I. MỞ ĐỀ:
Thiền tông có một lối chỉ dạy quá độc đáo, khiến độc giả đọc sách thiền phải ngơ ngác, không tìm ra manh mối nghĩ suy, như người vớ tay vào tấm vách sắt không có chỗ để bám. Thật tình chủ yếu Thiền tông không muốn người học mắc kẹt vào ngôn ngữ bên ngoài, cũng không rơi vào tâm suy lự bên trong. Thiền sư chỉ thẳng, người học phải trực giác trực nhận, vừa mắc kẹt ngôn ngữ đã cách xa ngàn dặm, rơi vào suy tư đã cách xa bằng mấy năm ánh sáng. Phút giây tham vấn giữa Thiền khách với Thiền sư là phút xổ cờ khai trận. Sự đối đáp phải nhanh như điện chớp lửa nháng, vừa trầm ngâm suy tư là ăn đòn đuổi ra. Cho nên trong khi đối đáp như thế, nhận được liền nhận, không nhận được thì về không, chớ không có thái độ lưng chừng, nửa hiểu nửa không. Mọi hành động, ngôn ngữ của Thiền sư chỉ dạy đều nhằm chỉ thẳng bản tâm của chúng ta. Không quay về mình tự nhận, chạy theo ngôn ngữ các Ngài là bị các Ngài lừa. Bản tâm là cái sẵn có nơi chúng ta, bởi do vọng chấp nên quên mất nó. Hiệu dụng của Thiền sư là phá chấp, cốt khiến chúng ta nhận ra bản tâm của chính mình. Vì thế, Thiền sư thường nói "Ta không có một pháp cho người, chỉ tháo chốt nhổ đinh cho họ thôi". Chúng ta mang quan niệm cầu pháp học đạo đến với các Ngài, rốt cuộc ôm lấy một mối thất vọng lớn lao. Chúng ta cần phải có quan niệm chính xác hơn, "Học thiền là học tâm", ngoài tâm không có thiền nào để học. Thế mới khỏi kinh ngạc khi nghe lời tuyên bố dưới đây của Tổ Bồ-đề-đạt-ma.
II. CHỦ ĐÍCH THIỀN TÔNG
Khi sang Trung Quốc, Tổ Bồ-đề-đạt-ma dõng dạc tuyên bố về pháp thiền này rằng: Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, đã nêu rõ chủ đích của Thiền tông.
Văn tự kinh điển là Giáo tích chưa phải Giáo thể. Giáo tích là dấu chân của giáo pháp, Giáo thể là nguyên hình của giáo pháp. Ví như người tìm voi thấy được dấu chân voi, tuy biết được hướng đi của nó, song chưa thấy nguyên hình của nó. Nếu người tìm voi chỉ biết nghiên cứu dấu chân voi rồi hài lòng thỏa mãn nơi đó, thì ngàn đời cũng không thấy được con voi. Đây là bệnh của học giả thời đại xưa kia và hiện nay. Thiền tông không nỡ để cho chúng ta sa lầy nơi dấu chân voi, cốt dắt tay chỉ thẳng cho chúng ta thấy nguyên hình con voi. Do đó mới tuyên bố "Chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý". Nói "truyền ngoài" thật sự nào có ngoài. Nếu có pháp truyền ngoài kinh điển, đó là pháp ngoại đạo, đâu phải Phật giáo. Vì kinh điển là tấm bản đồ vẽ dấu chân và hướng đi của voi, nương đó người tìm voi tìm tận đến con voi là đạt được mục đích. Nếu người tìm voi nương bản đồ tìm thấy tận con voi, với người nhờ kẻ khác dắt tay chỉ thẳng con voi, cả hai đều đạt mục đích như nhau. Vì thế câu "Chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý" mang sẵn tính chất trị bệnh và đầy đủ tinh thần chỉ bày sự thật. Thiền tông cốt chỉ cho chúng ta thấy đạo qua mọi phương tiện, đừng mắc kẹt phương tiện mà quên đạo.
Chính vì thế, nên nói "Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật". Đạo không phải cái gì xa xôi huyền diệu, chính là tâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra tâm chân thật của chính mình, sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật. Tâm chân thật này cũng gọi là tánh giác hay Phật tánh. Thấy được tánh giác thì thành Phật không nghi, vì đã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả. Chỉ cho người nhận được bản tâm mình là chủ đích của Thiền tông. Thế nên, Mã Tổ sai Thiền sư Tự Tại hiệu Phục Ngưu mang thơ sang cho quốc sư Huệ Trung. Đến nơi, Quốc sư hỏi: "Gần đây Mã đại sư dạy đồ chúng thế nào?" Phục Ngưu thưa: "Tức tâm tức Phật." Quốc sư bảo: "Là ngữ thoại gì?" Giây lâu lại hỏi: "Ngoài cái đó lại còn gì dạy chúng?" Phục Ngưu thưa: "Phi tâm phi Phật; bất thị tâm, bất thị Phật, bất thị vật." Quốc sư bảo: "Vẫn còn so sánh chút ít." Phục Ngưu thưa: "Mã đại sư dạy thế ấy, chẳng biết dạo này Hòa thượng dạy chúng thế nào?" Quốc sư bảo: "Ba điểm như dòng nước, uốn cong tợ chiếc liềm." (Tam điểm như lưu thủy, khúc tợ ngãi hòa liêm) Thế thì Mã Tổ dạy chúng cốt nhận ra tâm mình là Phật, Quốc sư Huệ Trung dạy chúng cũng tại một chữ tâm. Chỗ dạy của hai Ngài đều nằm gọn trong câu "Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật".
Những sắc thái giáo ngoại biệt truyền ứng dụng đầy đủ qua sự đối đáp của các Thiền sư, được đơn cử dưới đây:
Thiền sư Vô Nghiệp đến tham vấn Mã Tổ, Sư lễ bái quỳ thưa:"Về kinh điển con hiểu biết đơn sơ, thường nghe thiền môn ‘Tức tâm là Phật’ thật chưa hiểu thấu?" Mã Tổ đáp: "Chỉ cái tâm chưa hiểu đó là phải, lại không có vật khác." Sư hỏi: "Thế nào là mật truyền tâm ấn của Tổ sư từ Ấn Độ sang?" Mã Tổ bảo: "Đại đức đang ồn, hãy đi! Khi khác lại." Sư vừa đi ra, Mã Tổ gọi: "Đại đức!" Sư xoay đầu lại. Mã Tổ bảo: "Là cái gì?" Sư liền lãnh hội.
Thiền sư Linh Mặc đến tham vấn Thạch Đầu, tự ước hẹn: "Nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp liền đi." Khi thưa hỏi vẫn không khế hợp, Sư bèn ra đi. Thạch Đầu theo sau đến cửa ngoài, liền gọi: "Xà lê!" Sư xoay đầu lại. Thạch Đầu bảo: "Từ sanh đến tử chỉ là cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?" Sư liền đại ngộ.
Qui Sơn dạy chúng: "Bậc cao sĩ đi hành cước cần phải ở trong thanh sắc mà ngủ nghỉ, trong thanh sắc mà nằm ngồi mới được." Sơ Sơn bước ra hỏi: "Thế nào là câu chẳng rơi trong thanh sắc?" Qui Sơn dựng cây phất tử lên. Sơ Sơn thưa: "Đây là câu rơi trong thanh sắc." Qui Sơn trở về phương trượng.
Thiền sư Huệ Tịch đến tham vấn Nham Đầu. Nham Đầu thấy liền dựng cây phất tử lên. Sư trải tọa cụ. Nham Đầu đưa phất tử lại sau lưng. Sư vắt tọa cụ lên vai đi ra. Nham Đầu bảo: "Ta chẳng nhận ông buông, chỉ nhận ông thâu."
Thiền sư Huệ Tịch về thăm thầy là Qui Sơn Linh Hựu. Qui Sơn hỏi: "Con đã xưng là thiện tri thức, có biện được những người các nơi đến: biết có hay chẳng biết có, đã kế thừa thầy hay không kế thừa thầy, nghĩa học hay huyền học, thử nói xem!" Sư thưa: "Con có kinh nghiệm, khi thấy tăng các nơi đến, liền dựng cây phất tử dậy, hỏi y ‘Các nơi có nói cái này hay chẳng nói?’ Lại hỏi ‘Ý Lão túc các nơi thế nào?’". Qui Sơn khen: "Đây là nanh vuốt trong tông môn từ trước."
Qui Sơn lại hỏi: "Chúng sanh trên quả đất nghiệp thức mênh mang, không gốc có thể tựa, con làm sao biết họ co?cùng chẳng có?" Sư thưa: "Con có chỗ kinh nghiệm". Bỗng có vị tăng đi ngang qua, Sư gọi: "Xà lê!" Vị tăng xoay đầu lại. Sư thưa: "Bạch Hoà thượng, kẻ này là nghiệp thức mênh mang, không gốc có thể tựa." Qui Sơn khen: "Đây là một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa."
Có người đến hỏi đạo, liền dựng cây phất tử lên, hoặc đưa một vật gì khác lên cũng thế, đều là "Nanh vuốt trong tông môn từ trước". Đó là hình ảnh "Đức Phật đưa cành hoa sen lên, Tổ Ca-diếp cười chúm chím" trong hội Linh Sơn. Thuật kêu liền dạ, quả là "Một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa". Chính là chỗ Tổ A-nan hỏi Tổ Ca-diếp: "Ngoài chiếc y kim lan, Thế Tôn còn truyền cái gì cho sư huynh?" Tổ Ca-diếp gọi: "A-nan!" A-nan: "Dạ!" Tổ Ca-diếp bảo: "Cây phướn trước chùa ngã." Ngài liền ngộ đạo.
Hai diệu thuật này thường được ứng dụng nhiều nhất trong Thiền môn. Nó là hình ảnh linh động và cổ truyền nhất, cũng là hiện thân của "Giáo ngoại biệt truyền". Trong đây không tìm ra được câu nào có tính cách đạo lý hết. Những người quen sống với nghĩa giải, không sao chấp nhận được. Song với bậc xuất cách, nhân đây liền ngộ đạo. Vì thế, người ta nhìn vào Thiền tông dường như có cái gì bí mật lạ lùng không thể nào hiểu nổi.
II. CHỦ ĐÍCH
THIỀN TÔNG
Khi sang Trung Quốc, Tổ Bồ-đề-đạt-ma dõng
dạc tuyên bố về pháp thiền này rằng: Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt
truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, đã nêu rõ chủ đích của
Thiền tông.
Văn tự kinh điển là Giáo tích chưa phải
Giáo thể. Giáo tích là dấu chân của giáo pháp, Giáo thể là nguyên hình của
giáo pháp. Ví như người tìm voi thấy được dấu chân voi, tuy biết được
hướng đi của nó, song chưa thấy nguyên hình của nó. Nếu người tìm voi chỉ
biết nghiên cứu dấu chân voi rồi hài lòng thỏa mãn nơi đó, thì ngàn đời
cũng không thấy được con voi. Đây là bệnh của học giả thời đại xưa kia và
hiện nay. Thiền tông không nỡ để cho chúng ta sa lầy nơi dấu chân voi, cốt
dắt tay chỉ thẳng cho chúng ta thấy nguyên hình con voi. Do đó mới tuyên
bố "Chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý". Nói "truyền ngoài" thật sự
nào có ngoài. Nếu có pháp truyền ngoài kinh điển, đó là pháp ngoại đạo,
đâu phải Phật giáo. Vì kinh điển là tấm bản đồ vẽ dấu chân và hướng đi của
voi, nương đó người tìm voi tìm tận đến con voi là đạt được mục đích. Nếu
người tìm voi nương bản đồ tìm thấy tận con voi, với người nhờ kẻ khác dắt
tay chỉ thẳng con voi, cả hai đều đạt mục đích như nhau. Vì thế câu "Chẳng
lập văn tự, truyền ngoài giáo lý" mang sẵn tính chất trị bệnh và đầy đủ
tinh thần chỉ bày sự thật. Thiền tông cốt chỉ cho chúng ta thấy đạo qua
mọi phương tiện, đừng mắc kẹt phương tiện mà quên đạo.
Chính vì thế, nên nói "Chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật". Đạo không phải cái gì xa xôi huyền diệu,
chính là tâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra tâm chân thật của chính
mình, sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật. Tâm chân thật này
cũng gọi là tánh giác hay Phật tánh. Thấy được tánh giác thì thành Phật
không nghi, vì đã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả. Chỉ cho người
nhận được bản tâm mình là chủ đích của Thiền tông. Thế nên, Mã Tổ sai
Thiền sư Tự Tại hiệu Phục Ngưu mang thơ sang cho quốc sư Huệ Trung. Đến
nơi, Quốc sư hỏi: "Gần đây Mã đại sư dạy đồ chúng thế nào?" Phục Ngưu
thưa: "Tức tâm tức Phật." Quốc sư bảo: "Là ngữ thoại gì?" Giây lâu lại
hỏi: "Ngoài cái đó lại còn gì dạy chúng?" Phục Ngưu thưa: "Phi tâm phi
Phật; bất thị tâm, bất thị Phật, bất thị vật." Quốc sư bảo: "Vẫn còn so
sánh chút ít." Phục Ngưu thưa: "Mã đại sư dạy thế ấy, chẳng biết dạo này
Hòa thượng dạy chúng thế nào?" Quốc sư bảo: "Ba điểm như dòng nước, uốn
cong tợ chiếc liềm." (Tam điểm như lưu thủy, khúc tợ ngãi hòa liêm) Thế
thì Mã Tổ dạy chúng cốt nhận ra tâm mình là Phật, Quốc sư Huệ Trung dạy
chúng cũng tại một chữ tâm. Chỗ dạy của hai Ngài đều nằm gọn trong câu
"Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật".
Những sắc thái giáo ngoại biệt truyền ứng
dụng đầy đủ qua sự đối đáp của các Thiền sư, được đơn cử dưới đây:
Thiền sư Vô Nghiệp đến tham vấn Mã Tổ, Sư
lễ bái quỳ thưa:"Về kinh điển con hiểu biết đơn sơ, thường nghe thiền môn
‘Tức tâm là Phật’ thật chưa hiểu thấu?" Mã Tổ đáp: "Chỉ cái tâm chưa hiểu
đó là phải, lại không có vật khác." Sư hỏi: "Thế nào là mật truyền tâm ấn
của Tổ sư từ Ấn Độ sang?" Mã Tổ bảo: "Đại đức đang ồn, hãy đi! Khi khác
lại." Sư vừa đi ra, Mã Tổ gọi: "Đại đức!" Sư xoay đầu lại. Mã Tổ bảo: "Là
cái gì?" Sư liền lãnh hội.
Thiền sư Linh Mặc đến tham vấn Thạch Đầu,
tự ước hẹn: "Nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp liền đi." Khi thưa hỏi
vẫn không khế hợp, Sư bèn ra đi. Thạch Đầu theo sau đến cửa ngoài, liền
gọi: "Xà lê!" Sư xoay đầu lại. Thạch Đầu bảo: "Từ sanh đến tử chỉ là cái
ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?" Sư liền đại ngộ.
Qui Sơn dạy chúng: "Bậc cao sĩ đi hành
cước cần phải ở trong thanh sắc mà ngủ nghỉ, trong thanh sắc mà nằm ngồi
mới được." Sơ Sơn bước ra hỏi: "Thế nào là câu chẳng rơi trong thanh sắc?"
Qui Sơn dựng cây phất tử lên. Sơ Sơn thưa: "Đây là câu rơi trong thanh
sắc." Qui Sơn trở về phương trượng.
Thiền sư Huệ Tịch đến tham vấn Nham Đầu.
Nham Đầu thấy liền dựng cây phất tử lên. Sư trải tọa cụ. Nham Đầu đưa phất
tử lại sau lưng. Sư vắt tọa cụ lên vai đi ra. Nham Đầu bảo: "Ta chẳng nhận
ông buông, chỉ nhận ông thâu."
Thiền sư Huệ Tịch về thăm thầy là Qui Sơn
Linh Hựu. Qui Sơn hỏi: "Con đã xưng là thiện tri thức, có biện được những
người các nơi đến: biết có hay chẳng biết có, đã kế thừa thầy hay không kế
thừa thầy, nghĩa học hay huyền học, thử nói xem!" Sư thưa: "Con có kinh
nghiệm, khi thấy tăng các nơi đến, liền dựng cây phất tử dậy, hỏi y ‘Các
nơi có nói cái này hay chẳng nói?’ Lại hỏi ‘Ý Lão túc các nơi thế nào?’".
Qui Sơn khen: "Đây là nanh vuốt trong tông môn từ trước."
Qui Sơn lại hỏi: "Chúng sanh trên quả đất
nghiệp thức mênh mang, không gốc có thể tựa, con làm sao biết họ co?cùng
chẳng có?" Sư thưa: "Con có chỗ kinh nghiệm". Bỗng có vị tăng đi ngang
qua, Sư gọi: "Xà lê!" Vị tăng xoay đầu lại. Sư thưa: "Bạch Hoà thượng, kẻ
này là nghiệp thức mênh mang, không gốc có thể tựa." Qui Sơn khen: "Đây là
một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa."
Có người đến hỏi đạo, liền dựng cây phất
tử lên, hoặc đưa một vật gì khác lên cũng thế, đều là "Nanh vuốt trong
tông môn từ trước". Đó là hình ảnh "Đức Phật đưa cành hoa sen lên, Tổ
Ca-diếp cười chúm chím" trong hội Linh Sơn. Thuật kêu liền dạ, quả là "Một
giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa". Chính là chỗ Tổ A-nan hỏi Tổ
Ca-diếp: "Ngoài chiếc y kim lan, Thế Tôn còn truyền cái gì cho sư huynh?"
Tổ Ca-diếp gọi: "A-nan!" A-nan: "Dạ!" Tổ Ca-diếp bảo: "Cây phướn trước
chùa ngã." Ngài liền ngộ đạo.
Hai diệu thuật này thường được ứng dụng
nhiều nhất trong Thiền môn. Nó là hình ảnh linh động và cổ truyền nhất,
cũng là hiện thân của "Giáo ngoại biệt truyền". Trong đây không tìm ra
được câu nào có tính cách đạo lý hết. Những người quen sống với nghĩa
giải, không sao chấp nhận được. Song với bậc xuất cách, nhân đây liền ngộ
đạo. Vì thế, người ta nhìn vào Thiền tông dường như có cái gì bí mật lạ
lùng không thể nào hiểu nổi.
III. YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
HAY CỐT TỦY KINH ĐIỂN.
Những câu nói bí hiểm, những hành động thần tốc của Thiền sư đều vì chỉ
một việc rất khó chỉ, nói một việc rất khó nói. Trong cái bất thần khó
khăn ấy, người học nhận được là ngộ đạo. Thiền khách đến tham vấn với
Thiền sư có ngôn ngữ hành động kỳ đặc, gọi là tham "hoạt ngữ" (lời nói
sống). Ngược lại, những Thiền sư nói ra có ý thú còn suy nghĩ được, gọi là
"tử ngữ" (lời nói chết). Cho nên Thiền sư Đức Thành (Hoa Đình Thuyền Tử)
nói "Câu nói hợp đầu ngữ, muôn kiếp cọc cột lừa". Một câu nói ra có ý vị,
có nghĩa lý là cây cọc cột chặt con lừa muôn kiếp. Chính những kinh điển
Đại thừa cũng thế, người đọc thấy như những "mật ngữ", những hình ảnh
huyền hoặc gì đâu đâu, thiếu sự dễ dàng thực tế. Song với hạng căn cơ bén
nhạy đọc đến liền thấy đạo lý siêu thoát, chân lý hiện tiền. Như có thiền
khách đến hỏi: "Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?" Triệu Châu đáp: "Cây bá
ở trước sân." Thiền khách hỏi Động Sơn Thủ Sơ: "Thế nào là Phật?" Đáp: "Ba
cân gai." Những câu đáp này là "hoạt ngữ". Trong kinh Đại thừa cũng có vô
số lối đáp khó khăn chẳng kém. Kinh Kim Cang, ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: "Kẻ
thiện nam thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm sao an
trụ, làm sao hàng phục tâm ấy?" Phật bảo Tu-bồ-đề: "Các vị đại Bồ-tát nên
như thế hàng phục tâm ấy, có tất cả loài chúng sanh, hoặc noãn sanh, hoặc
thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc có sắc, hoặc không sắc,
hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng, hoặc chẳng không
tưởng, ta đều khiến vào Vô Dư Niết-bàn mà diệt độ; như thế diệt độ vô
lượng vô số vô biên chúng sanh, thật không có chúng sanh được diệt độ."
Qua câu đáp này, thử hỏi chúng ta biết làm sao hàng phục được tâm? Kinh
Pháp Hoa trong phẩm Như Lai Thọ Lượng có đoạn nói: ".Thiện nam tử! Thật ta
thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.
Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi Ta-bà này giáo hóa, cũng ở trong trăm ngàn
muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng sanh."
Chúng ta còn ai không biết đức Phật Thích-ca giáng sanh ở Ấn Độ, thọ tám
mươi tuổi nhập Niết-bàn. Thế mà kinh nói như vậy làm sao tin được. Do lối
nói bí hiểm này khiến kinh điển Đại thừa trở thành huyền hoặc mê tín.
Nay giải thích về Yếu Chỉ Thiền Tông thật là một điều khó khăn vô kể, vì
chỗ không được giải thích mà đem ra giải thích. Nếu chúng tôi không giải
thích toạc ra thì độc giả cũng thấy khó khăn như các quyển sách thiền xưa.
Bằng giải thích trắng ra, chúng tôi mắc phải cái lỗi "tử ngữ", đã cột độc
giả vào chỗ ý tứ so lường. Song với thời đại lý giải này, không cho phép
chúng tôi làm theo người xưa, mà buộc lòng phải giải thích. Nói yếu chỉ
Thiền tông là "Kiến tánh khởi tu".
A. KIẾN TÁNH
Trong bài tụng Vô tướng của Lục Tổ, mở đầu đã nói: "Thuyết thông và tâm
thông, như mặt nhật trong không; chỉ truyền pháp kiến tánh, ra đời phá tà
tông." Chữ kiến tánh có nghĩa là ngộ đạo hay giác ngộ. Song ngộ đạo có
chia giải ngộ và chứng ngộ, giác ngộ có chia phần giác và toàn giác. Chữ
kiến tánh này tương ưng với nghĩa giải ngộ và phần giác. Cho nên người
kiến tánh chỉ gọi là Thiện tri thức hay là Tổ.
Song chữ Kiến Tánh dễ khiến người ta hiểu lầm. Bởi mọi người cứ đinh ninh
rằng kiến là thấy bằng mắt. Phàm cái gì mắt thấy được đều là đối tượng
ngoài mắt, có hình có tướng. Nếu tánh giác của chính mình mà mắt mình thấy
được thì không phải của mình nữa, vì đã thuộc về đối tượng. Hơn nữa, mắt
chỉ thấy cái có hình tướng, tánh giác không hình tướng làm sao mắt thấy
được? Chẳng những thấy mà khởi hiểu tánh mình cũng không được. Vì tánh
giác là cái năng tri, nếu bị hiểu thì đã biến thành sở tri. Thế nên các
Thiền sư, khi bị hỏi đến đó, liền nói "Ta không hiểu", hoặc Thiền khách
khi trả lời chẳng hiểu, các Ngài bảo "Không hiểu là tốt". Vừa dấy niệm tìm
thấy tánh thì đã cách xa, nên nói tìm thì không gặp. Muốn đến nó thì không
thể đến, nên nói "Thú hướng chân như tổng thị tà". Chỉ phải thầm hội, khéo
nhận ra mà thôi. Ví như con mắt chỉ thấy được cảnh, mà không thấy được con
mắt. Muốn biết mình có mắt sáng thì khéo nhận khi trông thấy cảnh. Nhân
cảnh biết mình có mắt sáng, như nói "kiến sắc minh tâm". Người học đạo mà
không kiến tánh là kẻ ở ngoài cổng. Người tu theo Phật mà không được phần
giác là kẻ đứng trong đêm đen. Kẻ ở cổng ngoài, đứng trong đêm đen thì làm
sao thưởng thức được mùi vị của đạo, nếu có cố gắng tu cũng chỉ tu trong
mờ mịt mê tối. Vì thế, Thiền tông chủ trương "Kiến tánh khởi tu". Do đó
thuở xưa, các Thiền giả phải đi hành cước tham vấn trải một hai mươi năm,
bao giờ ngộ đạo mới trụ. Thấy đạo rồi, tu hành dụng công ít mà kết quả
nhiều. Ngược lại, người chưa thấy đạo tuy dụng công nhiều mà kết quả ít.
Chính vì thế, sự tu hành có chia ra đốn (nhanh) tiệm (thứ lớp) khác nhau.
Nói đến kiến tánh là nói đến giác ngộ, có giác ngộ là đối với vô minh.
Muốn thông suốt chỗ giác ngộ, trước phải hiểu tường tận gốc vô minh.
1. VÔ MINH:
Vô minh là mờ tối, là mê lầm, có chia ba bậc:
a.Vô minh thượng:
Ngu si chấp ngã.
Trong tam độc thông thường nói tham, sân, si. Cần đặt đúng vị trí của nó,
phải nói si, tham, sân. Si là si mê u tối, ngay nơi thân này do si mê ngu
tối chúng ta chấp chặt một cách sai lầm. Chấp sai lầm có hai lớp, chấp
thân làm ngã (mình), chấp tâm làm ngã (mình).
Chấp thân này làm ngã là bệnh thông thường của phàm phu. Tất cả người thế
gian không ai chẳng chấp thân này là ngã. Bởi chấp thân này làm ngã nên
thấy nó thật, nó lâu dài, nó cao cả quý báu, rồi đắm mê tham lam vì nó.
Thân của ta mà bị chê bai, bị xúc phạm liền nổi sân lên, mặc dù sự chê bai
xúc phạm ấy rất hợp lý và xác đáng. Ví như thân ta đen điu thấp xấu, có
người chê anh chàng "lùn xấu", liền nổi giận. Thân ta hôi hám bẩn thỉu,
nếu có người nói anh chàng "nhớp nhúa" liền nộ khí xung thiên. Ngược lại,
thân ta xấu mà có ai khen là "đẹp trai" liền vui vẻ tươi cười. Thân ta
nhớp mà có người khen là "sạch sẽ" liền thích thú. Nơi thân này càng được
khen, chúng ta càng tham chấp rồi sanh cống cao ngã mạn. Nơi thân này bị
chê, chúng ta sanh sân hận oán thù. Bởi do si mê chấp thân nên sanh tham
trước, tưởng nó chân thật, nó lâu dài, nó sang quý. Ngược với lòng tham,
liền nổi cơn sân hận thù hằn. Do si mê về thân, mọi sự thật chung quanh
thân không bao giờ chúng ta thừa nhận. Đã quý thân ta thì quý luôn những
vật sở hữu của ta. Thế nên những nhu cầu về vật chất của bản thân, chúng
ta lúc nào cũng muốn thỏa thuê sung túc. Đó là cái nhân khởi lòng tham về
vật chất. Vì tham vật chất, nên mọi người đua tranh giành giật khổ sở cả
đời. Được thì tham lại thêm tham, mất thì tham đổi ra thù hận. Do đó, tạo
nghiệp trả quả kiếp kiếp đời đời. Vì tham thân nên khi thân sắp hoại,
người ta sanh kinh hoàng sợ hãi. Nỗi lo sợ mất thân là sự khủng khiếp nhất
của con người. Vì thế, tiếng "chết" coi như một cấm kỵ không bao giờ dám
dùng đến. Đã sợ mất thân, khi thân này sắp mất, "cái niệm tìm thân" bùng
dậy mãnh liệt. Đó là cái nhân dẫn đến thân sau. Bởi si mê chấp thân nên
thân trước mất tìm đến thân sau, thân sau mất tìm thân sau nữa, cứ thế mãi
mãi sanh tử luân hồi bất tận.
Chấp tâm làm ngã cũng là bệnh thông thường của mọi người. Mọi sự phân biệt
suy tư nghĩ tưởng cảm thọ, cái nào cũng nhận làm ngã hết. Tôi phân biệt
thế này, tôi suy tư thế kia, tôi nghĩ tưởng thế nọ v.v. Thừa nhận những
cái ấy là tâm của chính mình. Chấp cái suy tư nghĩ tưởng. làm mình rồi,
lúc nào cũng cho nó là đúng, tận lực bảo vệ nó. Ai chấp nhận nó thì chúng
ta thương, ai phản đối nó thì chúng ta giận. Song cái suy tư nghĩ tưởng
của ta, không chắc đã trùng hợp với cái suy tư nghĩ tưởng của kẻ khác. Vì
mỗi chúng ta, môi trường sinh hoạt khác nhau, vọng tưởng do huân tập mà
có. Đã không trùng hợp mà mỗi bên đều cho là đúng thì sự tranh chấp đối
kháng không thể nào tránh được. Sự đối kháng của suy tư nghĩ tưởng. được
mệnh danh là ý thức hệ, tuy nhỏ nhiệm song mãnh liệt và khốc hại hơn đấu
tranh vật chất. Cố chấp bảo vệ ý niệm nghĩ tưởng của mình là bệnh chung
của nhân loại. Do đó, mọi người sống chung nhau mà ít ai chịu chấp nhận
nhau. Đã không chấp nhận nhau thì làm gì có tình thương chân thật đối với
nhau. Đây là mối đau khổ muôn kiếp của con người không sao giải tỏa nổi.
Từ cái si mê chấp suy tư nghĩ tưởng. làm mình, khởi lên cái tham lam bảo
thủ ý kiến mình, nổi sân chống đối mọi ý kiến khác, tạo nên mọi thù hằn
đau khổ cho nhau đời đời kiếp kiếp.
Tóm lại, cái si mê chấp thân làm ngã tạo thành thói xấu thích khen ghét
chê, tham sống sợ chết, tham mê ngũ dục gây nghiệp thọ khổ không cùng. Cái
si mê chấp tâm làm ngã gây nên bảo thủ ý kiến, tranh chấp đối kháng, làm
tan biến tình thương, đưa nhân loại đến chỗ thù hằn đối địch. Trong kinh
nói "Do Hoặc tạo Nghiệp, do Nghiệp thọ Khổ, quanh quẩn không cùng". Hoặc
tức là Vô minh thượng này vậy.
b. Vô minh trung:
Niệm khởi.
Trong tâm chúng ta bất thần dấy niệm là đã che mờ tánh giác nên gọi là vô
minh. Tổ Lâm Tế nói "Chỗ ông dừng một niệm là cây bồ-đề, ông một niệm
không thể dừng được là cây vô minh". Vô minh là mờ tối, bồ-đề là tánh
giác. Niệm dấy lên làm mờ tối tánh giác, nếu dấy mãi không dừng thì tánh
giác bị khuất lấp, nên nói "cây vô minh". Vọng niệm lặng yên thì tánh giác
bày hiện, vọng niệm càng lặng thì tánh giác càng tỏ, nên nói "cây bồ-đề".
Ví như cái gương sáng, vừa có hạt bụi bám vào là đã mờ đi một tí. Nếu bụi
cứ chồng chất bám vào thì ánh sáng mặt gương bị mờ tố? hẳn. Ngược lại, lau
đi một tí bụi thì ánh sáng hiện ra một phần, lau sạch tất cả bụi thì gương
hoàn toàn sáng. Cũng tương tự như thế, niệm khởi lên chúng ta liền theo
niệm mà quên tánh giác. Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật ví dụ
"Chàng Diễn-nhã-đạt-đa soi gương quên đầu" là ý này. Nếu thừa nhận đầu mặt
trong gương là mình, nhất định đã quên mất đầu mặt thật hiện hữu này.
Chúng ta thừa nhận niệm khởi là tâm mình, nhất định quên mất tâm chân thật
hiện hữu của chúng ta. Bởi nhận lầm như thế, nên gọi là vô minh. Cái vô
minh này tế nhị hơn vô minh ở trên, vì vừa dấy niệm đã là vô minh, không
đợi có suy tư nghĩ tưởng. mới là vô minh.
c. Vô minh hạ:
Mê tánh giác.
Mê là quên tánh giác, gọi là vô minh. Bởi quên tánh giác mới thừa nhận
vọng niệm là mình. Như có người đi đến nhà quen, mà quên hẳn ông chủ nhà,
nên thấy khách trong nhà nhận lầm là ông chủ. Khi đã nhận lầm khách làm
chủ rồi thì chủ và khách cả hai đều hỗn tạ?. Bởi quên đi mới có nhận lầm,
đã nhận lầm thì muôn ngàn thứ lầm khác tiếp nối phát sanh. Ví như chúng ta
vì quên đường mới đi lạc đường, đã đi lạc đường thì đi chừng nào càng lạc
xa chừng ấy. Cái khổ lang thang không tìm ra lối cũ trở về, gốc từ cái
quên ban đầu mà ra. Cái khổ luân hồi của chúng ta hiện giờ cũng vì quên
tánh giác tạo nên. Vì thế mê là cái vô minh căn bản, chính nó là chủ của
sanh tử luân hồi, là nguồn gốc của mọi cái sai lầm trên.
2. GIÁC NGỘ:
Giác ngộ là tên khác của trí tuệ Bát-nhã. Có trí tuệ mới biết chỗ sai lầm,
nhận ra điều chân thật. Trí tuệ là ngọn đuốc sáng soi phá vô minh tối tăm.
Song giác ngộ cũng có thứ bậc: giác ngộ hạ, giác ngộ trung và giác ngộ
thượng.
a.Giác ngộ hạ:
Giác ngộ hạ là vô ngã đối phá vô minh thượng. Do vô minh lầm chấp thân tâm
này làm ngã, rồi tạo nghiệp thọ khổ. Giờ đây, chúng ta dùng trí tuệ soi
xét xem thân tâm này có phải thật là ngã không?
Về thân, trước do tinh cha huyết mẹ kết hợp, cộng với thần thức chung họp
thành thai. Bào thai lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng bằng máu huyết và hơi ấm
của bà mẹ. Khi thân này ra khỏi thai mẹ, được hít thở khí trời, bú sữa mẹ,
từ từ biết ăn uống, dần dần lớn lên. Bản chất đầu tiên của thân này, do
hòa hợp tinh huyết và thần thức, tức là do duyên mà thành. Thân này lớn
lên là do hít thở ăn uống. mà tồn tại. Theo chỗ Phật dạy, thân này sống
còn là do tứ đại bên trong hợp lại và tứ đại bên ngoài nuôi dưỡng. Nếu có
tứ đại bên trong mà thiếu tứ đại bên ngoài cũng không sống, có tứ đại bên
ngoài mà thiếu tứ đại bên trong cũng không thành thân. Như vậy sự thành
hình và sống còn của thân này là do tứ đại trong ngoài chung nhau hòa hợp.
Đã chung nhau hòa hợp thì cái gì là chủ mà chúng ta chấp làm ngã? Hơn nữa,
sự sống còn hiện nay, chúng ta từng phút giây vay mượn tứ đại bên ngoài;
một phút giây không vay mượn là đã tử vong. Song chúng ta lại mê lầm, khi
muợn tứ đại của trời đất đem vào thân, liền chấp nhận cái đó của mình. Sự
chấp ngang ấy mà tự cho là hợp lý. Ví như chúng ta có cái nhà trống, đến
hàng xóm mượn bàn, ghế, giường, tủ. để trang hoàng. Vừa mang vào nhà,
chúng ta liền tuyên bố rằng "Đây là đồ của tôi", thử hỏi mọi người nghe
thấy có chấp nhận được không? Huống là thân này, lỗ mũi hít thở không khí,
khi không khí còn ở ngoài là của trời đất, vừa hít vào mũi liền nhận ngang
rằng "hơi của tôi". Miệng uống nước, ăn vật thực cũng thế, nước còn ở
ngoài là của thiên nhiên, vừa nuốt qua khỏi cổ liền nói "nước của tôi";
thức ăn còn ở ngoài là của người này kẻ nọ, vừa nuốt khỏi cổ liền nói
"những chất của tôi". Hơi tạm mượn không đầy một phút liền trả, khi trả ra
ngoài là của ai? Nước tạm mượn vài tiếng đồng hồ cũng trả, khi trả ra là
nước của ai? Vật thực mượn trong một ngày rồi cũng trả, trả ra là vật thực
của ai? Quả là chúng ta mắc phải hai cái lầm lớn. Lầm thứ nhất, thân hòa
hợp vay mượn không có chủ, lầm nhận là ta (chủ). Lầm thứ hai, chỉ trong
phút giây không vay mượn là chết ngay, lầm nghĩ mình sống lâu dài. Bởi hai
cái lầm này, chúng ta chấp thân một cách sai lạc đáng thương. Trí tuệ phân
tích rõ ràng không cho phép chúng ta chấp ngang như vậy, phải thấy rõ rằng
thân này vô ngã (không chủ), thân này vô thường (chẳng lâu dài). Thế là
chúng ta thấy đúng sự thật, biết đúng chân lý. Do chỗ thấy đúng biết đúng,
phá được cái ngu si chấp ngã về thân.
Về tâm, thừa nhận cái suy tư, nghĩ tưởng, phân biệt, cảm thọ làm ngã. Tôi
suy tư, tôi nghĩ tưởng. Song cái suy tư, nghĩ tưởng. đổi thay luôn. Khi có
suy tư nói là tôi suy tư, suy tư lặng mất, khởi nghĩ tưởng thì ai nghĩ
tưởng? Chẳng lẽ mỗi tâm trạng khác nhau, mà cái nào cũng là tôi hết. Tôi
là chủ, tâm trạng khá nhiều, cái nào cũng là chủ hết sao? Nếu cái nào cũng
là chủ thì quyền năng trong ấy bị hỗn độn. Phương chi những tâm trạng này,
khi dấy lên dường như có, cần tìm lại nó thì vắng bóng mất hình. Cái có
một cách mờ mờ ảo ảo mà cho là mình (ta), thật là tự mình phủ nhận mình.
Những khi chúng ta ngồi chơi, hoặc đi bách bộ, không có nghĩ tưởng chi cả,
lúc đó không có mình (ta) hay sao? Cho đến cả đêm, chúng ta ngủ không có
mộng, khi ấy không có mình (ta) rồi chăng? Đây là do ngu si lầm chấp cái
không thật, tưởng là thật, cái không chủ, tưởng là chủ. Ở đây, chúng ta
cần phải dùng trí tuệ nhận thức rõ ràng, để thấy như thật và biết đúng như
thật. Thấy rõ nó có nhiều thứ, biết chắc nó không phải chủ (mình). Tướng
trạng của nó hư ảo, quyết định nó không phải thật. Cái không phải chủ,
không phải thật, khờ dại gì nhận nó làm mình (ngã). Thấy đúng và sống đúng
như vậy, gọi là giác ngộ tâm vô ngã.
Tóm lại, thân này có tướng mạo, có sanh diệt, cho nên thuộc vô thường. Tâm
tuy không có tướng mạo thô, song có trạng thái tế luôn luôn sanh diệt,
cũng thuộc vô thường. Thân tâm đều là tướng duyên hợp, không có chủ nên vô
ngã. Bởi vô thường, nên biến hoại là kho? biến hoại đến diệt tận là không.
Vô thường, khổ, không và vô ngã là tinh ba của các kinh A-hàm trong Hán
tạng, Nikàya trong Pàli tạng. Đạt được lý vô thường, khổ, không, vô ngã
ngay nơi thân tâm này, đó là người giác ngộ bậc hạ. Do thấy thân tâm này
không phải ngã (ta) nên mọi sự chấp về thân tâm đều xả bỏ, mọi sự do thân
tâm tạo nghiệp cũng dừng lại, quả khổ đau do thân tâm gây nên không còn
nữa. Thế là do giác ngộ mà dứt khổ đau. Cái giác ngộ này cũng gọi là giác
ngộ ngũ uẩn phi ngã của Bát-nhã.
b. Giác ngộ trung:
Giác ngộ trung là vô niệm, đối phá vô minh trung. Nơi vô minh trung do
niệm khởi làm mờ tánh giác. Ở đây thấy rõ niệm là hư ảo không thật, là
bóng dáng của ngoại trần chớ không phải tâm ta. Không phải tâm ta, nên ta
không nhận nó và theo nó. Nó là cái làm rối bời, làm mờ tối tánh giác của
ta. Bất cứ niệm thiện niệm ác gì cũng đều là vô minh, vì niệm nào dấy lên
cũng che mờ tánh giác. Ví như bụi rơi vào con mắt bị xốn, mạt vàng rơi vào
con mắt cũng thế. Chỉ một thể rỗng lặng mới là chân thật. Ta phải nhìn
thẳng thấy niệm khởi là không thật, nó là bóng dáng, nó là tạm bợ, thể nó
là không. Niệm lặng mất, thể không hiện tiền là chân thật.
Đây ta hãy nghe câu chuyện Tổ Huệ Khả cầu pháp an tâm nơi Tổ Bồ-đề-đạt-ma.
Tổ Huệ Khả thưa: "Tâm con không an, xin thầy dạy cho phương pháp an tâm."
Tổ Đạt-ma bảo: "Đem tâm ra ta an cho." Huệ Khả sửng sốt tìm lại không thấy
tâm, thưa: "Con tìm tâm không được." Tổ Đạt-ma bảo: "Ta đã an tâm cho
ngươi rồi." Tổ Huệ Khả liền tỉnh ngộ.
