Tôi đến thăm ngài Mahsaya, đệ tử của đức Ramakrishna vào một buổi chiều. Khi gặp tôi, ngài tươi cười nói với vẻ hiền hòa:
– Con hãy chờ trong chốc lát. Bây giờ ta cần phải chiêm ngưỡng đức Phật mẫu Quán Thế Âm.
Lời nói đơn sơ của ngài bất chợt gợi lên trong tôi một lòng sùng kính vô
biên như đã có từ bao đời trước. Danh hiệu đức Quán Thế Âm như có một
mãnh lực vô hình khiến cho tôi bùng lên một thứ cảm xúc mạnh mẽ không
sao tả được.
Ngài Mahsaya có một dáng vẻ rất từ hòa, với chòm râu bạc trắng mềm mại
và đôi mắt sáng ngời như soi rọi được khắp cõi vô cùng. Nhìn tư thế an
vui tự tại của ngài trong lúc chiêm ngưỡng đức Quán Thế Âm, tôi có cảm
tưởng đó là hiện thân toàn hảo nhất của sự tinh khiết.
Vị tu sĩ này nổi tiếng về lòng sùng kính vô hạn đối với đức Quán Thế Âm.
Người ta nói là ngài có thể giao tiếp, cảm ứng được với đức Phật mẫu
này, và tôi hoàn toàn không nghi ngờ gì về điều đó. Chính ngay khi bước
chân đến gặp ngài, tôi đã cảm nhận được rất rõ ràng điều đó bằng trực
giác của mình.
Trong đời tôi, nỗi đau khổ lớn nhất mà tôi đã từng nếm trải chính là khi
tôi mất mẹ. Nhiều năm sau khi mẹ mất, tôi vẫn luôn cảm thấy một sự khát
khao cháy bỏng được trông thấy lại hình dáng mẹ. Tôi đã cầu nguyện chỉ
để được gặp lại người trong giấc mơ, và đôi khi lời cầu nguyện đó của
tôi được đáp ứng. Tuy nhiên, từ khi tôi được tiến bộ phần nào trong việc
tu tập tâm linh, thì lòng khao khát được gặp mẹ trở nên trầm lắng và
sâu sắc hơn. Mặc dù tôi vẫn yêu mẹ như lúc nào, nhưng giờ đây tôi hiểu
ra rằng mong ước của mình là vô lý và không mang lại ích lợi gì. Thay vì
vậy, tôi cố gắng đạt đến những trình độ tâm linh cao hơn, và tin chắc
là bằng cách đó tôi được đến gần mẹ tôi hơn.
Thời gian gần đây, tôi dần dần có một cảm giác mơ hồ về sự gần gũi giữa
hình ảnh người mẹ đã khuất của tôi với đức Quán Thế Âm. Cảm giác ấy ngày
càng rõ rệt, và tôi cảm thấy tấm lòng từ bi vô hạn mà đức Phật bà này
dành cho mọi chúng sanh, trong đó có tôi, quả thật không thể phân biệt
nổi với tình thương trời bể mà mẹ đã dành cho tôi. Tự trong thâm tâm, lý
trí của tôi cho rằng lòng thương yêu và tôn kính mẹ đã khiến tôi thánh
hóa địa vị của người lên như đức Quán Thế Âm. Nhưng trực giác của tôi
lại hiểu khác. Sự gần gũi giữa hai hình tượng đến với tôi một cách hoàn
toàn tự nhiên không do suy luận, và tôi âm thầm cầu nguyện, niệm danh
hiệu đức Quán Thế Âm mỗi ngày với lòng chí thành và cả với sự thương yêu
trìu mến như ngày xưa tôi đến với mẹ tôi.
Tôi không nghĩ rằng cảm nhận của mình là đúng hay sai, nhưng tôi biết
chắc một điều là do những thôi thúc đó tôi đã tìm đến tôn sư Mahsaya
ngay khi được nghe biết về ông.
Tôn sư Mahsaya là người sống khiêm tốn và giản dị nhưng có kiến thức rất
uyên thâm. Ngài có rất nhiều đệ tử. Ngài cũng có mở một lớp học để giúp
cho việc học tập của các em học sinh trung học. Trong khi dạy dỗ các
học trò xuất gia cũng như thế tục, ngài không bao giờ dùng đến những lời
lẽ nghiêm khắc, cũng không dùng đến bất cứ một hình thức trừng phạt
nào. Những điều ngài dạy thường rất ít khi đọc thấy trong sách vở, vì
ngài truyền dạy bằng chính sự thực chứng trong đời sống tâm linh của
mình, và các vị đệ tử noi theo tấm gương đạo hạnh của ngài nhiều hơn là
những lời thuyết giảng khô khan.
