Một hôm, người bạn tôi là Upendra đến tìm tôi và nói với vẻ rất hăm hở:
– Này Mukunda, hôm qua tôi đã gặp một chuyện rất lạ lùng. Trong một buổi
thuyết giảng, có vị tu sĩ kia đã bay lơ lửng lên không trung, với độ
cao cách đất khoảng chừng một mét.
Tôi nhìn anh ta, nhoẻn miệng cười và hỏi:
– Có phải tên ông ta là Bhaduri, cư trú ở đường Circular?
Upendra gật đầu lộ vẻ ngạc nhiên:
– Thế ra anh đã biết vị này rồi sao?
Tôi đáp:
– Vâng, vì ông ta ở gần nhà tôi nên tôi cũng thường đến gặp ông.
Nghe tôi nói thế, Upendra có vẻ bị thu hút vào câu chuyện. Anh ta muốn
được nghe biết thêm về vị tu sĩ đặc biệt ấy. Tôi liền kể cho anh ta
nghe:
– Tôi được gặp ông ta trong một trường hợp tình cờ. Khi ấy, ông đã luyện
thuần thục phép khí công Patanjali. Ông có thực hành khí công trước mắt
tôi một lần và đến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trong căn phòng kín, ông
ngồi vận khí và tôi có cảm giác như một cơn giông bão khủng khiếp đang
tràn qua. Rồi sau đó, ông thay đổi hơi thở của mình và tạo ra một ấn
tượng yên tĩnh, êm ả sau cơn giông tố. Những cảm giác lạ thường trong
lần ấy khiến cho tôi mãi mãi không sao quên được.
Upendra tỏ vẻ hoài nghi. Anh ta hỏi:
– Tôi nghe nói rằng ông ta không bao giờ bước ra khỏi nhà. Có thật vậy chăng?
– Vâng, đúng vậy. Ông sống theo lối nhập thất đã từ hơn 20 năm rồi. Ông
chỉ ra khỏi cửa vào những dịp thánh lễ, và những lúc ấy ông thực hành
hạnh bố thí với rất đông những người hành khất hoặc những kẻ đói khổ.
Upendra lại hỏi:
– Vì sao ông ta có thể lơ lửng được trên không, đi ngược lại với những định luật tự nhiên?
Tôi nói:
– Tất nhiên là chính tôi cũng không hiểu biết nhiều hơn anh lắm đâu.
Nhưng tôi nghe nói một số môn khí công có thể làm cho cơ thể con người
ta nhẹ đi, và vì thế có thể lơ lửng trên không theo ý muốn. Trong một số
trường hợp khác, các bậc chân tu đã chứng ngộ cũng có được năng lực kỳ
diệu ấy mà chúng ta không thể giải thích bằng những quy luật thông
thường.
Upendra hỏi tiếp:
– Tôi biết là ông ấy thường có những buổi thuyết giảng cho đệ tử vào
buổi chiều. Tôi rất muốn được biết thêm nhiều hơn nữa về ông ta. Anh có
thường đến tham dự các buổi thuyết giảng của ông ấy chăng?
– Vâng, tôi rất thường đến dự các buổi thuyết giảng của ông ấy, và học
được khá nhiều điều từ những kinh nghiệm thực tiễn trong việc tu tập của
ông ta.
Sau câu chuyện với Upendra, buổi chiều hôm ấy trên đường đi học về tôi
ghé vào thăm vị tu sĩ. Thật ra, ông cũng rất ít khi tiếp khách. Vì vậy,
trước cửa nhà bao giờ cũng có một người đệ tử có nhiệm vụ canh cửa và từ
chối những chuyến viếng thăm không báo trước. Tôi đã sắp bị mời ra như
những người khác, thì may thay tu sĩ đã xuất hiện đúng lúc từ bên trong.
Người nói:
– Đừng cản trở Mukunda. Cậu ấy có thể đến đây bất cứ khi nào cậu ấy thích.
Trong khi đi cùng tôi lên căn phòng của mình, tu sĩ nói:
– Việc sống giam mình trong căn nhà nhỏ này, thật ra không chỉ nhằm giúp
ích việc tu tập của tôi, mà còn nhằm tránh cho người đời một số ý tưởng
không hay. Em biết đấy, chân lý của bậc giác ngộ thường làm cho những
kẻ phàm tục phải thất vọng và đau khổ vì họ không thể bám víu vào những
ảo tưởng hư dối của mình được nữa. Vì vậy, nếu không phải là những kẻ
thật tâm cầu đạo thì chẳng nên để cho họ nghe biết chân lý cao siêu của
các bậc hiền thánh, kẻo sẽ làm cho họ thất vọng mà chán ngán cuộc sống
này.