Niệm khởi là rối bời, là xao xuyến, mà chúng ta lầm chấp nó làm tâm mình,
cho nên có lúc nào thấy nó an đâu. Bởi tâm không an nên chạy cầu pháp an
tâm. Diệu thuật của Tổ Đạt-ma bắt ta nhìn thẳng lại nó, thử xem nó có thật
không mà cầu an. Biết nó không thật, nó tự tan biến lặng lẽ, đấy là an
tâm. Chỗ niệm không khởi gọi là không tâm hay vô niệm. Đến đây không còn
thấy có tướng mạo gì nên nói là không. Như kinh Bát-nhã nói "Chiếu kiến
ngũ uẩn giai không" và nói "Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt.
", thấy rõ năm uẩn đều không, chữ thấy ở đây là nhận thấy. Nhận thấy tường
tận thể xác và tâm hồn của thân này đều nằm gọn trong cái thể không. Thể
không của các pháp này là không sanh, không diệt. Đạt được chỗ không tâm
hay vô niệm mới nhận ra thể không ấy là chân thật, nên kinh Bát-nhã nói
"Không tướng là thật tướng". Phần vật chất do duyên hòa hợp không có thật
thể, phần tâm hồn cũng là tướng của bóng dáng sáu trần không có tự thể, cả
hai đều là thể không. Nơi thân tâm là tướng duyên hợp thể không, ngoại
cảnh là tướng duyên hợp cũng thể không. Cả nhân gian đều là tướng duyên
hợp nên tất cả đều là thể không. Thể không mà không phải không, nên gọi là
chân không. Đây là tinh thần của sáu trăm quyển kinh Bát-nhã, cũng là cửa
vào Thiền tông. Vì thế cửa Thiền thường gọi là cửa Không. Chính Lục Tổ
bước vào cửa này bằng bài kệ:
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai?
Bồ-đề vốn không cội
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi bặm?
Bởi lẽ thấu triệt được thể không, Lục Tổ hạ hai câu "Xưa nay không một
vật, chỗ nào dính bụi bặm?" Đọc qua bài kệ này Ngũ Tổ mới cho Ngài vào
thất. Cửa Không là cửa của Thiền tông, Tổ Huệ Khả do nhận được vọng niệm
không thật, được pháp an tâm, Tổ Huệ Năng thấy rõ xưa nay không một vật,
được cho vào thất. Tất cả những người tu theo Thiền tông trước kia, hiện
nay và sau này thảy đều từ cửa ấy mà vào. Đây là bước giác ngộ đầu của
người tu Thiền tông, là phần giác ngộ trung trong ba phần giác ngộ. Phần
giác ngộ này gọi là tâm không hay vô niệm. Chính ông Bàng Long Uẩn ca tụng
chỗ này bằng bài kệ:
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ qui.
Mười phương đồng tụ hội
Mỗi mỗi học vô vi
Đây là trường thi Phật
Tâm không được đậu về.
Chỉ cần tâm không là thi làm Phật được đậu. Các Thiền sư thường ca ngợi
chỗ vô tâm, vô tâm là thấy đạo, vô tâm là bồ-đề. Song cũng một Thiền sư
nói:
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm du cách nhất trùng quan.
Chớ bảo không tâm gọi là đạo
Không tâm còn cách một lớp rào.
Chỗ vô tâm ấy chỉ là vào cửa, chớ chưa thấy mặt thật ông chủ nhà. Cần vào
thẳng trong nhà, nhận ra mặt thật của ông chủ nhà mới là cứu kính. Đó là
bước sang cái giác ngộ thứ ba.
c. Giác ngộ thượng:
Giác ngộ thượng là tri hữu, đối phá vô minh hạ. Bởi quên (mê) tánh giác
nên niệm khởi và chấp ngã sai lầm. Ở đây giác ngộ là nhận ra mình có tánh
giác. Tánh giác là chân thật, là vĩnh cửu, là hiện hữu và cũng chính là
bản thể của mình (Pháp thân). Tánh giác này mang nhiều tên tùy công dụng
của nó. Về phương diện thường biết rõ ràng (liễu liễu thường tri) một cách
chân thật, gọi là Chân tâm; thật thể của thân tâm mà không tướng mạo, gọi
là Pháp thân; hằng giác không mê gọi là Bồ-đề; vĩnh viễn không sanh không
diệt, gọi là Niết-bàn; chân lý tuyệt đối không bàn nói đến được gọi là
Đạo; thể chân thật không đổi thay gọi là Chân như; cái ta chân thật ngàn
đời gọi là Bản Lai Diện Mục. Quên tánh giác là mê, nhận ra mình có tánh
giác là ngộ. Biết có tánh giác của chính mình gọi là tri hữu.
Một hôm, Tổ Huệ Khả bỗng nhiên đại ngộ, bạch với Tổ Đạt-ma: "Từ đây trở đi
con dứt hết các duyên." Tổ Đạt-ma bảo: "Chớ rơi vào đoạn diệt." Huệ Khả
thưa: "Không rơi." Tổ Đạt-ma hỏi: "Con làm thế nào?" Huệ Khả thưa: "Con
thường biết rõ ràng, nói không thể đến." Tổ Đạt-ma dạy: "Đây là chỗ truyền
của chư Phật, chớ nên hồ nghi."
Tổ Huệ Năng khi được vào thất, Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang cho nghe. Giảng
đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", Ngài đại ngộ kêu lên: "Đâu ngờ
tánh mình vốn tự thanh tịnh! Đâu ngờ tánh mình vốn không sanh diệt! Đâu
ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tánh mình vốn không dao động! Đâu ngờ
tánh mình hay sanh muôn pháp!" Ngũ Tổ biết đã ngộ tự tánh, bảo: "Chẳng
biết bản tâm, học pháp vô ích; nếu nhận bản tâm mình, thấy bản tánh mình,
gọi là Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. "
Hai vị Tổ nổi bật nhất ở Trung Hoa, chỗ ngộ đạo nào có khác nhau. Tổ Huệ
Khả nhận ra mình có cái "Thường biết rõ ràng, nói không thể đến", được Tổ
Đạt-ma xác nhận: "Đó là chỗ truyền của chư Phật, chớ có hồ nghi." Tổ Huệ
Năng nhận ra "Tánh mình vốn tự thanh tịnh, tánh mình vốn không sanh
diệt.", được Ngũ Tổ ấn chứng là bậc Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. Hai
vị Tổ đến đây mới thật sự tri hữu, tức là nhận ra ông chủ thật của chính
mình. Nhậ? ra ông chủ này là hoàn toàn kiến tánh, cũng gọi là đại ngộ.
Giác ngộ mình có tánh giác và hằng sống với tánh giác gọi là hằng giác,
phá được cái mê từ vô thủy. Hằng giác tức là hằng nhớ tánh giác, cũng gọi
là Niệm Chân Như. Chỗ này là chủ yếu của Thiền tông, cũng là mục đích của
các bộ kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Niết-bàn, Hoa Nghiêm.
Đã từ muôn ức kiếp, chúng ta quên bẵng tánh giác của chúng ta, rồi đi lang
thang khắp nẻo luân hồi, tạo nghiệp ngập trời, thọ khổ tràn biển. Nhân
Phật, Tổ hay Thiện tri thức chỉ dạy, chúng ta nhận ra mình có tánh giác,
liền ngưng bước luân hồi, dừng tay tạo nghiệp. Như người sực nhớ con đường
về quê, không còn lê bước lang thang, mà phải hối hả trở về quê cũ, khúc
nhạc hoàn hương êm ả nhẹ nhàng âm ba trong veo cao vút, từ quê nhà vọng
lại bên tai. Đấy là hình ảnh giác ngộ đi đến giải thoát của đạo Phật nói
chung, của Thiền tông nói riêng.
d- Làm sao biết mình có tánh giác?
Tuy nhiên, tánh giác nơi mọi chúng ta đều sẵn có, chỉ vì chúng ta quên nó,
lầm nhận các vọng niệm, vọng tưởng làm mình. Một khi đã quên và đã lầm
rồi, tánh giác quả thật hiện hữu, mà chúng ta chưa bao giờ biết đến nó. Cả
ngày chúng ta chấp nhận là mình, chỉ căn cứ trên thân giả dối, tâm hư vọng
mà thôi. Đến đây, chúng tôi bạo gan chỉ thẳng ra một cách tường tận và dễ
dàng, để quý vị cùng nhận ra, đồng tu tập. Việc làm này của chúng tôi có
thể có lợi ích, nếu người đọc có đủ can đảm, nồng nhiệt, bền chí và lâu
dài. Nó sẽ vô ích, còn có thể có hại là khác, nếu người đọc có tánh cách
khinh xuất, lơ là và tùy hứng. Chúng tôi ước mong độc giả sẽ không làm cho
chúng tôi trở thành tội nhân.
Tánh giác và Chân tâm là hai tên mà một thể. Nhận ra Chân tâm là thấy Tánh
giác. Muốn nhận ra Chân tâm chúng ta cần phải giải rõ xem tâm là cái gì?
Thân chúng ta do đất, nước, gió, lửa hòa hợp thành hình. Đất nước gió lửa
là vật vô tri, trên thân này có cái tri giác, cái tri giác ấy gọi là tâm.
Đã nói là ta, chẳng lẽ ta là cái vô tri? Thế nên hầu hết mọi người đều
thừa nhận cái tri giác là mình, tức là chấp nhận tâm làm mình. Song cái
tri giác dễ nhận dễ thấy và nổi bật nhất là suy tư nghĩ tưởng., buồn
thương giận ghét., người ta cho những cái đó là tâm mình. Khi đã chấp nhận
những cái đó làm tâm mình rồi, vừa khởi nghĩ cho là mình nghĩ, khởi tưởng
cho là mình tưởng; dấy buồn bảo rằng tôi buồn, nổi giận bảo rằng tôi giận.
Thế là cả ngày chạy theo cái hỗn tạp lăng xăng, vì đã thừa nhận nó là
mình. Những cái ấy được tạm dừng phút giây, người ta cảm thấy như đã mất
mình. Song chúng nó mang sẵn tánh chất phức tạp, dao động, không thật, mà
người ta thầm nghĩ nó thật, thường và duy nhất. Ngoài những cái đó ra,
người ta tưởng như không còn cái gì khác nữa. Quả thật là lầm to!
Đã nói tâm là cái tri giác, khi mắt thấy sắc chưa cộng với cái suy nghĩ,
tự mắt có tri giác không? Tai nghe tiếng, tự tai có tri giác không? Thân
xúc chạm, tự thân có tri giác không?. Không có tri giác làm sao gọi là
thấy, không có tri giác làm sao gọi là nghe, không có tri giác làm sao gọi
là xúc? Thế là, có thấy, có nghe, có xúc chạm là có tri giác, có tri giác
là có tâm. Tại sao không thừa nhận nó là tâm? Tuy nhiên tâm có chia hai
loại, tâm vọng và tâm chân. Tâm vọng là tâm mang tánh chất phức tạp, dao
động, không thật. Tâm chân là tâm chân thật, không động và thường hằng.
Qua hai tánh chất ấy, chúng ta kiểm điểm lại nơi thân này, tâm nào chân,
tâm nào vọng? Những cái suy nghĩ, tưởng tượng, phân biệt, ghét thương.
thật là phiền toái, phức tạp, cái này sanh, cái kia diệt, chợt có chợt
không, bất thường, khi dấy lên dường như có, tìm lại nó thì không. Chúng
lập lòe như ánh lửa ma trơi, lúc ẩn, lúc hiện, chợt có chợt không. Qua ánh
sáng trí tuệ của ta, chúng đã phơi bày bản chất hư ảo, không thật rồi.
Ngược lại, cái tri giác nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. của ta, chúng luôn
luôn có mặt, chưa từng sanh diệt, lặng lẽ bất động, thực tại hiện hữu, như
ánh mặt trăng đêm rằm, vằng vặc sáng rỡ, trong veo lặng lẽ. Thế thì còn
nghi gì không nói chúng là chân thật. Song làm sao biết chúng thường hằng
hiện hữu?
Lấy mắt và tai là hai cái dễ nhận thấy nhất, đại biểu cho các thứ kia. Như
mắt chúng ta thấy cảnh, cảnh có thể đổi thay trăm ngàn thứ, cái thấy không
bao giờ đổi thay. Khi có cảnh, mắt thấy cảnh; khi không cảnh, mắt thấy
không cảnh. Cảnh khi có khi không, cái thấy lúc nào cũng có, cho đến khi
mở mắt thấy sáng, nhắm mắt thấy tối. Thấy tối thấy sáng, là do sự nhắm mở
của con mắt, chớ không can hệ gì cái thấy. Ví như bóng đèn với điện, gắn
bóng đèn thì điện cháy, mở bóng đèn thì điện tắt. Có cháy có tắt là tại
gắn bóng đèn hay mở bóng đèn, chớ không can hệ gì đến điện. Nhẫn đến con
mắt bị mù đi, cái thấy cũng không mất, nó sẽ phát hiện sang các cơ quan
khác. Vì thế người mù thì lỗ tai nhậy, ý nhớ hay, cảm xúc nhanh. Ví như
bóng đèn bị đứt, điện không phát được, điện sẽ phát mạnh hơn ở các bóng
khác, hoặc bộ phận máy móc khác. Như vậy, cái thấy không thuộc về
cảnh, không tại con mắt, nó chính là tâm. Vì có thấy là có biết, biết tức
là tâm.
Cái nghe cũng thế, có tiếng thì nghe tiếng, không tiếng nghe biết không
tiếng. Tiếng thì lúc có lúc không, cái nghe lúc nào cũng có. Cho đến khi
ngủ dường như không nghe, song có tiếng động mạnh liền chỗi dậy. Nếu không
nghe làm sao hay chỗi dậy? Tiếng động vang lên một lúc nhiều thứ, vẫn nghe
rõ ràng tiếng nào ra tiếng ấy. Dù là tiếng có đến trăm ngàn, nhưng cái
nghe vẫn là một. Nghe rành rõ tiếng nào ra tiếng ấy, cái nghe quả thật là
tâm. Khi lỗ tai điếc, cái nghe sẽ phát mạnh ở con mắt, thấy dáng miệng
nói, đoán biết nói cái gì. Thế là tâm thấy, tâm nghe vẫn hiện hữu thường
trực nơi chúng ta. Song tối kỵ khi có ý thức hợp tác với nó. Khi có ý thức
hợp tác với cái thấy, thì cái thấy đã mất tính chất chân thật thường hằng
bất động rồi. Khi cái nghe hợp tác với ý thức cũng lại như thế. Vì ý thức
là cái so lường phân biệt, luôn luôn biến động không dừng. Nó vừa hợp tác
với cái nào thì cái ấy phải chịu ảnh hưởng của nó. Cho nên muốn sống với
tâm chân thật của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chúng ta không nên có ý thức
xen lẫn trong ấy. Có ý thức xen vào, tức đã làm băng hoại tâm chân thật đi
rồi.
Tuy nhiên nhìn vào bên trong, chúng ta vẫn có cái tâm chân thật ở trong.
Tâm này thấy sự dong ruổi của ý thức, thấy được vọng niệm khi dấy khi
lặng. Nếu không có tâm ấy, chúng ta làm sao biết được khi có vọng, khi
không vọng, lúc có ý thức lúc không ý thức. Cái biết được vọng quyết định
cái đó không phải vọng. Vọng thì khi sanh khi diệt, cái thấy rõ sự sanh
diệt của vọng quả là không phải sanh diệt. Vọng dấy lên do vin theo bóng
dáng trần cảnh nên có tướng mạo, thuộc về nhân duyên. Cái biết vọng chưa
từng dấy lên, chưa từng theo trần cảnh, nên không liên hệ đến nhân duyên.
Cái thuộc nhân duyên thì có hợp có tan, có còn có mất, có sanh có diệt.
Cái không thuộc nhân duyên không có tướng mạo, nên thường hằng, bất biến,
chân thật. Nhận ra được cái đó là thấy tâm chân thật ở trong.
Mặc dù nói có trong ngoài, thường hiển lộ ở sáu cơ quan khác nhau, song
thể "thường biết rõ ràng" trong lặng không tướng mạo thì không phải là
hai. Trên dụng dường như có sáu, bản thể vẫn là một. Cho nên kinh Lăng
Nghiêm nói: "Từ một tinh minh sanh sáu hòa hợp". Vì thể nó rỗng lặng, nên
nói Pháp thân thanh tịnh. Thể này hằng giác tri nên gọi là Phật tánh, chân
tâm. Trong sáu cơ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) thường hiển lộ tánh
giác, nên nơi mắt gọi là tánh thấy, nơi tai gọi là tánh nghe, nơi mũi gọi
là tánh ngửi. Mỗi nơi đều để chữ "tánh" đứng đầu, chứng tỏ rằng mỗi cái ấy
đều từ tánh giác phát ra. Do đó trong sáu cơ quan, chúng ta nhận được tự
tánh của một cơ quan thì cả sáu cái đều thông suốt. Cho nên câu "Phản quan
tự tánh" của nhà thiền thật tối hệ trọng. Khéo dùng phương tiện gợi cho
người tham vấn nhận ra tánh giác của mình thường biểu hiện ở sáu căn là
một xảo thuật của Thiền sư. Trong sáu căn chỉ có hai căn dễ nhận nhất là
mắt và tai. Thiền sư dùng cảnh sắc đánh thức tánh thấy cho người, gọi là
nanh vuốt trong tông môn, dùng âm thanh đánh thức tánh nghe cho người, gọi
là một giọt sữa sư tử. Chúng ta hãy khéo xem những xảo thuật của các Thiền
sư đánh thức tánh thấy:
Một hôm, Thiền sư Linh Hựu đứng hầu Tổ Bá Trượng. Tổ hỏi: "Ai?" Linh Hựu
thưa: "Con, Linh Hựu." Tổ bảo: "Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?"
Linh Hựu vạch ra, thưa: "Không lửa." Tổ đứng dậy, đến vạch sâu trong lò
được chút lửa, đưa trước Sư hỏi: "Ngươi bảo không, cái này là gì?" Linh
Hựu liền phát ngộ, lễ tạ.
Tổ Bá Trượng cố tình hỏi lửa chăng? Không. Tổ cố mượn đốm lửa để đánh thức
tánh thấy của Thiền sư Linh Hựu. Quả có hiệu dụng, Thiền sư Linh Hựu nhân
đốm lửa nhận ra tánh thấy của mình, liền sụp xuống lễ tạ.
Thiền sư Lương Giới đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu. Sư hỏi: "Được nghe quốc
sư Huệ Trung nói ?vô tình thuyết pháp?, con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu
ấy." Qui Sơn bảo: "Ta trong ấy cũng có, chỉ không gặp được người xứng
đáng." Sư thưa: "Con chưa hiểu, xin thầy chỉ dạy." Qui Sơn dựng đứng cây
phất tử, hỏi: "Hội chăng?" Sư thưa: "Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói." Qui
Sơn bảo: "Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì người nói."
Thiền sư Lương Giới cố tìm hiểu "Vô tình thuyết pháp". Tổ Qui Sơn đưa cây
phất tử lên, hỏi: "Hội chăng?" Nếu ngay đây mà hội thì "vô tình thuyết
pháp" cho Thiền sư nghe rồi. Vì Thiền sư chưa hội, cầu xin Qui Sơn nói,
nếu Qui Sơn hứa nói, đã thành "hữu tình thuyết pháp" mất vậy.
Có vị tăng hỏi Thiền sư Quang Dũng: "Văn Thù là thầy của bảy đức Phật, Văn
Thù có thầy chăng?" Quang Dũng đáp: "Gặp duyên liền có." Tăng hỏi: "Thế
nào là thầy Văn Thù?" Sư dựng đứng cây phất tử lên. Tăng thưa: "Cái ấy là
phải sao?" Sư ném cây phất tử, khoanh tay.
Vị tăng muốn biết thầy của Bồ-tát Văn Thù, Thiền sư Quang Dũng dựng cây
phất tử lên mà ông không nhận. Nếu khi đưa cây phất tử lên mà ông nhận ra
thì đã thấy thầy của Văn Thù. Rất tiếc ông tăng lầm qua, nên Thiền sư đành
ném cây phất tử.
Có thiền khách đến Kiền Phong hỏi: "Trong kinh Lăng Nghiêm có câu: Chư
Phật mười phương, chỉ một con đường vào cửa Niết-bàn (Thập phương Bạt Già
Phạm, nhất lộ Niết-bàn môn), xin hỏi đầu đường ở chỗ nào?" Kiền Phong cầm
cây gậy vạch ngang trong hư không, nói: "Ở chỗ này." Thiền khách mờ mịt
không hiểu. Sau ông đến Vân Môn, cũng đem câu ấy hỏi. Vân Môn đưa cây quạt
lên nói: "Cây quạt nhảy phóc lên cung trời Tam thập tam đập vào mũi Đế
Thích, con cá lý ngư ở biển Đông, mưa như cầm chỉnh mà đổ."
Thiền sư Kiền Phong chỉ đầu đường vào cửa Niết-bàn bằng một vạch trong hư
không. Người ta tưởng đầu đường vào cửa Niết-bàn từ hư không, chẳng ngờ từ
tánh thấy. Thiền sư Vân Môn cũng chỉ đầu đường bằng cây quạt đưa lên. Nếu
thiền khách thấy đầu đường ngay khi cây quạt đưa lên, thì câu nói sau của
Vân Môn là câu thần chú. Nếu lầm qua khi cây quạt đưa lên, mò theo câu nói
thì suốt đời không tìm ra đầu đường. Thế nên, Vân Môn có làm bài kệ:
Cử bất cố, tức sai hỗ
Nghĩ tư lương, hà kiếp ngộ.
Đưa chẳng đoái, ắt sai lầm
Toan nghĩ suy, kiếp nào ngộ.
Qua những hình ảnh được nêu ở trên, nếu thiền khách khéo nhân cảnh sắc
nhận được tánh thấy của mình, gọi là "kiến sắc minh tâm".
Đây chúng ta hãy khéo nghe chư Thiền sư sử dụng âm thanh đánh thức tánh
nghe một cách tài tình. Quả là "một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa
lừa".
Có thiền khách hiệu Sư Tổ đến Nam Tuyền hỏi: Ma-ni châu nhân bất thức, Như
Lai tàng lý thân thâu đắc, thế nào là tàng?" Nam Tuyền bảo: "Vương Lão sư
cùng ông qua lại, ấy là tàng." Sư Tổ hỏi: "Thế nào là châu?" Nam Tuyền
gọi: "Sư Tổ! Sư Tổ!" Sư Tổ: "Dạ! Dạ!" Nam Tuyền bảo: "Đi! Ngươi không hiểu
ý ta."
Sư Tổ muốn biết hạt châu, Nam Tuyền sẵn sàng chỉ hạt châu bằng cách hai
lần gọi, Sư Tổ hai lần dạ mà không nhận ra hạt châu. Buộc lòng Nam Tuyền
bảo: "Đi! Ngươi không hiểu ý ta." Chỗ Nam Tuyền chỉ nhanh như đá nháng,
điện xẹt, Sư Tổ chậm lụt nên không thấy được.
Một hôm Quốc sư Huệ Trung gọi: "Thị giả!" Thị giả: "Dạ!" Lại gọi: "Thị
giả!" Thị giả: "Dạ!" Lại gọi: "Thị giả!" Thị giả: "Dạ!" Huệ Trung bảo:
"Tưởng ta cô phụ ngươi, không ngờ ngươi cô phụ ta."
Thị giả ba lần dạ mà không thấy chỗ dạy của Quốc sư. Nếu khi dạ liền nhận
ra tánh nghe của mình, Quốc sư đâu trách "Không ngờ ngươi cô phụ ta". Tất
cả việc làm của Thiền sư đều nhằm người học thấy lại cái chân thật của
chính mình. Nếu chúng ta cứ nghe và chờ các Ngài chỉ dạy cái gì, qua mất
mục tiêu của các Ngài nhắm rồi.
Có thiền khách vào thất của Thiền sư Qui Tỉnh, nhờ giải nghi về việc vị
tăng hỏi Triệu Châu: "Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?" Triệu Châu đáp:
"Cây bá trước sân." Thiền sư Qui Tỉnh bảo: "Tôi nói với ông, ông tin
chăng?" Thiền khách thưa: "Lời của Hòa thượng là quí trọng, con đâu dám
chẳng tin." Qui Tỉnh nói: "Ông nghe giọt mưa rơi ở thềm nhà chăng?" Thiền
khách bỗng nhiên khai ngộ, bất giác la: "Chao!" Qui Tỉnh hỏi: "Ông thấy
đạo lý gì?" Thiền khách nói kệ đáp:
Thiềm đầu thủy đích
Phân minh lịch lịch
Đả phá càn khôn
Đương hạ tâm tức.
Giọt mưa mé thềm
Rõ ràng từng giọt
Đập nát càn khôn
Liền đó tâm dứt.
Thiền khách khéo nghe hạt mưa rơi, bỗng thấy cây bá trước sân của Triệu
Châu. Cây bá trước sân hay giọt mưa rơi mé thềm nhà đều rõ ràng chỉ cho
chúng ta thấy ý Tổ sư từ Ấn Độ sang. Nhận ra được chỗ này, càn khôn biến
hoại, mọi vọng tưởng tan tành, thật còn gì sung sướng bằng.
Một hôm Tướng quốc Bùi Hưu đến chùa Đại An xem thấy bức họa cao tăng, liền
chỉ và hỏi Thiền sư Hoàng Bá: "Hình có thể thấy, cao tăng ở đâu?" Hoàng Bá
gọi: "Bùi Hưu!" Bùi Hưu: "Dạ!" Hoàng Bá hỏi: "Ở đâu?" Bùi Hưu ngộ được ý
chỉ.
Qua tướng mạo, Bùi Hưu muốn thấy cao tăng. Hoàng Bá chỉ cao tăng qua tiếng
"dạ" của Bùi Hưu. Nhân tiếng dạ của chính mình, Bùi Hưu chẳng những biết
cao tăng, mà còn nhận ra bổn mạng của mình từ vô thủy kiếp, như người đã
nắm được hòn ngọc quí.
Để kết thúc hai đoạn trên, chúng ta hãy nghe bài kệ của Thiền sư Nghĩa
Trung:
Tức thử kiến văn phi kiến văn
Vô dư thinh sắc khả trình quân
Cá trung nhược liễu toàn vô sự
Thể dụng hà phòng phân bất phân.
Chính nơi thấy nghe chẳng thấy nghe
Còn đâu thinh sắc để trình anh
Trong kia nếu liễu toàn vô sự
Thể dụng ngại gì phân chẳng phân.
Quả thật chính nơi cái thấy nghe, chúng ta nhận ra tánh thấy nghe. Đã nhận
ra tánh thấy nghe thì không mắc kẹt vào thanh sắc, nên nói thấy sắc như
mù, nghe tiếng như điếc. Như mù chớ chẳng phải mù, vì hằng thấy mà chẳng
vọng tưởng phân biệt hơn thua, đẹp xấu. Như điếc mà chẳng phải điếc, vì
tiếng nào nghe rõ tiếng ấy, chỉ không phân biệt hay dở, phải quấy. Đã như
thế thì còn thanh sắc nào để Thiền sư dạy chúng ta nữa. Nếu ngay nơi thấy
nghe mà liễu ngộ được, còn gì phải phân biệt đây là thể, kia là dụng cho
thêm phiền.
Tóm lại, chúng ta muốn nhận ra tánh giác hay kiến tánh phải từ nơi sáu căn
mà nhận. Trong sáu căn, hai phần nổi bật hẳn là mắt và tai, nhận ra một
trong hai cái tánh thấy và tánh nghe là đã đến đầu đường vào Niết-bàn.
Hoặc nhận ra tánh giác của ý, cái mà biết ý thức có, ý thức không, trong
tâm có niệm không niệm, cái giác liễu thường trực không tướng mạo ấy được
mệnh danh là chân tâm thanh tịnh. Vừa dấy niệm là mất chân, niệm lặng chân
thể hiện tiền. Không niệm là chân, niệm khởi là vọng. Chân và vọng dường
như hai mà thật không hai. Ví như sóng và mặt biển, bao nhiêu lượn sóng
lặn hụp đều không ngoài mặt biển. Khổ nỗi, khi người ta nhìn sóng là quên
mặt biển. Nếu người khôn khéo, dù thấy sóng nổi lao xao đều biết chúng ở
trong mặt biển. Muốn thấy mặt biển lặng, chỉ cần sóng dừng. Bỏ sóng đi tìm
biển là khờ, diệt sóng để thấy biển lặng là dốt. Cũng thế, bỏ vọng tâm đi
tìm chân tánh là khờ, diệt vọng để thấy chân là dốt. Bởi vì vọng chỉ là
cái dụng động của thể chân, vọng dừng thì chân hiện. Cái chân ấy nó trùm
cả trong lẫn ngoài, thường có mặt mà không tướng mạo, hằng giác tri mà khó
nhận biết. Ví như nước trong sông ngòi và ngoài biển cả. Nơi sông ngòi,
chúng ta dễ thấy tướng nước chảy, ở biển cả chúng ta không thấy có chảy
bao giờ. Song thủy triều lên xuống là có đổi dời, tại vì rộng nên không
thấy, chỗ hẹp thì dễ thấy. Tánh giác tri trùm cả thân, chúng ta khó nhận,
niệm khởi vọng tưởng có tướng mạo từng chập, từng hồi nên dễ biết. Bởi
tánh cách rộng rãi đó nên nhà thiền thường nói "Trong da chỗ nào mà không
có máu" hay "Chết chìm dưới sông mà kêu khát nước" hoặc "Cỡi trâu mà tìm
trâu".
e. Giải Ngộ và Chứng Ngộ:
Giải ngộ là nhân nghe một câu kinh hay một lời chỉ dạy của Thiện tri thức,
liền thấy được bản tánh. Tính cách đạt được rất nhanh, nên cũng gọi là Đốn
ngộ. Nhân Phật, Tổ, thầy, bạn mà được ngộ đạo, nó thuộc về trí hữu sư.
Giải ngộ mới là kẻ thấy đường về quê, chưa phải là người về đến nhà. Người
tu được giải ngộ, đã thanh toán xong năm mươi phần trăm nghi ngờ trên
đường tu của mình. Thế nên Cổ Đức đã nói:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió dừng sóng vẫn vỗ
Lý hiện niệm còn xâm.
Chỗ thấy không khác chư Phật, song tập khí sâu dày chưa có thể sạch. Cần
phải nỗ lực buông xả vọng tưởng lâu ngày khả dĩ lặng, như gió đã dừng mà
sóng chưa lặng, phải đợi thời gian từ từ nó mới im. Chân lý đã thấy rõ rồi
mà vọng niệm vẫn còn xâm lấn mãi. Vì thế sau khi giải ngộ cần phải cố gắng
tu hành mới được chứng ngộ. Thiền sư Trần Tôn Túc nói: "Việc lớn chưa sáng
như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ". Khi chưa giải ngộ phải tận
lực tham vấn nghiên tầm cho giải ngộ, khi đã giải ngộ cũng phải cố gắng tu
hành để được chứng ngộ. Chứng ngộ là chỗ viên mãn công phu tu tập, an trụ
tánh giác trọn vẹn. Nó là mục thứ mười trong Mười Mục Chăn Trâu của nhà
Thiền. Chứng ngộ là do công phu tu hành phát ra, không phải là sự chỉ dạy
của thầy bạn, nên cũng gọi là trí vô sư. Đạt được trí vô sư hay chứng ngộ
thì mới chống được sanh tử. Trong nhà Thiền thường nói: "Tùng môn đắc nhập
phi thị gia trân". Nghĩa là từ cửa nhận được không phải của báu trong nhà.
Từ cửa mà được là trí hữu sư, chưa thật là của báu trong nhà. Thật là của
báu trong nhà thì đâu cần người khác chỉ, phải tự mình lấy ra mà dùng.
Tóm lại, giải ngộ là đã tách con đường mê, vào con đường giác, song mới là
chia đường thôi. Trên con đường giác đi đến đích mới là chứng ngộ. Buổi
đầu người học đạo do thầy bạn chỉ dạy phát khởi trí tuệ là trí hữu sư.
Biết rõ đường lối tu hành, hạ thủ công phu tu tập, phát trí tuệ là trí vô
sư. Trí này tương tự với "Tuệ" trong ba môn "Giới Định Tuệ". Có trí vô sư
mớ? thoát khỏi sanh tử, cho nên trong nhà Thiền nói "Kiến tánh khởi tu".
B. KHỞI TU
1. ĐỐN NGỘ TIỆM TU:
Sau khi "kiến tánh" cần phải "khởi tu" mới đạt chứng ngộ, giải thoát sanh
tử, đắc thành Phật quả. Cho nên khi xưa chư Thiền sư được giải ngộ rồi,
các Ngài vào núi ở một mình đôi ba mươi năm, sau đó mới ra giáo hóa. Nếu
không ở núi một mình, các Ngài ở tùng lâm theo chúng tu hành. Như Quốc sư
Huệ Trung ở núi Bạch Nhai bốn mươi hai năm, sau đó mới ra làm Quốc sư.
Thiền sư Tùng Thẩm hiệu Triệu Châu ở trong tùng lâm ba mươi năm, tâm mới
thành một khối. Kiến tánh khởi tu cũng gọi là đốn ngộ tiệm tu. Lối tu này
có hai:
a. Ứng dụng giác ngộ vô niệm để tu:
Thấy rõ niệm khởi là hư vọng, là vô minh, cần phải buông xả không theo.
Niệm dấy lên là phá giới, là tội lỗi, luôn luôn tỉnh giác không để nó dẫn.
Cho nên nói: "Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm". Niệm khởi liền giác,
giác tức niệm diệt. Thiền sư cả ngày trong bốn oai nghi đều sống giác
niệm, không để thưa hở. Bởi vì từ ngàn đời chúng ta đã chấp nhận niệm là
tâm mình, hiện nay biết nó hư giả, nó là tướng vô minh, song nó đã thành
thói quen, thành tập quán, không thể tỉnh giác một sớm một chiều mà hết
được. Trái lại, phải bền bỉ, lâu dài, kiên trì, tỉnh giác, chúng mới thưa
dần và từ từ im bặt. Nếu không phải là người kiên trì, tỉnh giác, bền bỉ,
lâu dài, dù có giải ngộ cũng không giải thoát sanh tử. Thế nên người xưa
nói "Người tu thiền phải đầy đủ hai tâm kiên cố và trường viễn". Kiên trì
tỉnh giác là tâm kiên cố, bền bỉ lâu dài là tâm trường viễn. Có kiên trì
tỉnh giác mới khỏi bị niệm dẫn, có bền bỉ lâu dài mới chinh phục được
chúng. Thiền sư là một chiến sĩ thường cầm kiếm trí tuệ tiêu diệt bọn ma
vô minh vọng niệm. Tay không rời kiếm, mắt chẳng ngó lơ, mới là chiến sĩ
dũng mãnh. Đến khi nào bọn ma vô minh vọng niệm diệt sạch, người chiến sĩ
mới ca khúc khải hoàn và sống mãi trong thanh bình an lạc. Sự tu hành của
Thiền sư không hạn cuộc trong thời khóa nghi lễ, mà lấy sự tỉnh giác làm
chủ yếu. Vì thế, có khi cả ngày không thấy ngồi thiền hay tụng kinh, mà sự
tu hành của Thiền sư rất cẩn mật. Thấy từng tâm niệm của chính mình suốt
mười hai giờ, làm sao bảo lơi lỏng được. Chỗ này chỉ người trong cảnh biết
được thôi.
b. Ứng dụng giác ngộ tri hữu để tu:
Tri hữu là biết mình có tánh giác. Tánh giác tức là ông chủ thật của mình.
Quên tánh giác là đã mất ông chủ, chính là mất mình. Sống mà mất mình hay
không biết mình sống, không phải vô minh là gì? Đối trị cái vô minh (mê)
này, Thiền sư hằng nhớ ông chủ của mình. Lối nhớ ông chủ bằng cách sáu căn
tiếp xúc với sáu trần mà không chạy theo sáu trần, hằng sống với sáu đường
hào quang sẵn có của mình. Cho nên nói: "Thấy sắc không dính sắc, nghe
tiếng không kẹt tiếng". Bởi thường sống với ông chủ của mình, nên ngoài
không bị năm trần quyến rũ, trong không bị pháp trần cuốn lôi. Đó là chỗ
"Tâm như nên cảnh như". Chính chỗ này ông Bàng Long Uẩn có kệ:
Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu
Mộc nhân bản thể tự vô tình
Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh
Tâm cảnh như như chỉ giá thị
Hà lự bồ-đề đạo bất thành.
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật
Ngại gì vạn vật thường vi nhiễu
Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống
Giống như người gỗ xem chim vẽ
Người gỗ bản thể tự vô tình
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy
Nào sợ bồ-đề đạo chẳng thành.
Ông chủ là mình, làm sao mình nhớ? Nghĩa là chúng ta mắt thấy sắc biết
mình có tánh thấy, tai nghe tiếng biết mình có tánh nghe, mũi ngửi mùi
biết mình có tánh ngửi., cái gì chạm đến đều biết có mình, ông chủ đang
tiếp xúc với sáu trần ấy. Hằng nhớ ông chủ như vậy thì đâu có chạy theo
sáu trần. Ông chủ khi tiếp xúc với sáu trần tuy thường biết mà không có
vọng phân biệt. Thường biết rõ ràng mà lặng lẽ nên gọi là Như. Thường nhớ
ông chủ gọi là "Niệm chân như", hoặc nói "Nhất niệm vạn niên", hoặc nói
"Bất ly đương niệm". Chỉ một niệm hiện tiền mà không rơi vào phân biệt.
Song chúng ta dễ lầm chữ NIỆM. Ở trên nói niệm khởi hay vọng niệm, chữ
niệm này là tâm vọng động vừa dấy lên. Ở đây nói niệm chân như, chữ niệm
này là nhớ, hằng nhớ sống với tâm chân như, gọi là niệm chân như hay nhớ
ông chủ. Cũng đồng một chữ niệm mà nghĩa dùng khác nhau. Một hình ảnh linh
động nhất về lối tu này, như : Thiền sư Sư Nhan mỗi ngày thường ngồi trên
tảng đá, lâu lâu tự gọi: "Ông chủ", tự đáp: "Dạ", tự nhắc: "Tỉnh, tỉnh,
chớ để người lừa".
Vừa quên ông chủ là bị trần cảnh bên ngoài và pháp trần bên trong lôi đi,
tức bị người lừa. Phải hằng tỉnh, hằng giác mới khỏi bị người lừa. Hằng
sống với ông chủ đến khi thuần thục rồi, đạo bồ-đề hiện tiền còn gì lo
ngại.
Lại nữa, đối cảnh tâm không chạy theo cảnh, niệm dấy lên không theo niệm,
hằng liễu tri mà lặng lẽ là sống với ông chủ. Ông chủ là cái hằng liễu tri
nơi toàn thân, không bị cảnh dẫn thì ông chủ ngồi sờ sờ trong nhà, khỏi
cần kiếm tìm, tưởng nhớ chi cả. Sống được như vậy, thì đi đứng nằm ngồi gì
cũng thiền, nên nói: "Hái củi, lặt rau, thổi cơm, gánh nước đều là thiền".
Tóm lại, hai phần "đốn ngộ tiệm tu" trên, tuy nói tu mà không có tu. Vì lẽ
tu là sửa sang bồi bổ, tánh giác không tướng mạo làm sao sửa sang? Hơn nữa
tánh giác chẳng sanh chẳng diệt, nếu còn có tu là còn tạo tác, tức là còn
sanh diệt. Đã không tu thì làm gì có chứng. Khi người tu hoàn toàn sống
được với tâm thể như như, gọi là chứng đạo hay thành đạo. Song sự thật có
chứng cái gì, có thành cái gì? Chẳng qua sống viên mãn với tâm thể của
mình thôi. Tuy nhiên như thế, nói không tu mà tu. Vì khéo biết buông xả
vọng niệm, hằng giác tỉnh luôn nên gọi là tu. Hoặc thường nhớ ông chủ của
mình, không giây phút nào để vọng tâm ngoại cảnh lừa gạt lôi đi gọi là tu.
Nói không chứng mà chứng. Vì tánh giác đã sẵn có nơi chúng ta, mà cả muôn
đời bỏ quên mất, nay nhận ra và sống toàn vẹn với nó gọi là chứng. Ví như
chúng ta có hòn ngọc quí, chôn cất nơi nào quên mất, bỗng có người chỉ,
sực nhớ lại, đào xới lên, lấy được hòn ngọc cầm trong tay, gọi là được.
Đấy sự tu chứng của tinh thần Thiền tông là như thế. Nói có tu cũng được,
nói không tu cũng được, nói có chứng không chứng cũng phải. Bởi nó chỉ là
phương tiện tạm thời, không có thật pháp để tu để chứng. Ví như các pháp
môn khác, như Tịnh độ thì dùng câu niệm Phật làm pháp tu, Mật tông thì
dùng câu thần chú làm pháp tu, thiền Tiểu thừa thì dùng đề mục làm pháp
tu. Chỉ riêng Thiền tông không mượn một pháp nào cả, khéo biết buông xả
vọng niệm, hằng tỉnh giác không quên là đủ. Đây là đi đường chim (điểu
đạo), thẳng tắt không nương phương tiện, nên nói "Chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật".