Ngài đặc biệt sùng kính đối với đức Phật mẫu Quán Thế Âm, và cũng dạy đệ tử ngài hãy lễ kính đức Phật mẫu thay vì lễ kính ngài.
Trong khi chờ đợi tôn sư tiếp chuyện với mình, tôi cũng quỳ xuống bên
cạnh người và chí thành chiêm ngưỡng đức Quán Thế Âm. Một lúc lâu sau,
tôn sư ra khỏi thiền định và lấy tay xoa đầu tôi như một dấu hiệu để báo
cho tôi biết là ngài đã sẵn sàng nói chuyện cùng tôi. Tôi cúi chào theo
đúng nghi thức đối với một bậc thầy, rồi ngồi xuống bên ngài và nói:
– Bạch thầy, con nghe nói thầy có thể giao tiếp, cảm ứng được với đức Phật mẫu Quán Thế Âm?
– Đúng vậy, ta vẫn thường làm như thế.
– Con có thể thỉnh cầu thầy ban cho con một ân huệ, để con có được sự
cảm ứng với đức Phật mẫu chỉ một lần giống như thầy được chăng?
Tôn sư Mahsaya yên lặng một lúc lâu. Rồi ngài nói:
– Đó không phải là điều ta có thể làm được. Không ai đã giúp ta làm được
điều đó, và ta cũng không có khả năng giúp cho ai được như vậy cả.
Tôi hiểu ý ngài muốn nói gì. Nhưng vẫn khẩn khoản:
– Bạch thầy, nhưng bằng vào sự chứng nghiệm của bản thân thầy, thầy có thể ban cho con niềm tin và một sự dắt dẫn.
Tôn sư yên lặng. Tôi phủ phục quỳ dưới chân ngài với sự thành khẩn mà
tôi chưa từng biểu hiện từ trước đến nay. Khoảng nửa giờ đồng hồ trôi
qua, tôn sư phá tan sự yên lặng và nói:
– Con đã lầm rồi. Ta không thể ban cho con niềm tin được. Nhưng ta thấy
rằng điều đó đã tự có nơi con. Nhân danh đức Phật mẫu, ta chấp nhận lời
thỉnh cầu của con. Con sẽ được toại nguyện.
Tôi sung sướng không sao tả xiết. Lòng tôi ngập tràn một niềm hạnh phúc vô biên. Tôi tạ ơn tôn sư và từ biệt ngài để ra về.
Cuộc đời có những sự tình cờ không sao giải thích được. Căn nhà mà tôi
đến để gặp ngài Mahsaya hôm nay, chính là căn nhà số 50 đường Amherst,
tức là căn nhà cũ của gia đình tôi, nơi tôi đã sống những ngày thơ ấu
khổ đau khi mẹ tôi qua đời. Từng bậc thang lầu cho đến những bức tường
vô tri giác, đối với tôi như đều ghi khắc những kỷ niệm không sao quên
được... Tình yêu thương với mẹ và lòng sùng kính vô biên đối với đức
Quán Thế Âm, với tôi đều tăng lên gấp bội khi tôi được sống lại trong
căn nhà này. Tôi luyến tiếc dạo quanh mấy vòng rồi mới bước ra khỏi cửa
để trở về nhà.
Đêm hôm đó là một đêm mà và sau tôi không sao quên được. Tôi ngồi thiền
như thường lệ cho đến khoảng 10 giờ đêm. Đột nhiên, căn gác nhỏ của tôi
bỗng sáng rực lên một thứ ánh kỳ diệu khác thường, vừa rực rỡ vừa êm
dịu, khiến tôi cảm thấy hoàn toàn thư thái. Ánh sáng ấy bao phủ quanh
tôi trong một khoảng thời gian mà tôi không thể biết là bao lâu, vì lòng
tôi cảm thấy kinh ngạc và sung sướng đến độ không còn quan tâm đến thời
gian trôi qua nữa. Thế rồi giữa vùng hào quang chói rạng đó, tôi nhìn
thấy đức Quán Thế Âm hiện ra với hình dáng tuyệt đẹp mà không một pho
tượng nào tôi đã từng xem qua có thể lột tả đúng được. Khuôn mặt ngài
hiền dịu và bao dung, với một nụ cười làm xóa tan đi hết thảy những âu
lo, phiền muộn. Ngài nói với tôi bằng một giọng ngân nga trong trẻo mà
tôi chưa từng nghe thấy trên thế gian này bao giờ:
– Mukunda, Mẹ bao giờ cũng yêu thương con với một tình yêu thương không bao giờ khô cạn.
