thượng cổ có giống người Anh-đô-nê-diêng bị giống A-ri-ăng đuổi từ Ấn Độ tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi Na. Giống người Anh-đô-nê-diêng này làm tiêu diệt giống thổ dân ở đây trước là giống Mê-la-nê-diêng, rồi một phần đi thẳng sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi Na. ở phía Nam họ thành giống người Chiêm Thành và Cao Miên theo văn hóa Ấn Độ; ở phía Bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ mà thành người Việt Nam, sau ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa.
Trong ba thuyết ấy, thuyết nào cũng có lý và có chứng cả (chưa biết chừng giống người Việt Nam là cả ba giống người ấy hỗn hợp mà thành cũng nên).
Kể mấy giống người trong cõi Ấn Độ Chi Na, thì giống người Việt Nam ta là thuần chất nhất, thông minh nhưng không lỗi lạc phi thường, giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý. Bởi thế, dân tộc Việt Nam dễ chịu ảnh hưởng văn hóa tinh thần của người nước ngoài. Tánh khí nông nổi, không bền chí, nhưng chịu đựng được sự cực khổ và hay nhẫn nhục; thường thì hay nhút nhát và chuộng hòa bình, song lại biết hy sinh vì nghĩa lớn, ít sáng tạo, nhưng bắt chước thích ứng và dung hợp thì rất tài. Vì những cớ ấy, nên những tôn giáo, đạo lý ở nước ngoài truyền vào dễ được dân tộc Việt Nam ta hoan nghênh và sức tin tưởng cũng rất mạnh.
Cứ xét cái tinh thần ấy và địa thế nước ta, thì thật là một điều rất lợi cho dân tộc ở một nơi gặp gỡ hai văn hóa của hai dân tộc Ấn Độ và Trung Hoa, hai nước đều có nền văn minh tinh thần tối cổ ở á châu. Vậy Phật giáo truyền vào xứ này là một lẽ đương nhiên và dân tộc Việt Nam ta đón lấy và thờ kính cũng là một điều hạnh phúc cho tinh thần nòi giống