2. TIỆM TU ĐỐN NGỘ:
Đúng tinh thần Thiền tông, phải trước kiến tánh sau mới khởi tu, song với
người tha thiết tu hành mà chưa kiến tánh thì sao? Chư Tổ sau này vì
thương người có chí tu mà chưa kiến tánh, nên lập ra những phương tiện
sau:
a. Tọa thiền khán công án hay thoại đầu:
Đây là lối tu do các Thiền sư dòng Lâm Tế đời Tống lập ra. Khán công án
hay khán thoại đầu, lối dụng công cũng như nhau, chỉ khác ở điểm công án
là một câu của người xưa để lại, thoại đầu tùy thời biến chế. Phương pháp
tu này gọi là "lấy độc trừ độc". Vì có một nghi vấn đặt trong đầu thì mọi
vọng tưởng đều lặng mất. Cho nên người khán công án hay thoại đầu phải tin
tưởng tuyệt đối vị thầy mình đến thọ giáo. Ông dạy một câu như : "Trước
khi cha mẹ chưa sanh, mình là gì?" v.v. liền phải sống chết với câu ấy,
cho đến ngày ngộ đạo mới thôi. Khi khán thoại đầu, nên đề khởi câu thoại
đầu lên, sau chữ "gì?" có một sức mạnh nghi kéo dài im lặng, khi sức nghi
yếu dần, liền đề khởi nữa, cứ thế mãi. Câu nói đặt thành nghi vấn là
thoại, cái nghi kéo dài im lặng là đầu. Hay nói khác hơn, trước khi chưa
đặt nghi vấn là đầu, nghi vấn dấy lên là thoại. Chủ yếu dùng cái nghi đập
chết mọi vọng tưởng. Khi cái nghi đã thành khối, khỏi cần đề khởi mà lúc
nào cũng nghi, gọi là "nghi tình". Một khi cái nghi tan vỡ ra là ngộ đạo.
Thế nên nói "đa nghi đa ngộ". Song tu khán thoại đầu phải gan dạ, chết
sống với câu mình nhận nơi Thầy, cho đến ngộ đạo, không được học kinh sách
hay lý luận gì cả. Tu khán thoại đầu, khi tọa thiền khán thoại đầu, lúc ra
ngoài hoặc làm công tác cũng vẫn khán thoại đầu, không đổi thay pháp nào
khác.
b. Tọa thiền biết vọng:
Thiền giả nên ứng dụng phần giác ngộ hạ ở trên để tu. Khi tọa thiền đúng
pháp rồi, thiền giả để tâm vắng lặng, vừa có vọng tưởng dấy lên liền "biết
vọng không theo". Nếu vọng tưởng quá mạnh, biết vọng mà vẫn còn lôi đi,
thiền giả nên thấy vọng ấy vốn không, nói quả quyết rằng: "Mày là không".
Nếu dùng chữ không mà trị chưa nổi, thiền giả phải quở mắng nó, bảo: "Vì
mày nên nhiều đời phải chịu luân hồi, giờ đây mày muốn xuống địa ngục hay
sao?" Đó là lối mục đồng dùng roi để trị con trâu ngỗ nghịch. Hoặc hành
giả phản quán lại xem cái vọng này từ đâu mà khởi. Phăng tìm nguồn gốc đến
chỗ tột cùng, chúng liền mất tăm dạng, thế là an tâm.
Biết vọng không theo là lối tu nhẹ nhàng thanh thản, song phải có chí lắm
mới khỏi chán. Bởi vì vọng tưởng quá nhiều, không theo cái này, cái khác
lại nổi lên, cứ thế mãi khó tìm được phút giây yên tĩnh. Phải bền chí,
đừng nản, biết vọng mãi rồi vọng sẽ thưa dần. Không theo vọng tưởng là
chúng ta phá cái chấp ngã về tâm, đến khi vọng tưởng yếu thế sẽ có cơ kiến
tánh giải ngộ. Ngoài giờ tọa thiền ra, thiền giả thường quán chiếu thân tứ
đại này do duyên hợp hư giả, không thật, bất cứ đòi hỏi, cố chấp gì về
thân đều quở trách: "Thân đã giả, còn muốn cái gì? Cầu cái gì?" Những suy
tư nghĩ tưởng dấy lên cũng biết giả không theo. Nếu có làm việc thì chỉ
biết việc ấy, không cho vọng tưởng dẫn đi nơi khác. Lặng lẽ chăm chỉ trong
việc làm, không để chú vọng bén mảng đến trong đầu. Cứ thế hằng tu trong
việc làm, hằng tu lúc rảnh rỗi, hằng tu khi tọa thiền. Không theo vọng
tưởng là phá ngã chấp về tâm, biết thân duyên hợp hư giả là phá ngã chấp
về thân. Đây là bước giác ngộ vô ngã của người tu Phật theo tinh thần
Bát-nhã. Lối tu thiền này càng xem kinh học đạo là càng sáng thêm, chớ
không trở ngại. Nhờ kinh làm sáng cho thiền, do thiền làm tỏ rạng được
kinh.
c. Đối chiếu hai pháp tu:
Hai pháp tu "biết vọng" và "khán thoại đầu" đều gọi là "tiệm tu đốn ngộ".
Dùng cái biết vọng hay câu thoại đầu để đập chết con khỉ ý thức. Khi con
khỉ ý thức thật chết, liền ngộ đạo, nên nói "Sau khi chết liền tỉnh"
(tuyệt hậu tái tô). Người tu đừng sợ hay quên và khờ dại, vì cố bỏ cố quên
mà không quên không dại sao được? Tu thoại đầu có sức mạnh, song phải
buông hết mọi học tập, mọi suy luận. Tu biết vọng thì nhẹ nhàng lại phù
hợp với kinh điển, càng nghe kinh càng tin thêm pháp tu. Tu thoại đầu phải
ngộ đạo mới sáng, ở giữa chừng coi như chết nơi khờ dại. Tu biết vọng thì
tu một giờ sáng một giờ, càng tu thì trí tuệ càng tăng, cho đến khi phá
tan cái chấp ngã. Tu thoại đầu phải có bậc thầy đạt đạo trong pháp tu này
dẫn dắt, mới đến nơi đến chốn. Tu biết vọng nương nơi kinh, chúng ta thấy
rõ đường lối tu, có khi nhân nghe kinh liền được kiến tánh. Bởi những lý
do trên, chủ trương chúng tôi dạy Tăng Ni và Phật tử sơ cơ tu thiền bằng
lối "biết vọng", đồng thời giảng Kinh, Luận cho họ nghe, mong họ nhận ra
bản tánh, để tiến lên "kiến tánh khởi tu" ở trên. Giả sử thiền giả chưa
được kiến tánh, cứ như thế mà tu vẫn dũa mòn ngã chấp, trí tuệ Bát-nhã từ
từ phát hiện.
3. PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN:
Cả bốn lối tu trên đều cần tọa thiền, đành rằng hằng tu trong bốn oai nghi
(đi đứng nằm ngồi) song tọa thiền là phương tiện thù thắng hơn cả. Chính
đức Thích-ca Mâu-ni sau khi thành đạo Ngài vẫn tọa thiền. Có vị tăng hỏi:
"Phật thành đạo rồi, ngồi thiền chi nữa?" Phật bảo: "Ta ngồi thiền để điều
hòa thân thể và răn nhắc đệ tử sau này không lười trễ tọa thiền." Vì thế
chúng ta phải cố gắng tập tọa thiền. Tọa thiền có chia mấy phần dưới đây:
a. Trước khi tọa thiền:
Hành giả khéo tập đi đứng nằm ngồi đều nhẹ nhàng thư thả, buông xả không
để tâm bực tức buồn rầu. Muốn tọa thiền phải sắm phương tiện ngồi, một cái
"bồ đoàn" đặt trên một tấm nệm mỏng sáu tấc vuông. Nếu không có tấm nệm,
trải mền hai ba lớp cũng được. Bồ đoàn may bằng vải, trong dồn gòn đừng
cứng lắm, bề cao một tấc, bề kính hai tấc tây, hình tròn. Nếu không có bồ
đoàn nên lấy mền xếp làm tư, khi ngồi chỉ để phân nửa bàn tọa lên mền cho
có thế ngả về trước một chút, xương sống dễ thẳng. Ngồi phải lựa chỗ ít
gió mà không nực lắm. Nếu ban đêm ngồi trong mùng chớ để đèn sáng lắm,
cũng đừng tối mò, sáng vừa vừa là tốt.
b. Trong khi tọa thiền:
Đến giờ tọa thiền, trải nệm lót bồ đoàn xong, ngồi lên bồ đoàn, xương cùng
đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua nghiêng lại cho an ổn mới kéo chân ngồi.
Nếu ngồi bán già, kéo chân trái để lên đùi mặt, hoặc chân mặt để lên đùi
trái cũng được, tùy sự thuận tiện của hành giả. Hai thế ngồi ấy, một là
kiết tường hai là hàng ma. Nếu ngồi kiết già, chân trái kéo để lên đùi
mặt, chân mặt kéo để lên đùi trái, kéo sát vào thân. Kế nới rộng dây lưng,
cổ áo, sửa thân ngay thẳng. Lấy bàn tay trái để lên bàn tay mặt, hoặc
ngược lại cũng được. Hai bàn tay để trên hai lòng bàn chân, những ngón tay
chồng lên nhau, hai đầu ngón tay cái vừa đụng nhau, nằm ngay chiều cái
rún. Nếu lòng bàn chân bên nào trũng quá, nên lấy khăn xếp lại chêm cho
hai tay ngang bằng nhau. Chuyển động thân ba lần, ban đầu rất mạnh, sau
yếu dần. Ngồi lưng thẳng vừa phải, đừng cố gắng, đầu hơi cúi, chiều chót
mũi ngay đầu ngón tay cái, hai trái tai ngang bả vai, mắt mở một phần ba,
gương mặt bình thản, ngồi yên. Dùng miệng thở hơi ô trược ra, khi thở há
miệng cho hơi ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, thở thật dài và sạch, hơi ra
tưởng như tất cả phiền não bệnh hoạn theo hơi thở ra ngoài hết. Ngậm miệng
lại dùng mũi hít hơi vào, dài nhẹ và thật đầy, hơi vô tưởng không khí
trong sạch vào khắp châu thân. Như thế ba lần. Thở xong, ngậm miệng lại,
môi và răng vừa kề nhau, lưỡi để lên trên. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng
mũi đều đều nhẹ nhẹ mà dài. Thân ngồi ngay thẳng như cột trụ, dù có ngứa
ngáy cũng không cựa động, nhức mỏi cũng gan dạ chịu đựng đúng giờ mới xả.
Vọng tưởng dừng là định, đừng đòi hỏi cái định nào khác. Ứng dụng đúng câu
Thiền sư Huyền Giác nói: "Tỉnh tỉnh lặng lặng là phải, tỉnh tỉnh vọng
tưởng là sai; lặng lặng tỉnh tỉnh là phải, lặng lặng hôn trầm là sai". Đây
là phương pháp nhập thiền.
Đến trụ thiền, tùy trình độ ứng dụng một trong bốn pháp trên để trị tâm.
Nếu người sơ cơ nên dùng lối biết vọng để tu. Khi ấy, thở ra vào an ổn đôi
ba phút, buông hơi thở để tâm an tịnh, vừa có vọng khởi liền biết vọng
không theo, vọng lặng thì tâm lặng, vọng dấy liền biết vọng. Cứ thế mãi
cho đến vọng thưa dần và im bặt. Nếu mơ màng ngủ gục, cần mở mắt sáng ra,
chấn chỉnh thân nghiêm trang lại, ma ngủ vẫn hoành hành nên trụ tâm tại mé
tóc nhọn trên trán, ma ngủ vẫn trầm trọng, nên xả thiền đi kinh hành. Nếu
vọng tưởng quá mạnh, nên trụ tâm tại chót mũi hay giữa rún. Song chỉ tạm
thời cho qua cơn mãnh liệt của chúng thôi. Vọng tưởng bình thường nên giữ
biết vọng không theo, chẳng cần làm gì khác. Như thế ngồi được bao lâu tùy
sức tu tập của hành giả. Trong lúc ngồi nghe ngực nặng, tim hơi nhói là
ngồi thẳng quá, phải rùn xuống một chút, nghe nhức xương sống gần lưng
quần, biết ngồi cong rồi, phải thẳng lên. Khéo léo đừng để thành bệnh.
Khi xuất thiền, trước đọc bài nguyện hồi hướng, kế dùng miệng thở ra, mũi
hít vào ba lần như khi mới vào, động hai bả vai lên xuống năm lần, động
cái đầu cúi ngước năm lần, và nghiêng sang phải sang trái năm lần. Động
hai bàn tay nắm lại duỗi ra năm lần, dời hai bàn tay ra đầu gối, chuyển
động toàn thân ba lần, từ nhẹ ra mạnh. Xoa bóp toàn thân từ đầu đến chân,
chỗ nào bất an càng bóp nhiều, xoa hai tay ấm áp vào mắt ba lần. Cần nhớ
mỗi mỗi hành động đều nhẹ nhàng êm ái, đừng thô ồn. Dời thân khỏi bồ đoàn,
ngồi thường yên tịnh khoảng năm phút, sẽ đứng dậy đi.
c. Sau khi tọa thiền:
Nếu hoàn cảnh thuận tiện, hành giả sau khi xả thiền, ra sân hoặc hành lang
nhà đi kinh hành thẳng chân độ muời phút. Bước thẳng chân mà chẳng động,
tâm vẫn biết vọng không theo. Bắt tay vào việc làm nào đều chỉ biết trong
việc làm ấy, có vọng tưởng kéo đi, buông chúng không theo. Đó là biết tu
sau khi xả thiền.
d. Trong khi tọa thiền thấy cảnh lạ:
Hành giả trong khi tọa thiền thường có tướng lạ phát hiện, nghe thân nặng
nề như có vật gì đè lên, thân nhẹ nhàng muốn bay bổng, có những con li ti
bò ngứa trên mặt, luồng điện từ xương sống chạy lên, có vật gì xúc chạm
rợn người, thân muốn lay động, đầu lắc lơ, thấy phía trước có ánh sáng,
nghe như có người nói bên lỗ tai., tất cả những tướng ấy đều không nên
chấp nhận hay sợ hãi. Phải quán nó là hư giả, vẫn giữ thân làm chủ không
cho nó xâm phạm. Cho đến dù thấy ma hay thấy Phật cũng không mừng không
sợ, vì biết đều là tướng hư giả nên không chấp nhận. Nhà thiền nói "gặp ma
giết ma, gặp Phật giết Phật" là thế. Vui mừng và sợ hãi là nhân của điên
cuồng. Kinh Lăng Nghiêm nói về ngũ ấm ma, mỗi đoạn kết thúc Phật dạy: "Nếu
cho mình chứng thánh tức rơi vào bọn tà, không nghĩ chứng thánh là cảnh
giới tốt" (Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà, bất khởi thánh tâm tức
thiện cảnh giới). Cảnh tà hay tốt đều tại tâm mình chấp mà ra. Đừng quan
tâm đến ngoại cảnh, chủ yếu an tâm là đúng. Dù có cảnh dữ hiện ra vẫn là
tướng biến hóa không thật, cái không thật làm gì hại được mình mà sợ.
Trong khi ngồi thiền thấy cảnh lạ, phần lớn là mơ, cần phải mở mắt tỉnh
táo nhìn chúng, nếu nhìn mà chúng không mất thì nhắm mắt lại tưởng năm uẩn
này là không, tướng kia cũng không thì khỏi sợ sệt.
e. Lợi ích tọa thiền:
Tọa thiền là một lối tu căn bản của đạo giác ngộ, đức Thích-ca ngày xưa
cũng do tọa thiền được ngộ đạo, Giới Định Tuệ là ba cửa giải thoát của đạo
Phật. Tọa thiền đúng pháp sẽ đem lại cho thân chúng ta sự điều hòa khỏe
mạnh, da dẻ tươi tốt, ít sanh bệnh hoạn. Khi nghe uể oải trong người sắp
bị cảm, chúng ta ngồi thiền độ một tiếng đồng hồ là tan ngay. Nếu cảm gió
hơi nặng, cần ngồi đôi ba lần mới hết. Vì ngồi thiền hơi nóng xông ra, mọi
thứ khí lạnh đều bị tan nên hết cảm. Về phần tâm tán loạn, tọa thiền đuổi
chúng nhanh hơn bình thường. Song có nhiều vị thấy lúc ngồi thiền loạn
nhiều hơn ở ngoài, chẳng qua lúc ở ngoài cảnh động nên ít thấy tâm mình
động, khi tọa thiền cảnh đã vắng nên dễ thấy tâm động. Tâm động mà xả hết
không theo, dần dần tịnh lại, đây là hiệu quả của tọa thiền. Bởi tọa thiền
thiết yếu nên tăng sĩ ít ai không tập tọa thiền. Chúng ta nghe Thiền sư
Thiện Chiêu ở Phần Dương nói kệ:
Bế hộ sơ dung tẩu
Vi tăng nhạo tọa thiền
Nhất tâm vô tạp niệm
Vạn hạnh tự thông huyền
Nguyệt ấn thu giang tĩnh
Đăng minh thảo xá tiên
Kỷ nhân năng đáo thử
Đáo thử kỷ năng chân.
Đóng cửa dáng gầy nhác
Làm tăng thích tọa thiền
Nhất tâm không niệm tạp
Muôn hạnh tự thông huyền
Trăng in dòng thu lặng
Đèn sáng nhà cỏ tươi
Mấy người hay đến đó
Đến đó mấy kẻ chân.
Tóm lại, phương pháp tọa thiền tuy đã chỉ qua mấy trang giấy này, song quí
nhất là hành giả trực tiếp với những vị có thật tu thiền để được chỉ rõ
cách tọa thiền và sửa cho những chỗ sai, kết quả sẽ tốt hơn.
C. HIỆU DỤNG
Ứng dụng lối tu thiền của Thiền tông một cách đúng đắn, đạt hiệu quả không
thể kể hết. Vì đây là lối tu siêu thoát tộ? đỉnh, thẳng tắt vô cùng. Nếu
ứng dụng được viên mãn thì một đời giải thoát sanh tử, từ phàm phu tiến
thẳng lên Phật quả, như nói: "Mê là chúng sanh, ngộ là Phật". Bằng ứng
dụng được phần nào thì đã vào hàng Bồ-tát, tuy chưa thoát khỏi sanh tử,
song đi trong sanh tử coi như dạo hoa viên. Thiền sư Từ Minh nói: "Sanh
như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ". Dưới con mắt các Thiền sư, thật cuộc
đời là mộng huyễn không hoa, không có gì là chướng ngại. Công dụng hữu
hiệu tạm chia làm hai phần:
1. Tánh giác là hòn ngọc như ý:
Tất cả nhân loại không quí gì bằng sanh mạng, sanh mạng được coi trọng
nhất trên nhân gian này. Bởi vì tất cả của cải sự nghiệp, danh vọng tài
sắc. đều để tô điểm cho sanh mạng. Mất sanh mạng tất cả cái ấy trở thành
vô nghĩa. Song sanh mạng con người thời nay, nếu kéo dài lắm chỉ trong
vòng bảy tám mươi năm. Cái đau khổ nhất của con người là khi nghe mình sắp
mất sanh mạng. Vì thế bất cứ sự cầu khẩn, van xin, quỵ lụy, lạy lục nào
miễn là được kéo dài thêm sanh mạng thì họ sẵn sàng làm. Nhưng cuối cùng
con người đành phải trói tay cúi đầu dưới nhát kiếm của con quỷ vô thường.
Thật là mối đau khổ truyền kiếp không ai thoát được. Nếu có một phương
pháp nào khiến con người thoát được cái chết thì trên nhân gian này còn gì
quí bằng! Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu quí vị phương thuốc hy hữu duy
nhất trên đời, nếu quí vị uống nó vào thì "bất tử", chính là tánh giác của
quí vị đấy. Người giác ngộ tánh giác là nhận ra được cái "bất tử". Vì thế
tánh giác này được Phật dụ là hòn ngọc như ý. Được hòn ngọc này rồi, con
người dứt sạch mọi đau khổ, mọi mong cầu đều toại nguyện. Nhưng rất tiếc,
hòn ngọc quí để bên gói bánh kẹo, với đứa bé lên năm bao giờ cũng quí gói
bánh kẹo, xem thường hòn ngọc. Cũng thế, tánh giác thường hằng, đơn giản,
hiện hữu nơi chúng ta, mà bị chúng ta lãng quên. Chúng ta cứ say mê theo
cái tưởng tượng, cái nhớ nhung, cái suy tư, cái tính toán, cái so sánh.
quên bẵng tánh giác. Nếu có người chỉ thẳng tánh giác ấy cho thấy, cũng
vẫn xem thường. Vì thương đứa bé, muốn nó nhận hòn ngọc để sau này no ấm
đời đời, người trí phải nói với nó: "Hòn ngọc này sẽ làm ra nhiều bánh
kẹo, có nó thì muốn bánh kẹo lúc nào cũng có, chẳng những bánh kẹo mà mọi
đồ chơi cũng đầy đủ nữa". Do thích bánh kẹo, ham đồ chơi, đứa bé nhận hòn
ngọc. Cũng vậy, đức Phật diễn tả trong kinh nào là tam thân, tứ trí, ngũ
nhãn, lục thông, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng v.v. và v.v., đều đầy đủ
nếu người nào ngộ được tánh giác. Vì thích thần thông tự tại biến hóa vô
cùng, chúng ta phát tâm bồ-đề hướng về tánh giác. Hoặc vì tánh hiếu kỳ, ưa
tưởng tượng quái dị, những người này không thích cái gì đơn giản bình dị,
muốn chỉ tánh giác thực hữu mà giản đơn cho họ, không sao tránh khỏi họ sẽ
xem thường. Buộc lòng đức Phật phải nói một cách khó khăn, quá sức tưởng
tượng của họ, có thế họ mới quí trọng kính nể và tìm tòi tu tập.
Thật sự tánh giác lồng sẵn nơi con người xác thịt của chúng ta, nó hiển
bày từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta, song nó không phải mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là phần vật chất do
tứ đại hòa hợp mà thành; tứ đại thể nó vô tri nên không phải tánh giác. Y
Ù là cái tâm vọng tưởng quấy động bám vào bóng dáng của trần cảnh, biến
động sanh diệt, chợt có chợt không, chẳng phải tánh giác. Bởi vì tánh giác
là liễu tri thường hằng, không tướng mạo, không sanh diệt. Cho nên năm căn
tiếp xúc với năm trần, liễu tri mà không so sánh phân biệt, đó là hiện
tướng của tánh giác. Nhẫn đến khi không có năm trần, tánh giác cũng hằng
hiển bày như vậy. Bên trong ý thức dấy động hay dừng nghỉ, biết rõ mọi
động tác của ý là tánh giác. Nếu không tánh giác, cái gì biết ý thức có
động hay không động? Vì tánh giác không động, không tướng mạo nên không
sanh diệt. Sống được với tánh giác là đi vào bất tử (vô sanh), sống với
vọng tưởng là đi vào sanh tử. Bất tử là Niết-bàn giải thoát, sanh tử là
luân hồi đau khổ. Vọng tưởng là cái động của tánh giác, vọng tưởng lặng
xuống là tánh giác tròn đầy. Chúng tôi mượn bài kệ của Thiền sư Thanh Hồng
để kết thúc đoạn này:
Chân không trạm tịch duy thường tại
Bất giác lương điền vọng sở mông
Chân tánh hà tằng ly vọng hữu
Hoa khai hoa lạc tự xuân phong.
Chân không lặng lẽ thường còn mãi
Chẳng biết lương điền vọng che lồng
Chân tánh đâu từng lìa vọng có
Hoa khai hoa rụng tự gió xuân.
2. Tự tại khi chết:
Người tu thiền cốt yếu được sanh tử tự tại, khi sống cũng như khi chết
mình hoàn toàn làm chủ. Muốn làm chủ khi chết, chính lúc còn sống này mình
phải làm chủ cả thể xác lẫn tâm hồn. Như Thiền sư Đạo Giai nói: "Muốn biết
khi chết được tự tại (hay) không tự tại, chỉ xem hiện tiền tự do (hay)
chẳng tự do". Tự do đây có nghĩa là mình làm chủ mình hoàn toàn, không
phải tự do đối với xã hội. Đối với danh vọng tài sắc. không quấy nhiễu
được ta, đối với khổ vui sống chết. không phiền lụy đến ta, ta sống trong
cuộc đời phồn tạp mà vẫn không vướng bận, như cây bá hiên ngang đứng sừng
sững giữa trời. Trong khi sống tự tại như vậy, đến lúc chết làm gì chẳng
tự do. Tại sao được như vậy? Bởi vì chúng ta đã thấy rõ cái không sanh tử
ở trong cái sanh tử, có cái chân thật nằm trong cái giả dối. Các Thiền sư
vì sống với cái chân thật nên không màng đến cái giả dối, sống với cái
không sanh tử nên làm chủ được cái sanh tử. Chúng ta hãy xem cái chết của
Thiền sư:
Trước khi sắp tịch, Thiền sư Đặng Ẩn Phong hỏi chúng: "Tôi thường thấy các
vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi, hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng?"
Chúng thưa: "Có." Sư hỏi: "Có vị nào lộn ngược tịch chăng?" Chúng thưa:
"Chưa từng thấy." Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn
như đứng. (Đặng Ẩn Phong là đệ tử Mã Tổ).
Vua Đường Mục Tông sai Lưỡng Nhai Tăng Lục là Linh Phụ đến thỉnh Thiền sư
Vô Nghiệp về triều. Linh Phụ đến làm lễ thưa: "Hoàng Thượng ân chỉ phen
này chẳng giống lúc thường, xin Hòa thượng hãy thuận thiên tâm, không nên
nói bệnh." Sư cười chúm chím nói: "Bần đạo có đức gì làm phiền thế chủ.
Mời các Ngài đi trước, tôi sẽ đi đường riêng." Sư bèn tắm gội, đến giữa
đêm bảo đệ tử Huệ Âm v.v. : "Các ngươi! Tánh thấy nghe hiểu biết cùng hư
không đồng tuổi, chẳng sanh, chẳng diệt, tất cả cảnh giới vốn tự không
lặng, không một pháp có thật, người mê không hiểu bị cảnh làm lầm, trôi
lăn không cùng." Nói xong Sư ngồi yên thị tịch. (Cũng là đệ tử Mã Tổ).
Ông Bàng Long Uẩn sắp tịch, bảo con gái là Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng
ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa: "Mặt trời đã đúng ngọ mà
có nguyệt thực." Ông ra cửa xem. Linh chiếu lên tòa của ông, ngồi kiết già
chấp tay thị tịch. Ông vào xem thấy cười, nói: "Con gái ta lanh lợi quá!"
Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Đến ngày thứ bảy Châu Mục Vu Công đến thăm,
ông bảo: "Chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật,
khéo ở thế gian đều như bóng vang." Nói xong ông nằm gác đầu trên đầu gối
Vu Công mà tịch.
Thiền sư Lương Giới Động Sơn cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh
chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt.
Sư mở mắt bảo: "Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật là tu hành chân
chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?" Sư bảo chủ sự sắm
trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn quyến luyến quá, kéo dài đến ngày thứ
bảy. Khi thọ trai Sư cũng theo chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng:
"Tăng già vô sự, sắp đến giờ ta ra đi, chớ làm ồn náo". Sư vào trượng thất
ngồi yên mà tịch. (Sư là đệ tử Vân Nham).
Chỉ Y Đạo Giả đến tham vấn Tào Sơn Bổn Tịch. Tào Sơn hỏi: "Đâu chẳng phải
Chỉ Y Đạo Giả ư?" Đạo Giả thưa: "Chả dám." Tào Sơn hỏi: "Thế nào là việc
của Chỉ Y?" Đạo Giả thưa: "Chiếc áo cừu vừa khoác ngoài thân, muôn pháp
thảy đều như." Tào Sơn hỏi: "Thế nào là dụng của Chỉ Y?" Đạo Giả lại gần:
"Dạ!" Liền đứng tịch. Tào Sơn bảo: "Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng
giỏi đến thế ấy?" Đạo Giả mở mắt hỏi: "Một chân tánh linh khi chẳng nương
bào thai thì thế nào?" Tào Sơn bảo: "Chưa phải diệu." Đạo Giả hỏi: "Thế
nào là diệu?" Tào Sơn bảo: "Chẳng mượn! Mượn!" Đạo Giả trân trọng liền
tịch. (Đệ tử Động Sơn).
Một hôm Phổ
Hóa ở trong chợ đến mọi người xin chiếc áo dài, mọi người đều cho, Phổ Hóa
đều chẳng nhận. Lâm Tế dạy Viện Chủ mua chiếc quan tài, Phổ Hóa về đến,
Lâm Tế bảo: "Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi!" Phổ Hóa liền tự vác đi.
Phổ Hóa đi quanh phố chợ rao: "Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang
cửa Đông tịch." Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: "Tôi ngày
nay chưa tịch, ngày mai sang cửa Nam mới tịch." Như thế đến ba ngày, mọi
người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư không ai theo xem, một mình Phổ Hóa
tự chun vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi, mọi
người trong chợ đua nhau đến giở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa
đâu, chỉ nghe trong hư không tiếng mõ xa dần, xa dần rồi mất. (Đệ tử Bàn
Sơn)
* Thiền sư Thiện Chiêu bị Y Lý Hầu ba phen thỉnh trụ trì chùa Thừa Thiên
mà Sư không đi. Sứ giả bị phạt. Y Lý Hầu lại sai sứ đi phen nữa. Sứ giả
đến thưa: "Quyết thỉnh thầy đồng đi, nếu thầy không đi tôi liều chết mà
thôi." Sư cười bảo: "Bởi nghiệp già bệnh không thể xuống núi, giả sử đi có
trước có sau, tại sao quyết đồng?" Sứ giả thưa: "Thầy chịu đi thì trước
sau tùy lựa chọn." Bảo chúng sửa soạn hành lý xong, Sư gọi chúng lại nói:
"Lão tăng đi, có người nào theo được?" Có vị Tăng ra thưa: "Con theo
được." Sư hỏi: "Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?" Tăng thưa: "Năm
mươi dặm." Sư bảo: "Ngươi theo ta chẳng được." Lại có vị Tăng ra thưa:
"Con theo được." Sư hỏi: "Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?" Tăng
thưa: "Bảy mươi dặm." Sư bảo: "Ngươi theo ta cũng chẳng được." Thị giả ra
thưa: "Con theo được, Hòa thượng đến đâu thì con đến đó." Sư bảo: "Ngươi
theo lão tăng được." Nói xong, Sư bảo thị giả: "Ta đi trước nghe!" Sư dừng
lại rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo. (Sư là đệ tử Thiền sư
Tỉnh Niệm dòng Lâm Tế).
Tạm dẫn bấy nhiêu cũng khá rườm lắm rồi, chúng tôi làm sao kể hết sự ra đi
tự tại của các Ngài. Tuy nhiên đối với các Thiền sư có những cái kỳ đặc,
song đấy chẳng phải quan trọng, vì đều là diệu dụng. Cái quan trọng nhất
trong nhà Thiền là sống được tánh giác của mình, nó mới là bản thể. Bản
thể là cái gốc, diệu dụng là cái ngọn. Chỉ lo không bám được gốc, đừng sợ
mất ngọn. Khi sống được với thể giác rồi thì mỗi hành động nào cũng là
thần thông diệu dụng cả. Ông Bàng Long Uẩn nói kệ:
Nhật dụng vô biệt sự
Duy ngô tự ngẫu hài
Đầu đầu phi thủ xả
Xứ xứ vật trương quai
Châu tử thùy vi hiệu
Khưu sơn tuyệt điểm ai
Thần thông tịnh diệu dụng
Vận thủy cập ban sài.
Hằng ngày không việc khác
Chỉ tôi tự biết hay
Vật vật chẳng lấy bỏ
Chỗ chỗ nào trái bày
Đỏ tía gì làm hiệu
Núi gò bặt trần ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước bửa củi tài.
Thần thông ở đây là gánh nước bửa củi, vì mọi hành động ấy đều từ thể giác
phát xuất. Chúng ta lại nghe một bà già trình thần thông:
Thiền sư Nam Tuyền, Qui Tông, Ma Cốc đi hành cước đến một cái quán của bà
lão. Quí vị kêu bà đem trà, bà bảo: "Quí thầy trình thần thông rồi sẽ uống
trà." Quí vị đưa mắt nhìn nhau. Bà bảo: "Quí thầy xem già này trình thần
thông đây." Bà liền tay cầm bình trà, tay bưng chung trà, nghiêng rót vào
chung để xuống.
Quả là thần thông trong hành động, đừng nghĩ thăng thiên độn thổ mới là
thần thông. Bởi bất cứ một tác động nào lưu xuất từ bản thể đều là diệu
dụng. Khổ nỗi, người tu hiện giờ chỉ trọng thần thông diệu dụng mà quên
bản thể. Vì thế nên dễ lạc vào đường tà, chính quỷ thần vẫn được ngũ
thông, làm sao giản trạch được đâu tà đâu chánh. Chỉ một bề trở về tánh
giác là muôn đời không lầm.
Tóm lại, hiệu dụng của người tu Thiền tông là nhận ra tánh giác của chính
mình, tánh giác này không sanh diệt, không tướng mạo mà hằng giác. Bởi
hằng giác nên chẳng phải không, không tướng mạo nên chẳng phải có. Sống
được với tánh giác là thoát ly sanh tử, tuổi thọ của tánh giác đồng với hư
không. Cho nên trong kinh nói tuổi thọ của Phật không biết bao nhiêu tính
kể. Đạt được tuổi thọ vô lượng vô biên ấy, còn gì hạnh phúc bằng, còn gì
quí báu bằng. Sống với cái vĩnh cửu chẳng sanh chẳng diệt này mới thật là
đến chỗ chân thật tuyệt đối. Còn cái gì ở thế gian có thể so sánh với tánh
giác. Tánh giác này mới thật là ta (chân ngã), tánh giác không bao giờ mất
(chân thường), tánh giác là chân thật hạnh phúc (chân lạc), tánh giác
không có gì nhiễm ô được (chân tịnh). Sống đến chỗ chân ngã, chân thường,
chân lạc, chân tịnh này mới là điểm cứu kính Thiền tông.
Trong khi trở về cái chân thật thì mọi cái giả dối giảm thiểu khả năng lôi
cuốn chúng ta. Từ từ ta làm chủ lại chúng, ta điều khiển chúng theo chỗ
muốn của chúng ta. Mọi khổ đau buồn thảm tự suy thối, không còn là điều
quan trọng đối với chúng ta nữa. Với cái thân giả tạm, cái vọng tưởng hư
ảo, sắc trần không hoa này, còn sức mạnh gì trói buộc chúng ta được. Bởi
thấy được ông chủ thật của mình, mọi khách trần đều là trò đùa nên Thiền
sư tự tại khi ra đi.
IV. ĐỨC PHẬT QUA CÁI
NHÌN CỦA THIỀN TÔNG.
Thiền
tông nhìn đức Phật khác cái nhìn của Phật tử thường. Mọi người phật tử đều
thừa nhận đức Phật là người Ấn Độ, sanh ra từ cung vua Tịnh Phạn, có đủ ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đi xuất gia tu thành Phật, hiệu
Thích-ca Mâu-ni. Song Thiền tông không thấy như thế.
A. THIỀN TÔNG NHÌN THẲNG
PHÁP THÂN PHẬT.
Con mắt Thiền tông thấy Phật là Phật Pháp
thân. Bởi ba thân Phật - Pháp thân - Báo thân - Hoá thân, Pháp thân là căn
bản. Từ Pháp thân mới có Báo thân, Hóa thân hay Ứng thân. Báo thân, Hóa
thân là tướng sanh diệt, Pháp thân mới là thân Kim Cang bất hoại. Pháp
thân tức là tánh giác. Đức Thích-ca ngộ tánh giác được thành Phật. Chúng
ta mê tánh giác nên làm chúng sanh. Phật khác với chúng sanh chỉ tại ngộ
tánh giác và mê tánh giác. Tánh giác là thể chân thật của Phật, đạt tánh
giác là thoát ly sanh tử luân hồi, vĩnh viễn bất tử. Đó là mục đích thái
tử Tất-đạt-đa xuất gia tầm đạo. Tánh giác không tướng mạo nên không sanh
diệt, thường còn, bất hoại. Tuy không tướng mạo mà hằng giác nên gọi là
Phật. Bởi thấy Phật như thế nên nói: "Phật thường còn ở thế gian". Nếu
thấy Phật là thân ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, thân ấy đã hoại
diệt mất rồi, thế là Phật không còn sao? Thái tử Tất-đạt-đa tầm đạo khổ
tu, cuối cùng đi đến chỗ hoại diệt, làm sao gọi Ngài thành đạo? Làm sao
gọi Ngài thoát ly sanh tử luân hồi? Do đó Thiền tông chỉ thấy tánh giác
hay Pháp thân là Phật, chớ không chấp nhận thân tướng tứ đại hòa hợp làm
Phật.
Bởi thấy tánh giác không lệ thuộc vào thân
tướng, nên Thiền tông thờ Phật không căn cứ vào thân Phật ở Ấn Độ, tùy
người xứ nào liền tượng hình Phật giống người bản xứ ấy. Tánh giác lồng
sẵn trong mỗi người, sùng thượng tánh giác đâu cần bám vào hình thức người
Ấn Độ mới gọi là Phật. Thờ Phật với quan niệm biểu trưng để nhắc nhở mọi
người nhớ lại tánh giác của mình. Đức Phật ngồi trên bàn là giả, chính
tánh giác của mình mới là ông Phật thật. Thế mà người ta quên tánh giác
đi, chỉ biết ông Phật ở ngoài, quên hẳn ông Phật nơi mình. Thiền sư Tùng
Thẩm nói: "Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật
đất không độ được nước, Phật thật ngồi ở trong". Những hình tượng Phật
chúng ta thờ, đều là tướng duyên hợp, đã duyên hợp làm sao không bị duyên
tan. Phật thật đang ngồi lồ lộ nơi thân ta, chúng ta bỏ quên ông Phật
thật, chạy theo ông Phật giả. Vì thế Thiền sư Đơn Hà Thiên Nhiên mới làm
việc kỳ quái này, Sư đến chùa Huệ Lâm gặp tiết đại hàn, bèn lên chùa thỉnh
tượng Phật gỗ đốt để hơ. Viện chủ Hướng trông thấy quở trách: "Sao đốt
tượng Phật của tôi?" Sư lấy gậy bới trong tro nói: "Tôi thiêu để lấy
xá-lợi." Viện chủ bảo: "Phật gỗ làm gì có xá-lợi?" Sư nói: "Đã không có
xá-lợi, thỉnh hai vị nữa thiêu." Viện chủ nghe câu này, tất cả chấp đều
tan vỡ. Người sau nói "Đơn Hà thiêu mộc Phật, Viện chủ lạc mi mao" (Đơn Hà
thiêu Phật gỗ, Viện chủ rụng lông mày).
Xá-lợi là cái tinh ba cô đọng lại sau khi
thiêu thân Phật. Thân Phật đã hoại hơn hai ngàn năm rồi, mà xá-lợi vẫn
còn. So sánh trong tương đối, thân Phật là giả, xá-lợi là thật. Nương cái
giả để thấy cái thật mới đúng tinh thần thờ Phật. Chỉ biết cái giả mà
không thấy cái thật, tướng giả ấy trở thành vô nghĩa. Vì thế Thiền sư Đơn
Hà bảo: "Đã không có xá-lợi, thỉnh hai vị nữa thiêu". Viện chủ liền nhận
được ý này.
B. PHÁP THÂN CÓ SẴN NƠI
MỌI CHÚNG TA.
Quay lại tánh giác sẵn có nơi mọi chúng ta
là biết trở về với Phật. Chạy sang Tây thiên Đông độ cầu Phật, càng cầu,
càng xa. Chính vì chúng ta quên tánh giác của mình nên xem thấy Phật cao
siêu xa vời, quá tầm vóc của mình. Nếu mọi người nhận được tánh giác thì
đâu còn thấy Phật ngoài chúng ta. Lỗi lầm to lớn nhất là tại chúng ta có
Phật mà không dám tự nhận. Hãy nghe ông sa-di Cao đối đáp với ngài Dược
Sơn:
Dược Sơn hỏi: "Ta nghe ở Trường An rất náo
loạn, ngươi có biết chăng?" Sa-di Cao thưa: "Nước con an ổn." Dược Sơn
hỏi: "Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?" Sa-di thưa: "Chẳng do xem
kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được." Dược Sơn hỏi: "Có lắm người chẳng
xem kinh, chẳng thưa hỏi, tại sao chẳng được?" Sa-di thưa: "Chẳng nói họ
không được, chỉ vì họ không chịu thừa nhận."
Bởi không dám thừa nhận tánh giác của
mình, nên người ta chạy cầu Phật bên ngoài. Càng chạy ra ngoài, người ta
càng sa lầy trong mê lầm. Phật bên ngoài chỉ là đối tượng để cảnh giác
chúng ta thức tỉnh. Trái lại, chúng ta không thức tỉnh mà đi xin xỏ, ỷ lại
vào Phật bên ngoài. Thế là đã mê lại thêm mê. Cần phải thức tỉnh, nhận
tánh giác hay Pháp thân Phật ngay nơi thân năm uẩn này, mới thật người đạt
đạo. Chúng ta hãy nghe bà ni Liễu Nhiên nói kệ Pháp thân:
Ngũ uẩn sơn đầu cổ Phật đường
Tỳ-lô trú dạ phóng hào quang
Nhược năng ư thử phi đồng dị
Tức thị Hoa Nghiêm biến thập phương.