Bất chợt, tôi cảm thấy một niềm hân hoan không sao tả hết. Khi ấy, tôi
tự hỏi mình: Đức Quán Thế Âm hay mẹ tôi đang nói? Và trong vùng hào
quang linh diệu, đầu óc tôi bỗng dưng sáng suốt đến lạ thường, tôi thấy
lóe lên trong đầu câu trả lời mà từ xưa nay tôi chưa hề nghĩ đến: “Tại
sao mình phải để tâm phân biệt như thế? Mẹ là Quán Âm, Quán Âm là Mẹ, cả
hai đều là biểu tượng của tình yêu thương không bờ bến. Chẳng phải ngài
vừa xác nhận điều đó qua lời nói đó hay sao?” Và tôi thấy lòng thanh
thản hơn bao giờ hết khi những gút mắt nội tâm cuối cùng đã được tháo
tung bằng một cách vô cùng đơn giản. Vầng sáng quanh tôi đang từ từ tan
biến sau khi linh ảnh của đức Quán Thế Âm không còn nữa. Tôi ngồi lặng
rất lâu sau đó trong tư thế tọa thiền, không muốn đánh mất đi niềm phúc
lạc vô biên vừa đạt được.
Hôm sau, tôi tìm đến tôn sư Mahsaya để tạ ơn ngài. Nhưng ngài tránh không cho tôi lễ lạy và nói:
– Phật tánh trong con vẫn thường tồn. Nếu con biết tìm lại được tánh Phật ấy thì không cần phải lễ lạy ta.
Và ngài nói tiếp khi thấy tôi có vẻ còn hoang mang chưa hiểu:
– Ta không phải là thầy của con. Vị ấy sẽ xuất hiện trong tương lai vào
một thời điểm thích hợp và dẫn dắt con trên đường học đạo.
Lời tiên tri của ngài về sau tất nhiên sẽ trở thành sự thật. Nhưng trước
khi điều ấy xảy ra, tôi vẫn còn học hỏi được rất nhiều qua những lần
tiếp xúc với ngài.
Tôi thường đến thăm ngài vào những buổi chiều khi thuận tiện. Một hôm, tôi mang đến một vòng hoa tươi và nói:
– Bạch thầy, đây là vòng hoa do tự tay con chọn lựa và kết thành. Con muốn dâng lên thầy để tỏ lòng tôn kính.
Nhưng tôn sư khéo léo từ chối và nói:
– Con hãy dành những sự tôn kính này để dâng lên Phật mẫu. Như vậy, cả
ta và con đều đến dưới chân người và sẽ càng gần gũi nhau hơn.
Hôm ấy, tôn sư đề nghị tôi cùng đến viếng đền Dakshineswar và tôi nhận lời.
Hôm sau, chúng tôi xuống tàu vào buổi sáng để đi khoảng 4 dặm trên sông
Hằng. Đền thờ đức Quán Thế Âm được xây dựng rất lớn với kiến trúc có tám
mái tròn nhô lên cao vút. Tượng đức Quán Thế Âm được đặt trên một tòa
sen khổng lồ đúc bằng bạc với một ngàn cánh hoa, chạm trổ công phu và
được đánh bóng sáng rực. Tôn sư Mahsaya chiêm ngưỡng và lễ bái tượng đức
Quán Thế Âm với tấm lòng sùng kính vô biên. Và khi ngài xưng tụng danh
hiệu đức Quán Thế Âm, sự sùng kính của ngài như lan tỏa khắp chung quanh
và chính tôi cũng thấy dâng lên một niềm tin tưởng vô biên không tả
được. Trong chuyến hành hương này, tôn sư cũng giảng cho tôi nghe về
hạnh nguyện của đức Quán Thế Âm và vì sao người ta hoàn toàn có thể đạt
được sự cảm ứng với ngài:
– Điều rất lạ lùng là mọi người ai cũng muốn thấy được sự linh ứng,
nhưng tự thân họ lại có quá ít niềm tin và luôn sống trong sự nghi ngờ.
Tôi hoàn toàn có thể hiểu được nhận xét thực tiễn này của tôn sư.
Một thời gian sau khi tiếp xúc với tôn sư Mahsaya, tôi mới biết ngài còn
có nhiều khả năng kỳ diệu khác mà ngài thể hiện rất tự nhiên như việc
hít thở khí trời.