Chúng tôi cùng bước vào một căn phòng nhỏ đơn sơ. Chính trong căn phòng
này, tu sĩ trải qua phần lớn thời gian của đời mình, vì ông thường rất
ít khi ra khỏi cửa phòng.
– Bạch thầy, thầy là vị tu sĩ đầu tiên mà con được biết sống ẩn dật theo cách này.
Vị tu sĩ cười đáp lại:
– Sự giác ngộ không giới hạn ở bất cứ một hình thức tu tập nào. Điều quan trọng là có thể nhận ra được bản chất của mọi sự việc.
Ông ngồi xuống chỗ của mình trên sàn nhà. Tôi cũng tự tìm cho mình một
chỗ thích hợp. Lúc này tôi mới lặng lẽ ngắm nhìn ông, đang chuẩn bị nhập
vào thiền định. Tuy đã bước sang độ tuổi bảy mươi, ông không có vẻ gì
là già nua, suy yếu. Ông ngồi thẳng lưng, thân hình to lớn, vạm vỡ và
cân đối. Khuôn mặt đạo mạo với một chòm râu bạc, đôi mắt tinh anh dừng
lại ở một điểm vô định trong không gian, cho thấy ông đang tập trung tư
tưởng hoàn toàn trong cơn thiền định.
Bất giác, tôi cũng sửa lại tư thế ngồi và bắt đầu nhập thiền. Cả hai
chúng tôi cùng trải qua thời gian êm ả quý giá này chừng hơn một giờ.
Sau đó, tu sĩ lên tiếng trước, nói với tôi bằng một giọng êm ái, từ hòa:
– Con đã khá thuần thục trong việc ngồi thiền đấy. Nhưng con đã đạt được kinh nghiệm tâm linh thực sự nào chưa?
Ông có ý nhắc nhở tôi về mục đích của việc hành thiền:
– Con không nên nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện.
Tôi hiểu điều ông muốn nói. Việc thực hành thiền định chỉ như một phương
pháp rèn luyện tâm linh. Sự rèn luyện ấy giúp chúng ta đạt đến điều gì
thì còn cần phải có sự soi rọi của một trí tuệ minh mẫn và sự dắt dẫn
của một bậc minh sư nữa.
Vị tu sĩ lại nở nụ cười quen thuộc và chuyển sang một đề tài khác. Ông chỉ vào mấy cái bọc lớn để trên chiếc bàn nhỏ và nói:
– Đây là những thư tín từ Hoa Kỳ gửi đến. Một số các tổ chức tu tập tinh
thần ở đó thường quan hệ với tôi để nhờ hướng dẫn việc tu thiền. Tôi
rất vui được giúp họ. Em nên biết, phép tu thiền cũng như ánh nắng mặt
trời, mang lại hơi ấm khắp nơi mà không là sở hữu của riêng ai cả. Và sự
giải thoát của con người hoàn toàn giống nhau ở cả phương Đông và
phương Tây.
Lúc bấy giờ, tôi rất vô tư khi nghe những lời này của vị tu sĩ. Mãi về
sau, tôi mới hiểu ra là ông đã nhìn thấy trước sứ mạng truyền bá thiền
học sang Hoa Kỳ mà tôi sẽ thực hiện trong nhiều năm sau đó, vì thế ông
muốn gieo vào lòng tôi ít nhiều những tư tưởng đầu tiên về việc giảng
dạy thiền học ở phương Tây.
Tôi nói với ông một cách chân thành:
– Bạch thầy, thầy nên viết một tập sách hướng dẫn việc tu thiền. Sẽ có
rất nhiều người được lợi lạc qua sự truyền dạy theo cách ấy của thầy.
– Tôi đã truyền dạy cho các môn đồ. Họ sẽ truyền dạy cho đệ tử của họ.
Đó là những cuốn sách sống động và thực tiễn hơn nhiều. Một cuốn sách
được viết ra trên giấy không thể mang lại niềm tin như những con người
sống, và hơn thế nữa, nó thường chịu sự phê phán hẹp hòi của những kẻ
chẳng hiểu biết gì.