Trên đầu núi năm uẩn là ngôi nhà Phật xưa
Phật Pháp thân đêm ngày hằng phóng hào
quang ra sáu cửa
Nếu người khéo ở nơi đây không khởi tâm
phân biệt
Tức là Hoa Nghiêm (Pháp thân) khắp cả mười
phương.
Tóm lại, Thiền tông nhìn Phật bằng tướng
chân thật Pháp thân, cho nên thấy Phật đã có từ vô lượng kiếp, tuổi thọ
của Phật bằng tuổi hư không. Phật Pháp thân nằm sẵn trong nhà năm uẩn của
mọi chúng ta. Chúng ta tu hành cốt trở về với ông Phật sẵn có của chính
mình. Sống trọn vẹn với ông Phật của mình gọi là thành đạo chứng quả.
V. THIỀN TÔNG VỚI CÁC
KINH ĐẠI THỪA.
Thiền là tâm của Phật, kinh là miệng của
Phật. Đức Phật tâm miệng tương ưng, cho nên đem kinh đối chiếu với Thiền
là một cuộc tao phùng kỳ thú. Kinh Đại thừa quá nhiều, ở đây chúng tôi chỉ
đơn cử năm ba bộ, thường được Phật tử đọc tụng và hiểu biết. Mỗi bộ chúng
tôi chia: liên hệ Thiền sử, chủ đích, đối chiếu chi tiết và toát yếu toàn
bộ.
A. KINH LĂNG-GIÀ
1. Liên hệ Thiền sử:
Tổ Bồ-đề-đạt-ma sau khi truyền y bát cho
Tổ Huệ Khả, Ngài còn trao cho bốn quyển kinh Lăng-già để làm tâm ấn. Cho
nên kinh Lăng-già trong nhà Thiền được coi là một bộ kinh để tâm ấn.
2. Chủ đích:
Câu: "Dĩ tâm vi tông, dĩ vô môn vi pháp
môn" của kinh Lăng-già đã nói lên chủ đích của kinh này rồi. "Lấy tâm làm
chủ, lấy cửa không làm cửa pháp" là toát yếu toàn thể bộ kinh. Cửa vào của
kinh Lăng-già là trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp như huyễn, cứu kính của
kinh là nhận ra bản tâm chân thật. Câu này cũng là tông chỉ của Thiền
tông. Chúng ta nghe bài kệ của Bồ-tát Đại Huệ tán thán Phật trong phần tự:
Thế gian lìa sanh diệt
Ví như hoa hư không
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi
Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi
Xa lìa chấp đoạn, thường
Thế gian hằng như mộng
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi
Biết nhân, pháp vô ngã
Phiền não và sở tri
Thường thanh tịnh không tướng
Mà khởi tâm đại bi
Tất cả không Niết-bàn
Không Niết-bàn của Phật
Không có Phật Niết-bàn
Xa lìa giác, sở giác
Hoặc có, hoặc không có
Cả hai thảy đều lìa
Quán Mâu-ni tịch tĩnh
Thế là xa lìa sanh
Ấy gọi là chẳ?g thủ
Đời này đời sau tịnh.
Trong bài tán Phật này, thấy rõ chủ yếu
của kinh Lăng-già. Bốn câu đầu, thấy thế gian này chẳng thật có sanh,
chẳng thật có diệt, ví như hoa đốm trong hư không, trí Bát-nhã chẳng kẹt
nơi có nơi không mà khởi tâm đại bi. Bốn câu kế, thấy tất cả pháp như
huyễn, nên xa lìa vọng thức phân biệt, trí Bát-nhã chẳng dính vào có và
không, mà khởi tâm đại bi. Bốn câu tiếp, thấy thế gian như mộng chẳng
thật, phá được cái chấp đoạn kiến và thường kiến, trí Bát-nhã chẳng mắc có
và không, mà khởi tâm đại bi. Bốn câu kế, thấy người vô ngã, pháp vô ngã,
nên phiền não chướng và sở tri chướng thường được thanh tịnh không dấy
khởi, mà phát tâm đại bi. Sáu câu tiếp, không thấy thật có Niết-bàn thì
đâu có Niết-bàn của Phật, cũng không thấy Phật vào Niết-bàn, tức là lìa
được chấp có Phật năng giác và Niết-bàn sở giác, tất cả cái chấp hai bên
thảy đều lìa. Bốn câu chót, phải nhận ra pháp thân tịch tĩnh, là xa lìa
sanh tử, đó gọi là không chấp, muôn đời được thanh tịnh.
Suốt bài kệ có hai mươi sáu câu, hai mươi
hai câu trên là chỉ thẳng cửa không, bốn câu chót chỉ ra tâm thể. Mâu-ni
tịch tĩnh là chỉ Phật pháp thân, pháp thân này nằm sẵn trong chúng sanh,
gọi là Chân tâm hay Phật tánh. Đối chiếu với Thiền tông thì hai mươi hai
câu trên nằm trong hai phần giác ngộ hạ và trung, "vô ngã" và "vô niệm",
bốn câu sau là phần giác ngộ thượng "tri hữu". Tóm lại, kinh Lăng-già và
Thiền tông đã đồng hoá nhau, chủ đích kinh Lăng-già là chủ đích Thiền
tông, không còn gì phải so sánh đối chiếu.
3. Đối chứng chi tiết:
Qua một trăm lẻ tám câu hỏi của Bồ-tát Đại
Huệ, đức Phật chỉ trả lời bằng một chữ "phi" hay chữ "bất". Để rõ ràng câu
trả lời Phật lặp lại câu hỏi rồi đặt vào một chữ "phi" đáp cho tất cả.
Cũng thế, Thiền sư Vô Nghiệp khi có thiền khách đến hỏi bất cứ câu gì,
Ngài cũng trả lời bằng câu: "Chớ vọng tưởng". Hơn nữa Thiền sư Vân Môn,
mỗi khi đáp câu hỏi của người, Ngài thường dùng một chữ hoặc "cố" hoặc
"giám" hoặc "di".
Đến phần "Chỉ Phật giác tự chứng, không
thể nói bày", Phật toát yếu bằng bài tụng:
Ta đêm ấy thành đạo
Đến đêm ấy Niết-bàn
Ở trong khoảng giữa này
Ta trọn không có nói
Duyên tự đắc pháp trụ
Nên ta nói thế ấy
Phật kia cùng với ta
Thảy không có sai biệt.
Trong chỗ tự chứng không thể nói ra được,
có nói ra đều không đúng sự thật. Pháp thân không có tướng mạo, không có
danh tự, dùng danh tự diễn tả, mượn tướng mạo so sánh, đều trái với tự
thể. Cho nên đức Phật nói: "Từ khi thành đạo đến nhập Niết-bàn, trong
khoảng giữa chưa từng nói một câu". Chỗ không nói một câu đó, để chỉ pháp
thể tự chứng ngoài ngôn ngữ văn tự. Có vị tăng đến hỏi Thiền sư Bảo Triệt:
"Thế nào là đại ý Phật pháp?" Sư lặng thinh. Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền
đến hỏi Hoàng Bá: "Thế nào là đại ý Phật pháp?" Hoàng Bá liền đánh. Lâm Tế
ba phen hỏi là ba phen ăn đòn. Đến đây chúng ta thấy yếu chỉ Phật, Thiền
sư nào có khác nhau. Trên phương tiện, Phật còn dùng lời, Thiền sư chỉ im
lặng hoặc đánh, đều thầm chỉ cái phi ngôn ngữ ấy.
Đoạn nói về Thuyết và Tông, đức Phật kết
thúc bằng bốn câu tụng:
Ta nói hai thứ thông
Tông thông và ngôn thuyết
Thuyết là dạy đồng mông
Tông vì người tu hành.
Thuyết là giáo, tông là thiền; hoặc thuyết
là lời nói, tông là tâm. Ở đây Phật đã nói rõ, người sơ cơ Ngài dùng
thuyết để dạy họ, người đạt đạo tu hành Ngài dùng tông chỉ cho họ. Thế thì
Giáo và Thiền ở trong kinh Lăng-già này, chúng ta thấy hệ trọng dường nào.
Đoạn chỉ Như Lai chẳng sanh chẳng diệt,
không đồng với ngoại đạo, phần kết đức Phật nói tụng, đoạn chót của tụng:
Như thầy trị các bệnh
Không có bao nhiêu luận
Vì bệnh có sai biệt
Nên lập các thứ trị
Ta vì chúng sanh kia
Phá hoại các phiền não
Biết căn kia hơn kém
Vì nói độ môn kia
Phi gốc phiền não khác
Mà có các thứ pháp
Chỉ nói pháp nhất thừa
Ấy tức là Đại thừa.
Phật không lập một pháp cố định nào hết,
chỉ vì bệnh phiền não của chúng sanh có nhiều thứ, tạm bày các độ môn khác
nhau. Như ông thầy thuốc, chỉ tùy bệnh nhân mà cho nhiều toa thuốc khác
nhau. Đến tột cùng gốc của phiền não không có nhiều thứ, chỉ một cái mê
thôi, nên Phật cũng chỉ dạy một thừa là Đại thừa hay giác ngộ. Thiền sư
Đức Sơn thượng đường nói: "Tông ta không ngữ cú, không một pháp dạy
người". Thiền sư Lâm Tế nói: "Ta không có một pháp để chỉ dạy người, cốt
vì họ nhổ đinh tháo chốt thôi". Thế thì, chúng ta thấy Phật và Thiền sư
chỗ dạy nào có khác nhau.
4. Toát yếu toàn bộ:
Nội dung kinh Lăng-già, đức Phật tạm dựng
lập: tám thức, năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã… Trước giải thích tám
thức: 1. Nhãn thức, 2. Nhĩ thức, 3. Thiệt thức, 4. Tỹ thức, 5. Thân thức,
6. Y Ù thức, 7. Y Ù căn, 8. Tàng thức. Để thấy rõ ý nghĩa của tám thức,
chúng ta hãy nghe bài tụng đức Phật trùng tuyên:
Ví như sóng biển cả
Đây do gió mạnh thổi
Sóng to vỗ biển rộng
Không có khi đoạn dứt.
Biển tàng thức thường trụ
Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các sóng thức
Ào ạt mà chuyển sanh
Các thứ sắc xanh đỏ
Kha, sữa và đường phèn.
Vị lạt các hoa quả
Nhật nguyệt cùng ánh sáng
Chẳng khác không chẳng khác
Nước biển nổi sóng mòi.
Bảy thức cũng như vậy
Tâm cùng hòa hợp sanh
Ví như nước biển đổi
Lớp lớp sóng mòi chuyển
Bảy thức cũng như vậy
Tâm cùng hòa hợp sanh.
Là chỗ tàng thức kia
Bao nhiêu các thứ chuyển.
Là do ý thức kia
Suy nghĩ nghĩa các tướng
Tướng chẳng hoại có tám
Vô tướng cũng vô tướng.
Ví như biển sóng mòi
Thế là không sai biệt
Các thức tâm như thế
Khác cũng không thể được.
Tâm tên gom góp nghiệp
Y Ù tên rộng gom góp
Các thức, thức sở thức
Cảnh hiện thấy nói năm.
Tám câu kệ đầu, Phật nói nguyên nhân có
thức dấy khởi tương tục. Biển cả dụ tàng thức, gió mạnh dụ trần cảnh, sóng
to vỗ dụ cả bảy thức. Biển tàng thức nguyên không có sóng, do ý thức duyên
theo trần cảnh nên sóng bảy thức đều nổi dậy tiếp tục không dứt. Biển tàng
thức là thường trụ, sóng bảy thức nổi dậy lớp lớp khác nhau ào ạt, dấy
động là vô thường.
Mười hai câu kệ kế, bốn câu trước nói tên
các trần cảnh, tám câu sau nói tuy có cảnh, thức dường như khác nhau, song
vẫn không khác nhau, vì cùng tàng thức hòa hợp sanh. Ví như các lượn sóng
khác nhau, mà đồng một thể nước.
Bốn câu tiếp nói, tàng thức là biển chứa
các sóng thức, gốc tại ý thức suy nghĩ phân biệt các tướng, nên các sóng
thức kia nổi dậy.
Sáu câu tiếp nói, tám thức trên giả tướng
thì hoại, mà trên thật thể thì không hoại, vì đồng một thể từ tàng thức
phát sanh. Ví như bao nhiêu lượn sóng trên mặt biển có khi nổi, khi lặn,
tướng có to có nhỏ, song thể nước của các lượn sóng nào có khác nhau và có
mất bao giờ.
Bốn câu kệ chót nói, tàng thức là gom chứa
chủng tử các nghiệp, Y Ù căn mang chủng tử vào tàng thức nên rộng gom góp,
các thức kia duyên theo năm trần cảnh là cái bị phân biệt.
Tóm lại, đức Phật phân chia làm tám thức
là tùy tướng dụng riêng biệt của mỗi cái, thật thể vẫn không khác nhau.
Mọi sự dấy động ào ạt của sóng thức, đều do ý thức chạy theo phân biệt
trần cảnh. Một khi ý thức dừng phân biệt, sóng bảy thức dừng lặng trở về
mặt biển tàng thức trong veo, tướng bất sanh bất diệt hiện tiền. Thế là,
thấy rõ trong tướng sanh diệt, có cái thể bất sanh diệt ngay nơi tám thức.
Trở về thể bất sanh diệt gọi là Như Lai tàng.
Năm pháp tức là: Danh, tướng, phân biệt
(giác tưởng), chánh trí, như như. Bởi phân biệt danh và tướng nên tạo
nghiệp thọ khổ trong sanh tử luân hồi. Biết rõ danh, tướng không thật,
duyên hợp, như huyễn hóa, vọng tưởng phân biệt cũng hư giả, là chánh trí.
Do chánh trí thấy rõ thật tướng của danh, tướng và phân biệt, nên không
duyên chấp, trở thành như như. Vì thế, danh, tướng và phân biệt là chiều
mê; chánh trí, như như là lối giác. Phân biệt là động cơ chính của mê,
chánh trí là động cơ chính của giác.
Ba tự tánh chính là: Biến kế sở chấp tánh,
y tha khởi tánh và viên thành thật tánh. Biến kế sở chấp tánh là chạy theo
danh tướng, bám chặt vào nó. Danh tướng không thật mà lầm chấp là thật,
đeo đuổi mãi không thôi. Y tha khởi là biết danh tướng, do duyên hợp mà
có, mỗi pháp đều không có tự tánh, phải nương pháp khác mới sanh khởi
được. Bởi biết các pháp do duyên khởi nên dứt cái lầm chấp của biến kế,
trở về viên thành thật. Trong ba tánh, biến kế là chấp sai lầm, y tha thấy
được duyên khởi, viên thành hoàn toàn chân thật. Chúng ta hãy nghe bài
tụng của Phật, liên hệ cả năm pháp và ba tự tánh:
Danh, tướng giác tưởng
Chánh trí, như như
Tự tánh hai tướng
Ấy là thành tướng.
Bài kệ này, hai câu trên chỉ cho năm pháp,
hai câu dưới chỉ cho ba tự tánh. Ba tự tánh không lìa năm pháp, biến kế
tương đương với giác tưởng, y tha tương đương với chánh trí, viên thành
tương đương với như như. Biến kế sở chấp là chấp cái gì? Tức là chấp danh,
tướng. Y tha khởi là biết cái gì? Cũng biết danh, tướng. Thế là năm pháp
và ba tự tánh không rời nhau.
Hai vô ngã tức là: Nhân vô ngã, pháp vô
ngã. Nơi người không chấp thật ngã, nơi pháp không chấp thật ngã. Phá được
hai thứ chấp ngã này, quả là người giác ngộ. Phật toát yếu hai vô ngã như
sau:
Khéo biết hai vô ngã
Hai chướng phiền não đoạn
Hằng lìa hai thứ tử
Ấy gọi tri giác Phật.
Người khéo biết hai thứ vô ngã, tức lìa
được hai chướng, phiền não và sở tri, dứt hẳn được hai thứ tử, phần đoạn
và biến dịch. Thấy biết được như vậy là cái thấy biết của Phật.
Tóm lại bộ kinh Lăng-già là tâm ấn của
thiền gia, bao nhiêu lời kinh là bao nhiêu ý thiền, kinh và thiền còn chỗ
nào không tương ưng nhau. Chỉ tại người tu thiền cũng như kẻ học kinh
không nỗ lực nghiên cứu trở thành mờ mịt ấy thôi.
B.
KINH KIM CANG
1. Liên hệ Thiền sử:
Lục Tổ Huệ Năng khi còn là cư sĩ, gánh củi
vào nhà người mua, nghe nhà bên cạnh tụng kinh Kim Cang, Ngài liền có
tỉnh. Sau đó Ngài đi xuất gia tìm đến Ngũ Tổ. Khi được Ngũ Tổ cho vào
thất, cũng đem kinh Kim Cang giảng cho Ngài nghe. Nghe đến câu: "Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm", Ngài liền đại ngộ. Được Ngũ Tổ truyền y bát và tiễn
đi trong đêm ấy.
2. Chủ đích:
Chủ đích kinh Kim Cang chỉ nằm trong hai
câu hỏi của Tôn giả Tu-bồ-đề: "Khi người nam lành, người nữ lành phát tâm
cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm sao an trụ? Làm sao hàng phục tâm
ấy?".
Đức Phật trả lời hàng phục tâm tóm lược
bằng cách độ tất cả chúng sanh (vọng tưởng) vào Vô Dư Niết-bàn, mà không
thấy có chúng sanh (vọng tưởng) được diệt độ, vì không còn thấy có bốn
tướng. Nói một cách dễ hiểu hơn, đưa tất cả vọng tưởng vào chỗ vô sanh, vì
mọi chấp ngã đều sạch.
Phật trả lời về an trụ tâm rằng: "Bồ-tát
nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nghĩa là không trụ sắc bố thí,
không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí". Nói một cách dễ hiểu,
Bồ-tát nên buông xả, không dính mắc, buông xả sáu trần không dính mắc
tướng. Chữ bố thí là buông xả, chữ trụ là dính mắc.
Thế là, người phát tâm cầu thành Phật,
muốn hàng phục và an trụ, cần phải đưa tất cả vọng tưởng vào vô sanh,
buông xả sáu trần không dính mắc tướng. Tóm lại, ngoài không dính mắc năm
trần, trong không theo vọng tưởng, đó là hàng phục tâm và an trụ tâm. Thế
thì, chủ đích kinh Kim Cang với chủ đích Thiền tông nào có khác. Người tu
thiền muốn được hằng sống với tánh giác thì trong không theo vọng tưởng,
ngoài không mắc năm trần. Bởi lẽ đó, Lục Tổ nghe đến câu "Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm" liền ngộ đạo.
3. Đối chứng chi tiết:
Trong phần mười bảy "Cứu kính vô ngã", có
đoạn Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: "Này Tu-bồ-đề! Thật không có pháp Như Lai
được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tu-bồ-đề! Nếu có pháp Như Lai được
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho ta…"
Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn thượng đường, có vị tăng hỏi: "Hòa thượng ở
chỗ Đức Sơn (thầy của Tuyết Phong) được pháp gì về đây dạy chúng?" Tuyết
Phong đáp: "Ta khi xưa đi tay không, về tay không." Quả thật, nếu thấy có
pháp sở đắc tức là có ngã nhân rồi. Thế nên, chỗ thấy của Thiền sư nào có
khác chỗ thấy của Phật. Chẳng những không có pháp sở đắc, cũng không có
pháp để nói. Trong phần hai mươi mốt "Phi thuyết sở thuyết", Phật bảo tôn
giả Tu-bồ-đề: "Này Tu-bồ-đề! Ông chớ nói Như Lai nghĩ thế này: ‘Ta sẽ có
pháp để nói’, chớ nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Nếu người nói Như Lai có pháp để
nói, tức là phỉ báng Phật, không thể hiểu chỗ ta nói. Này Tu-bồ-đề! Nói
pháp, không pháp để nói, ấy gọi là nói pháp…". Đây thật phù hợp với tinh
thần Thiền tông, không thấy có một pháp để cho người, song hằng thượng
đường thuyết pháp.
Phần thứ hai mươi sáu "Pháp thân phi
tướng", Phật hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: "Này Tu bồ-đề! Y Ù ông nghĩ sao, có thể
do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai chăng?" Tu-bồ-đề thưa: "Như thế, như
thế, do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai." Phật bảo: "Này Tu-bồ-đề! Nếu do
ba mươi hai tướng mà xem Như Lai thì vua Chuyển Luân tức là Như Lai…". Như
Lai ở đây là pháp thân Phật. Nếu người chấp vào thân có đủ ba mươi hai
tướng cho là thân Phật thì vua Chuyển Luân có đủ ba mươi hai tướng, ắt là
Phật rồi sao? Chính kinh Kim Cang Phật nói rõ Phật là tánh giác, chớ không
phải thân xác thịt. Thế là kinh này với cái nhìn của Thiền tông về đức
Phật nào có khác nhau.
4. Toát yếu toàn bộ:
Toàn bộ kinh Kim Cang chỉ gọn ghẽ nằm
trong hai câu hỏi của Tôn giả Tu-bồ-đề, bằng một điệp khúc "hàng phục tâm
và an trụ tâm". Chúng ta muốn thấy rõ ý trả lời của Phật có thể đúc kết
trong hai bài kệ này. Chúng ta sắp ngược thứ tự để thấy ý rõ hơn:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bóng, bọt
Như sương cũng như điện
Nên khởi quán như thế.
Phật dạy chúng ta nên khởi quán tất cả
pháp hữu vi như giấc mộng huyễn hóa, hòn bọt, cái bóng, sương mù, điện
chớp. Pháp hữu vi là những cái có hình tướng, có động tác, tóm lại là sáu
trần bên ngoài, sáu căn nơi thân và sáu thức bên trong. Nếu chúng ta thấy
căn, trần, thức đều là mộng huyễn… thì phá được cái ngu si chấp ngã nơi
thân, chấp ngã trong tâm và chấp pháp bên ngoài. Dùng trí tuệ Bát-nhã hằng
soi sáng như vậy tức là đã vào cửa Thiền tông.
Bài kệ tiếp:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Nếu do sắc thấy ta
Do âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.
Phật nói kinh là vì chúng sanh chớ không
vì Phật. Chữ Như Lai ở đây là chỉ pháp thân Phật, chính là tánh giác sẵn
có nơi mọi chúng sanh. Nếu chạy theo sắc tướng thanh âm mà cầu Phật, tức
là cầu Phật ngoài tâm. Ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo, nên nói: "Người ấy
hành đạo tà, không thể thấy Như Lai". Phật muốn chỉ thẳng cho chúng ta
thấy Phật là tánh giác thường hằng của mọi người. Đức Thích-ca do ngộ tánh
giác ấy được thành Phật. Mọi người chúng ta muốn cầu Phật phải xoay lại
tánh giác của chính mình liền thấy Phật. Chạy theo Phật bằng hình sắc,
thanh âm là Phật bên ngoài, Phật sanh diệt. Đã sanh diệt là vô thường, còn
bị vô thường tức còn luân hồi, làm sao giác ngộ giải thoát mà gọi là Phật.
Chỉ có pháp thân vô tướng, hằng giác, chẳng sanh chẳng diệt. Phật Thích-ca
đã chứng được, chúng ta có cầu nên cầu thẳng nơi đó liền thấy Như Lai.
Thấy Như Lai tức nhận được tánh giác, sống với ông chủ của chính mình, đây
là chỗ giác ngộ cứu kính của nhà thiền. Thế nên, Lục Tổ nghe đến đoạn
"Chẳng nên dính nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên dính thanh, hương, vị, xúc,
pháp mà sanh tâm, nên không có chỗ dính mắc mà sanh tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác" (Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc
pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm) liền được thấy pháp thân
thanh tịnh của chính mình. Chỗ ngộ của Lục Tổ và bài kệ ngắn này, chúng ta
thấy Phật dạy nào có khác. Chỉ vì chúng ta ngu mê ám chướng, nên lời Phật
dạy tỏ rạng như ban ngày mà chúng ta đọc mờ mịt không hiểu, có khi hiểu
lệch lạc, trở thành xuyên tạc Phật là khác. Chính vì thế, có người nghe
bài kệ này rồi quở trách trong chùa tại sao còn thờ Phật tượng là sắc
tướng, tại sao còn đánh chuông gõ mõ, tụng kinh là âm thanh, quả là hành
đạo tà không thể thấy Phật. Thế rồi làm sao để thấy Phật đây? Họ lại mờ
mịt không hiểu. Đó là xuyên tạc Phật. Nếu nhân Phật tượng để nhớ lại tánh
giác, nhân tụng kinh để dừng vọng niệm không chạy theo sáu trần, có lỗi
gì?
Tóm lại, bài kệ trước là hàng phục tâm,
bài kệ sau là an trụ tâm của Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi. Hai bài kệ đã đầy đủ ý
nghĩa của toàn quyển kinh.
C. KINH LĂNG NGHIÊM
1. Liên hệ Thiền sử:
a) Thiền sư Tông Nhất pháp danh Sư Bị ở
Huyền Sa. Sư nhập thất quên mất sớm chiều, lại xem kinh Lăng Nghiêm phát
minh tâm địa. Do đó Sư ứng đối lẹ làng cùng kinh điển phù hợp. Những vị
huyền học ở các nơi chưa giải quyết nghi ngờ đều đến cầu Sư chỉ dạy.
b) Thiền sư Pháp Loa, Tổ thứ hai phái Trúc
Lâm Việt Nam. Sư được Điều Ngự thu làm đệ tử, dạy Sư đến tham vấn Hòa
thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây Sư tìm đủ cách thưa hỏi mà vẫn không
khai ngộ. Sư tự đọc bộ kinh Lăng Nghiêm đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ
khách trần, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Sư có chỗ vào.
2. Chủ đích:
Chủ đích kinh Lăng Nghiêm, Phật cốt chỉ ra
cho hội chúng biết mọi người đều có tánh giác trong sáng, gọi là tánh giác
diệu minh hay Như Lai tạng hoặc Chân tâm. Tánh giác này phát sáng nơi sáu
căn, nên nói: "Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp". Song chúng sanh quên tánh
giác này, chạy theo sáu căn, phân biệt sáu trần, nên bị luân hồi sanh tử.
Muốn ngộ tánh giác phải nương cái sáng từ sáu căn phát ra mà trở về. Đây
là chân lý muôn đời của chư Phật. Cho nên chư Phật ở mười phương, nhiều
như số vi trần, khác miệng đồng lời, bảo Tôn giả A-nan: "Lành thay A-nan!
Ông muốn biết ‘câu sanh vô minh’, cái gốc khiến ông luân hồi sanh tử, chỉ
là ‘sáu căn của ông’, không có gì khác. Ông muốn biết ‘vô thượng bồ-đề’,
khiến ông chóng chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường, cũng chính
là ‘sáu căn của ông’, không có vật nào khác".
Sáu căn là gốc luân hồi, sáu căn cũng là
gốc giải thoát, nguyên nhân tại sao sai biệt như vậy? Chúng ta hãy nghe
Phật nói: "Tri kiến mà lập tri là gốc vô minh; tri kiến mà không kiến đây
là Niết-bàn" (Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến tư tức
Niết-bàn). Trong cái thấy biết, chạy theo phân biệt là gốc vô minh; trong
cái thấy biết, không phân biệt là Niết-bàn. Đó là con đường trở về tánh
giác. Trong sáu căn, ở đây đặt nặng tánh nghe nhiều hơn. Cho nên trong
phần chọn lựa căn để tu, Ngài Văn Thù có đoạn nói: "Đại chúng và A-nan!
Bảo các ông xoay cơ quan nghe, trở lại nghe cái tánh nghe, là thành đạo Vô
thượng. Viên thông thật như thế, đây là con đường vào cửa Niết-bàn của chư
Phật nhiều như số vi trần. Chư Phật đời quá khứ cũng từ cửa này thành tựu.
Chư Bồ-tát hiện tại đều vào viên minh và những người tu học đời vị lai
cũng y pháp như thế".
Phật và Bồ-tát đều xác nhận "Nghe lại tánh
nghe của mình" là con đường vào cửa Niết-bàn. Đây là lối tu trở về tánh
giác, do kinh này chủ trương. Tu như thế, tức là "Tự tánh thanh tịnh
thiền" của Thiền tông.
3. Đối chứng chi tiết:
Chủ yếu của kinh Lăng Nghiêm là từ "Nhất
tinh minh sanh lục hòa hợp". Thiền sư không nói danh từ kinh, song lúc nào
cũng sống và thực hiện đúng như vậy. Chúng ta hãy nghe lời đối đáp của
ngài Dược Sơn với Thiền sư Đàm Thạnh. Dược Sơn hỏi: "Ta nghe ngươi biết
làm sư tử múa phải chăng?" Sư thưa: "Phải." Dược Sơn hỏi: "Múa được mấy
xuất?" Sư thưa: "Múa được sáu xuất." Dược Sơn nói: "Ta cũng múa được." Sư
hỏi: "Hòa thượng múa được mấy xuất?" Dược Sơn đáp: "Ta múa được một xuất."
Sư nói: "Một tức sáu, sáu tức một." Qua mấy câu đối đáp này, có thấy đạo
lý gì đâu, tuy nhiên tràn trề đạo lý trong ấy.
Kinh Lăng Nghiêm đã dạy "sáu căn là gốc
luân hồi, sáu căn cũng là gốc Niết-bàn". Người muốn trở về chân tánh,
không có lối nào khác hơn là phải nương vào sáu căn. Thiền sư chỉ dạy lối
này rất linh động và đơn giản: Thiền sư Huệ Tịch đến phiên chăn trâu dưới
sườn núi, thấy một vị tăng lên núi, không bao lâu lại xuống. Sư hỏi:
"Thượng tọa sao không lưu lại trong núi?" Tăng nói: "Chỉ vì nhân duyên
chẳng hợp." Sư hỏi: "Có nhân duyên gì thử nói xem." Tăng nói: "Hòa thượng
hỏ? tôi tên gì? Tôi đáp Qui Chân, Hòa thượng hỏi Qui Chân ở đâu? Tôi đáp
không được." Sư bảo: "Thượng tọa trở lên thưa với Hòa thượng, con nói
được. Hòa thượng hỏi nói thế nào thì nên đáp trong mắt, trong tai, trong
mũi…" Vị tăng trở lại nói đúng như Sư dạy. Qui Sơn quở: "Kẻ nói suông vô
ích, đây là lời bậc Thiện tri thức của năm trăm người". Hỏi tên Qui Chân ở
chỗ nào, chỉ thẳng trong mắt, tai, mũi… quả thật đã giải thích sáu căn là
gốc bồ-đề Niết-bàn vậy.
Thiền sư Thiệu Long đến tham vấn Viên Ngộ.
Viên Ngộ dẫn một câu trong kinh Lăng Nghiêm nói: "Kiến kiến chi thời, kiến
phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập", liền đưa tay lên hỏi:
"Thấy không?" Sư thưa: "Thấy." Viên Ngộ bảo: "Đầu lại thêm đầu." Viên Ngộ
hỏi tiếp: "Thấy cái gì?" Sư thưa: "Tre dày không ngại nước chảy qua."
(Trúc mật bất phòng lưu thủy quá.) Viên Ngộ gật đầu. Nguyên văn câu kinh
đại khái nói: "Khi thấy được cái bị thấy, cái hay thấy chẳng phải là cái
bị thấy, cái hay thấy vẫn xa rời cái bị thấy, cái bị thấy không thể theo
kịp". Thiền sư liền đưa tay hỏi: "Thấy không?" Thông thường ai cũng bảo là
thấy. Nói thấy, Thiền sư bảo: "Đầu lại thêm đầu." Tại sao? Nếu chỉ thấy
khi cái tay đưa lên, lúc tay không đưa lên là chẳng thấy sao? Muốn nghiệm
kỹ là người bị vật chuyển hay đã chuyển vật, Thiền sư hỏi: "Thấy cái gì?"
Nếu là người bị vật chuyển như chúng ta, nhất định phải đáp: "Thấy cái
tay." Song Thiền sư lại đáp: "Tre dày không ngại nước chảy qua." Tại sao
thế? Bởi vì Thiền sư khi thấy vật vẫn không quên tánh thấy của mình, như
có tre mà nước vẫn chảy. Quả là người chuyển được vật, nên Viên Ngộ gật
đầu. Thế là Thiền sư đã giải thích kinh và ứng dụng kinh một cách tài
tình.
Lại một đoạn trong kinh:
Phật ở trong đại chúng đưa tay lên nắm lại
xoè ra, nắm lại xoè ra, hỏi A-nan: "Nay ông thấy cái gì?" A-nan thưa: "Con
thấy bàn tay trăm báu của Như Lai ở trong chúng xòe nắm." Phật bảo A-nan:
"Ông thấy tay ta ở trong chúng xòe nắm, hay cái thấy của ông có xòe nắm?"
A-nan thưa: "Tay trăm báu của Thế Tôn ở trong chúng xòe nắm, con thấy tay
Như Lai tự xòe nắm, chẳng phải tánh thấy của con có xòe nắm." Phật hỏi:
"Cái nào động, cái nào tịnh?" A-nan thưa: "Tay Phật động, tánh thấy của
con còn không có tịnh, huống là động." Phật khen: "Đúng thế."
Thuật đưa tay lên để chỉ tánh thấy, trong
nhà thiền ứng dụng rất tinh vi mà không giải thích. Chẳng những đưa tay,
hoặc dựng cây phất tử, hoặc đưa cây gậy, hoặc chiếc gối… Đây vài hình ảnh
của Thiền sư chỉ tánh thấy trong chớp nhoáng, người chậm lụt không sao
thấy kịp: Thiền sư Tùng Chí ở Kim Phong, đứng trước chúng đưa chiếc gối
lên bảo: "Tất cả người gọi là chiếc gối, Kim Phong nói chẳng phải." Tăng
thưa: "Chẳng biết Hòa thượng gọi là gì?" Sư cầm chiếc gối đưa lên. Tăng
thưa: "Như thế thì y đó mà hành." Sư hỏi: "Ngươi kêu là gì?" Tăng thưa:
"Chiếc gối." Sư nói: "Rơi trong hang Kim Phong." Lại, Thiền sư Vân Môn đưa
cây gậy lên trước chúng bảo: "Phàm phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích
gọi nó là không, Duyên giác gọi nó là huyễn có, Bồ-tát thì đương thể tức
không, Thiền gia thì thấy cây gậy gọi là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ
ngồi, không được động đến." Mọi người nghe thấy đều mắc kẹt ở những câu
giải thích sau, ít ai thấy được cây gậy của Vân Môn. Cây gậy ấy chỉ là cây
gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến. Đâu không phải câu
giải thích của ngài A-nan "Tay Phật động, tánh thấy của con còn không có
tịnh, huống là động".
Một đoạn kinh:
Phật bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông,
hỏi A-nan: "Hiện giờ ông có nghe chăng?" A-nan và đại chúng đồng thưa:
"Chúng con nghe." Tiếng chuông bặt dứt. Phật lại hỏi: "Hiện giờ các ông
nghe chăng?" A-nan cùng đại chúng đồng thưa: "Chẳng nghe." La-hầu-la lại
đánh một tiếng chuông, Phật hỏi: "Hiện giờ các ông nghe chăng?" A-nan cùng
đại chúng đáp: "Nghe." Phật hỏi A-nan: "Ông tại sao nghe?". A-nan cùng đại
chúng đồng bạch Phật: "Nếu đánh chuông có tiếng thì chúng con nghe, đánh
lâu tiếng bặt âm vang dứt hết thì gọi không nghe…" Phật bảo: "Này A-nan!
Tiếng bặt không còn âm vang, ông nói không nghe, nếu thật không nghe thì
tánh nghe đã diệt, giống như cây khô, lại đánh một tiếng chuông thì ông
làm sao mà biết? Biết có biết không chính là thanh trần hoặc có hoặc
không, đâu phải tánh nghe kia là có là không. Nếu tánh nghe thật không thì
ai biết nó không? Thế nên, A-nan! Tiếng ở trong tánh nghe tự có sanh diệt,
chẳng phải tánh nghe của ông do tiếng có tiếng không mà nó thành có thành
không…"
Đoạn kinh này Phật chỉ tánh nghe thật quá
rõ ràng. Thiền sư cũng chỉ tánh nghe mà rất ẩn mật. Thiền sư Tuyết Phong
Nghĩa Tồn đi tham vấn Thiền sư Đại Đồng Đầu Tử, từ giã ra về. Đầu Tử tiễn
ra cửa, liền gọi: "Đạo giả!" Tuyết Phong ngoái đầu lại: "Dạ!" Đầu Tử bảo:
"Đi đường vui vẻ." Lại một Thiền sư cũng chỉ như thế. Có sứ thần đến viếng
Thiền sư Đạo Minh (Trần Tôn Túc). Sứ thần hỏi: "Ba cửa đều mở, từ cửa nào
vào?" Sư gọi: "Thượng thơ!" Sứ thần ứng thinh: "Dạ!" Sư bảo: "Từ cửa tín
vào." Sứ thần nhìn lên vách thấy tượng vẽ, hỏi: "Hai tôn giả đối mặt luận
việc gì?" Sư gõ cây cột nói: "Trong ba thân cái nào chẳng nói pháp?" Đây
là những thuật dạy rất nhanh và rất kín của Thiền sư, muốn cho người hỏi
ngộ được tánh nghe mà không dùng lời giải thích.
Để thấy rõ kinh Lăng Nghiêm là chánh thống
Thiền tông, chúng ta đọc bài kệ của Tôn giả A-nan, sau khi đốn ngộ, tán
Phật:
Diệu trạm tổng trì bất động tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương thế hi hữu
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân
Nguyện kim đắc quả thành Bảo vương
Hoàn độ như thị hằng sa chúng
Tương thử thâm tâm phụng trần sát
Thị tắc danh vi báo Phật ân
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhất chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư thử thủ nê hoàn
Đại hùng đại lực đại từ bi
Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc
Linh ngã tảo đăng Vô thượng giác
Ư thập phương giới tọa đạo tràng
Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển
Đấng diệu trạm tổng trì bất động
Kinh Thủ Lăng Nghiêm đời ít có.
Con sạch ức kiếp tưởng điên đảo,
Chẳng trải tăng kỳ được pháp thân.
Nay nguyện được thành quả Bảo vương.
Trở lại độ như hằng sa chúng
Đem thâm tâm này thờ trần sát
Đây mới gọi là đáp Phật ân.
Lại xin Thế Tôn vì chứng minh
Đời ác ngũ trược thề vào trước,
Còn một chúng sanh chưa thành Phật
Con quyết nơi đây chẳng Niết-bàn.
Đấng đại hùng đại lực đại từ bi
Mong lại xét trừ hoặc vi tế,
Khiến con sớm được Vô thượng giác,
Nơi cõi muời phương ngồi đạo tràng.
Hư không dù có thể tiêu vong
Tâm kiên cố con không động chuyển.
Bốn câu đầu, nhờ Phật pháp Ngài đốn ngộ,
thấy pháp thân. Bốn câu kế, Ngài nguyện được thành Phật, trở lại độ chúng
sanh và phụng thờ chư Phật, ấy là đền ơn Phật. Bốn câu tiếp, cầu Phật
chứng minh con xông vào đời ngũ trược này trước nhất để độ chúng sanh. Bốn
câu kế, xin Phật xét kỹ trừ sạch hoặc vi tế cho con để con sớm được thành
Phật. Hai câu sau, khẳng định dù hư không có tan nát, tâm kiên cố của con
cũng chẳng động.
Thiền tông chủ trương kiến tánh khởi tu
hay đốn ngộ tiệm tu. Trường hợp ngài A-nan quả đúng như thế. Trước nhờ
Phật và pháp nên thấy được pháp thân, đây là Kiến tánh. Thấy được pháp
thân rồi mới biết cách đền ơn Phật, biết thương xót chúng sanh, nên phát
tâm đại bi. Song còn những thứ hoặc vi tế cần phải tiệm tu mới sạch. Sau
cùng thệ quyết trên đường tu không còn thối chuyển. Quả là Thiền và Kinh
hội ngộ trong bài kệ này.
4. Toát yếu toàn bộ:
Toàn bộ kinh Lăng Nghiêm, chúng tôi tóm
lược chia thành hai phần chánh: "kiến tánh, khởi tu" hay "đốn ngộ, tiệm
tu". Trong hai phần này lại chia vài phần nhỏ. Kiến tánh: biết giả, nhận
thật. Khởi tu: tu chánh, tu phụ và biết ma.
a. Kiến tánh hay đốn ngộ:
Kiến tánh tức là nhận ra được Pháp thân.
Pháp thân chính là bản thể chân thật của chúng sanh. Trước khi chỉ ra cái
thật, đức Phật phá mọi lầm chấp những thứ hư giả.
Mở đầu vào cuộc đối thoại, đức Phật hỏi
Tôn giả A-nan lý do gì đi xuất gia. Tôn giả A-nan thưa rằng: "Vì ưa thích
thân ba mươi hai tướng tốt của Phật nên phát tâm xuất gia." Phật hỏi
A-nan: "Lấy cái gì thấy thân ba mươi hai tướng? Lấy cái gì ưa thích?" Tôn
giả A-nan trả lời: "Do mắt thấy thân Phật, tâm sanh ưa thích." Thế là bước
vào bảy chỗ hỏi tâm, khiến Tôn giả A-nan đi đến tận cùng chỗ chấp, quả
nhiên tâm ấy không thật. Kế Phật chỉ cảnh và thân là tướng dao động sanh
diệt, mà tánh thấy chưa bao giờ dao động. Từ đây Phật vừa phá chấp giả,
đồng thời chỉ cái thật. Cái giả là thân và cảnh, cái thật là tánh thấy.