Một hôm, ngài Mahsaya đưa tôi đến lớp học. Trên đường, chúng tôi gặp một
người quen cũ và anh này làm tôi phải nản lòng với chuyến đi chơi, vì
anh ta bám lấy chúng tôi bằng một câu chuyện dài nhằng nhịt không sao
dứt được. Ngài kề tai tôi nói nhỏ:
– Ta biết con không mấy thích câu chuyện vô vị này. Nhưng con đừng lo,
khi chúng ta đi đến ngôi nhà ngói đỏ đằng kia, anh ta sẽ bỗng dưng nhớ
ra một chuyện cần kíp, và vội vã đi khuất mắt chúng ta ngay thôi.
Tôi nghe ông nói và lấy làm ngạc nhiên pha lẫn chút hoài nghi. Chẳng mấy
chốc, chúng tôi đã đến chỗ ngôi nhà ngói đỏ. Anh chàng huyênh hoang
ngay khi ấy bỗng dưng đứng sựng lại như chợt nhớ ra điều gì. Nhìn bộ
dạng hốt hoảng của anh ta thật tức cười. Và anh ta hối hả đi ngay thậm
chí quên chào từ biệt hoặc cho chúng tôi biết lý do của sự chia tay đột
ngột ấy.
Tôi chuyển từ tâm trạng ngạc nhiên sang kinh ngạc dị thường, pha lẫn với
niềm vui thoải mái vì không còn bị quấy rối bởi một gã lắm chuyện không
đâu. Khi ấy, tôi hiểu là tôn sư Mahsaya chẳng những có khả năng đọc
thấu lòng người, mà ngài còn nhìn thấy trước được những chuyện sắp đến
nữa. Và câu chuyện xảy ra tiếp theo đây chứng minh cho ý nghĩ ấy của tôi
về ngài.
Tôn sư vỗ vai tôi thân mật và hỏi:
– Con thích xem chiếu bóng không?
Vào thời đó ở Ấn Độ, việc được đi xem một buổi chiếu bóng là khá hấp
dẫn, nhất là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhưng tôi không giống
như những thanh niên bình thường khác, nên không thấy lôi cuốn mấy với
những thú vui loại này. Tuy nhiên, tôi không muốn làm phật lòng tôn sư.
Vả lại, dù đi đâu mà được ở bên người thì tôi cũng đều thấy vui. Vì thế,
tôi vui vẻ gật đầu tán thành. Chúng tôi ghé lại gần bờ một hồ nước
trước sân trường đại học Calcutta để ngồi nghỉ chân chốc lát trên một
chiếc ghế đá. Tôn sư nói:
– Thầy ta ngày trước thường khuyên ta ngồi thiền gần những nơi có mặt ao
hồ phẳng lặng, yên tĩnh. Khung cảnh như thế này thường dễ làm cho chúng
ta đạt đến một tâm thức an bình, tĩnh lặng.
Lát sau, chúng tôi đi vào giảng đường của trường đại học. Người ta đang
có một buổi chiếu bóng thuyết trình về một đề tài khoa học. Chúng tôi
tìm một chỗ thích hợp và ngồi xem.
Tôi không mấy hứng thú với vấn đề đang trình bày, và cảm thấy hết sức
nhạt nhẽo, vô vị với những hình ảnh được trình chiếu. Chỉ một lúc, tôn
sư Mahsaya quay sang tôi nói nhỏ:
– Này con, tuy rằng ta biết con không thích buổi chiếu bóng này, nhưng
chúng ta cũng không nên ngang nhiên bỏ đi ra, vì như thế sẽ ảnh hưởng
đến những người khác. Con hãy chuẩn bị, điện sắp bị mất trong giây lát,
chúng ta hãy nhân đó mà đi ra ngay. Khi chúng ta ra đến hành lang, hệ
thống điện sẽ hoạt động trở lại.
Ngay khi đó, đột nhiên tất cả chìm vào bóng tối. Có những tiếng la hốt
hoảng trên khán đài vì bất ngờ. Chúng tôi nhanh chóng dắt tay nhau đi ra
hành lang. Quả nhiên, khi chúng tôi đã đều bước trên hành lang phía bên
ngoài, đèn điện liền vụt sáng trở lại khắp nơi.
Khi chúng tôi ra đến ngoài đường phố, ngài Mahsaya nói với tôi:
– Ta biết con không thích buổi chiếu bóng vừa rồi của người thế tục. Bây
giờ ta sẽ cho con xem một buổi chiếu bóng khác, hy vọng sẽ làm con
thích.