Chiều hôm đó tôi ở lại với ông cho đến khi các đệ tử của ông quy tụ về
để nghe thuyết giảng. Buổi giảng pháp của ông có sức thu hút rất mạnh.
Ông trình bày những vấn đề một cách lưu loát, và khiến cho người nghe
tiếp nhận được một cách dễ dàng những gì ông muốn nói.
Khi buổi giảng kết thúc, một người đệ tử đến trước ông và nói:
– Bạch thầy, thật tôn quý thay đức hy sinh cao cả, thầy đã từ bỏ mọi sự
giàu sang sung sướng để đi theo con đường tu tập khắc khổ và mang đến
cho chúng con mùi vị của đạo pháp.
Sự thật là lúc còn niên thiếu, vị tu sĩ này đã từ bỏ gia đình rất giàu
có để ra đi xuất gia. Nhưng tôi nghe ông đáp lại lời nói ấy rằng:
– Con đã nói ngược lại với sự thật mất rồi. Những gì thầy từ bỏ chỉ là
chút tiền bạc và những thú vui trần tục vô nghĩa. Đổi lại, thầy đã đạt
được niềm an lạc hạnh phúc vô biên không gì hơn được. Nếu so sánh như
thế thì có đáng gọi là một sự hy sinh chăng? Ngược lại, chính người thế
gian đã từ bỏ đi những giá trị tâm linh quý báu mà họ hoàn toàn có thể
được hưởng, để chạy theo những niềm vui tạm bợ trong phút chốc, những
của cải vật chất mà không giúp gì cho họ khi đối mặt với những đau khổ
của kiếp người. Những người như vậy, họ mất nhiều hơn là được. Và chính
cách chọn lựa của họ mới là điều đáng ngạc nhiên một cách kỳ lạ!
Và để kết luận, vị tu sĩ đưa ra một nhận xét đầy tính cách thực nghiệm:
– Nhân quả xoay vần là một định luật khách quan từ ngàn xưa không ai
tránh khỏi. Nếu chúng ta biết tự lo cho tương lai của mình bằng những
việc làm tốt đẹp của hôm nay, thì đó chính là sự đảm bảo chắc chắn hơn
bất cứ một công ty bảo hiểm nào của thời đại. Cuộc sống thế tục đầy dẫy
những khổ đau, dằn vặt, và con người ta trở nên yếu ớt, thụ động vì thấy
mình bất lực. Họ luôn khẩn cầu, van nài ở bất cứ một thế lực siêu nhiên
nào đó để có được sự giúp đỡ, cứu rỗi. Nhưng họ không biết rằng chỉ có
tự mình mới có thể cứu vớt được chính mình bằng những thay đổi tích cực
trong nhận thức và lối sống.
Về sau, tôi vẫn thường đến với vị tu sĩ này sau những giờ tan học. Người
dành cho tôi một sự ưu ái đặc biệt mà tôi dễ dàng nhận ra nhưng phải
mãi đến sau này mới hiểu được nguyên nhân. Ngày tôi chuẩn bị lên đường
sang Hoa Kỳ, người đã nói rõ với tôi nguyên nhân ấy:
– Con hãy an lòng đi đến nơi ấy. Tinh hoa của nền văn hóa Ấn Độ được thể
hiện qua pháp môn thiền định sẽ được con truyền bá rộng rãi trên đất
Mỹ. Sứ mệnh thiêng liêng của con đã được xác định từ lâu xa về trước. Và
ta tin chắc rằng với đạo tâm vững chắc, con sẽ thành công. Người dân
nước Mỹ sẽ dành cho con một sự chào đón nhiệt tình và nồng hậu.
Nhưng tôi chỉ thật sự hiểu thấu những tư tưởng của vị tu sĩ khả kính và
giàu nghị lực này sau khi chính bản thân tôi đã vượt qua rất nhiều thử
thách. Và mối quan hệ hướng dẫn của ông với những người giàu đức tin ở
nước Mỹ xa xôi kia có tác dụng gieo cấy trong tôi một ấn tượng tốt đẹp
mà sau này đã giúp tôi mạnh mẽ hơn trên con đường truyền bá đạo pháp
sang nơi ấy.