Cho đến "tám thứ trả về" (bát hoàn) cũng cốt chỉ tiền trần hư giả, tánh
thấy chân thật. Kể cả ngũ ấm, thập bát giới, thất đại đều là tướng hư giả,
theo nghiệp ứng hiện, gốc từ Như Lai tạng lưu xuất. Như Lai tạng là thể
chân thật, ví như mặt trăng thật. Tánh thấy gần kề cái chân thật ấy, song
chưa hoàn toàn thật, ví như mặt trăng thứ hai, do ấn con mắt thấy. Đến
đây, Tôn giả A-nan nhận ra được bản tánh, nói kệ trình bày sở ngộ.
b. Khởi tu hay tiệm tu:
Phần tu chánh, Phật chỉ rõ sáu căn là nhân
luân hồi, sáu căn cũng là nhân giải thoát. Trong sáu căn chọn một căn viên
thông, tu hành chóng thành đạo. Ví như cái khăn có sáu gút, một gút mở,
sáu gút đồng thời xổ ra. Kế Phật bảo hai mươi lăm vị thánh trình bày chỗ
tu chứng của mình. Rốt sau Phật dạy Bồ-tát Văn Thù chọn lựa căn nào viên
thông và phù hợp với cõi này. Bồ-tát Văn Thù chọn qua, sau cùng thừa nhận
"nhĩ căn" là viên thông hơn cả. Đây là lối tu "Phản văn văn tự tánh" của
Bồ-tát Quán Thế Âm. Yếu điểm tu hành của Bồ-tát Quán Thế Âm là: "Ban đầu ở
trong cái nghe, vào dòng quên cái bị nghe. Chỗ vào đã lặng lẽ thì hai
tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh. Như thế, tiến lên dần dần, cái hay
nghe và bị nghe đều mất, cũng không trụ chỗ mất. Cái năng giác và sở giác
không. Cái không giác hoàn toàn tròn, không và sở không đều diệt. Sanh
diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền". Bồ-tát Văn Thù khuyến khích đại
chúng và A-nan rằng: "Xoay cơ quan nghe của ông, trở lại nghe tánh nghe
của mình, thành tựu tánh nghe là đạo Vô thượng. Viên thông thật như thế.
Đây là con đường vào cửa Niết-bàn của chư Phật như số vi trần…"
Lối tu "Phản văn văn tự tánh" có lắm người
hiểu sai lầm, tu không tiến, trở lại thành bệnh. Bởi vì cứ nghĩ rằng xoay
cái nghe trở lại tánh nghe của mình, rồi họ ngồi yên nghe trở lại trong
hông ngực, lâu ngày thành thổ huyết. Chữ "phản" ở đây có nghĩa là ngược
lại, thay vì từ thuở nào đến giờ, chúng ta thả xuôi cái nghe chạy theo âm
thanh, có âm thanh là có nghe, không âm thanh cho là không nghe, quên mất
tánh nghe thường còn của mình. Nay đây, mỗi khi nghe âm thanh, chúng ta
biết mình có tánh nghe, bao nhiêu âm thanh liên tục bên tai, ta không chạy
theo chúng, chỉ nhớ mình đang có tánh nghe, nghe tất cả. Nhớ tánh nghe là
không nhớ thanh trần. Tánh nghe thì thường hằng, thanh trần vì động tịnh
nên sanh diệt. Hằng nghe là giác tri, chính nó hiện tướng của tánh giác.
Sống với tánh nghe là sống với hiện tướng của tánh giác chân thật, nên gọi
là con đường vào cửa Niết-bàn. Trọn ngày chúng ta đi đứng nằm ngồi có bao
nhiêu âm thanh vang tai, chúng ta chỉ vui vẻ nhẹ nhàng nhớ mình có tánh
nghe đang nghe mọi âm thanh. Khi tọa thiền cũng thế, từ tiếng tích tắc
đồng hồ, tiếng thằn lằn chắc lưỡi, tiếng gió rì rào bên ngoài…, chúng ta
đều nghe, mà chỉ nhớ mình đang có tánh nghe, chớ không chạy theo tiếng để
phân biệt. Đây là thuật "Phản văn văn tự tánh". Chẳng những nghe thôi, mà
cả thấy, ngửi, nếm, xúc chạm đều có thể "phản văn" được hết. Đó là lối tu
"Tự tánh thanh tịnh thiền" của Thiền tông. Sống với tánh nghe của chúng
ta, tức là trở về nguồn giác, nên gọi là "vào dòng" (nhập lưu). Hằng nhớ
tánh nghe thì lơ là với âm thanh, gọi là "quên cái bị nghe" (vong sở).
Sống thuần thục với tánh nghe rồi thì hai tướng động tịnh chẳng sanh. Cho
đến năng giác sở giác đều không, mọi thứ đối đãi dứt bặt, chỉ còn một tánh
giác tịch tĩnh như như. Thế là đạt đạo viên mãn. Tuy nhiên như thế, cũng
cần có phần trợ giúp mới chóng viên thành.
Phần tu phụ, chánh yếu là trở về tánh
giác, song nhờ có sự phụ trợ để vô minh vi tế chóng sạch. Trong kinh phần
phụ dạy phải gìn giữ giới luật. Có giữ giới luật người tu thiền mới viên
mãn quả giải thoát. Nếu tu thiền mà không có giới luật, tùy sự tu hành cao
thấp, hoặc sanh làm quỉ thần, hoặc sanh vào các cõi trời. Tu thiền mà có
giới luật là đi đúng đường của đức Phật dạy, sớm muộn gì cũng đến Phật
quả.
Nếu người tu có nhiều ma chướng, Phật dạy
có thể trì thần chú Lăng Nghiêm phụ giúp cho ma chướng chóng tiêu.
Biết ma: Sau cùng bộ kinh, Phật nói về ngũ
ấm ma. Người tu thiền vượt qua mỗi ấm có mười thứ ma làm chướng ngại. Ma
ấy vốn từ sự tu hành dằn ép của thiền giả mà phát hiện. Thiền giả khéo
thấy những cảnh lạ, tự biết đừng chấp thì cảnh ấy đều là tốt, khởi chấp
mình đã được đạo, chứng thánh v.v… là rơi vào lưới của ma.
Tóm lại, đường lối tu hành trong kinh Lăng
Nghiêm lấy Thiền làm căn bản. Song muốn tu thiền trước phải đốn ngộ sau
mới tiệm tu. Quả nhiên kiến tánh khởi tu của Thiền cùng đốn ngộ tiệm tu
của Kinh rõ ràng không có hai pháp.
D. KINH PHÁP HOA
1. Liên hệ Thiền sử:
Vị tăng Pháp Đạt ở Hồng Châu thường tụng
kinh Pháp Hoa, đến lễ Lục tổ Huệ Năng mà đầu không sát đất. Tổ quở: "Lễ mà
đầu không sát đất, chi bằng đừng lễ. Trong tâm ông ắt có một vật, chất
chứa việc gì?" Pháp Đạt thưa: "Đã tụng được ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa." Tổ
bảo: Ông nếu tụng đến muôn bộ, đạt được ý kinh mà chẳng lấy làm hơn thì
cùng ta sánh vai. Nay ông mang sự nghiệp này trọn chẳng biết lỗi, nghe ta
nói kệ đây:
Lễ bổn chiết mạn tràng
Đầu hề bất chí địa
Hữu ngã tội tức sanh
Vong công phước vô tỷ.
Lễ vốn chặt cờ mạn
Sao đầu không sát đất
Có ngã tội liền sanh
Quên công phước khôn sánh.
… Tổ bảo tiếp: "Nếu ông chỉ nhọc nhằn chấp
tụng làm công khóa, nào khác con trâu Lê nó yêu cái đuôi!" Pháp Đạt thưa:
"Nếu vậy chỉ cần hiểu nghĩa, không nhọc gì phải tụng kinh chăng?" Tổ bảo:
"Kinh có lỗi gì, đâu có ngăn ông tụng." Chỉ vì mê ngộ tại người, tổn giảm
hay lợi ích do mình, miệng tụng tâm hành tức là chuyển kinh, miệng tụng
tâm chẳng hành tức là bị kinh chuyển. Nghe ta nói kệ:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng kinh cửu bất minh
Dữ nghĩa tác thù gia
Vô niệm, niệm tức chánh
Hữu niệm, niệm thành tà
Hữu vô câu bất kế
Trường ngự bạch ngưu xa.
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng kinh lâu chẳng rõ
Cùng nghĩa thành thù nhà
Không niệm,niệm tức chánh
Có niệm, niệm thành tà
Có không đều chẳng chấp
Hằng ngồi bạch ngưu xa.
Pháp Đạt nghe kệ bỗng dưng rơi nước mắt,
ngay câu nói đại ngộ, bạch Tổ: "Con từ trước đến nay thật chưa từng chuyển
Pháp Hoa, mà bị Pháp Hoa chuyển…" Pháp Đạt nhờ chỉ dạy, vui mừng hớn hở,
dùng kệ tán thán:
Kinh tụng tam thiên bộ
Tào Khê nhất cú vong
Vị minh xuất thế chỉ
Ninh yết lụy sanh cuồng
Dương lộc ngưu quyền thiết
Sơ trung hậu thiện dương
Thùy tri hỏa trạch nội
Nguyên thị pháp trung vương.
Tụng kinh ba ngàn bộ
Tào Khê mộ? câu quên
Chưa rõ chỉ xuất thế
Đâu hết nhiều đời cuồng
Dê, nai, trâu quyền lập
Bày đầu, giữa, sau lành
Ai biết trong nhà lửa
Nguyên là vua chánh pháp.
Thiền sư Tỉnh Niệm thường tụng kinh Pháp
Hoa nên thời nhân gọi là Niệm Pháp Hoa. Sư đến tham vấn Thiền sư Phong
Huyệt, một hôm đứng hầu, Phong Huyệt rơi nước mắt, nói với Sư: "Bất hạnh!
Đạo Lâm Tế đến ta sắp chìm lặng vậy." Sư thưa: "Xem cả chúng này đâu không
có người kế thừa Hòa thượng?" Phong Huyệt bảo: "Người thông minh thì
nhiều, kẻ thấy tánh rất ít." Sư thưa: "Như con, Hòa thượng xem thế nào?"
Phong Huyệt bảo: "Ta tuy hy vọng ở ngươi đã lâu, vẫn ngại đắm mến kinh này
không thể buông xả." Sư thưa: "Việc này có thể làm được, mong nghe yếu
chỉ."
Phong Huyệt thượng đường, nhắc lại trong
hội Linh Sơn, Thế Tôn dùng con mắt như hoa sen xanh nhìn xem đại chúng.
Phong Huyệt hỏi: "Chính khi ấy hãy bảo nói cái gì? Nếu bảo chẳng nói mà
nói, là chôn vùi Thánh trước. Hãy bảo nói cái gì?" Sư đứng dậy phủi áo ra
đi. Phong Huyệt ném cây gậy trở về phương trượng. Thị giả chạy theo sau
thưa: "Niệm Pháp Hoa vì sao chẳng đáp lời Hòa thượng?" Phong Huyệt nói:
"Niệm Pháp Hoa đã hội."
2. Chủ đích:
Phật nói kinh Pháp Hoa cốt chỉ bày cho tất
cả chúng sanh cái tri kiến Phật sẵn có của mình để họ ngộ nhập. Chính đó
là một đại sự của tất cả chư Phật ra đời, không riêng gì một đức Phật
Thích-ca. Tri kiến Phật tức là cái thấy biết Phật. Thấy biết theo vọng
tưởng là thấy biết phàm phu. Thấy biết thuần tịnh bất động là thấy biết
Phật. Cho nên trong phẩm Phương tiện có đoạn Phật nói: "Pháp đó không phải
suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được. Vì
cớ sao? Vì chư Phật Thế Tôn chỉ do một đại sự nhân duyên mà hiện ra đời".
Tri kiến Phật là thấy biết không thuộc về cái ngã của thân, không thuộc về
cái ngã của tâm (vọng tưởng), lại là thể của cả thân tâm. Người tu thiền
nhận ra được thể ấy gọi là mở con mắt thứ ba. Con mắt này chẳng những làm
thể của thân tâm mà còn bao trùm cả mười phương thế giới. Vì thế trong
phẩm Tự, văn kinh có đoạn: "Bấy giờ đức Phật từ tướng lông trắng giữa
chặng mày phóng luồng hào quang chiếu khắp một muôn tám nghìn cõi phương
đông, dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên thấu trời Sắc Cứu Cánh…" Lông
trắng giữa chặng mày là biểu trưng con mắt thứ ba hay là tánh giác. Tánh
giác này phát xuất khi nào thân an tâm định. Như trong phẩm Tự, văn đoạn
trên: "Nói kinh này (Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm)
xong, Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm Phật
đều không lay động". Đây là hình ảnh chỉ Tri kiến Phật và vào Tri kiến
Phật. Tri kiến là lối nói tắt, nói đủ là kiến văn giác tri Phật. Bởi sáu
căn đều là nơi biểu lộ của tánh giác, kiến là mắt, văn là tai, giác gồm
mũi, lưỡi và thân, tri là tâm hay thể của ý. Sáu cái đó hằng phát ánh sáng
của tánh giác. Người muố? trở về tánh giác, nếu không nương sáu căn làm
sao biết lối trở về. Vì thế nói tri kiến Phật là gồm cả sáu căn hiển lộ
tánh giác của mình. Tánh giác này cũng gọi là Phật Huệ hay Phật Thừa. Đó
là chỗ cứu kính của Phật giác ngộ, cũng là chỗ cứu kính của Ngài dạy lại
chúng sanh. Nếu Phật không dạy được chỗ này là Ngài còn xan lẫn. Đây quả
thật là chủ yếu của kinh này vậy.
3. Đối chứng chi tiết:
Kinh này tên là Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu
Pháp là tri kiến Phật, Liên Hoa là hoa sen. Tri kiến Phật đầy đủ muôn dụng
nên gọi là Diệu, tri kiến Phật vượt ngoài tầm suy tư hiểu biết của chúng
sanh, gọi là Diệu. Tri kiến Phật gá nơi thân ô uế bất tịnh mà không nhiễm
nhơ, dụ Hoa Sen. Tri kiến Phật ở trong thân vô thường mà không bị vô
thường, dụ hoa sen ở trong lò lửa. Thiền sư Lương Giới, thủy tổ tông Tào
Động, giải thích ngũ vị, đến vị thứ tư Thiên Trung Chí có bài kệ:
Lưỡng nhẫn giao phong bất tu
tị
Hảo thủ du như hỏa lí liên
Uyển nhiên tự hữu xung thiên
chí.
Hai kiếm đua nhau cần gì tránh
Tay khéo vẫn như sen lò hồng
Nguyên vẹn nơi mình xung thiên
chí.
Thiền sư Ngộ Ấn ở Việt Nam, khi sắp tịch
cũng nói kệ:
Diệu tánh hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc
thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị
càn.
Diệu tánh rỗng không chẳng thể
vin
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi
cháy
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Hoa sen mọc trong lò lửa vẫn xinh tươi là
một hình ảnh bất tư nghì của kinh Pháp Hoa. Ngay nơi thân đang bị ngọn lửa
vô thường thiêu đốt, vẫn có tri kiến Phật an nhiên tự tại, bất sanh bất
diệt, chẳng phải hoa sen tươi thắm trong lò lửa là gì? Trên ngọn núi năm
uẩn bị lửa vô thường thiêu đốt, hòn ngọc tri kiến Phật sắc vẫn óng ánh
tươi nhuần. Quả thật là điều quá sức tưởng tượng của phàm phu. Vì thế, đợi
tôn giả Xá-lợi-phất ba phen thỉnh cầu Phật mới nói.
Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, chư Bồ-tát tha
phương đảnh lễ Phật, bạch: "Thế Tôn! Nếu bằng lòng cho chúng con sau khi
Phật diệt độ ở cõi Ta-bà siêng tu tinh tấn, thọ trì đọc tụng, biên chép
cúng dường kinh này, chúng con sẽ ở trong cõi đây rộng nói". Phật bảo:
"Thiện nam tử! Thôi đi! Chẳng cần các ông hộ trì kinh này…" Sau đó cõi
Ta-bà đất nứt, Bồ-tát vọt lên… là những vị hộ trì kinh.
Đoạn kinh trên rất phù hợp câu chuyện sau
đây trong nhà thiền. Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn cùng Nham Đầu Toàn
Khoát đi đến Ngao Sơn gặp trở tuyết, dừng lại nghỉ. Một hôm, hai huynh đệ
thảo luận. Tuyết Phong nói: "Tôi thật còn chưa ổn." Nham Đầu bảo: "Nếu ông
thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi sẽ chứng
minh cho ông, chỗ chẳng phải tôi sẽ vì ông đuổi dẹp." Tuyết Phong nói:
"Khi tôi mới đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắc không liền được
chỗ vào." Nham Đầu bảo: "Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến."
Tuyết Phong nói: Tôi thấy bài kệ của Động Sơn qua sông: ‘Thiết kỵ tùng tha
mích, điều điều dữ ngã sơ, cừ kim chánh thị ngã, ngã kim bất thị cừ.’ (Rất
kỵ tìm nơi khác, xa xôi bỏ lảng ta, va nay chính là ta, ta nay chẳng phải
va.) Nham Đầu bảo: "Nếu thế ấy, tự cứu cũng chưa tột." Tuyết Phong nói:
"Sau tôi hỏi Đức Sơn: ‘Việc trong tông thừa từ trước con có phần chăng?’
Đức Sơn đánh một gậy hỏi: ‘Nói cái gì?’ Tôi khi đó giống như thùng lủng
đáy." Nham Đầu nạt: "Ông chẳng nghe nói: từ cửa vào chẳng phải của báu
trong nhà?" Tuyết Phong hỏi: "Về sau làm thế nào mới phải?" Nham Đầu bảo:
"Về sau muốn xiển dương Đại giáo, mỗi mỗi tự trong hông ngực mình lưu
xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi!" Tuyết Phong nhân câu này đại
ngộ, liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn: "Sư huynh! Sư huynh! Ngày nay mới
thành đạo ở Ngao Sơn."
Nhà Phật nói người tu cần phải có hai thứ
trí, trí hữu sư và trí vô sư. Trí hữu sư nhờ tham vấn học hỏi nơi kinh
điển và thiện tri thức, trí ấy dẫn đường chúng ta vào cửa đạo. Song muốn
chống với sanh tử phải nhờ trí vô sư. Trí này tự nơi mình phát ra, mới
thật là của báu trong nhà. Bởi vì trí do học được còn suy nghĩ phán xét,
chưa phải là trí chân thật từ tánh giác lưu xuất. Chư Bồ-tát ở tha phương
để biểu trưng trí hữu sư, trí này chưa đủ để duy trì kinh Pháp Hoa. Bởi lẽ
tri kiến Phật là tánh giác bất sanh bất diệt, dùng trí sanh diệt làm sao
phù hợp. Cho nên phải những vị Bồ-tát từ lòng đất vọt lên mới kham duy trì
kinh Pháp Hoa. Lòng đất là chỉ thân tứ đại, Bồ-tát là tánh giác, tánh giác
ngay nơi thân này phát ra mới tương ưng với tri kiến Phật.
Thiền sư Trí Thường Qui Tông, có vị tăng
hỏi: "Thế nào là sức Diệu Trí Quan Âm?" Sư gõ cái đỉnh ba tiếng, hỏi:
"Ngươi nghe chăng?" Tăng thưa: "Nghe." Sư bảo: "Sao ta chẳng nghe?" Tăng
không đáp được. Sư cầm gậy đuổi ra. Khi khác Sư thượng đường bảo: "Nay tôi
muốn nói thiền, tất cả các ngươi lại gần đây." Đại chúng tiến đến gần. Sư
bảo: "Các ngươi nghe hạnh Quan Âm khéo hiện các nơi chốn." Tăng hỏi: "Thế
nào là hạnh Quan Âm?" Sư khảy móng tay, hỏi: "Các ngươi có nghe chăng?"
Tăng thưa: "Nghe." Sư bảo: "Một bọn hướng trong ấy tìm cái gì?" Sư cầm gậy
đuổi ra rồi cười lớn vào phương trượng. Trong phẩm Phổ Môn có những câu:
"Quan Âm diệu trí lực" và "Nhữ thính Quan Âm hạnh, thiện ứng chư phương
sở…" Quan Âm là "phản văn văn tự tánh", cho nên hỏi đến diệu trí của Quan
Âm Sư gõ cái đỉnh ba tiếng, hỏi đến hạnh Quan Âm, Sư khảy móng tay ba
tiếng. Thế là Thiền sư thấy đức Quan Âm là tánh nghe, trở về tánh nghe thì
mọi sự an lành, diệu lực không thể lường được. Chỉ có trở về tánh nghe thì
thế gian mới hết khổ.
Tướng công Vu Địch đến Thiền sư Đạo Thông
hỏi: "Thế nào là hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng phiêu đọa la-sát quỉ
quốc?" Đạo Thông đáp: "Kẻ khách Vu Địch hỏi việc ấy làm gì?" Vu Địch đỏ
mặt. Sư chỉ nói: "Cái đó chính là phiêu đọa La-sát quỉ quốc." Vu Địch lại
hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư gọi: "Tướng công!" Tướng công: "Dạ." Sư bảo:
"Lại chớ tìm cái gì khác."
Chúng sanh do tham mà không toại nguyện
nên nổi sân. Nổi sân là động cơ chuốc họa. Trong kinh nói: chúng sanh vì
cầu kim ngân lưu ly… giả sử gặp gió đen thổi, ghe thuyền trôi giạt vào cõi
nước La-sát…, trong ấy có người niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì mọi
người đều khỏi nạn La-sát… Tìm kim ngân lưu ly là tham, gió đen thổi ghe
thuyền trôi giạt là sân, cõi nước La-sát là nguy hiểm họa hại, niệm danh
hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là phản văn tự tánh thì họa hại tiêu vong. Vì thế
Vu Địch vừa đỏ mặt, Sư chỉ đó là "phiêu đọa La-sát quỉ quốc". Khi lửa sân
nổi lên, liền nhớ lại tánh nghe hay tánh giác của mình, tức thì tỉnh giác
nên không tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì làm gì có họa hại.
4. Toát yếu toàn bộ:
Toàn bộ kinh Pháp Hoa có bảy quyển, hai
mươi tám phẩm. Để thấy ý toàn bộ, chúng ta nên lược qua từng phẩm:
4.1- Phẩm Tự: Phẩm này chỉ chủ yếu của
toàn bộ. Hình ảnh Phật phóng quang từ lông trắng giữa chặng mày, ánh sáng
soi khắp phương đông, thông trên suốt dưới, theo ánh sáng hội chúng thấy
chúng sanh trong lục đạo, tạo nghiệp thọ báo và thấy chư Phật tu nhân
chứng quả giáo hóa chúng sanh… Đây là biểu trưng tánh giác (tri kiến Phật)
rỗng suốt, không kẹt hai bên, biết rõ nguyên nhân luân hồi sanh tử và
nguyên nhân giải thoát sanh tử. Tánh giác rời ngôn ngữ và tâm thức suy tư,
cho nên Phật chỉ hiện tướng mà không nói một lời. Chỉ căn bản trí mới thấu
suốt được tánh giác, vọng thức thì không sao hiểu nổi. Vì thế, đức Di-lặc
(thức) khởi nghi hỏi Bồ-tát Văn Thù (trí).
4.2- Phẩm Phương Tiện: Từ chỗ vô ngôn đến
đây phải dùng ngôn thuyết, ấy là phương tiện. Lại nữa, Phật dùng mọi
phuơng tiện dẫn dắt chúng sanh, cứu kính đều đưa đến ngộ nhập tri kiến
Phật (tánh giác). Đây là mục đích chung của chư Phật. Dù trước có nói các
pháp khác song cũng là phương tiện đưa đến cứu kính này. Tuy nhiên tri
kiến Phật rất khó tin hiểu, nên phải thiết tha cầu thỉnh hai ba phen Phật
mới nói.
4.3- Phẩm Thí Dụ: Sau khi Phật phương tiện
dùng ngôn ngữ trình bày, người căn cơ lanh lợi bậc thượng liền nhận ra tri
kiến Phật của chính mình. Đây là chỗ đốn ngộ của Xá-lợi-phất, Tôn giả vui
mừng hớn hở được điều chưa từng có trình lên Phật. Phật liền ấn chứng (thọ
ký) cho Ngài sau này sẽ thành Phật. Tuy vậy những căn cơ kém bén nhậy còn
chưa nhận ra, Phật phải dùng thí dụ nhà lửa và ba xe, cuối cùng chỉ cho
một xe "bạch ngưu".
4.4- Phẩm Tín Giải: Đây là trình bày kiến
giải của mình để Phật ấn chứng. Những vị Thanh văn kỳ cựu đến đây mới nhận
rõ tri kiến Phật của mình, vui mừng vô hạn, như chàng cùng tử được cha
trao cả sự nghiệp, điều mà trước kia chưa bao giờ dám nghĩ đến. Các Ngài
dùng thí dụ này trình kiến giải lên Phật.
4.5- Phẩm Dược Thảo Dụ: Lẽ ra, sau khi
trình kiến giải của mình liền được Phật thọ ký ngay, song cần phải khích
lệ những căn cơ bậc trung, cố gắng nhận ra tri kiến Phật, nên Phật ví dụ
đám mưa mọi cây cỏ đều được thấm nhuần. Các căn cơ có khác, nhưng đều được
lợi ích trong một trận pháp vũ này.
4.6- Phẩm Thọ Ký: Thọ ký là tên khác của
ấn chứng trong nhà thiền. Khi các vị Ma-ha Ca-diếp v.v… trình bày chỗ sở
ngộ rồi, Phật liền thọ ký (ấn chứng) cho mỗi vị tương lai sẽ thành Phật.
Đây mới đốn ngộ Phật thừa, còn phải tiệm tu Bồ-tát hạnh, sau mới chứng
thành Phật quả.
4.7- Phẩm Hóa Thành Dụ: Giải thích một lần
nữa về phương tiện của đức Phật, để những vị căn cơ bậc trung thấy rõ tri
kiến Phật của mình. Dùng thí dụ Hóa thành và Bảo sở để sách tiến các Ngài
vượt lên, đừng đắm luyến trong quả vị Thanh văn.
4.8- Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký: Giờ đây
hàng căn cơ bậc trung đã thấy rõ tri kiến Phật của mình. Đại diện năm trăm
vị, ngài Mãn Từ Tử trình bày sở ngộ, theo đó Phật thọ ký năm trăm vị tương
lai đều thành Phật.
4.9- Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký: Đến đây
hàng hữu học và vô học mới nhận ra tri kiến Phật của mình, tự nhận mình có
phần trong Phật thừa, mong được Phật thọ ký. Phật thọ ký các Ngài trong
tương lai đều sẽ thành Phật.
4.10- Phẩm Pháp Sư: Còn một số căn cơ hạ
liệt, chưa dám nhận tri kiến Phật của mình. Phật muốn thúc đẩy họ tiến
lên, cần khuyến khích họ thọ trì cúng dường tùy hỷ giáo hóa thì tương lai
đều thành Phật.
4.11- Phẩm Hiện Bảo Tháp: Tháp bảy báu
hiện giữa hư không trang nghiêm đẹp đẽ, trong có toàn thân Phật Đa Bảo.
Phật Đa Bảo tượng trưng cho Pháp thân, tháp bảy báu tượng trưng cho thất
đại. Đến đây, Phật chỉ rõ ngay trong thân thất đại này đã hàm chứa Pháp
thân hay Tri Kiến Phật. Song làm sao thấy được Pháp thân, cần phải thu
nhiếp vọng tưởng lại mới thấy. Cho nên trong kinh nói: "Phật Đa Bảo có
nguyện sâu: Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra trước
các đức Phật, vị Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, Phật đó
phải nhóm họp tất cả Phật của mình phân thân ra thuyết pháp ở mười phương
về một chỗ, sau thân ta mới hiện". Phật phân thân chỉ cho ý thức phân tán
chạy theo sáu trần, chúng tụ họp về một chỗ là an định, Pháp thân sẽ hiện
tiền. Đây là chỉ rõ cho đại chúng biết Tri Kiến Phật đã nằm sẵn trong lầu
ngũ uẩn hay trong tháp thất đại.
4.12- Phẩm Đề-bà-đạt-đa: Đã chỉ rõ tri
kiến Phật ở trong lầu năm uẩn hay thất đại, mà người căn cơ hạ liệt vẫn
chưa tin chưa hiểu. Một lần nữa Phật lại chỉ cặn kẽ, dù tạo tội ngũ nghịch
như Đề-bà-đạt-đa, ty tiện như thân Long Nữ vẫn có Tri kiến Phật, gặp duyên
hóa độ liền ngộ đạo, đều sẽ thành Phật không nghi.
4.13- Phẩm Trì: Đến đây tất cả vị Tỳ-kheo
ni đều buông xả tâm hạ liệt, đinh ninh rằng người nữ tu hành không thể
thành Phật, quí vị tự nhận mình có phần thành Phật, vì mình đồng có Tri
kiến Phật như tất cả những vị đã ngộ, được Phật thọ ký. Do đó, Phật tuần
tự thọ ký riêng và chung cho ni chúng.
4.14- Phẩm An Lạc Hạnh: Trên đã xong phần
mọi căn cơ đều đốn ngộ, đến đây là phần tiệm tu Bồ-tát hạnh. Hay nói cách
khác, ở trên đã ngộ Tri kiến Phật, từ đây về sau là nhập Tri kiến Phật.
Nói theo Thiền thì ở trên đã kiến tánh, từ đây về sau khởi tu. Kinh nói:
"Ở trong đời ác sau, hộ trì đọc tụng giảng nói kinh Pháp Hoa", có nghĩa là
sống và bảo vệ Tri kiến Phật của mình. Muốn bảo vệ Tri kiến Phật trước
phải gìn giữ giới luật, tức là an trụ bốn pháp vậy.
4.15- Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất: Do công phu
tu trì, bảo vệ Tri kiến Phật, tự trong thân phát trí vô sư. Trí này từ
thân tứ đại xuất phát, nên nói Bồ-tát từ dưới đất vọt lên. Trí vô sư do
công phu tu hành mà được, nên có khả năng chống lại sanh tử; nó từ chân
tánh lưu xuất không sanh không diệt, nên tương ưng với Tri kiến Phật. Vì
thế Phật không chấp nhận Bồ-tát ở tha phương duy trì truyền bá kinh Pháp
Hoa ở cõi này, chỉ dành cho chư Bồ-tát từ đất vọt lên duy trì. Bồ-tát tha
phương biểu trưng trí hữu sư. Trí này do học tập được, còn phân biệt giản
trạch, thuộc về trí sanh diệt, không đủ khả năng bảo vệ Tri kiến Phật.
4.16- Phẩm Như Lai Thọ Lượng: Đã có trí vô
sư phát sanh mới nhận rõ Pháp thân (Tri kiến Phật) bất sanh bất diệt,
thường hằng chẳng đổi. Tuổi thọ của Pháp thân đồng tuổi thọ của hư không,
vì Pháp thân không tướng làm gì bị vô thường và tan hoại. Như Lai ở đây là
Tri kiến Phật hay Pháp thân, thường nằm sẵn trong thân năm uẩn của chúng
ta, song không mấy ai nhận ra, chỉ khi nào trí vô sư phát sanh mới thể
hiện được Pháp thân. Vì thế nên nói rất khó tin khó hiểu, người tin hiểu
được thì công đức vô lượng.
4.17- Phẩm Phân Biệt Công Đức: Pháp thân
chân thật bất biến; người tin nhận được Pháp thân là đã biết lối trở về
chân tánh. Mọi công đức của thế gian đều là công đức tương đối sanh diệt,
nên hữu hạn hữu lượng. Người nhận ra Pháp thân chân thật là vô sanh, nên
công đức vô hạn vô lượng. Vì thế nếu đem so sánh thì không công đức nào
của thế gian có thể sánh kịp.
4.18- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức: Công đức của
người nhận ra Pháp thân đã cao tột như vậy, người phát tâm tùy hỷ công đức
này ắt cũng vô ngần. Phát tâm tùy hỷ tức đã có phần nhận hiểu, khuyến
khích kẻ khác tức đã tự hâm mộ, cho nên người tùy hỷ kinh này, khuyến
khích kẻ khác nghe kinh… đều là công đức vô biên.
4.19- Phẩm Pháp Sư Công Đức: Công đức Pháp
Sư hay công đức của người sống với Tri kiến Phật, y cứ nơi sáu căn phát
hiện. Sáu căn là chỗ phát sáng của hòn ngọc tánh giác, không nương sáu căn
làm sao thấy được hòn ngọc. Hằng sống trở lại tánh thấy tánh nghe của mình
là cửa vào tánh giác, con đường vào cửa Niết-bàn. Khi sáu căn thuần tịnh
thì tự nó trở thành lục thông, khỏi cần tập luyện mới có thần thông.
4.20- Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát: Người
sống với Tri kiến Phật và truyền bá cho mọi người phải kiên trì nhẫn nhục,
vì làm một điều khó làm, dạy một điều khó dạy. Biết mọi người đều có Tri
kiến Phật, người ngộ trước nào dám khinh người ngộ sau, người đã ngộ cố
chỉ cho người sẽ ngộ. Đây là việc làm của Bồ-tát Thường Bất Khinh. Ngài
trì kinh Pháp Hoa và truyền bá kinh Pháp Hoa bằng cách gặp ai cũng bái xá
nói rằng: "Tôi chẳng dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ thành Phật". Tu
nhân như thế, Ngài kết quả thành Phật, gieo nhân như thế, kết quả mọi
người được dự hội Pháp Hoa. Thế là trì kinh bằng cách chính mình sống với
Tri kiến Phật của mình, truyền bá là gieo cho mọi người đủ niềm tin mình
có Tri kiến Phật.
4.21- Phẩm Như Lai Thần Lực: Đã biết sống
trở về Pháp thân, khi được thuần thục thì diệu dụng bất khả tư nghì. Tất
cả diệu dụng ấy đều từ chỗ Vô Tác Diệu Trí phát sanh, không phải sự dụng
công cố gắng nào cả. Diệu dụng do công phu tu hành trở về tánh giác là một
lẽ thật không còn nghi ngờ gì nữa. Cho nên ở đây Phật bày tướng lưỡi rộng
dài, tất cả lỗ chân lông đều phóng quang…
4.22- Phẩm Chúc Lụy: Tri kiến Phật là tuệ
mạng của chúng sanh, là trí tuệ của chư Phật, con đường cầu giác ngộ không
còn lối nào khác hơn. Thế nên truyền bá cho mọi người nhận ra Tri kiến
Phật là trách nhiệm tối thượng của người ngộ trước. Ngọn đèn trí tuệ duy
nhất để phá đêm tối vô minh của thế gian là Tri kiến Phật. Vì vậy đức Phật
chúc lụy truyền bá kinh Pháp Hoa.
4.23- Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự: Trên
con đường tu hành muốn đến Phật quả phải dẹp sạch chấp năm ấm, gọi là ngũ
ấm ma. Vì năm ấm che đậy khiến Phật tánh không hiển lộ. Phẩm này là phá
sắc ấm. Thân tứ đại là sắc ấm, Bồ-tát khi được "chánh định hiện tất cả sắc
thân" rồi, liền thiêu thân cúng dường Phật, tức là phá sắc ấm. Pháp thân
là thể của Báo thân và Hóa thân, được "chánh định hiện tất cả sắc thân",
tức là nhập Pháp thân. Khi Bồ-tát thâm nhập Pháp thân thì xem sắc thân như
bóng như bọt, không còn cố chấp làm ngã. Xả chấp sắc thân hướng về Pháp
thân nên nói thiêu thân cúng dường Phật. Xả sắc thân rồi cần phải xả sáu
trần mới viên mãn phá sắc ấm, cho nên Bồ-tát sau lại đốt luôn hai cánh tay
cúng dường Phật. Chấp ngã chấp pháp đã dẹp sạch đó là chân thật cúng dường
Như Lai.
4.24- Phẩm Diệu Âm Bồ-tát: Phá sắc ấm rồi
đến đây phá luôn thọ ấm. Thọ ấm không hình tướng nên Bồ-tát Diệu Âm đến,
mà chúng không thấy, phải đợi Phật Đa Bảo dạy Ngài hiện, chúng mới thấy.
Bởi có nhận được Pháp thân mới thấy thọ ấm là hư giả, thấy rồi mới phá dẹp
được chúng. Bồ-tát Diệu Âm từ xa lại để nói lên sáu trần từ ngoài đến mới
có lãnh thọ. Xả mọi lãnh thọ, không cố chấp, là phá được thọ ấm. Nhân tu
của Bồ-tát Diệu Âm do dùng âm nhạc và bát vàng cúng Phật, nên được quả báo
tốt đẹp và nhiều diệu dụng. Cúng dường là tên khác của bố thí, tức là
buông xả, cúng dường âm nhạc là buông xả âm thanh, cúng dường bát vàng là
buông xả sắc tướng. Âm thanh và sắc tướng là hai thứ nổi bật trong sáu
trần, nói hai thứ đủ đại biểu cho sáu trần.
4.25- Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn:
Phẩm này phá trừ tưởng ấm. Tưởng là nhân đau khổ của tất cả chúng sanh.
Bởi vì có tưởng là có đau khổ. Một viên đạn, một nhát dao bén phạm vào
người một cách quá nhanh, không kịp tưởng tượng, chúng ta không nghe sợ,
cũng không nghe đau. Sau đó, tưởng tượng lại, chúng ta mới kinh sợ. Thế
nên mọi khổ ải trên thế gian này bởi tưởng mà có. Muốn hết khổ không gì
hơn hết tưởng, tưởng hết mọi đau khổ đều sạch. Niệm danh hiệu Bồ-tát Quán
Thế Âm liền hết khổ. Quán Thế Âm là phản văn văn tự tánh. Trở lại tánh
giác thì mọi tưởng đều lặng, còn đau khổ nào mà chẳng khỏi. Sống được với
tánh giác, mọi công hạnh, mọi diệu dụng đều đầy đủ. Trong sáu căn, nhĩ căn
là viên thông hơn cả, người tu muốn trở về tánh giác nên từ nhĩ căn mà tu
thì chóng được kết quả. Nên kinh nói niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm,
công đức thù thắng hơn tất cả. Niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại
tánh giác chân thật của mình. Quán được thanh tịnh thì trí tuệ phát sanh,
lòng từ bi đầy đủ, hằng tu như vậy đến khi nào hoàn toàn thanh tịnh, mặt
trời trí tuệ liền phát sanh, soi sáng cả thế gian. Như đoạn văn trong bài
tụng:
Chân quán, thanh tịnh quán
Quảng đại trí tuệ quán
Bi quán cập từ quán
Thường nguyện thường chiêm
ngưỡng
Vô cấu thanh tịnh quang
Tuệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Quán chân, quán thanh tịnh
Quán trí tuệ rộng lớn
Quán từ và quán bi
Thường nguyện thường chiêm
ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhật phá các tối
Hay diệt nạn gió lửa
Soi sáng khắp thế gian.
Đây là lối tu trở về Tri kiến Phật, diệt
hết mọi vọng tưởng đau khổ.
4.26- Phẩm Đà-la-ni: Phẩm này phá hành ấm.
Hành ấm là lối suy tư thầm lặng bên trong, nó vừa tế nhị, vừa sâu kín cho
nên rất khó phá. Người phá được nó liền thấy quá tịch tịnh lầm tưởng là
Niết-bàn, bị lạc vào ngoại đạo, hoặc rơi vào trầm không trệ tịch của Thanh
văn. Tu nhân diệt hành ấm, hành giả phải buông sạch mọi xao xuyến thầm
lặng vi tế, nên tượng trưng bằng thần chú. Bởi vì khi đọc thần chú, chúng
ta nào có xét nghĩ hiểu biết gì. Kết quả diệt được hành ấm, cần phải được
chư Phật, chư Bồ-tát hoặc Thiện tri thức khuyến phát khích lệ mới vượt qua
được. Đó là hình ảnh chư Bồ-tát nói thần chú bảo hộ người trì kinh Pháp
Hoa.
4.27- Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự:
Phẩm này phá thức ấm. Đây là chặng cuối cùng trên đường tu, nếu người khéo
vượt qua thì viên mãn Phật quả. Vua Diệu Trang Nghiêm tượng trưng thức
A-lại-da (Tàng thức), phu nhân Tịnh Đức tượng trưng cho thức Mạt-na (Y Ù
căn), thái tử Tịnh Tạng tượng trưng cho ý thức, Tịnh Nhãn tượng trưng cho
năm thức trước. Chuyển thức A-lại-da thành Đại viên cảnh trí là nhờ ý thức
và năm thức trước đã được thuần thục thanh tịnh. Thức A-lại-da thứ tám này
là chủ mà không có khả năng quyết định, phải do thức thứ sáu và năm thức
trước hướng dẫn. Thức thứ bảy ở bên cạnh thức thứ tám mà không có công
dụng bao nhiêu. Phá thức ấm tức là chuyển A-lại-da trở thành Đại viên cảnh
trí, nó là chủ thể của các thức kia. Cho nên kinh nói: "Phật vì muốn dẫn
dắt vua Diệu Trang Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh
Pháp Hoa". Do ý thức và năm thức trước đã thuần thục thanh tịnh, mới
chuyển được thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí. Đây là hình ảnh hai
người con Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn đã có thần thông, có trí tuệ tu tập tất cả
công đức… mới chuyển hóa nhà vua đến với Phật. Nhà vua chịu đến là có phu
nhân đến. Nguyên nhân tạo nghiệp luân hồi do thức thứ sáu và năm thức
trước, chuyển sanh tử thành Niết-bàn cũng nhân thức thứ sáu và năm thức
trước. Khi chuyển thức A-lại-da rồi thì tám thức trở thành tứ trí. Đến đây
công phu tu hành đã đầy đủ, chỉ còn phải lợi ích chúng sanh.