Nói xong, ngài đến gần và đưa tay áp nhẹ lên ngực tôi, gần vị trí của trái tim.
Đột nhiên, tôi không còn nghe thấy bất cứ một âm thanh nào nữa cả.
Đường phố nhộn nhịp, xe cộ qua lại, tất cả diễn ra trước mắt tôi hệt như
trong một bộ phim câm. Hơn thế nữa, tầm mắt tôi tự dưng như mở rộng một
cách kỳ diệu. Tôi nhìn gần, nhìn xa, nhìn thấy cả phía sau lưng mình,
nghĩa là khắp mọi nơi. Bất cứ tôi chú ý đến điểm nào, nơi ấy liền hiện
rõ trước mắt tôi như trong gang tấc. Tầm mắt tôi không bị che khuất,
cũng không còn bị trở ngại vì khoảng cách gần xa. Tôi thử nảy ra ý muốn
nhìn ra xa, liền thấy rõ cả những khu phụ cận của thành phố cũng rõ ràng
như đang ở ngay trước mắt mình.
Cảm giác kỳ diệu này làm cho tôi cảm thấy say sưa, ngây ngất trong một
niềm vui sướng lạ lùng. Tôi cảm thấy toàn thân mình nhẹ nhàng, thư thái
như không còn bị trói buộc bởi xác thịt phàm tục này. Tôi có cảm tưởng
mình dễ dàng bay vút lên tận các vì tinh tú mà không có một trở ngại
nào. Trạng thái khó tả này kéo dài với tôi trong một lúc, cho đến khi
tôn sư Mahsaya đưa tay vỗ nhẹ vào ngực tôi lần nữa...
Tất cả trở lại bình thường. Tôi lại nghe thấy tiếng người cười nói xôn
xao đi lại... Và trong một lúc, tôi có cảm giác thân xác mình nặng nề
gấp trăm ngàn lần trước đây, đến nỗi tôi không muốn nhấc chân lên để đi
theo thầy nữa. Tôi biết cảm giác ấy là vì tôi vừa bước ra khỏi trạng
thái xuất thần kỳ diệu kia một cách quá đột ngột. Tôi thầm cảm ơn tôn sư
đã cho tôi được nếm trải một kinh nghiệm tâm linh mà tôi biết sẽ còn
rất lâu tôi mới có thể tự mình đạt đến.
– Ta hy vọng là con thích buổi chiếu bóng vừa rồi.
Tôn sư nói với một nụ cười rộng mở trên môi người. Tôi xúc động đến phát
khóc lên được. Tôi đã muốn quỳ xuống lạy tạ ơn người ngay trên đường
phố, nhưng người đã kịp giữ tôi lại bằng một thái độ dứt khoát:
– Con không nên làm vậy. Ta chỉ làm thế vì con xứng đáng được nhìn thấy
trước một vài kinh nghiệm tâm linh như thế. Về sau con sẽ tự mình chứng
nghiệm những điều còn cao siêu kỳ diệu hơn thế nữa.
Những lời dạy của ngài tôi còn ghi khắc mãi trong suốt cuộc hành trình
tu tập của mình. Và phép mầu kỳ diệu ngài đã ban cho tôi lần ấy đã có
giá trị động viên rất lớn đối với tôi, giúp tôi vượt qua rất nhiều những
khó khăn, trở ngại về sau. Hơn tất cả, ngài đã giúp tôi củng cố một
niềm tin không gì lay chuyển nổi đối với lòng từ bi vô lượng vô biên của
đức Quán Thế Âm, một chỗ dựa vững chắc giúp tôi có thể an nhiên tự tại
ngay trong cả những hoàn cảnh đầy bất trắc.
Nhiều năm về sau, tôi được chứng kiến nhiều phép mầu kỳ diệu của các bậc
tôn sư, và tôi hiểu ra một điều là đức tin sâu vững của con người có
giá trị vượt xa những năng lực tri thức. Những gì người ta phải cố gắng
nhiều thế kỷ để đạt đến bằng tri thức, bằng khoa học, thì về phương diện
tâm linh đôi khi có thể đạt đến chỉ trong một thời gian rất ngắn. Hơn
thế nữa, tôi còn biết được rằng hạnh phúc chân thật và sự tồn tại của
nhân loại không phải nhờ vào những tiến bộ khoa học kỹ thuật tối tân của
một nền văn minh vật chất, mà là nhờ vào những thành tựu về mặt tâm
linh mà các bậc thánh nhân đã đạt được và truyền lại.