4.28- Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát:
Phổ Hiền tượng trưng trí sai biệt. Người tu khi viên mãn công phu rồi, cần
phải phát nguyện độ sanh, giáo hóa hộ trì cho mọi người được phát tâm
bồ-đề (trì kinh Pháp Hoa), khởi nguyện lực lớn, dùng Lục độ làm phương
tiện giáo hóa chúng sanh. Đó chính là hình ảnh Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi
trắng sáu ngà đến trước người trì kinh Pháp Hoa an ủi họ. Khi công hạnh tự
lợi lợi tha của họ hoàn toàn viên mãn, liền thành Phật.
Tóm lại, toàn bộ kinh Pháp Hoa cốt khai
thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri Kiến Phật. Phẩm đầu do Bồ-tát Văn Thù giải
nghi cho Bồ-tát Di Lặc về việc phóng quang của đức Phật. Đó là tượng trưng
trí căn bản đánh thức phát tâm bồ-đề. Phẩm cuối Bồ-tát Phổ Hiền phát
nguyện bảo hộ người trì kinh sau này. Đây là tượng trưng trí sai biệt làm
lợi ích chúng sanh. Câu then chốt trong kinh này: "Khai thị chúng sanh ngộ
nhập Phật Tri Kiến" có khác gì câu "Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành
Phật" của Thiền tông. Phẩm Tín Giải và phẩm Thọ Ký của kinh này nào xa lạ
gì với việc "trình kiến giải" được "ấn chứng" của Thiền tông. Cho đến sự
tu hành thủy chung đều không khác. Chỉ vì chúng ta không nhận được lý
kinh, cứ chạy theo ngôn cú nên thấy dường như khác biệt.
VI. THIỀN
TÔNG VỚI CÁC MÔN THIỀN KHÁC:
A. THIỀN TÔNG VỚI THIỀN
TIỂU THỪA.
Thiền Tiểu thừa có nhiều lối tu, đại để
đều căn cứ trên hình thức hiện có của thân căn, trần cảnh và tâm thức. Như
pháp Thiền "tùy bệnh đối trị", người nặng bệnh tham dục dùng "quán bất
tịnh" đối trị, người nặng bệnh sân hận dùng "quán từ bi" đối trị, người
nhiều ngu si dùng "quán nhân duyên" đối trị, người nhiều loạn tưởng dùng
"quán sổ tức" đối trị, người tham sân si đồng nhau dùng pháp "quán Phật
tam-muội" đối trị. Đó là y cứ tâm bệnh dùng pháp tu quán để đối trị. Hoặc
lối quán tứ đại, quán đất, quán nước, quán gió, quán lửa, từ một đốm nhỏ
cho đến trùm cả hư không. Hoặc lối quán màu sắc, màu xanh, màu vàng, màu
trắng, màu đỏ, cũng từ một điểm nhỏ cho đến đầy dẫy hư không. Hoặc trụ tâm
vào một điểm trên đầu cây hương hay một vòng tròn nhỏ trên vách cho đến nó
phát quang. Hoặc dùng chánh quán "Tứ niệm xứ", quán "Tứ đế", quán "Mười
hai nhân duyên"v.v… Đến kết quả được Tứ thiền, Bát định và tiến lên Tứ gia
hạnh, thành tựu Tứ quả Thanh văn. Bởi pháp Thiền này hạn cuộc trên hình
thức và tu chứng từng thứ bậc, nên khác hẳn với Thiền tông. Thiền tông chỉ
thẳng tâm người thấy Tánh thành Phật, không thuộc hình thức, cũng không
thứ bậc.
B. THIỀN TÔNG VỚI THIỀN
ĐẠI THỪA.
Thiền Đại thừa cũng có nhiều lối tu, cần
yếu từ tướng thẳng vào bản tánh. Tuy có những đề mục đồng với Tiểu thừa,
như Bồ-tát tu Ngũ pháp: Bồ-tát quán Phật tam-muội, Bồ-tát quán Bất tịnh
tam-muội, Bồ-tát quán Từ tam-muội, Bồ-tát quán Nhân duyên tam-muội, Bồ-tát
quán Lục diệu pháp môn. Song đối mỗi pháp này Bồ-tát quán từ tướng đi
thẳng vào tánh, tức là từ giả tướng tiến đến thật tướng. Hoặc thiền theo
tông Thiên Thai của ngài Trí Giả Đại sư, ứng dụng pháp Tam quán, quán
Không, quán Giả, quán Trung, y cứ bài kệ trong quyển Trung Quán Luận của
Bồ-tát Long Thọ. Bài kệ:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh vi giả danh
Diệc danh trung đạo nghĩa.
Nhân duyên sanh các pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa Trung Đạo.
Thấy các pháp do nhân duyên sanh, thể tánh
đều không tức là quán không. Thể tánh các pháp là không, song khi duyên
hợp giả có, tức là quán giả. Không giả đều buông, chỉ còn nhất tâm chân
như, tức là quán Trung đạo đệ nhất nghĩa. Bồ-tát tu nhân như thế, đến kết
quả sẽ chứng từng bậc từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng,
Thập địa đến Đẳng giác, Diệu giác là Phật. Thiền Đại thừa đã gần với Thiền
tông, song Thiền Đại thừa còn thấy có pháp để tu, thấy có quả để chứng,
nên còn khác biệt. Bởi vì Thiền tông không thấy có một pháp dạy người,
không thấy có một quả để chứng.
C. THIỀN TÔNG VỚI THIỀN
NGOẠI ĐẠO.
Để khỏi lầm lẫn ý nghĩa chống đối hay
khinh rẻ, chúng ta nên định nghĩa chữ "ngoại đạo" cho rõ ràng. Nhà Phật
định nghĩa rất rõ: Ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Như thế, dù cho người
xuất gia theo Phật mà chỉ một bề hướng ngoại cầu mong cũng gọi là ngoại
đạo. Bất cứ một pháp tu nào chỉ trông cậy bên ngoài, tìm kiếm bên ngoài
đều gọi là ngoại đạo. Vì chủ trương nhà Phật, người tu phải "minh tâm kiến
tánh" mới thành Phật. Tâm tánh đâu phải việc bên ngoài, nếu tìm bên ngoài
là trái tông chỉ nhà Phật, nên gọi là ngoại đạo. Chúng tôi liệt kê những
lối tu Thiền theo ngoại đạo đang hiện hành ở Việt Nam như: Thiền xuất hồn,
Thiền chuyển luân xa, Thiền chuyển tinh hóa khí chuyển khí hóa thần, Thiền
thai tức, Thiền điện thiêng liêng, Thiền Du-già…
Những lối tu Thiền này không ngoài hai
tiêu chuẩn: Mầu nhiệm và sống lâu. Mầu nhiệm thuộc huyền bí, hấp dẫn những
người hiếu kỳ. Sống lâu thuộc thân thể khỏe mạnh hấp dẫn những người thích
sống dai. Hai tiêu chuẩn ấy trái hẳn với đạo Phật. Đạo Phật chủ trương tu
để mở mang trí tuệ thấy được chân lý, không cần sự mầu nhiệm. Có trí tuệ
liền thấy tất cả giả tướng ở thế gian đều là vô thường, dù cố dụng công
bảo vệ duy trì mấy, rốt cuộc cũng hoại diệt. Cái giả mà cố giữ không phải
si mê là gì? Thiền tông thấy tất cả pháp duyên hợp hư giả, thể nó là
không, nhận ra chân tánh bất sanh bất diệt, nên trái hẳn các pháp thiền
ngoại đạo.
Tóm lại, Thiền Tiểu thừa, Thiền Đại thừa
tuy sâu cạn có khác, song đều một chủ đích mượn cảnh, mượn đề mục để định
tâm; tâm an định, trí tuệ phát sanh, đó là nhân định phát tuệ của đạo
Phật. Thiền tông đi thẳng từ cửa trí tuệ thấy vọng tưởng tánh không, nhận
ra chân tánh phi không "Tri hữu". Cho nên Thiền tông gọi là đi "Đường
chim". Đường chim rất khó đi, song một khi cất cánh, thẳng đến mục tiêu hạ
xuống, không có gì khác lạ. Thiền Tiểu thừa, Thiền Đại thừa cần dùng
phương tiện để tu, như đi đường bộ, đường thủy không nguy hiểm, song nhiều
khúc quanh, nhiều lối tẽ, khiến người tu có lúc phải ngơ ngác. Thiền ngoại
đạo tu chóng kết quả, có mầu nhiệm, song chỉ là cái dụng tạm thời, không
phải con đường giải thoát sanh tử. Trong nhà Thiền dạy: "Thà là ngàn năm
không ngộ, không để một phút sai lầm". Tại sao? Bởi vì tu theo thiền ngoại
đạo không gieo nhân giác ngộ, quả giác ngộ làm gì có? Lại nữa đã đi đường
tà thì sức mạnh ấy sẽ dẫn đi mãi mãi, biết bao giờ được hồi tâm tỉnh giác.
Vì thế người Phật tử phải thận trọng khi tu học theo một pháp thiền nào.
Dù người dạy có nói cao siêu mầu nhiệm mấy đi nữa, đối chiếu với kinh Phật
không hợp, nhất định người Phật tử không nên theo. Chính vì đa số Phật tử
hiện nay ham tu mộ đạo nên đã tu theo thiền ngoại đạo khá nhiều. Với lòng
chân thật của mình, chúng tôi mong quí Phật tử xét thật kỹ trong việc tu
hành hiện nay, đừng để sai lầm về sau hối hận đã muộn. Dù người ấy xuất
gia tu theo đạo Phật, thờ đức Phật mà dạy không đúng kinh điển Phật, xin
chớ vội tin.
VII. THIỀN
TÔNG KHÔNG NẶNG HÌNH THỨC TÔN GIÁO.
A. NẾU LÀ TÔN GIÁO.
Thiền tông quả thật là một lối tu trở về
bản tâm của mỗi người. Bản tâm là thể hằng giác linh tri bất sanh bất
diệt, chính là chỗ cứu kính tối thượng của người tu Thiền đạt đến. Song
muốn đạt đến bản tâm mọi người cần phải dẹp những kiến chấp sai lầm về
tâm, thân và cảnh. Bởi chúng sanh muôn đời lầm lẫn chấp vọng tưởng làm
tâm, chấp thân tạm bợ làm thân thật, chấp ngoại cảnh giả dối làm cảnh
thật, nên mất bản tâm. Người tu Thiền cần trở về bản tâm, trước phải phá
những cái chấp sai lầm ấy, nhiên hậu mới thấy được bản tâm. Phá chấp sai
lầm do công dụng của trí Bát-nhã, nó là đội binh tiên phong công phá thành
trì vô minh. Sau khi phá được cửa cổng vô minh, tiến vào trong sẽ thấy ông
chủ nhân đang ngự trên ngôi đền năm uẩn. Thế nên, nếu là tôn giáo, Thiền
tông lấy tâm làm tôn, lấy trí tuệ làm giáo. Bởi tâm là đấng tối thượng của
thiền, trí tuệ là cửa giáo hóa chúng sanh.
Một tôn giáo mà không phải tôn giáo. Theo
nghĩa thông thường của tôn giáo, tức có một đấng tối thượng để cho người
tôn sùng là tôn, tuân theo lời chỉ dạy của đấng ấy hay vị đại diện cho
đấng ấy gọi là giáo. Thiền tông không phải thế, chính đức Phật Thích-ca,
người tu Thiền vẫn xem là bậc thầy dẫn đường, là người giác ngộ trước
chúng ta. Chúng ta không biết đường nên quí kính người dẫn đường, biết ân
người dẫn đường. Chúng ta chưa giác ngộ nên quí kính người đã giác ngộ,
học đòi theo để được giác ngộ. Giác ngộ là phá được vô minh, thấy được bản
tâm của chính mình mới là điều tối thượng. Điều đó đức Phật có công chỉ
dạy, đạt được hay không do công phu của mỗi người. Nếu người tu một bề
trông mong đức Phật cứu độ cho mình được thế này, thế nọ, đã sai lầm. Vì
thế Tổ Lâm Tế nói: "Các ông nếu hay bặt được tâm luôn luôn chạy tìm, liền
cùng Phật, Tổ chẳng khác. Các ông muốn được biết Phật, Tổ chăng? Chính
trước mặt các ông hiện nghe pháp ấy vậy. Học nhân tin chẳng đến, liền chạy
tìm ra ngoài. Dù có tìm được cũng chỉ là tướng thù thắng của văn tự, trọn
chẳng được ý Phật, Tổ sống. Chớ lầm!". Quả là Phật, Tổ không cứu được
mình, chính mình tự cứu. Chẳng những thế, Thiền sư cũng không muốn linh
thiêng, thần thánh hóa đức Phật, cần thấy đức Phật vẫn là một con người,
thân của Ngài rồi cũng hoại diệt, chính tánh giác mới là tối thượng. Thiền
sư Đức Sơn đã bộc lộ ý này. Sư nói: "Nhân giả! Nói tu hành như thế, các
ông đâu chẳng nghe lão Hồ (ông già Ấn Độ, chỉ Phật) trải ba vô số kiếp tu
hành mà nay còn đâu? Sau tám mươi năm chết mất, cùng các ông có khác gì?".
Qua những câu nói trên chúng ta thấy rõ Thiền sư không đặt đức Phật là bậc
tôn sùng tối thượng, chính tánh giác (bản tâm) của mỗi người mới đáng sùng
thượng hơn hết.
Do những nhận thức trên, Thiền tông đối
với hình thức tôn giáo thật là giản đơn bình dị, không rườm rà phức tạp
như các tông phái khác. Bản tâm và trí tuệ không phải do tín ngưỡng mà
được, phải quán chiếu tỉnh giác mới phát sanh. Càng nặng về hình thức nghi
lễ càng dễ mất mình, càng xa với tánh giác. Yên lặng tỉnh táo, phản chiếu
lại mình là yếu tố quan thiết của người tu thiền.
B. THIỀN TÔNG BAO DUNG CÁC
TÔN GIÁO.
Ngay bản chất đạo Phật, Thiền tông cũng
bao dung được các tông phái khác mà các tông phái khác khó bao dung Thiền
tông. Tại sao? Bởi vì Thiền tông thấy rõ chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ,
muốn giác ngộ trước phải dừng vọng tưởng. Thế thì người niệm Phật để dừng
vọng tưởng, người trì chú cũng để dừng vọng tưởng, tụng kinh, quán tưởng…
đều cùng về một mục đích ấy. Đã cùng về một mục đích, còn gì phải chống
trái nhau. Chẳng qua trên phương tiện có khác, cứu kính Phật dạy không
hai. Bản chất Thiền tông không nặng hình tướng, hình tướng nào cũng không
ngại Thiền tông. Các tông phái khác chẳng thế, bởi có hình tướng và quan
trọng hình tướng nên thấy ai làm khác mình thì không chịu. Vì thế phái này
không thể dung hội phái kia.
Đến các tôn giáo bạn, Thiền tông cũng
không thấy có trở ngại. Lối tu trở về tâm tánh mở mang trí tuệ, cứ trông
về mình, ít ngó ra ngoài, không so sánh đối đãi, còn gì thấy có chướng
ngại nhau. Hơn nữa tâm tánh trí tuệ là cái sẵn có nơi mọi người, dù người
theo tôn giáo nào, hai điều ấy vẫn không thiếu, đã có như nhau thì ai khác
hơn ai mà đố kỵ. Người này niệm Phật, người kia niệm Chúa, chúng ta đều
thấy là phương tiện của họ dừng vọng tâm. Một khi vọng tưởng dừng lại,
hoặc thấy Phật, hoặc thấy Chúa, đều từ bản tâm hiện ra, nên nói: "Tự tánh
Di Đà, duy tâm Tịnh độ". Có quan niệm cởi mở như thế, làm gì thấy trở ngại
giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Vì thế, đời Tống ở Trung Quốc dùng
Thiền tông dung hội cả Lão và Nho, gọi là tam giáo đồng nguyên. Đời Trần ở
Việt Nam cũng thế, hòa hợp Phật, Lão, Khổng thành một nhà. Bởi vì, trên
chỗ tột đỉnh các lối đi đều gặp nhau. Song phải là người đến đỉnh rồi, mới
nhận ra điều ấy.
C. NẾU LÀ KHOA HỌC.
Thiền tông tu bằng cách khai thác tâm
linh, tìm ra chân lý hiện thực của con người. Con người là đối tượng duy
nhất của Thiền tông nói riêng, của đạo Phật nói chung. Vạch trần sự thật
nơi con người, khai thác cái u ẩn thâm sâu nhất của con người, đem lại
hạnh phúc an lạc vĩnh cửu cho con người, thử hỏi còn khoa học nào vượt hơn
thế nữa? Đối tượng của khoa học hiện nay là vũ trụ, là vật chất, cốt chinh
phục thiên nhiên để cung phụng cho con người. Song vũ trụ là cái phụ, con
người mới chính yếu, tìm tột cùng cái phụ cũng chưa mang lại hạnh phúc
chân thật cho con người. Vì lẽ nguyên lý của vũ trụ là tương đối, trong ấy
luôn luôn đối đãi nhau, làm gì đạt được cái chân thật cứu kính miên viễn.
Với tinh thần tìm chân lý, đem lại hạnh phúc chân thật cho con người,
Thiền tông là một khoa học. Cho nên Thiền sư khi tu phải trải qua đôi ba
phen giác ngộ, khác nào những nhà khoa học phải có những lần phát minh.
Song tâm linh không hình tướng, vượt quá tầm khảo sát của khoa học. Thế
nên có thể nói Thiền là một môn "Khoa học tâm linh", khoa học mà siêu khoa
học.
VIII. ĐẶC
ĐIỂM THIỀN TÔNG.
A. THIỀN TÔNG TẠO DỰNG CON
NGƯỜI CÓ ĐỦ BA ĐỨC
TÁNH.
1. Tự tín:
Người tu thiền phải tin quả quyết tâm mình
là Phật. Đó là chủ đề then chốt của người tu. Chúng ta nghe câu chuyện
Thiền sư Pháp Thường ở Đại Mai.
Ban sơ đến tham vấn Mã Tổ, Sư hỏi: "Thế
nào là Phật?" Mã Tổ đáp: "Tức tâm là Phật." Sư liền đại ngộ, từ giã về ở
núi. Sau Mã Tổ nghe Sư ở núi, sai một vị tăng đến thăm dò. Tăng đến hỏi
Sư: "Hòa thượng gặp Mã Tổ được cái gì về ở núi này?" Sư đáp: "Mã Tổ nói
với tôi ‘Tức tâm là Phật’, tôi bèn đến ở núi này." Vị tăng nói: "Gần đây
Mã Tổ lại nói ‘Phi tâm phi Phật.’ Sư bảo: "Ông già mê hoặc người chưa có
ngày xong, mặc ông "phi tâm phi Phật", tôi chỉ biết "Tức tâm là Phật". Vị
tăng trở về thưa lại Mã Tổ, Mã Tổ nói với đại chúng: "Trái mai đã chín!"
(vì Sư ở núi Đại Mai).
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy tin tâm
mình là Phật quả thật một yếu điểm vào cửa Thiền. Không tin tâm mình là
Phật thì không sao cố gắng trong những cảnh huống khó khăn trên con đường
tu hành. Quả quyết tin tâm mình là Phật, đó là thành tựu đức tự tín mãnh
liệt. Trên sự tu hành, chúng ta đã khẳng định chính mình mới giải thoát
sanh tử cho mình, không phải đức Phật hoặc chư vị Bồ-tát nào có thể giải
thoát thế mình. Ngoài xã hội cũng thế, mọi việc thành bại, dở hay, tốt
xấu… đều tự chúng ta tạo nên. Chúng ta là chủ nhân thành Phật thì chúng ta
cũng là chủ nhân mọi sự thành bại dở hay. Đức tự tín khiến con người không
trốn tránh trách nhiệm, không ỷ lại kẻ khác, không hèn nhát trước mọi khó
khăn.
2. Quả cảm:
Nhờ tự tín người tu mới can đảm vượt mọi
khó khăn, cương quyết quả cảm tiến lên trên con đường siêu nhân, phấn đấu
chiến thắng ma quân. Thấy rõ mình có khả năng thành Phật, chẳng ngần ngại
e dè, quyết chí tiến tu cho thành đạt kết quả. Đức tự tín khiến con người
mạnh dạn gan dạ trên mọi công tác lợi mình lợi người. Nếu thiếu đức tự
tín, con người không bao giờ dám cả quyết một sự kiện nào. Nhờ tin tâm
mình là Phật, thiền sư xem thường mọi nguy hiểm, như: Thiền sư Linh Hựu
khi mới đến Qui Sơn, non này cao vót không có bóng người lai vãng, là hang
ổ của cọp sói. Sư đến đây cất một am tranh, hằng ngày lượm trái lật, trái
dẻ làm thức ăn nuôi sống. Trải qua bảy năm, một hôm Sư tự nghĩ: "Đạo cốt
tiếp vật lợi sanh, ở một mình chẳng phải". Sư bèn đi lần xuống núi, thấy
cọp sói Sư bảo: "Nếu ta có duyên với núi này, các ngươi nên đi tránh chỗ
khác. Nếu ta không có duyên ở đây thì các ngươi cứ ăn thịt ta đi".
Trước nguy hiểm, Thiền sư vẫn ung dung tự
tại, thật là một tâm hồn quả cảm tràn trề. Nếu ứng dụng tinh thần quả cảm
này vào xã hội thì có việc gì làm chẳng thành.
3. Cần cù:
Có tự tín mới có nỗ lực tiến tu. Bất cứ
làm một việc gì mà không tin mình làm được, chắc chắn việc ấy sẽ bỏ dở
hoặc có làm cũng lừng chừng cầu may. Tin chắc việc này mình làm được, ngày
đêm cần cù không dám lơi lỏng. Đức tự tín giúp con người siêng năng bền
chí. Tin cả quyết tâm mình là Phật, người tu thiền tinh tấn bền chí nhẫn
nại cố gắng thực hành cho đến kết quả mới thôi. Tin tâm mình là Phật, là
đã có Phật nhân, cố gắng tu hành sẽ thành Phật quả. Từ nhân đến quả đều do
công phu của chính mình, không phải ai khác làm thế cho ta. Ở thế gian,
nếu người có đức tự tín, chắc chắn mọi công tác sẽ được thành công. Tin
tưởng khả năng mình, mới có siêng năng cố gắng trong mọi nhiệm vụ của
mình. Thế nên có đức tự tín rồi mới có quả cảm và cần cù.
B. THIỀN TÔNG GẮN LIỀN VỚI
SỰ THỊNH SUY CỦA DÂN
TỘC.
Xã hội và tôn giáo có ảnh hưởng mật thiết
với nhau, nhất là Thiền tông. Trong Phật giáo có quá nhiều pháp môn, cho
nên ở hoàn cảnh xã hội nào cũng có pháp môn thích hợp với xã hội ấy. Khi
dân tộc đầy đủ chủ quyền độc lập thì pháp môn tu nhà Phật hướng về tự lực.
Khi dân tộc mất chủ quyền bị lệ thuộc thì pháp môn tu nhà Phật hướng về
tha lực. Vì thế Thiền tông thịnh hành ở Trung Quốc vào đời Đường, đời
Tống. Đến đời Nguyên, Thiền tông bị suy yếu, đời Minh cũng chưa đứng vững,
sang đời Thanh, Thiền tông từ từ nhường chỗ cho Tịnh độ tông. Ở Việt Nam
đời Lý đời Trần, Phật giáo hầu hết là Thiền tông. Sang đời Lê Thiền tông
yếu thế từ từ, đến đời Nguyễn lại càng yếu. Khi Việt Nam lệ thuộc Pháp thì
Thiền tông mất dạng, tất cả chùa chiền đều trở thành Tịnh độ hết. Riêng về
Nhật Bản, từ trước đến nay Thiền tông vẫn đứng vững ở vị trí của nó. Cho
nên chúng ta thấy rõ sự thịnh suy của dân tộc là sự thịnh suy của Thiền
tông. Sự gắn liền ấy, chẳng qua là do Thiền tông đặt hẳn về sức tự tín tự
lực, thiếu tự tín thì Thiền tông mất đất đứng. Một nước mất chủ quyền,
người dân làm sao tìm ra đức tự tín. Chính vì thế Thiền tông chịu ảnh
hưởng theo. Ngày nay chúng tôi cố gắng gầy dựng lại Thiền tông, âu cũng là
thời dân tộc đầy đủ chủ quyền. Vì thế chúng tôi tin rằng trong sự có mặt
của Phật giáo trên đất nước Việt Nam mai sau, chắc chắn Thiền tông sẽ đóng
góp một phần đáng kể.
C. THIỀN TÔNG RẤT THỰC TẾ.
Chủ trương của Thiền tông là mở mang trí
tuệ, phát minh tâm tánh của con người. Trí tuệ và tâm tánh là hai điều
thiết yếu nơi con người, quả thật hiện hữu, không phải chuyện huyền hoặc
xa vời. Một con người mà không có trí tuệ, không nhận ra tâm tánh, thử hỏi
thiếu sót lớn lao đến ngần nào? Người ta chỉ biết giá trị con người trên
bình diện hình thức, giá trị ấy quá tạm bợ, cũng chưa thiết thực. Thiếu gì
người dáng vẻ sáng sủa mà tâm hồn đen tối, cũng có những người dáng ngoài
xềnh xoàng mà tâm hồn rất cao cả. Hơn nữa thân thể này là tướng vô thường
hoại diệt, chỉ trong vòng tám mươi năm là tan biến, giá trị ấy cũng quá
giới hạn. Thiền tông giúp chúng ta nhận ra nơi con người mình, còn có cái
vượt ngoài mọi giới hạn của thời gian và không gian, cái đó mới là thật
con người của chúng ta từ muôn đời (bản lai diện mục). Con người thật của
mình đó, không phải tìm kiếm ở phương trời nào, mà nó ở ngay nơi thân hiện
hữu này. Chúng ta nghe Thiền sư Đạo Giai nói:
Châu trung hữu hỏa quân tu tín
Hưu hướng thiên biên vấn thái
dương.
Trong châu có lửa anh tin lấy
Thôi đến bên trời hỏi thái
dương.
Chính nơi thân tứ đại hư giả đã có sẵn con
người chân thật ở trong. Con người thật của mình không phải do Phật ban,
cũng không phải thần thông huyền bí gì tạo nên. Chính nó là cái bản hữu
nơi chúng ta, một phút giây vắng nó thân này đã ngừng hoạt động. Chỉ khổ
nỗi nó không có hình tướng nên khó chỉ thẳng, khó nói thẳng cho người ta
biết. Song với người thông minh, nghe qua vài công dụng của nó là nhận
được nó ngay. Ví như gió không có hình tướng, nhưng thấy lá cây động, thân
người mát, chúng ta nhận ra có gió không nghi. Nói khả năng của gió là một
thực tế, đâu phải là chuyện mơ hồ. Chính vì đem lại giá trị chân thật cho
con người, Thiền tông chỉ thẳng tâm thể chân thật của mỗi cá nhân. Tâm thể
ấy hằng khởi diệu dụng ở sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng
ta. Đây chúng ta nghe một ông vua diễn tả tâm thể của mình:
Vua Đường Trang Tông đi Hà Bắc trở về đến
Ngụy Phủ, dừng tại Hành Cung, cho sứ mời Thiền sư Tồn Tương đến. Vua bảo:
"Trẫm thâu Trung Nguyên nhận được hòn ngọc quí, chưa có ai trả giá." Sư
nói: "Xin Bệ hạ cho xem." Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân. Sư nói:
"Ngọc quí của đấng quân vương, ai dám trả giá."
Hòn ngọc quí vô giá, vừa khởi tâm trả giá
đã mất hòn ngọc rồi. Cho nên Thiền sư nói "ai dám trả giá". Đây cũng đồng
với ý của Tổ Tăng Xán trong bài Tín Tâm Minh, mở đầu bằng câu "Đại đạo vô
nan, duy hiềm giản trạch". Đại đạo hay hòn ngọc đều chỉ tâm thể của chúng
ta. Chỗ đó tối kỵ giản trạch hay trả giá. Không giản trạch thì đại đạo đâu
khó thấy, vừa có giản trạch đại đạo đã ẩn khuất. Chính chỗ đó Thiền sư
Huyền Giác cũng nói trong bài Chứng Đạo Ca:
Bất ly đương xứ thường trạm
nhiên
Mích tức tri quân bất khả
kiến.
Chẳng lìa đương xứ hằng lặng
yên
Tìm đó biết anh không thể
thấy.
Qua những lời nói trên, chúng ta biết nó
thực tế đến ngần nào. Cái quả thật, do người ta quên đi, khiến trở thành
hư. Cái quả hư, người ta cố chấp biến thành thật.
Càng thực tế hơn nữa, khi thực hành công
phu, người tu thiền tu trong mọi hành động, nhất là lúc làm việc. Nếu là
thợ may, người tu thiền chăm chú vào đường may, không cho tâm chạy nơi nào
khác. Nếu là tài xế, người tu thiền chỉ nhìn thẳng trên đường, không để
tâm chạy đông chạy tây. Nếu là nông phu, người tu thiền khi cuốc đất, chăm
chú vào từng lát cuốc, không để tâm nghĩ sớm nghĩ chiều… Bởi chăm chỉ vào
việc làm, nên việc làm được chu đáo, cũng quên cả mệt và ngán. Chính vì
thế, vừa làm được việc, cũng lợi cho sự tu, tu và làm không chướng ngại
nhau. Nếu biết ứng dụng tu thiền vào mọi ngành mọi nghề, ngành nghề càng
mau phát triển. Vì sự chú tâm người ta dễ phát minh những sáng kiến.
Để thấy tánh cách thực tế của Thiền tông,
chúng ta nghe Lục Tổ nói trong bài tụng Vô tướng:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích bồ-đề
Kháp tợ tầm thố giác.
Phật pháp ở thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa thế kiếm bồ-đề
Giống như tìm sừng thỏ.
Bấy nhiêu đó chúng ta cũng thấy rõ tính
cách thực tế của Thiền tông rồi.
D. TU THIỀN PHÙ HỢP VỚI
THUẬT DƯỠNG SINH.
Người tu thiền biết điều hòa thân thể,
điều hòa hơi thở và tâm tư, do đó bệnh hoạn ít sanh. Về thân thể, người tu
Thiền ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ có chừng mực, làm việc đúng thời khóa,
cấm kỵ những việc trác táng, rượu chè… Về hơi thở, người tu Thiền biết
điều hòa hơi thở dài và nhẹ. Hơi thở là chủ yếu của sức khỏe, là quyết
định của mạng sống. Khi mệt thì thở hổn hển, khỏe thì thở nhẹ nhàng. Sinh
mạng còn hay mất do hơi thở định đoạt. Thế mà người đời sống không biết
hơi thở mình đang thế nào, dường như họ quên mất, ít khi biết đến. Về tâm
tư, con người có những lo nghĩ bất thường hoặc tức giận, hoặc sợ sệt, hoặc
buồn khổ đều là nguyên nhân phát bệnh. Người tu thiền khéo buông xả những
tâm niệm bất thường ấy, khiến nội tâm an ổn nhẹ nhàng. Buông xả mọi tâm
niệm xáo động nơi mình, người ấy sẽ điềm đạm bình tĩnh. Lại những khi bị
gió lạnh xâm nhập vào thân, chỉ cần ngồi thiền trong một giờ thì tan hết.
Bởi lẽ khi ngồi thiền hơi nóng trong người xông lên nên khí lạnh tan biến.
Con người do thân bất an sanh bệnh, tâm bất an sanh bệnh. Người tu thiền
khéo điều hòa thân an ổn, tâm yên định, nên phù hợp với thuật dưỡng sinh.
IX. NHỮNG
NGHI VẤN VỀ THIỀN TÔNG.
A. CHƯ TỔ THIỀN TÔNG KHÔNG
ĐỦ CHỨNG CỨ?
Câu hỏi này gồm hai nghi vấn: Phật truyền
tâm ấn cho Tổ Ca-diếp không thấy ghi chép ở kinh nào, chư Tổ kế thừa ở Ấn
Độ cũng không thấy ghi chép trong các sử sách.
Về nghi vấn trên, chúng ta kinh nghiệm
hiện tại có thể hiểu quá khứ. Có lắm vị thầy trong các ngành nghề, tôn
giáo, đảng phái, bao giờ cũng có một vài đệ tử được bí truyền, còn đa số
chỉ dạy thông thường thôi. Bởi vì người cảm thông được mình mới nói hết
những bí ẩn trong lòng mình cho họ. Những điều ấy không thể nói giữa quần
chúng, mà chỉ nói riêng tư. Kinh chép lại, chỉ ghi những thời thuyết pháp
cho đông người, hoặc có tính cách phổ thông, những điều bí truyền làm sao
chép được. Hơn nữa, với Tổ Ca-diếp đã có mấy lần ở giữa chúng, đức Phật
mời Ngài lên ngồi chung tòa và cũng từng tán thán: "Những gì ta biết,
Ca-diếp cũng biết v.v…", trong các kinh A-hàm còn rõ ràng. Thế thì, "biệt
truyền tâm ấn" cho Tổ Ca-diếp đâu còn lạ gì.
Nghi vấn thứ hai, có tính cách học giả.
Trong Thiền tông thầy trò truyền nhau không khoa trương, mà thầm lặng. Chỉ
cần để y bát làm tin, không thiết tuyên bố cho quần chúng biết. Có khi ở
trong rừng, trong núi, một thầy một trò truyền nhau, làm sao có ghi sử
sách? Cho nên trong nhà Thiền lấy y bát làm "biểu tín", tâm ấn làm "mật
tín". Người được thầy trao y bát, đại chúng đều biết đã được truyền tâm
ấn. Căn cứ vào tâm ấn, nếu không có người trước truyền cho người sau, làm
gì người sau nhận được pháp này. Ví như một gia tộc có hòn ngọc quí, từ
ông cha truyền đến con cháu, đến đời cháu thứ sáu mươi nhận được hòn ngọc
do người cha thứ năm mươi chín trao cho. Người cha kể lịch sử truyền trao
trong gia tộc cho nó nghe, nó nhận được hòn ngọc thật, trong hòn ngọc có
khắc niên hiệu của thời ông bà xa xưa của nó, thử hỏi nó có tin lời kể lại
của cha nó là thật chăng? Trừ ra những người không biết hòn ngọc thì khó
tin chuyện ấy. Cũng thế, pháp "trực chỉ nhân tâm" của nhà thiền không phải
là chuyện ngẫu nhiên được, cần có Thiện tri thức chỉ dạy mới nhận ra.
Người nhận ra pháp này tự nhiên không còn nghi ngờ sự truyền thừa của chư
Tổ. Nếu nói cần phải có sự chứng minh của lịch sử thì việc trong rừng
trong núi của cá nhân làm gì có lịch sử?
B. AI TRUYỀN TÂM ẤN CHO
CHÚNG TÔI?
Nghi vấn này rất hữu lý, người biết chút
ít về thiền không ai chẳng đặt nghi vấn này. Từ Lục Tổ về trước, Tổ Tổ
truyền nhau, trong thì ấn tâm, ngoài truyền y bát làm "biểu tín". Lục Tổ
về sau không còn truyền y bát nữa, vì nhiều người hiểu thiền, nghe một câu
nói, thấy một hành động là biết người ấy thế nào rồi. Hơn nữa một vị Thiện
tri thức nổi tiếng được chúng theo tham vấn có cả năm bảy trăm một ngàn,
nếu có một người được vị Thiện tri thức ấn chứng tức thiên hạ đều biết,
cần gì phải có y bát. Song một vị ra làm Thiện tri thức, hướng dẫn người
tu học đều phải được thầy ấn chứng, có hệ phái rõ ràng. Đến thời chúng ta
hiện nay, Thiền tông đã mất dạng cả một trăm năm, còn ai là Thiện tri thức
chỉ dạy cho chúng tôi, mà chúng tôi đề xướng khôi phục Thiền tông? Quả là
một điều đáng nghi.
Thật lòng, trước kia chúng tôi không có mơ
mộng tu thiền, huống nữa khôi phục Thiền tông. Song chúng tôi hâm mộ tu
thiền và cố gắng tu thiền, theo lối thiền phổ thông. Thời gian nhập thất
hạ thủ công phu tu tập, một hôm bất thần chúng tôi phát minh được lý Thiền
tông. Sau đó chúng tôi đọc qua kinh sử Thiền tông, càng làm sáng tỏ chỗ
chúng tôi nhận được. Từ đó, chúng tôi khảo cứu sách sử thiền, những bộ này
ngày xưa đối với chúng tôi không thể nào hiểu nổi, nhưng hiện nay không
còn khó khăn nữa, càng đọc càng hứng thú. Đồng thời, những chỗ khó trong
các kinh điển Đại thừa, lúc trước đã học qua mà chưa hiểu, chúng tôi nhớ
lại và hiểu một cách dễ dàng. Vì thế, ngày xưa chúng tôi đã từng nói giữa
học chúng: "Kinh điển Đại thừa chỉ để trên gác thờ", ngày nay chúng tôi
thấy: "Kinh điển Đại thừa là một kho châu báu".
Bởi thấy Thiền tông đơn giản thực tế, siêu
thoát, ứng dụng tu hành lợi ích ngay trong hiện tại, chúng tôi không nỡ tự
tu tự hưởng một mình. Do đó, chúng tôi mở thiền viện dạy tu thiền. Chúng
tôi không được Thiện tri thức trực tiếp ấn chứng, nên chúng tôi dùng kinh
sử để giảng thiền. Bởi không được trực tiếp ấn chứng nên chúng tôi không
thể dựng Phật tử, gọi dạ như thầy trò Tổ Qui Sơn, Ngưỡng Sơn; đánh hét như
thầy trò Tổ Hoàng Bá, Lâm Tế. Chúng tôi chỉ giảng dạy kinh, luận, sử cho
người nghe nhận hiểu để ứng dụng tu. Chúng tôi lấy kinh ấn chứng cho
Thiền, tu Thiền để sáng tỏ thêm kinh. Sự hỗ tương giữa kinh và thiền đối
với chúng tôi thật quá thiết yếu.
Chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma đâu không nói: "Cõi
này có bốn quyển kinh Lăng-già khả dĩ dùng ấn tâm". Lục Tổ Huệ Năng ngộ
đạo do nghe giảng kinh Kim Cang. Đối với chúng tôi hiện nay cũng thế, dùng
kinh để ấn tâm, giảng kinh để ngộ đạo. Có người nghi rằng ngày xưa Thiền
sư Huyền Giác nhân đọc kinh Duy Ma Cật nhận ra lý Thiền, vẫn được Thiền sư
Huyền Sách khuyến khích đến Lục Tổ ấn chứng, nếu không sẽ thành ngoại đạo
thiên nhiên. Chúng tôi hiện nay không có người ấn chứng, lại thành ngoại
đạo hay không? Thưa rằng, ngày xưa có Tổ ra đời không đến ấn chứng là
người đứng ngoài lề Thiền tông, ngày nay không có Tổ, cũng không có Thiền
sư kế thừa, chúng tôi phải nhờ ai ấn chứng? Thế thì kinh, luận, sử, ngữ
lục của chư Tổ không đủ ấn chứng cho chúng tôi sao? Người học đạo cần phải
dùng trí phán xét đường lối tu hành, đúng Phật, Tổ dạy hay sai Phật, Tổ
dạy, đừng đòi hỏi một việc mà không bao giờ làm được.
C. TU THIỀN CÓ PHẢI RƠI
VÀO KHÔNG CHĂNG?
Thiền tông chủ trương không kẹt hai bên,
còn thấy có, thấy không đều là kẹt. Đã kẹt tức là bệnh không thể giải
thoát được. Như vậy hỏi tu thiền rơi vào có, rơi vào không đều không hiểu
thiền. Bởi vì tâm thể không tướng mạo, nên nói không tướng, tuy không
tướng mà hằng giác. Không tướng là không phải có, hằng giác là không phải
không. Thế thì nói có nói không đối với thiền đều là phiếm diện, không
phải toàn thể. Chúng ta nghe câu chuyện đối đáp của Thiền sư Huệ Hải với
Luật sư Pháp Minh để thấy rõ ý nghĩa này:
Luật sư Pháp Minh hỏi: "Các Thiền sư phần
nhiều rơi vào không?" Thiền sư Huệ Hải bảo: "Trái lại, các Tọa chủ phần
nhiều rơi vào không." Pháp Minh hỏi: "Tại sao rơi vào không?" Huệ Hải đáp:
"Kinh, luận là giấy mực văn tự, giấy mực văn tự đều là không, dù trên
tiếng dựng lập danh, cú, văn, thân đâu chẳng phải là không. Tọa chủ bám
chặt vào giáo thể đâu chẳng rơi vào không?" Pháp Minh hỏi: "Thiền sư có
rơi vào không chăng?" Huệ Hải đáp: "Văn tự… đều từ trí tuệ mà sanh, đại
dụng hiện tiền đâu thể rơi vào không."
Qua câu chuyện trên liền thấy được ai chấp
không. Bởi cửa thiền là cửa Không, nên người ta cứ cho thiền là rơi vào
không. Họ không biết rằng đây là bước đầu phá chấp ngã sai lầm cho thật
có, khi chấp ngã tan biến rồi liền thấy tâm thể nào phải là không. Cho tu
thiền rơi vào không là cái thấy biết nông nổi cạn cợt ở ngoài, chưa hiểu
gì về thiền. Người hiểu thiền chân chánh còn không thấy có, huống nữa là
không.
D. TU THIỀN CHẾT SANH VỀ
ĐÂU?
Người học Phật mà đặt câu hỏi này thật quá
thiển cận. Chủ yếu của Phật giáo, người tu đạt được Niết-bàn là cứu kính.
Nghĩa chánh của Niết-bàn là vô sanh. Mục đích người tu nhắm thẳng đến chỗ
vô sanh, mà hỏi sanh về đâu, trái hẳn với mục đích của mình rồi. Nếu còn
sanh tức chưa viên mãn công phu, công phu chưa viên mãn thì tùy phước
nghiệp cao thấp, dày mỏng, đến cảnh tương ưng thọ sanh. Nếu công phu đã
viên mãn, mà hỏi sanh về đâu, như các vị A-la-hán tịch, chư Tỳ-kheo hỏi
Phật: "Vị ấy sanh về đâu?" thì Phật trả lời: "Như củi hết lửa tắt". Đống
lửa cháy sắp tàn do không thêm củi, khi củi hoàn toàn hết thì lửa tắt.
Không thể hỏi lửa đi về đâu, vì hiện tượng mất trở lại bản thể. Bản thể
của lửa không tướng mạo, làm sao chỉ chỗ nơi cho người thấy biết được. Củi
ví dụ cho nghiệp, còn nghiệp thì còn sanh, hết nghiệp hỏi sanh ở đâu?
Riêng về người tu thiền, khi công phu viên
mãn đạt được vô sanh tự tại giải thoát, tùy duyên ứng hóa, không thể hỏi
đi đâu hay về đâu? Nếu công phu chưa viên mãn, khi sắp tịch cần làm chủ
được mình, chỉ nhớ sống với tâm thể thanh tịnh, không bị vọng tưởng chi
phối, lúc ra khỏi thân tùy chọn lựa nơi nào đủ duyên thì đến, không cố
định ở đâu. Lại nữa nếu người tu công phu còn tầm thường, chỉ cần gan dạ
khi đau liền nhìn thẳng cái đau nó đang hoành hành thế nào, thấy được cái
đau hoành hành thì mình không đau. Khi sắp chết cần nhìn thẳng xem cái
chết đang tiến hành ra sao, thấy cái chết đang tiến hành thì mình không
chết. Bởi vì chúng ta cứ đồng hóa cái thân hoại diệt với tâm bất hoại diệt
làm một, nên bị nó chi phối. Giờ đây chúng ta thấy rõ sự hoại diệt của nó,
tức nó không chi phối được mình. Chúng ta nghe lời đối đáp của Thiền sư
Lương Giới, Tổ tông Tào Động về việc này:
Thiền sư Lương Giới sắp tịch, có vị tăng
hỏi: "Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?" Sư đáp: "Có." Tăng
hỏi: "Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?" Sư đáp: "Lão tăng xem y
có phần." Tăng hỏi: "Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?" Sư đáp: "Khi lão
tăng xem, chẳng thấy có bệnh."
Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy rõ, biết được
cái bệnh cái chết là chúng ta khỏi bệnh khỏi chết. Hỏi chết sanh về đâu là
hỏi theo nghiệp, theo nguyện. Người tu thiền nỗ lực buông xả động cơ tạo
nghiệp là vọng tưởng, mong mỏi một nơi nào đó cũng là vọng tưởng. Người tu
thiền là dứt sự mong cầu, hỏi sanh về đâu thật là ngớ ngẩn vô cùng.
E. TU THIỀN BAO LÂU ĐƯỢC
THẦN THÔNG?
Đây là một vấn đề lầm lẫn của đa số người
hâm mộ tu thiền. Họ bị những môn thiền tà, ngoại nói về sự linh thiêng mầu
nhiệm, khiến họ ước mơ thần thông. Với tinh thần Thiền tông, thần thông
diệu dụng chỉ là vấn đề phụ thuộc không đáng kể. Đạt được tánh giác, sống
với tâm thể mới là điều thiết yếu, như nói "Minh tâm kiến tánh" hay nói
"Thức tâm đạt bản nguyên danh vi sa môn". Vì thế mục tiêu chánh yếu của
hành giả tu theo Thiền tông là làm sao kiến tánh để khởi tu. Sau khi kiến
tánh phải buông xả vọng tưởng để hằng sống với chân tánh. Ngoài hai điều
chánh yếu này không còn gì đáng kể. Thế nên chư Thiền sư chưa kiến tánh
phải đi hành khước hai ba mươi năm tìm khắp các Thiện tri thức để được
kiến tánh. Sau khi kiến tánh các Ngài vào núi ở mấy mươi năm để buông xả
vọng tưởng. Xong việc các Ngài mới ra làm lợi ích cho người sau. Mọi sự
mầu nhiệm đối với Thiền sư xem như một bệnh hoạn đáng trách.
Thiền sư Nam Tuyền đi thăm trang sở ở dưới
núi, đến nơi thấy trang chủ sắp đặt lễ nghi trịnh trọng chực đón. Nam
Tuyền hỏi: "Ta đi đâu không báo cho ai biết trước, tại sao trang chủ bày
biện thế này?" Trang chủ thưa: "Khi hôm có thổ địa mách, hôm nay Hòa
thượng đến." Nam Tuyền nói: "Thầy già họ Vương này tu hành vô lực bị quỷ
thần thấy tâm."
Được quỷ thần báo trước việc đến của mình,
theo thế thường là quá vinh dự, nhưng Thiền sư xem đó là sự dấy tâm động
niệm của mình bị quỷ thần xem thấy. Đến như được sự cúng dường vẫn là bệnh
hoạn.
Thiền sư Đạo Ưng cất thảo am ở Tam Phong,
suốt tuần nhật không đến trai đường thọ trai. Động Sơn thấy lạ đến hỏi:
"Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?" Sư thưa: "Mỗi ngày có thiên
thần cúng dường." Động Sơn bảo: "Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải.
Ngươi rảnh chiều lại." Chiều sư đến, Động Sơn gọi: "Ưng am chủ!" Sư ứng
thinh: "Dạ." Động Sơn bảo: "Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là gì?" Sư trở
về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải ba ngày như
thế mới thôi cúng dường.
Người tu được thiên thần cúng dường mỗi
ngày là điều ít có. Tại sao không khen, lại bị chê "còn kiến giải"? Còn
khởi niệm lành thì quỷ thần hay chúng sanh khác còn thấy, chỉ khi mọi niệm
lành dữ đều bặt thì không còn ai thấy tâm mình. Đó mới là chỗ cứu kính của
người tu thiền. Cho nên chủ trương của Thiền tông, khi nào trước tám gió
-lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc - thổi, tâm hành giả không động là
thành công. Thần thông diệu dụng mà một gió đã động thì đó là dã hồ tinh
mị. Người có thiện chí tu hành khéo dè dặt đừng lầm lẫn chỗ này.
G. TU THIỀN CÓ ĐIÊN CHĂNG?
Khi dạy thiền chúng tôi thường nói: "Không
biết tu thiền điên, biết tu thiền không điên". Tại sao? Bởi vì những người
không biết mà tập tu thiền sai lạc nên phát điên, người biết tu thiền đúng
đắn làm sao điên được. Nếu tu thiền điên thì đức Phật, chư Tổ đã điên hết
rồi sao? Phật, Tổ do tu thiền đạt đạo, chúng ta ngày nay tu thiền điên là
tại sao? Đâu không phải tại không biết tu lầm lẫn nên điên. Thế thì tu mà
điên là tại không biết tu, chớ không phải tại tu thiền. Hơn nữa người tu
thiền cấm kỵ nhất là "mừng" và "sợ". Hiện nay một số hành giả tu thiền,
khởi tâm vọng cầu tướng lạ, khi tướng lạ hiện đúng sở cầu, liền khởi
"mừng" không thể kềm chế được, phát điên. Hoặc khi tướng lạ hiện khác sở
cầu, sanh "sợ" hoảng lên phát điên. Đó là tại mong thấy tướng lạ, như mong
thấy Phật hiện, mong thấy hoa sen… Hoặc người tu mong được thần thông, khi
ấy quỷ thần thấy tâm mong cầu của mình, nó đến theo sở thích của hành giả,
hiện mọi thứ thần thông, hành giả liền bị nó mê hoặc. Sau đó, hành giả trở
thành điên cuồng khờ khạo. Còn lắm chuyện khiến hành giả phát điên, song
đều do nguyên nhân vọng cầu mà ra. Người tu thiền chân chánh theo Thiền
tông thì "gặp ma giết ma, gặp Phật giết Phật". Câu này có hai ý nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, khi tu Thiền hành giả chẳng những buông xả tâm xấu ác mà
tâm hiền thiện cũng xả bỏ luôn. Còn một niệm dù là niệm lành cũng là bệnh,
như nói: "Mạt vàng tuy quý, rơi vào con mắt cũng khó chịu". Bỏ niệm xấu ác
là giết ma, bỏ niệm lành là giết Phật. Nghĩa thứ hai, hành giả trong lúc
tu thiền dù thấy Phật hiện hay ma hiện đều không chấp nhận. Bởi vì tất cả
tướng bên ngoài đều không thật, đều hư giả, không chấp nhận thì tâm mừng,
sợ đều không, sự tu hành mới an định. Chúng ta nghe câu chuyện này:
Thiền sư Văn Hỷ (Giải Thoát) đi hành hương
Ngũ Đài Sơn, đến hang Kim Cang lễ bái Bồ-tát Văn Thù, gặp Văn Thù mà Sư
không biết. Sau này, Sư ngộ đạo ở Ngưỡng Sơn. Một hôm, Sư nấu cháo, thấy
Văn Thù hiện trên nồi cháo, Sư lấy cây dầm quậy cháo đập, nói: "Văn Thù tự
Văn Thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ". Văn Thù nói kệ:
Khổ qua liên căn khổ
Điềm qua triệt đới điềm
Tu hành tam đại kiếp
Khước bị lão tăng hiềm.
Dưa đắng gốc vẫn đắng
Dưa ngọt rễ cũng ngon
Tu hành ba đại kiếp
Lại bị lão tăng đòn.
Qua hình ảnh trên thấy rõ ý nghĩa "Gặp
Phật giết Phật gặp ma giết ma" của Thiền sư vậy. Nếu hành giả tu thiền gặp
tất cả ngoại cảnh đều không chấp, chỉ sống một tâm thanh tịnh, còn có lý
do gì khiến phải điên.
Tuy nhiên gặp ma hiện không chấp nhận là
dễ, thấy Phật, Bồ-tát hiện không chấp nhận phải gan dạ lắm mới làm được.
Người tu ít lầm ma, trái lại thường lầm Phật. Do đó ma lợi dụng lòng quý
kính Phật của hành giả, nó hiện thân Phật, hiện nói pháp… hành giả dễ bị
nó dẫn đi. Bởi chúng ta chưa có thiên nhãn, làm sao phân biệt ma, Phật để
khỏi lầm. Chính ngày xưa Tổ Ưu-ba-cúc-đa vẫn còn lầm:
Một hôm ma Ba Tuần đến quấy nhiễu Tổ
Ưu-ba-cúc-đa, Tổ dùng đạo lực trị chúng. Cuối cùng ma Ba Tuần xin qui y
với Tổ. Tổ qui y cho ma Ba Tuần xong, bảo nó: "Khi xưa đức Thế Tôn tại
thế, ngươi thường trông thấy, nay ngươi hiện thân Phật và một ngàn hai
trăm năm mươi vị Tỳ-kheo cho ta xem". Ma Ba Tuần hứa nhận, ma thưa: "Khi
con hiện thân Phật, xin Hòa thượng đừng lễ bái, con Tổn phước". Tổ nhận
lời, ma biến mất. Giây lát thấy từ mé rừng đức Phật đi trước ôm bình bát
hào quang sáng rỡ, theo sau một ngàn hai trăm năm mươi chúng Tỳ-kheo oai
nghi trang nghiêm đi đến trước mặt Tổ. Bất giác Tổ cúi mình đảnh lễ, Ma
liền biến mất.
Ngài là một vị Tổ thứ tư ở Ấn Độ, trong
khi ma hiện hình Phật, trước đã giao hẹn với Ngài, Ngài vẫn đảnh lễ. Huống
nữa bọn phàm phu chúng ta gặp những cảnh trạng như vậy, làm sao khỏi hết
lòng quy ngưỡng. Ma hiện mà chúng ta quy ngưỡng thì nhất định phải rơi vào
đường ma. Chỉ một điều duy nhất là chúng ta không chấp nhận mọi cảnh bên
ngoài, một bề buông xả vọng tưởng là trên hết.
X. NHỮNG BỆNH CỦA NGƯỜI
TU THIỀN.
Thiền tông là một lối tu nhẹ nhàng thanh
thoát, phóng khoáng, tế nhị, thâm trầm. Nếu người phát tâm kiên cố, trường
viễn tu hành, chắc chắn kết quả như nguyện. Ngược lại, nếu người phát tâm
yếu đuối, tu hành khi tiến khi lùi, hoặc khi phát hứng tu quên ăn bỏ ngủ,
khi khởi lười biếng cả tháng chẳng nhớ công phu. Những người như thế mà tu
thiền dễ phát sanh những bệnh dưới đây:
A. TỰ TÍN KHÔNG KHÉO THÀNH
TỰ TÔN
Thiền tông dạy "Tức tâm là Phật", những
người không khéo tu hành, nghĩ rằng tâm mình là Phật, cần gì lễ Phật sám
hối, đó chỉ thuộc hình thức bên ngoài, sống với tâm mình đủ rồi. Từ quan
niệm đó, họ xem thường những bậc thầy, những người tu trước có đức hạnh
hơn họ. Họ cứ nghĩ: "Tôi sống với tâm tôi, bất cần ai nói gì thì nói".
Nhưng thực tế, họ cũng chưa sống được với tâm họ, chỉ ôm lòng ngạo mạn tự
cao, không kính Phật, không quý những bậc tôn túc. Thế là thành bệnh "tự
tín không khéo thành tự tôn". Đã thành bệnh mà biết ăn năn hối cải, còn tu
tiến được, bằng không thì rất khó cứu.
Muốn trị bệnh này, người tu thiền vẫn
thường lễ Phật sám hối, vẫn quý kính những hàng tôn túc. Tự biết tâm ta là
Phật, song nếu không có Phật giác ngộ, chỉ dạy lại thì làm sao biết được.
Hòn ngọc quý của ta đã bỏ quên từ thuở nào, ngày nay được người chỉ cho,
tìm lại được nó, công ơn của người chỉ thật vô lượng. Đến chư Tổ và Thiện
tri thức hiện nay, cũng là người cứu chúng ta thoát khỏi mê lầm. Nếu không
có chư Tổ tiếp nối, Thiện tri thức ra đời, ngày nay làm sao chúng ta còn
đủ duyên biết đạo lý cao cả này. Vì thế các Ngài đều là người ân sâu dày
của chúng ta. Chúng ta luôn luôn hết lòng quý kính các Ngài. Thành tâm lễ
Phật sám hối, quý kính những bậc tôn túc là trị lành bệnh tự tôn.
B. PHÓNG KHOÁNG KHÔNG KHÉO
THÀNH PHÓNG TÚNG.
Bệnh này người tu thiền dễ mắc phải. Bởi
vì Thiền tông chú mục buông xả mọi vọng tưởng, cố chấp, khuôn mẫu, hình
thức, tập tục sai lầm, chính những thứ ấy đóng khung con người cứng đờ
không thoát nổi. Người tu thiền phải lột sạch mọi hình thức tập tục phi lý
ấy. Do đó tâm hồn phóng khoáng, không bị cuộc hạn trong một phạm trù nào.
Sống với tâm thể thênh thang không lệ thuộc, cũng không giới hạn. Còn bó
buộc trong một hình thức nào đều là thiếu hồn nhiên tự tại. Chính vì không
chấp vào hình thức, cho đến giới luật họ cũng xem thường; thế là họ trở
thành phóng túng bất chấp giới luật, bất cần dư luận, sống gàn gàn, dở dở,
không đếm xỉa đến ai. Khi đã thành bệnh rồi, thật chướng ngại lớn lao trên
đường tu.
Người này nếu ăn năn thức tỉnh, cần phải
phát lồ sám hối, cố gắng gìn giữ giới luật mà họ đã thọ. Chúng ta tu thiền
trong nhà Phật, cần phải có tự lợi lợi tha đầy đủ. Nếu không giữ giới
luật, tức là mất lòng tin của mọi người, mọi người đã không tin thì làm
sao giáo hóa để đầy đủ lợi tha. Hơn nữa, chúng ta tuy có phước duyên hiểu
đạo, song nghiệp chướng còn dày, phải tránh cảnh bớt duyên mới khả dĩ tiến
được, bằng xông pha bất chấp, e rồi sẽ sẩy chân không thể cứu được. Người
tu cần phải thận trọng, không nên xem thường.
C. NÓI VÀ LÀM KHÔNG KỊP
NHAU.
Thiền tông thật là siêu thoát, một khi
hiểu được, ai cũng thấy hứng thú vô cùng. Bởi hứng thú quá mức, khiến
người tu thích luận bàn, quên tu tập. Lý luận hay, được nhiều người nể
phục, cứ thế phát triển quên cả thực hành. Lâu thành thói quen, họ là kẻ
nói đạo chớ không hành đạo. Tệ hại hơn nữa, có một ít người trong tâm còn
nhiễm dục lạc, thân hành dục lạc, bị người khác phê bình chỉ trích, liền
dẫn lời Tổ để che đậy lỗi mình, quả là yêu quái khoác áo cà sa để bịp đời.
Người tu cần phải thật thà, cái dở của mình phải gan dạ nhận lỗi để sửa,
khả dĩ tiến được. Nếu là kẻ chỉ khéo lanh mồm lẻo mép che đậy lỗi mình,
bào chữa quấy mình, đó là nhân địa ngục không thể cứu. Nếu vì hứng thú
muốn nói lên những cái hay của mình thấy được, người chân tu cần phải hạn
chế bớt, có mười điều nên nói năm sáu điều thôi. Quả thật mắc bệnh hay
nói, hành giả cần học lời cổ đức dạy: "Phải để khóe miệng lên meo, như cây
quạt mùa đông". Được thế, bệnh hay nói từ từ suy giảm. Người tu cần phải
ngôn hạnh tương ưng, sẽ được lợi người lợi mình đầy đủ. Nếu chỉ có ngôn mà
không hạnh, là lời nói suông, nếu không bảo là nói dối. Bớt nói và ít nói
là phương tiện tối thiết để trị bệnh này.
D. BỎ THỜI KHÓA CÔNG PHU
TRỞ THÀNH LƯỜI BIẾNG.
Người tu theo Thiền tông giờ nào cũng là
giờ tu, hành động nào cũng là hành động tu, hằng chiếu soi tâm niệm mình
không chút sơ hở. Nếu được như thế, thời khóa công phu đặt với người này
trở thành vô nghĩa. Đợi đến thời khóa mới tu sao? Ngoài thời khóa ấy làm
gì? Quả thật chỗ thiết yếu là tu từng tâm niệm. Nhưng cũng có một số người
lười nhác, không thể hằng quán chiếu từng tâm niệm ở nội tâm, mà đặt thời
khóa tu hành họ lại chống đối. Họ bảo rằng người tu thiền giữ hình thức ấy
làm gì? Giờ nào không phải là giờ tu mà đặt thời khóa? Thế nhưng, không có
thời khóa, thì họ thả rong con khỉ ý thức chạy nhảy tứ tung, chẳng có phút
giây an tĩnh. Lợi dụng sự không nặng thời khóa của người chân tu, họ mặc
tình vui chơi lười biếng. Muốn trị bệnh này, người tu thiền cần phải khắc
kỷ, nỗ lực tiến tu, nếu thấy tâm mình lơi lỏng liền phải thu nhiếp, phát
thệ nguyện mạnh mẽ để sách tiến mình. Hằng phát nguyện tinh tấn là phương
thuốc trị lành bệnh này.
Tóm lại, người tu thiền mắc bệnh tự tôn
phải dùng lễ Phật sám hối để trị, người mắc bệnh phóng túng dùng giới luật
để trị, người mắc bệnh nói nhiều dùng ít nói im lặng để trị, người mắc
bệnh lười biếng dùng tinh tấn để trị. Người tu biết mình có bệnh, khéo
dùng thuốc điều trị thì bệnh được lành, trên đường tiến đạo sẽ không thối
chuyển. Ngược lại, có bệnh mà không biết, hoặc biết mà không chịu điều
trị, chắc chắn người ấy sẽ bỏ cuộc nửa đường, có khi phải sa đọa là khác.
XI. KẾT LUẬN:
Yếu chỉ Thiền tông là kiến tánh khởi tu,
ngay trong đời này hành giả giác ngộ bản tánh chân thật của mình, tất cả
thứ giả dối sai lầm từ muôn đời mê chấp, buông xả hết để tâm thể thanh
tịnh sáng suốt. Thiền tông khai thác cho chúng ta thấy một con người chân
thật từ vạn kiếp của chúng ta. Đó là đưa giá trị con người đến tột đỉnh
của nó. Hạnh phúc chân thật không thể có nơi con người giả dối này. Chỉ
khi nào chúng ta nhận ra "bản lai diện mục" của mình, hằng sống với nó mới
là chân hạnh phúc. Bởi vì mọi cuộc luân hồi đau khổ ngang đây đã chấm dứt.
Con người bao giờ cũng hướng về Vĩnh Cửu, song tự mình không biết Vĩnh Cửu
ở đâu, người ta cứ ngỡ Vĩnh Cửu ở một phương trời xa lạ nào, không ngờ
Vĩnh Cửu vẫn ở ngay trong cái thân vô thường giả dối này. Khác với các nhà
tôn giáo xưa nay, tô điểm cái vĩnh cửu bằng một bộ mặt phấn son nồng nặc.
Thiền tông vạch trần bộ mặt thật của Vĩnh Cửu hết sức bình dị đơn sơ. Chân
lý bao giờ cũng giản dị, song vì sức tưởng tượng của con người biến chân
lý trở thành cái huyền bí xa vời. Đạo, Chân tâm, Phật tánh, Pháp thân…
chẳng phải gì xa lạ, chính là bộ mặt thật của con người chúng ta. Bộ mặt
thật ấy bị phủ kín bởi những lớp bụi vọng tưởng điên đảo, chịu khó lau
chùi sạch chúng thì bộ mặt thật xuất hiện đầy đủ. Đừng dại khờ chạy tìm nó
trên những đỉnh núi cao chót vót, dưới những vực thẳm sâu hun hút, trong
những rừng rậm mịt mù, từ những phương trời xa tít. Chúng ta hãy dừng lại
nhìn thẳng dưới gót chân của mình, quả thật bộ mặt thật đã nằm sẵn ở đây.
Người khéo biết sống trở lại mình thì chân lý gần gũi làm sao. Ai có thể
ngờ rằng "Tâm bình thường là đạo"! Đây là tánh cách đơn giản bình dị của
nhà thiền. Chỉ ngại người ta khinh thường bỏ qua hòn ngọc báu, Thiền sư
phải dùng đến diệu thuật hét điếc tai, đánh tóe lửa, chung qui cũng chỉ vì
chỉ thẳng cái "tâm bình thường" cho mọi người. Song bình thường là phi
thường, bởi vì nghĩa bình thường của con người xưa nay là điên đảo, bỏ
được cái điên đảo ấy mới gọi bình thường. Thế nên nhận ra được bản tâm
bình thường của mình, cần phải phủi sạch những thứ điên đảo phi thường kia
là chúng ta sống một cuộc sống thái bình, chấm dứt một cuộc đời lang thang
ở tha phương viễn xứ, trở về cố hương an ổn muôn đời.
Để chấm dứt phần kết luận này chúng tôi
mượn bài kệ của Thiền sư Huệ Sinh đời Lý ở Việt Nam thu gọn hơn:
Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệc phi vô
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sanh dữ Phật đồng.
Tịch tịch Lăng-già nguyệt
Không không độ hải chu
Tri không, không giác hữu
Tam-muội nhậm thông châu.
Pháp gốc như không pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết pháp ấy
Chúng sanh cùng Phật đồng.
Trăng Lăng-già vắng lặng
Thuyền Bát-nhã rỗng không
Biết không, không giác có
Chánh định mặc thong dong.
VÀO CỔNG NHÀ THIỀN
Buổi nói
chuyện hôm nay cốt yếu chúng tôi giới thiệu tổng quát với quí
vị phương pháp tu thiền, chúng tôi đặt tên là "Vào Cổng Nhà Thiền". Lý
đáng tên đề tài phải là "Đường Lối Vào Nhà Thiền", nhưng nói đến đường lối
là còn xa xôi, ở đây chúng tôi muốn nói đến cổng rồi, không phải là chuyện
ở đầu đường nữa. Dùng tiếng "cổng" quí vị sẽ có cảm tưởng như chúng ta
đứng trước cổng chùa, thấy tổng quát ngôi chùa và cảnh vật quanh chùa,
nhưng chi tiết trong chùa và Phật thì chúng ta chưa thấy. Chúng ta còn
phải qua hai giai đoạn, bước qua cửa và vào trong chùa. Hôm nay chúng tôi
mới nói đến chuyện tới cổng chùa.
Chữ Thiền ở đây là chỉ thẳng vào Thiền
tông, cũng như lâu nay trong chùa thường dùng danh từ Thiền lâm hay Thiền
gia. Khi nói đến thiền, chúng ta phải biết nguồn gốc từ đâu: do Thái tử
Tất-đạt-đa đi tu, bốn mươi chín ngày tọa thiền dưới cội Bồ-đề, sau đó Ngài
thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Đức Phật sở dĩ được giác ngộ và thành
Phật là do tọa thiền ở cội Bồ-đề.
Hôm nay nói đến thiền, quí vị không lấy gì
làm lạ, vì đó là chủ yếu của đạo Phật, không phải phương pháp nào xa lạ,
đối với người Phật tử hay đối với tất cả tăng ni. Nhưng thử hỏi đức Phật
giác ngộ cái gì mà thành Phật? Ai cũng chấp nhận và cũng hiểu rằng Phật là
giác, Phật Đà là người giác ngộ.
Nhớ lại phần lịch sử, khi xưa do nguyên
nhân nào Thái tử Tất-đạt-đa đi tu? Chắc ai cũng biết điểm chủ yếu là sau
khi dạo bốn cửa thành, thấy cảnh sanh già bệnh chết của con người, Ngài
xúc động mạnh. Đó là nguyên nhân thúc đẩy Ngài đi tu để tìm phương pháp
giải quyết vấn đề sanh già bệnh chết của con người nói riêng và của tất cả
chúng sanh nói chung. Động cơ thúc đẩy Ngài đi tu và thành đạt đạo quả có
liên hệ mật thiết nhau. Vì muốn giải quyết vấn đề sanh già bệnh chết của
chúng sanh, nên Ngài đi tu và thành Phật. Giác ngộ ngay nơi con người, đó
là chủ yếu của sự giác ngộ.
Nói thế đức Phật có vẻ như thiên trọng về
con người, tức là quan tâm đến vấn đề nhân sinh quan. Đối với vũ trụ quan,
Ngài nghĩ thế nào? Nói một cách tổng quát, trong nhà Phật danh từ chuyên
môn gọi con người là chánh báo, vũ trụ là y báo. Y báo tùy thuộc vào chánh
báo, cũng như cái nhà tùy thuộc vào ông chủ nhà. Muốn biết phương pháp xây
dựng cái nhà, trước hết chúng ta nên biết ông chủ nhà. Nếu không biết ông
chủ mà cứ nghiên cứu lý do và phương pháp xây cất căn nhà thì cái biết ấy
e chưa đích xác. Muốn đích xác trước hết chúng ta phải biết người làm chủ
xây cất căn nhà và biết được người đó như thế nào, rồi những lý do và
phương pháp xây cất v.v… chúng ta sẽ biết sau, không khó khăn nữa. Vì vậy
chủ yếu giác ngộ trong đạo Phật là giác ngộ con người, tìm nguyên nhân từ
đâu đưa con người đến sanh tử hiện nay, và làm sao giải quyết được vấn đề
sanh tử đó.
Tất cả chúng ta hiện giờ biết được chính
mình chưa? Hằng ngày chúng ta tự xưng là tôi, là ta, là mình, ấy là gì?
Cái gì là tôi, cái gì là ta, cái gì là mình? Nếu phần xác thịt này là
mình, thì nó có hoàn toàn còn mãi với chúng ta không? Ví như cái tay được
coi là một bộ phận của mình, khi cái tay bị bệnh phải cưa đi, ráp cái tay
khác vào thì cái gọi là mình đó có còn thật là mình hay không? Ai trong
chúng ta cũng tự thầm bảo thân này là mình, là tôi, là ta, nhưng chưa có
ai xác định cái gì là mình, cái gì là tôi, cái gì là ta. Có khi chỉ thân,
có khi chỉ tâm, hoặc cho cái suy nghĩ là tôi, hoặc cái thân này là tôi,
nhưng cái nào là đúng, cái nào là thật? Có lẽ chúng ta không bao giờ hài
lòng với quan niệm của chúng ta. Nếu thân này là tôi, thì cái tôi này có
mặt ở nhân gian dài lắm độ tám chín mươi năm. Qua thời gian đó, cái tôi
này trở thành bùn đất, trở thành cát bụi. Thế thì chúng ta có hài lòng ở
điểm này hay không?
Nếu cho cái tính toán phân biệt hiện giờ
là tôi thì những cái ấy không có tướng mạo hình thức. Trong mọi người
chúng ta phút giây nào tâm niệm của mình cũng luôn luôn nghĩ suy tính
toán. Cái nghĩ suy tính toán từng phút từng giây đổi thay. Trong tâm niệm
dời đổi đó, tâm niệm nào chính xác là tôi? Mới buồn liền vui, mới thương
liền ghét, liên tiếp đổi thay. Niệm thương là tôi hay niệm ghét là tôi?
Buồn là tôi hay vui là tôi? Tất cả cái đổi thay đó, xác nhận cái nào là
mình? Một ngày có trăm ngàn cái suy nghĩ, mỗi cái suy nghĩ khác nhau. Có
khi chúng ta suy nghĩ điều lành, điều tốt như Phật, như Bồ-tát, như những
bậc thánh hiền. Có khi chúng ta suy nghĩ những điều dữ, điều xấu như cọp
như beo… Như vậy cái suy nghĩ nào chính xác là ta? Chẳng lẽ ta gồm đủ các
loại dở hay, tốt xấu sao?
Chúng ta hằng ngày đang sống, đang hoạt
động, ai cũng tự nhận là mình, nhưng nhìn lại chính xác cái nào là mình
thì chúng ta lúng túng ngay, không nhận ra cái nào thật là mình, thân cũng
như tâm. Thế thì cái gì là mình? Mình sống, mình biết cả vũ trụ, mà chính
bản thân mình lại không biết. Ví như anh chàng nọ thông hết việc hàng xóm
mà việc trong nhà anh không biết chi hết. Chúng ta nghĩ sao về anh chàng
đó? Biết tất cả việc hàng xóm bên ngoài mà không biết cuộc sống thiết yếu
ngay trong gia đình là mình đã mất căn bản rồi.
Đúng ra tinh thần của người học Phật là
tìm cầu giác ngộ, là tìm cầu sự thật. Bắt đầu tìm cầu sự thật, chúng ta
khởi sự bước đi, mỗi một bước, một phút đều là một bước đến giác ngộ, một
phút tiến gần tới sự thật. Không ai nghi ngờ Phật là người giác, học Phật
là học phương pháp giác ngộ hay là đi trên đường giác ngộ. Như vậy trên
đường giác ngộ, bước một bước là giác ngộ một phần, bước hai bước là giác
ngộ hai phần, càng đi càng giác ngộ.
Song hiện nay thử hỏi tất cả chúng ta,
hoặc xuất gia, hoặc tại gia, có ai đã thấy mình giác ngộ chưa? Nếu học
Phật mà không giác ngộ thì thiếu sót quá nhiều. Thế nên chúng ta phải xác
định lại một cách rõ ràng, học Phật là học đạo giác ngộ. Muốn học đạo giác
ngộ, chúng ta cần phải ngày này tháng nọ năm kia, giờ nào cũng tiến trên
con đường giác ngộ. Được như thế sự học của chúng ta mới khỏi trái với lời
Phật dạy. Ví dụ như thấy một ngọn đuốc sáng thắp trong đêm đen, muốn mồi
ngọn đuốc sáng đó, chúng ta phải có những yếu tố nào? Ít ra chúng ta phải
có những loại có chất dầu, hoặc những thứ bổi khô mới mồi được ngọn đuốc
kia, không thể chúng ta đem nước lã hoặc cỏ ướt tới mồi được. Cũng như
vậy, muốn tiến trên đường giác ngộ, điều kiện tiên quyết là phải mở mang
trí tuệ, vì chỉ có trí tuệ mới phù hợp với đạo giác ngộ. Nếu đến với đạo
Phật không bằng trí tuệ mà bằng niềm tin, thì đó không phải là yếu tố
chính của giác ngộ. Muốn đến bằng trí tuệ chúng ta phải gạt bỏ mọi tư kiến
và chỉ nghe với tinh thần tìm sự thật. Nếu nghe giảng bằng những tư kiến
và điều gì cũng xoay về ý kiến riêng của mình thì không phải là học đạo
giác ngộ nữa. Chúng ta phải thực tình tìm lẽ thật, và nhận ra lẽ thật mới
là đi trên con đường giác ngộ.
Tất cả chúng ta không ai chấp nhận mình là
ngu si, ngược lại ai cũng tự thấy mình là thông minh. Nhưng chúng ta có
thật thông minh chăng? Câu hỏi được đặt ra, xin mỗi người thử trả lời. Nếu
chúng ta thật thông minh tức phải chuộng và phải sống với lẽ thật. Ví dụ
cái thân xương thịt của chúng ta nếu lâu ngày không được tắm rửa sẽ dơ bẩn
hôi hám, ai ngồi gần sẽ ngửi mùi khó chịu, nếu nói lên sự thật một trăm
phần trăm này thì chúng ta mất vui và cảm thấy bất an trong lòng. Bất an
vì chúng ta sợ sự thật, che giấu sự thật, nghĩa là tự gạt mình và cũng là
gạt người. Như vậy chúng ta không cầu chân lý tức là không sống với trí
tuệ. Trí tuệ là thấy lẽ thật, chuộng lẽ thật và chấp nhận lẽ thật. Thế nên
nhiều người phê bình đạo Phật là bi quan, vì đức Phật luôn luôn mạt sát
thân này là vô thường, ô uế, bất tịnh, giả dối, đau khổ, ai nghe qua những
lời này cũng chán ngán. Như vậy đạo Phật không phải bi quan, chán đời là
gì? Nhưng chúng ta xét kỹ lại, đức Phật đã chỉ bày sự thật về thân người,
hay Ngài đã mạt sát thân ấy một cách vô lý? Nếu thân là sạch thì các chất
được loại ra từ các khiếu huyệt phải là sạch, nhưng những chất ấy hết sức
nhơ nhớp. Nếu thân này là thường thì sẽ còn mãi không biến hoại, nhưng sự
thật nó luôn luôn thay đổi từng phút từng giây. Vì thân này là vô thường
luôn luôn thay đổi, nên Phật gọi nó là "sanh, già, bệnh, chết", nên là đau
khổ.
Từ đầu đến đây tôi chưa đề cập đến thiền
một tí nào. Nhưng thiền chủ yếu là giác ngộ, không giác ngộ không phải là
thiền. Vì vậy nói điều lầm lẫn của chúng ta rồi là thấy thiền nằm ngay
trong đó. Thiền không phải cái gì mầu nhiệm ở phương trời xa lạ, mà chính
là những lẽ thật của con người.
Trở lại thân của chúng ta, hầu hết mọi
người dù học đạo lâu hay mới học, đều nói thân này là thật, nhưng Phật nói
thân này là giả. Làm sao chúng ta biết nó là giả? Phàm cái gì có hình thể
cố định, không do vay mượn tạm bợ, không do sự hỗ trợ bên ngoài, mà tự có
riêng mới là thật. Nếu thân chúng ta là thật thì nó phải không vay mượn.
Nhưng hiện giờ chúng ta đang thở, nghĩa là mũi chúng ta đang hít không khí
của trời đất vào, rồi trả không khí ấy ra. Không khí từ trong người trả ra
là của tôi chăng? Chúng ta đâu làm ra cái không khí đó, rõ là vay mượn,
làm sao chúng ta chấp nhận nó là của tôi? Kế đó, từ sáng đến trưa chúng ta
phải uống bao nhiêu tách nước? Mượn nước ở ngoài vào rồi trưa chiều trả
ra, làm sao chúng ta nói nước ấy là của tôi? Đến các thức ăn để bồi bổ cơ
thể này, chúng ta mượn ngày hôm nay, ngày mai phải trả ra, lại nói là của
tôi! Như vậy chúng ta hoàn toàn vay mượn đất, nước, gió, lửa bên ngoài.
Khi trả ra, lại bảo chúng là của tôi, có phải ngang bướng hay không? Không
phải là của mình mà gọi là của mình, chẳng si mê là gì?
Quí vị thử xét lại, hiện giờ chúng ta đang
sống với cái gì? Chúng ta đang làm gì? Hạnh phúc chúng ta là cái gì? Phải
chăng là vay mượn những thức ăn uống ngon bổ rồi trả chúng ra dễ dàng?
Hạnh phúc bằng cách mượn trả, trả mượn suốt đời hay sao? Giá trị con người
có chừng đó hay sao? Chúng ta chỉ lo ăn uống đầy đủ, nhà cửa tiện nghi, đó
là hạnh phúc sao? Như vậy hạnh phúc có nghĩa là sự mượn vào dễ dàng và sự
trả ra an ổn chăng? Chúng ta sống để làm việc mượn trả suốt ngày và suốt
cuộc đời, chẳng là công việc dã tràng vô ích hay sao? Lại nữa, khi mượn
vào không an ổn, trả ra bị tắc nghẽn thì gọi là đau khổ, khi mượn vào tốt
đẹp, trả ra dễ dàng thì gọi là hạnh phúc!
Như vậy kiểm lại xem, chúng ta sống là
sống với cái gì? Chỉ là một chuỗi dài mượn và trả. Một phút giây nào mũi
không mượn không khí, miệng không mượn nước và thức ăn, thì chúng ta có
sống được không? Không mượn thì không sống, cái sống đó làm sao nói là
sống thật được. Ví như chúng ta xây cất một căn nhà xong, đến hàng xóm
mượn bàn tủ v.v… để chưng bày, khi ấy chúng ta liền tuyên bố tất cả những
vật ấy là của tôi. Như vậy có phải chúng ta là bướng, là kém trí tuệ hay
không? Nếu ngay nơi cuộc sống mà chúng ta không hiểu nó, hoặc hiểu một
cách mờ mịt, làm sao chúng ta hiểu đúng sự thật những việc chung quanh
cuộc sống. Chính vì lẽ thiết yếu đó, đức Phật mới tìm giác ngộ nơi con
người, vì con người là căn bản. Giác ngộ ngay nơi con người là thấy được
nơi chúng ta cái nào giả, cái nào thật. Không lầm cái giả không quên cái
thật, đó là giác ngộ. Như hiện nay cái giả là thân vay mượn mà chúng ta
lầm thân ấy là thật, nên mọi nhu cầu thuộc về thân cũng thấy là thật. Tất
nhiên chúng ta lầm từ con người đến sự vật chung quanh. Nếu hết lầm về con
người thì chúng ta cũng hết lầm luôn về tất cả sự vật chung quanh.
Cái tai họa trong đạo Phật là mê lầm về
con người, đưa đến tham sân si. Danh từ chuyên môn gọi đó là vô minh, vô
minh về con người và vô minh với tất cả sự vật liên hệ đến nhu cầu của con
người. Như chúng ta lầm thấy thân này là thật thì chúng ta sẽ quí nó, và
những nhu cầu của nó cũng lầm, cho là quí trọng. Từ đó chúng ta sanh tham
đắm những nhu cầu cho thân, quí trọng những gì bồi bổ và tô điểm cho thân.
Chúng ta muốn được sung túc dư dả nên gồm thâu về mình thật nhiều của cải.
Do đó chúng ta sẽ đụng chạm đến người khác, họ cũng mê lầm cho thân này là
thật, và tham đắm những nhu cầu cho thân họ được dư dả sung túc. Mê lầm
gọi là si. Vì si mê nhận định không đúng nên sanh lòng tham. Cái tham ấy
nếu bị ngăn trở thì khởi sân. Si, tham, sân gọi là Tam độc, tạo ra không
biết bao nhiêu nghiệp đau khổ.
Chúng ta thấy rõ thân là vay mượn tạm bợ,
còn mượn là còn, hết mượn là mất. Đã là tạm bợ thì thân này đâu có giá trị
gì. Thân không thật thì đâu có quý, thân không quý thì những nhu cầu của
nó cũng tầm thường. Nếu được những nhu cầu thì chúng ta đem chia sớt giúp
đỡ với nhau, không muốn gồm thâu về riêng cá nhân mình. Do si mê không có,
nên lòng tham nhẹ đi, lòng tham nhẹ thì cũng ít sân, đó là cội gốc của sự
tu hành. Như vậy muốn tu là phải giác, tức là phá được si mê. Phá si mê
rồi, tham và sân theo đó cũng dứt. Nếu chúng ta chưa phá được si, chỉ cố
dằn xuống mỗi khi nổi sân, càng đè xuống thì sân càng bùng lên. Vì chúng
ta chỉ đè ngọn thôi, chưa nhổ tận gốc của nó. Nếu biết rõ thân này là giả
dối và những nhu cầu của nó cũng tạm bợ thì được mất đâu có quan trọng gì
mà giận hờn, lòng mình trở nên an lành, không cần phải nhẫn, phải dằn chi
hết.
Do giác ngộ nơi thân nên chúng ta không
tham đắm các nhu cầu của nó, dù có bị ngăn trở hay thất bại, chúng ta cũng
không tức giận, nên sự tu hành được an ổn. Việc tu ấy gốc từ giác ngộ chớ
không phải từ cố gắng. Hiểu như vậy chúng ta sẽ thấy việc tu nhẹ nhàng,
không phải nhọc nhằn lễ lạy, chỉ cần khuyên nhau nhận định đúng về thân
mình. Nhà Phật gọi đây là Chánh kiến, một chi trong Bát chánh đạo, nằm
trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nhận định đúng thì suy nghĩ đúng, suy nghĩ
đúng thì nói năng đúng, nói năng đúng thì hành động đúng, tức là Chánh
kiến, Chánh tư duy, Chánh nghiệp, Chánh mạng v.v…
Như thế, nếu lấy sự nhận định đúng làm căn
bản, người học Phật phải mồi đuốc Phật bằng trí tuệ của mình mới giải
quyết được mọi vấn đề đau khổ của con người. Nếu chúng ta tu bằng niềm tin
thì tu nhiều, tụng kinh nhiều mà phiền não cũng lắm. Khi bị nói khích thì
nổi sân, rồi than tại sao tu lâu mà chưa hết phiền não? Chỉ vì chúng ta
nương hình thức mà không thấy cội gốc. Cho nên trong việc tu hành chúng ta
cần đạt được cội gốc, tường tận cội gốc, giải quyết cội
gốc, mới hết được các ngọn ngành. Giác ngộ là thấy đúng lẽ thật. Suy
nghĩ đúng, nói năng đúng, hành động đúng v.v… tất nhiên chúng ta sẽ hết
đau khổ.
Phần trên chúng ta đã hiểu về thân, còn về
tâm như thế nào? Về tâm thì trong kinh Phật đã từng dạy, như kinh Lăng
Nghiêm, đức Phật muốn độ ngài A-nan nên hỏi rằng: "Ông nhân đâu mà phát
tâm xuất gia?" Ngài A-nan bạch Phật: "Con nhân thấy ba mươi hai tướng của
Phật tốt đẹp trang nghiêm phi thường, khác hơn tất cả người thế tục, nên
con phát tâm xuất gia." Phật hỏi: "Ông lấy cái gì thấy và lấy cái gì mà
phát tâm?" Ngài A-nan thưa: "Con lấy mắt thấy Phật và lấy tâm suy nghĩ mà
phát tâm." Bấy giờ đức Phật tiến vào "Thất xứ trưng tâm", tức là bảy lần
gạn hỏi về tâm. Phần mắt thấy Phật đã nói rõ, phần tâm Ngài hỏi: "Ông do
thấy tướng tốt của Phật mà phát tâm, như vậy cái gì là tâm ông, tâm ông ở
chỗ nào?" Ngài A-nan thưa: "Cái suy nghĩ đó là tâm con và cái tâm suy nghĩ
hiểu biết đó ở trong thân." Chắc chúng ta ai cũng trả lời như vậy. Nhưng
câu trả lời của A-nan nói tâm ở trong thân bị Phật bác. Rồi Ngài nói tâm ở
ngoài thân, tâm ở trong con mắt v.v… Nói tâm ở chỗ nào cũng bị Phật bác.
Như vậy tâm ở chỗ nào? Hầu hết chúng ta đều lầm chấp cái hay suy nghĩ phân
biệt là tâm của mình. Danh từ chuyên môn trong kinh Lăng Nghiêm gọi là
"Năng suy vi tâm" nghĩa là cho cái hay suy nghĩ là tâm. Nếu cái hay suy
nghĩ là tâm của mình thì nó là mình chớ gì! Như trước chúng tôi đã nói,
thân này là vay mượn không thật, tất nhiên cái hiểu biết tính toán suy tư
v.v… là tâm của mình, là thật mình chớ gì? Vì thân là vay mượn, còn cái
suy nghĩ tính toán không vay mượn ai, cái đó không phải mình là gì?
Nhưng chúng ta chớ vội chấp cái đó không
vay mượn, vì như thế sẽ đi từ cái lầm này đến cái lầm khác. Cái suy nghĩ
hiểu biết đó hay còn gọi là kiến thức, đều cho là tâm của mình. Nhưng
chúng có thật là tâm của mình không, hay cũng chỉ là vay mượn? Giờ đây
chúng ta thử nghiệm xem: Khi mình còn nhỏ, khoảng bảy tám tuổi, có những
kiến thức gì, hay là chỉ biết đói thì đòi ăn, khát thì đòi uống, thích cái
gì thì đòi cái đó, cần cái gì thì nói lên điều đó, chúng ta lúc đó đâu có
kiến thức gì, nào biết suy tư tính toán chi. Như vậy lúc đó không có chúng
ta hay sao? Đến lớn lên chúng ta đi học, được thầy bạn chỉ dạy, những môn
học được huân tập thấm nhuần lâu ngày trong tâm thức của mình, chúng dường
như của mình. Sự thật các kiến thức ấy chỉ là vay mượn của thầy của bạn,
nào thật là của mình đâu! Như trước khi quí vị đến nghe chúng tôi nói
chuyện, quí vị chưa có những nhận xét như chúng tôi nói, nhưng sau khi quí
vị nghe và ra về, quí vị nhớ những điều tôi nói, những điều thâu thập ấy
đâu phải là của quí vị sẵn có, mà là của chúng tôi mới trao cho. Như vậy
bao nhiêu kiến thức thâu thập được chúng ta chấp làm kiến thức của mình,
rồi cho rằng những gì mình nghĩ là chân lý, những gì người khác nghĩ là
sai lầm. Do tư tưởng không hợp nhau nên sanh ra tranh luận, thù hằn lẫn
nhau. Cho đến trong gia đình, cha con, chồng vợ không thuận nhau. Cha và
con không cảm thông nhau thì tình thân bị suy giảm, đó chỉ do tư tưởng bất
đồng mà ra. Như hiện nay những vị sáu bảy mươi tuổi được những người trước
huân tập một số kiến thức, đến các con cháu chúng ta sau này được thầy
bạn, xã hội huân tập những kiến thức mới. Do vì huân tập ở hai môi trường
khác nhau, nên các kiến thức khác nhau, làm sao bảo các con giống cha mẹ
được. Nếu đòi hỏi sự giống nhau là tham lam và không hợp lý. Đòi hỏi không
được, sanh ra tức giận buồn phiền rồi đau khổ. Cái thật của con cháu hồi
năm mười tuổi giống như cái thật của cha mẹ hồi năm mười tuổi. Cái thật ấy
chẳng những cha con giống nhau mà tất cả người trong thiên hạ đều giống
nhau. Các kiến thức thâu thập do học hỏi cũng chỉ là vay mượn của người
chung quanh, chớ không phải thật của mình. Ví như có người vừa vay được
năm bảy ngàn rồi tự xưng là tôi giàu lắm. Với số tiền vừa mượn được của
người kia làm sao dám tự hào là tôi giàu được! Cũng như vậy, các kiến thức
do huân tập được không phải thật của mình mà chấp làm tâm mình, chúng ta
đã mất tâm mình ngay lúc ấy. Chính vì chấp cái giả làm thật, nên chúng ta
không bao giờ biết cái thật được. Cái không phải là mình mà lầm chấp là
mình thì không bao giờ biết được mình. Như vậy chúng ta đã mất mình một
cách đáng thương. Hằng ngày chúng ta sống với sự vay mượn, vay mượn từ
đất, nước, gió, lửa bên ngoài, đến vay mượn các kiến thức của thầy, bạn,
xã hội. Chấp các vay mượn ấy là mình, trách gì không bị trôi lăn trong
đường sanh tử! Các thứ vay mượn thì luôn luôn thay hình đổi dạng từ chỗ
này đến chỗ kia, do đó luôn luôn biến chuyển, gọi là sanh diệt luân hồi.
Như vậy chúng ta thấy rõ chính từ cái lầm
chấp thân này là thật, khởi tham những nhu cầu của thân, nên tranh giành
những nhu cầu vật chất, làm tổn hại lẫn nhau, gây ra bao điều đau khổ. Kế
đó chúng ta lầm chấp các kiến thức vay mượn là thật của mình, những tư
tưởng của mình là đúng, của người là sai, ai cùng quan điểm thì thương, ai
khác quan điểm thì ghét, gây ra bao điều tỵ hiềm đau khổ cho nhau. Do vì
các kiến thức được huân tập trong mỗi hoàn cảnh, mỗi môi trường khác nhau,
nên tuy đồng sống trong gia đình mà chồng không giống vợ, cha không giống
con. Sự không đồng tư tưởng ấy dễ gây ra tức giận bực bội, buồn phiền rồi
đau khổ. Như vậy chúng ta sống cả ngày trong đau khổ, từ trong gia đình
đến ngoài xã hội, chỉ vì chấp tư tưởng của mình là đúng, tư tưởng của
người là sai. Sự tranh chấp tư tưởng diễn ra từ cá nhân này đến cá nhân
khác, từ nhóm người này đến nhóm người khác, từ xã hội này đến xã hội
khác. Xét lại chỉ vì hai cái lầm về thân và tâm mà chúng ta tạo muôn ngàn
khổ đau cho chúng ta và cho mọi người. Nếu hiểu được thân là vay mượn,
kiến thức là vay mượn, có cái gì thật đâu mà chấp, thì mọi ý kiến bất đồng
đều xả hết. Trong gia đình cha sẽ thuận với con, chồng sẽ hòa với vợ, tạo
nên một cuộc sống an vui hạnh phúc. Chúng ta sống trong tình chân thật,
không bị những cái bên ngoài gây ra những đau khổ giả tạo. Tuy giả tạo
nhưng cái đau khổ ấy triền miên, kéo dài từ đời này sang đời khác và muôn
ngàn đời sau nữa. Cái đau khổ ấy do đâu mà có? Chỉ vì chúng ta cố chấp nên
đau khổ. Vì vậy nhà Phật chủ trương phá chấp, nghĩa là buông xả những tư
tưởng sai biệt, những kiến chấp sai lầm. Khi buông xả được những thứ ấy,
chúng ta được an ổn, vui vẻ như đức Phật Di Lặc cười suốt ngày vậy. Sở dĩ
Ngài cười là vì Ngài không còn dính mắc vào cái gì nữa cả. Còn chúng ta
bực tức với nhau là vì suy nghĩ không giống nhau, ai cũng đòi hỏi người
khác giống mình, nếu không được thì giận dữ thù địch nhau, tạo một cuộc
đời đầy máu lửa cũng vì cái chấp đó.
Bởi thế chúng ta học đạo giác ngộ là thấy
rõ lẽ thật nơi chúng ta, ngay nơi thân này, ngay nơi tâm này. Khi đã nhận
ra lẽ thật rồi, tự nhiên chúng ta giải khổ cho mình và không tạo khổ cho
người nữa.
Trong gia đình, vợ chồng hòa thuận, cha
con thân thiết có phải là an vui hạnh phúc hay không? Việc buông xả các
kiến chấp đâu có khó nhọc gì, đâu có đổ mồ hôi xót con mắt chi. Chỉ một
chữ xả thôi mà chúng ta không chịu thực hành. Rốt cuộc chỉ vì si mê cố
chấp mà chúng ta phải đau khổ. Như vậy làm sao dám tự xưng mình là thông
minh trí tuệ? Trong sự giác ngộ của đạo Phật, người thông minh trí tuệ là
người tìm đến lẽ thật và thấy rõ được lẽ thật, chớ không phải chỉ biết
mang máng trên hình thức danh từ. Thấy được lẽ thật và sống đúng với lẽ
thật, mọi đau khổ sẽ theo đó mà dứt. Cho nên các vị Bồ-tát, do dùng trí
tuệ thấy đúng lẽ thật, các Ngài tu hành nhàn nhã, không phải lạy Phật tụng
kinh nhiều như chúng ta. Các Ngài đi từ nơi này đến nơi khác, làm những
chuyện thông thường ở thế gian, không thấy tu hành nhọc nhằn chi cả mà các
Ngài không đau khổ. Còn chúng ta, tu hành nhiều, tụng kinh lạy Phật thật
nhiều mà vẫn không hết đau khổ! Tại sao? Tại vì chúng ta không đến với đạo
bằng trí tuệ, bằng con đường giác ngộ, chúng ta đến với đạo chỉ bằng niềm
tin. Tin Phật ban phước cứu rỗi, cho nên chúng ta đi chùa lễ Phật sám hối.
Nếu Phật không ban những điều ta mong muốn cầu xin thì chúng ta mất niềm
tin, không đi chùa nữa. Như vậy chúng ta tin mà không đúng với lẽ thật vì
thiếu trí tuệ. Đi chùa học đạo như vậy chỉ thêm chuyện buồn phiền, không
có ích lợi gì. Người hiểu đạo Phật phải đến với đạo bằng trí tuệ, bằng con
đường giác ngộ. Khi thấy được lẽ thật do Phật chỉ rồi, chúng ta mới thấy
giá trị cao siêu của đạo. Khi ấy, dù ai nói gì cũng mặc, chúng ta không
chán, không bỏ đạo.
Nếu đi chùa lễ Phật để cầu xin những điều
mình mong muốn, ấy là vì lòng tham. Nếu lời cầu xin được mãn nguyện, chúng
ta cầu xin thêm nữa, như thế chỉ thêm lớn lòng tham. Nếu lời cầu xin không
được thỏa mãn, chúng ta sanh buồn nản chẳng thiết đến chùa nữa. Chúng ta
không biết rằng lời cầu xin được thành tựu hay không là tùy theo phước đức
của mỗi người. Ví như có người cha ghiền á phiện, người con thương cha
lắm, mang hương hoa lễ vật vào chùa xin thầy Trụ trì cầu nguyện cho cha
hết bệnh ghiền, như vậy có được không? Thầy Trụ trì có dám nhận lời hay
không? Thầy phải giảng rõ cho người con biết: "Bệnh ghiền là do hồi xưa ba
con tập hút, lâu ngày thành quen. Giờ đây ba con phải tỉnh giác, biết rõ
ghiền á phiện là tai họa cho mình và cho những người chung quanh. Do hiểu
như vậy ba con mới cố gắng bỏ hút. Hết bệnh hay không là tự nơi ba con,
chớ thầy không thể cầu nguyện cho ba con hết ghiền được. Lời cầu nguyện
của con có linh nghiệm chăng là do lòng thành của con cảm hóa được ba
con". Người cha, vì thấy con thương mình nên cảm động tội nghiệp nó, rồi
cố gắng không hút nữa. Cho nên các thầy cầu nguyện là chỉ giúp trợ duyên
cho Phật tử có tâm thành làm cảm động người thân của mình thôi, chớ Phật
tử không nên ỷ lại hoàn toàn vào các thầy. Hiểu rõ như vậy việc làm của
mình mới có giá trị, mới đầy đủ ý nghĩa. Nếu không, thì việc làm của mình
bị sai lệch vô nghĩa, còn gọi là mê tín dị đoan v.v… Vì vậy người Phật tử
chân chánh phải đi đến đạo Phật bằng trí tuệ và giác ngộ.
Nói như thế, sẽ có người nạn vấn rằng:
Trong kinh Hoa Nghiêm có câu "Tín vi đạo nguyên công đức mẫu v.v…", nghĩa
là tin là nguồn của đạo, là mẹ của tất cả công đức. Tại sao chúng ta phải
vào đạo bằng trí tuệ, không bằng niềm tin? Chữ tin trong đạo Phật là tin
sau khi trí tuệ đã nhận xét đúng. Ví như chúng tôi nói thân này là giả, tư
tưởng là vay mượn, quí vị phải nhận xét xem có phải thân này là giả, tư
tưởng là vay mượn hay không? Sau khi nhận xét suy nghĩ thấy đúng, quí vị
mới tin, tin đó là tin bằng trí tuệ. Cho nên nghe rồi phải suy nghĩ, suy
nghĩ rồi mới tin, sau khi tin rồi mới thực hành. Trong nhà Phật gọi đó là
Văn, Tư, Tu. Vì vậy niềm tin đó là mẹ của công đức, là cội gốc của đạo.
Nếu nghe đâu tin đó, không hiểu chi hết, đó là mê tín, là sai lầm.
Như thế chúng ta đã hiểu phải tu như thế
nào rồi, tức là phải thấy đúng sự thật mới dẹp được si mê về thân và tâm.
Nhưng nếu có vị hỏi: Nếu thân này là giả, tâm này là giả, thì mình không
có cái gì hết sao? Tu mà không có cái gì hết, biết làm sao mà tu? Trong
kinh Phật mạt sát thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả dối, là đau
khổ, mà cũng trong kinh Phật nói: "Mọi người chúng ta đều có Pháp thân, có
Phật tánh, có hòn ngọc vô giá". Nghĩa là qua cái giả kia, mọi người đều có
Pháp thân bất sanh bất diệt, mọi người đều có Phật tánh trường tồn, mọi
người đều có một hột châu quý vô giá. Nghe như vậy chúng ta sẽ hết bi
quan, vì Phật đã khen ngợi chúng ta có sẵn của quý. Nhưng của quý đó ở
đâu, và làm sao biết được?
Đó là chúng tôi đang nói thiền với quí vị.
Tại sao vậy? Bởi vì thiền là một phương pháp tu để thấy được lẽ thật nơi
con người. Thấy được nơi con người những cái gì giả biết là giả, những cái
gì thật biết là thật. Cho nên chủ trương của Thiền tông là Kiến tánh. Tánh
là gì? Là Phật tánh, là Pháp thân, là hòn ngọc vô giá. Kiến tánh là thấy
được bản tánh, hay là Phật tánh của chính mình. Sau khi biết rõ cái giả
rồi, chúng ta không còn bị mê lầm nữa. Bấy giờ chúng ta mới bước qua tìm
cái thật. Nhận ra cái thật, chúng ta không còn bị cái giả lôi cuốn vào
đường sanh tử. Nhận ra cái thật, chúng ta sống an nhàn tự tại trong cái
bất sanh bất diệt, tức là Phật tánh, là Pháp thân, là hòn ngọc báu vô giá
vậy.
Thế nên chủ yếu của đạo Phật hay chủ yếu
của Thiền tông là phải tu bằng trí tuệ, chớ không phải tu bằng cái mờ mịt.
Nếu tu thiền bằng lối điểm đạo hay xuất hồn là không phải tu thiền theo
đạo Phật. Tu thiền theo đạo Phật là tu bằng trí tuệ, thấy được cái thật
nơi con người và sống trở về cái chân thật đó. Như vậy thiền và Phật dạy
có khác nhau không? Học thiền là học tất cả những gì Phật dạy trong kinh,
biết cái nào là giả thì loại ra, không để nó lôi cuốn mình nữa, biết cái
nào là thật thì hằng sống với cái chân thật đó.
Từ trước đến đây, quí vị thấy chúng tôi đã
nói thiền chưa? Chỉ cho quí vị thấy thân này là giả, là vay mượn. Chỉ cho
quí vị thấy những suy nghĩ, tư tưởng là giả, là vay mượn, đó là nói tu
thiền rồi. Chỉ cái giả để biết nhận ra nó, nhưng cái thật thì làm sao chỉ
cho quí vị đây? Có những người thắc mắc "Cái gì là Phật tánh? Phật tánh ở
chỗ nào?". Chắc ai cũng băn khoăn muốn hiểu điều đó. Nhưng chúng tôi sẽ
trả lời rằng: "Câu hỏi đó đã trật rồi !". Vừa hỏi "làm sao biết Phật tánh"
và yêu cầu chỉ cho biết Phật tánh ở chỗ nào, thì câu hỏi đó là sai. Người
đặt câu hỏi đó là người đã lầm. Tại sao? Nếu quí vị hỏi bình bông, chậu
bông ở chỗ nào, cái bàn, cái quạt ở chỗ nào, chúng tôi chỉ được. Nhưng nếu
quí vị hỏi không khí chúng ta đang thở ở chỗ nào, chúng tôi phải trả lời
làm sao? Câu hỏi đó đúng hay sai? Thế là chúng ta đã lầm. Vì không khí
không có hình tướng, làm sao đặt chỗ nơi? Phàm cái gì có hình tướng, có vị
trí, cái ấy mình mới chỉ được. Cái gì không hình tướng, không vị trí làm
sao chỉ được? Nếu câu hỏi đã sai mà chúng tôi cố gắng chỉ, thì cũng sai
luôn. Thế nên phải hiểu rõ ý nghĩa không đặt câu hỏi. Khi câu hỏi đúng,
chúng ta mới trả lời được, nếu câu hỏi sai làm sao đáp được!
Quí vị bảo chúng tôi chỉ Phật tánh, chẳng
khác nào quí vị bảo chúng tôi chỉ không khí ở chỗ nào. Song thử hỏi có
không khí hay không. Nếu không có không khí thì chúng ta tắt thở hết rồi,
thưa phải vậy không? Chúng ta sống trong không khí, đang thở không khí ấy,
mà bảo chỉ nó, chúng ta không làm sao chỉ được. Đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai là quí vị muốn thấy Phật
tánh, muốn thấy đạo, nhưng xin hỏi lại: "Quí vị muốn thấy Phật tánh của
ai? Của mình hay của người khác?". Nếu muốn thấy Phật tánh của mình thì nó
là mình, mình làm sao thấy được mình. Nếu mình thấy Phật tánh thì nó là
cái bị thấy, ngoài mình phải vậy không? Chính vì vậy mà đại đa số chúng ta
hay lầm lẫn câu hỏi không có ý nghĩa này, mà tưởng là một câu hỏi hết sức
có ý nghĩa. Bởi vì chúng ta đã quên chúng ta. Phật tánh là cái chân thật
của chính mình, chúng ta quên, lại muốn tìm nó ở bên ngoài. Cho nên bảo
chỉ và muốn thấy Phật tánh, làm sao chỉ được, làm sao thấy Phật tánh được.
Như chúng ta có mắt, chúng ta muốn thấy con mắt sáng, con mắt mình muốn
thấy con mắt mình, được hay không? Con mắt chỉ có khả năng thấy bên ngoài,
làm sao nó thấy được chính nó? Nếu muốn thấy được con mắt, phải qua cái
gương. Nhờ cái gương mình thấy được con mắt, là mình thấy được cái bóng
của con mắt thôi, mình đâu thấy con mắt thật được, nếu thấy thì con mắt
thật là cái bị thấy rồi. Đòi hỏi thấy con mắt thật là đúng hay sai? Thế mà
đại đa số người học đạo hiện nay muốn thấy đạo, muốn thấy Phật tánh. Cái
muốn đó là cái muốn sai lầm, nghĩa là càng tìm thì càng xa, càng muốn thấy
thì càng không thấy.
Học thiền không phải như thế. Các Thiền sư
không bao giờ đáp lại những câu hỏi sai lầm ấy. Đưa những câu hỏi đó ra,
chúng ta liền bị đánh, bị hét, chớ không bao giờ được trả lời. Tại sao? Vì
câu hỏi đã sai lầm mà trả lời thì càng sai lầm. Cho nên những câu hỏi đó
chỉ đáng được đánh một cái hay nạt một tiếng, người hỏi giật mình nhớ lại:
"Á, mình hỏi lầm rồi!". Như vậy mình khả dĩ mới thấy được mình. Có người
không hiểu cách trả lời ấy nên nói: "Vì sao các Thiền sư dữ quá, hỏi không
chịu trả lời, còn đánh còn nạt?". Vì câu hỏi lầm mà không đánh không nạt,
đến bao giờ người hỏi thấy được cái thật ở mình. Những thủ thuật ấy rất là
đặc biệt, rất là lạ lùng, người ngoài không bao giờ biết được.
Cho nên người tu thiền hay những thiền sư
là những người chuộng sự thật một cách tột cùng, đáo để, không bao giờ các
Ngài giải thích rườm rà như chúng ta. Các Ngài chỉ muốn chỉ cho chúng ta
những lẽ thật, không muốn dẫn chúng ta lạc trong rừng ngôn ngữ văn tự.
Nhưng đại đa số chúng ta hiện giờ học Phật là đi trong rừng ngôn ngữ văn
tự, cứ tầm chương trích cú, giải nghĩa qua, giải nghĩa lại, rốt cuộc không
biết chi hết. Học từ "Phật tánh" thì cắt nghĩa chữ "Phật" là sao, chữ
"tánh" là sao. Loanh quanh lẩn quẩn trong chữ nghĩa hoài, không biết Phật
tánh là cái gì, càng học lại càng xa sự thật.
Các Thiền sư thì không như vậy. Ví như
trường hợp của tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, lúc Ngài ở trong hội của thiền sư Hy
Vận tại núi Hoàng Bá. Ở đấy mấy năm trời mà Ngài không hỏi một câu nào.
Một hôm thầy quản chúng thấy thương, nhắc: "Sao huynh không lên hỏi Hòa
thượng đạo lý?" - "Dạ thưa, tôi không biết hỏi gì" - "Lên hỏi Hòa thượng:
Thế nào là đại ý Phật pháp?" Nghe xong, Ngài mừng quá, liền y hậu chỉnh tề
lên hỏi: "Bạch Hòa thượng, thế nào là đại ý Phật pháp?" Câu hỏi quả là
hay, lý đáng được giải thích rõ ràng đại ý Phật pháp là gì. Nhưng tổ Hoàng
Bá chỉ cầm gậy đập cho ba gậy, đập xong đuổi xuống. Ngài Lâm Tế thất vọng
vô cùng, còn lòng dạ nào đi hỏi nữa. Như vậy đại ý Phật pháp là gì? Thật
là mù mịt! Thầy quản chúng hỏi thăm. Ngài trả lời: "Tôi hỏi xong, Hòa
thượng liền đánh, không có lời dạy nào." Thầy quản chúng bảo: "Ngày mai đi
hỏi nữa đi!" Ngài nghe lời, hôm sau y hậu đàng hoàng đến hỏi tổ Hoàng Bá:
"Bạch Hòa thượng, thế nào là đại ý Phật pháp?" Tổ lại đập Ngài ba gậy nữa.
Như thế thật là tàn nhẫn, Ngài không còn lòng dạ nào đi hỏi nữa. Nhưng
thầy quản chúng vẫn bảo: "Nên đi hỏi nữa đi" Lần thứ ba, y hậu chỉnh tề,
Ngài đến hỏi Tổ: "Bạch Hòa thượng, thế nào là đại ý Phật pháp?" Ngài bị
đập cho ba gậy xong, đuổi xuống. Nản chí vô cùng, không biết nói gì hơn,
Ngài khóc rồi sửa soạn hành lý để ra đi. Thầy quản chúng thấy vậy hỏi:
"Hòa thượng trả lời câu hỏi của ông như thế nào?" Ngài thưa: "Con không có
nhân duyên ở đây, ba lần hỏi Hòa thượng, ba lần ăn đòn. Con tự buồn không
lãnh hội được thâm chỉ. Nay xin từ giã thầy ra đi." Thầy quản chúng bảo:
"Nếu khi ông đi, nên đến từ giã Hòa thượng rồi đi." Thầy quản chúng đến
thất Hòa thượng trước và thưa rằng: "Ông Lâm Tế Nghĩa Huyền là người có
khả năng, sau này sẽ làm lợi ích cho Phật pháp. Hòa thượng rán tìm cách độ
ông ấy." Ngài Hoàng Bá chỉ cười không nói gì. Hôm sau Ngài Lâm Tế lên từ
giã Hòa thượng: "Con không có duyên ở đây, cho nên con không hiểu, nay con
xin đi." Ngài Hoàng Bá bảo: "Thôi ngươi qua chỗ Đại Ngu, ông ấy sẽ nói
cho." Nghe lời Hòa thượng chỉ, Lâm Tế lên đường qua đến chỗ Đại Ngu. (Đại
Ngu là đệ tử của Qui Tông, Qui Tông là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất, cũng như
Hoàng Bá là đệ tử của Bách Trượng, Bách Trượng là đệ tử của Mã tổ Đạo
Nhất). Ngài Đại Ngu hỏi Lâm Tế:
- Ông ở đâu đến?
- Dạ con ở Hoàng Bá đến.
Ngài hỏi:
- Hoàng Bá dạy ông cái gì?
- Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp, mỗi lần
hỏi chỉ được ăn đòn, không biết con có lỗi hay không lỗi?
Nghe như vậy, ngài Đại Ngu nói:
- Hoàng Bá thật là đại từ bi, đã chỉ tột
cùng cho ngươi, mà ngươi còn nói có lỗi, không lỗi.
Vừa nghe tới đó, Lâm Tế liền ngộ, và la
lên:
- Thế là Phật pháp của Hoàng Bá rất ít.
Đại Ngu bảo:
- Vừa rồi ông nói có lỗi, không lỗi, giờ
đây ông thấy cái gì mà nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít?
Lâm Tế liền thoi vào sườn Đại Ngu một cái.
Đại Ngu nói:
- Thầy ngươi là Hoàng Bá, thôi về đi!
Thế là Lâm Tế ngộ đạo làm Tổ.
Như vậy quí vị thấy, có giảng gì về đại ý
Phật pháp hay không? Tại sao ba lần hỏi đều bị đánh mà nói là đại từ đại
bi? Những người học Phật đọc tới những chỗ này, cũng đành xếp lại. Thầy
trò dạy nhau cái gì không hiểu chi hết. Nhưng khi hiểu rồi mới thấy ngài
Hoàng Bá thật là đại từ đại bi. Quí vị có nhận là ngài Hoàng Bá đại từ đại
bi không? Nếu không phải ba lần bị đánh như vậy, thì Lâm Tế không thể ngộ
một cách dễ dàng, trong câu nói nhẹ nhàng của ngài Đại Ngu.
Ở đây chúng tôi gọi đó là diệu thuật của
nhà thiền. Trong nhà thiền có những diệu thuật mà người thế gian không bao
giờ tưởng tượng được. Cách nói nghịch trong nhà thiền là không giải thích,
mà chỉ dồn người học trò tới chỗ bế tắc đau khổ, người khác khơi lại một
cách nhẹ nhàng khiến người học trò liền ngộ, và cái ngộ ấy không bao giờ
bị quên. Nếu thầy giảng thao thao bất tuyệt thì người học trò quên hết,
chẳng còn nhớ chi cả. Cho nên thuật dạy của Thiền sư là cái thuật quá tầm
vóc của cái bình thường. Khi ngài Hoàng Bá dồn Lâm Tế vào ngõ bí bằng ba
lần đánh, thì Lâm Tế buồn khóc đau đớn và trong đầu nặng trĩu câu hỏi:
"Không biết có lỗi gì mà bị đánh. Không hiểu câu hỏi như vậy mà lỗi tại
chỗ nào?" Khi đến ngài Đại Ngu, Đại Ngu liền bảo: "Hoàng Bá như vậy là chỉ
chỗ tột cùng cho ngươi rồi, mà ngươi còn nghĩ có lỗi không lỗi!" Khi nghe
đến câu "Còn nghĩ có lỗi không lỗi", Lâm Tế liền thấy chỗ sơ sót lầm lẫn
của mình và thấy chỗ chỉ của ngài Hoàng Bá, nên bừng ngộ. Ngộ rồi, từ đó
về sau, có thể đến chết, Lâm Tế cũng không quên cái ngộ của mình, và sống
luôn luôn với chỗ mình thấy. Như vậy đánh ba lần không phải đại từ bi là
gì?
Ngày nay chúng ta nuôi học trò hai ba mươi
năm, ăn hết cơm của thí chủ và giảng khô cả cổ, mà học trò chẳng ngộ chi
hết. Như vậy mình đâu có đại từ bi. Chỉ cần ba lần đánh liền được ngộ, ngộ
rồi không quên, chẳng gọi đại từ bi là gì? Nhưng cái thuật trong nhà thiền
đó, phải là các tay cao thủ mới làm nổi, người tầm thường như chúng ta khó
mà làm được. Hiện nay chúng ta thử thí nghiệm: Một thầy giáo dạy học trò,
cho một bài toán khó mà không giải, chỉ gợi ý mà thôi, rồi dồn học trò tới
chỗ bí, lâu lâu lại gợi ý. Sau khi đứa học trò tìm kiếm đến đau đầu mà
không tìm ra giải đáp, bất thần thầy gợi thêm một ý nhỏ, đứa học trò chợt
sáng ra, cái sáng như vậy mới chính là của nó, nó sẽ nhớ hoài không quên
bài toán đó. Nếu thầy giảng thao thao bất tuyệt cho học trò nghe, lời
giảng đó toàn là của thầy, không có cái gì của trò hết. Như vậy người học
trò không bao giờ giỏi được.
Các Tổ khéo léo dùng diệu thuật đưa người
ta đến chỗ chết, chết rồi sống lại, đó mới là cái thật. Nếu hiểu như vậy,
chúng ta mới thấy tài và khả năng của các thiền sư. Không phải các ngài
bạc bẽo, vô tình, ác độc; chính vì lòng thương các ngài muốn người học ngộ
đạo một cách tột cùng và không bao giờ quên. Cũng vậy, những việc nào
chúng ta nhớ suốt đời là những sự việc làm cho chúng ta đau khổ, điên đảo
cả tháng năm. Khi giải quyết được vấn đề đó, chúng ta nhớ đời đời không
bao giờ quên. Việc gì khi hỏi, được đáp dễ dàng, cũng dễ bị lãng quên. Như
vậy chúng tôi cần nói gì về lối giải và chỗ ngộ của ngài Lâm Tế hay không?
Có nói hay không nói, quí vị nghe rồi tự hiểu, vì chính chỗ đó là diệu
thuật trong nhà thiền.
Nhưng những diệu thuật được ứng dụng trong
nhà thiền cũng tùy theo thời. Như hiện giờ chúng tôi chủ trương dạy thiền,
tại sao chúng tôi phải giảng hoài như vậy? Nếu có Tăng Ni hay cư sĩ đến
hỏi chúng tôi: "Thế nào là đại ý của thiền?" hay "Thế nào là đại ý của
Phật pháp?" chúng tôi liền đánh, vị ấy sẽ nghĩ thế nào về chúng tôi? Khi
ra về, vị ấy sẽ nghĩ: Mình hỏi đại ý Phật pháp mà thầy đánh mình. À, chắc
ông thầy đó điên rồi, chắc tu thiền điên rồi, thôi sau đừng tới ông ấy
nữa. Nếu chúng tôi tiếp tục đánh thêm vài người khác nữa, khi được hỏi về
thiền, chắc chắn chúng tôi sẽ mang tiếng suốt đời, vì không ai hiểu được
chúng tôi, và chúng tôi cũng không độ được ai. Nhưng tại sao ngài Hoàng Bá
dùng thuật đánh mà đệ tử ngộ? Là vì có những bạn đồng hành hiểu mình và
làm như mình. Khi nghe người đệ tử bị đánh, vị kia biết, liền gợi đúng chỗ
để người đệ tử ngộ. Hiện nay thiếu người đồng hành, người cảm thông với
mình, nếu chúng tôi dùng thuật đánh hét để dạy thiền thì sẽ bị xuyên tạc
ngay. Nhất là thời nay, chúng ta bị ám ảnh tu thiền điên. Vì vậy khi dạy
thiền, trái lại chúng tôi giảng kinh. Vì hoàn cảnh chúng tôi phải làm như
vậy. Nhờ giảng kinh dễ hiểu, khả dĩ quí vị còn tu được, còn tin rằng chúng
tôi dạy đúng. Nếu chúng tôi đánh hoặc hét thì quí vị nói chúng tôi điên,
làm sao chúng tôi dạy được. Hiểu như vậy quí vị mới thấy chỗ quan trọng,
chỗ thiết yếu của sự giảng dạy hay sự hướng dẫn người tu.
Người tu thiền là gì? Tức là người giác
ngộ, hoặc giác ngộ từng phần, hoặc giác ngộ toàn diện, hay nói cách khác
là giác ngộ cục bộ và giác ngộ toàn bộ. Giác ngộ từng phần là giải ngộ,
giác ngộ toàn phần là đại ngộ.
Người học thiền nhận biết thân này là hư
giả, vọng tưởng là hư giả. Biết cái ngã hư giả không thật, tức là biết lý
vô ngã Phật đã dạy trong kinh điển. Chúng tôi nói thiền là nói đạo Phật,
không thể tách rời Phật và thiền. Trong kinh thường nói: Kinh là miệng của
Phật, thiền là tâm của Phật; tâm và miệng của Phật không hai, không khác.
Những gì Phật nói ra là từ tâm của Ngài nghĩ, thì thiền và kinh làm sao
hai được. Có người không hiểu những chỗ đặc biệt trong nhà thiền, coi đó
là những hiện tượng quái lạ, bảo rằng thiền có cái gì cách biệt khác hơn
kinh, nhưng hiểu cho thấu đáo rồi, chúng ta sẽ thấy kinh và thiền thật là
không hai. Phật giác ngộ thành Phật là nhân tu thiền, cho đến chư Tổ cũng
nhân tu thiền mà được giác ngộ. Như vậy, chúng ta đi đường của Phật, chớ
đâu có đường thứ hai, thứ ba nào khác. Đó là một lẽ thật, mà nhiều người
không hiểu, nói rằng tu thiền điên, tu thiền lạc v.v… Thật ra vì chúng ta
hiểu thiền một cách mơ hồ. Ngồi yên cầu nguyện cho điện trên trời xuống,
hoặc ngồi cho hồn bay lên trời, hoặc hít hơi thở vô trụ ở đơn điền cho
bụng lớn ra… Tất cả những phương pháp ấy đều nói là tu thiền, quả thật
chưa biết thế nào là tu thiền. Theo đúng tinh thần thiền của đạo Phật là
dùng trí tuệ thấy được lẽ thật: bản thân và vọng tưởng là giả dối. Thấy
được lẽ thật ấy rồi, mới buông xả được lòng tham chấp và tâm sân hận. Khi
buông xả được những cái ấy, tâm được thanh tịnh, tỉnh giác thấy được cái
chân thật của chính mình, mới giải thoát được sanh tử. Như vậy chúng ta tu
thiền là thấy được con đường đi do trí tuệ sáng suốt hướng dẫn, chớ không
phải những gì mập mờ huyền ảo. Thấy được lẽ thật và đạt được lẽ thật đó,
là chủ yếu của tu thiền. Nhưng chúng tôi giảng chỉ là lý thuyết, về thực
hành là phần riêng của quí vị. Quí vị nhận xét hàng ngày, ứng dụng pháp
tu, đó là công phu của quí vị.
Chúng tôi nói rõ rằng, chẳng những chúng
tôi giảng như vậy, mà tất cả thiền sư dạy thiền cũng thấy như vậy và giảng
nói như vậy. Đây chúng tôi xin dẫn chứng bài kệ của một thiền sư quen
thuộc với chúng ta nhất, Thiền sư Vạn Hạnh ở đầu nhà Lý. Bài kệ có bốn câu
chữ Hán:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vo
Vạn mộc xuân vinh thu hựu
kho?br>
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân như bóng chớp có rồi
không
Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm
hồng
Mặc cuộc thạnh suy, đừng sợ
hãi
Thạnh suy như cỏ hạt sương
đông.)
Nhìn về thân thì thân này như bóng, như
chớp, không thật, có đó rồi mất đó. Cũng như cây cối bên ngoài, mùa xuân
tươi tốt, mùa thu héo tàn. Thế thì thân, cảnh và cuộc đời mặc nó trôi qua.
Hoặc suy hoặc thạnh, hoặc tốt hoặc xấu đều không quan trọng, đều không sợ
hãi. Nếu thấy cuộc đời là giả tạm thì có gì đâu sợ hãi. Tại sao? Vì những
cái thạnh suy của cuộc đời khác nào như hạt sương đọng ở đầu ngọn cỏ. Hiểu
như vậy, thấy như vậy là đúng tinh thần thiền.
Thiền sư Viên Chiếu giữa đời Lý cũng có
bài kệ tương tợ như sau:
Thân như tường bích dĩ đồi
thì
Cử thế thông thông thục bất
bi,
Nhược đạt tâm không vô sắc
tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
(Thân như tường vách đã lung
lay
Đau đáu người đời luống xót
thay
Nếu đạt tâm không, không tướng
sắc
Sắc không ẩn hiện mặc vần
xoay.)
Thân người như tường vách, đã tới lúc suy
sụp thì cả thế gian người đời ai ai cũng đều lo sầu thảm não. Nếu đến chỗ
tâm vọng tưởng đã lặng thì không còn sắc tướng nữa. Chừng đó hoặc sắc hoặc
không mặc nó ẩn hiện, có gì là lo buồn.
Chúng ta thấy rõ thiền sư nào cũng thấy
thân này là giả dối, tạm bợ, không có chân thật. Hiểu như vậy, thấy như
vậy rồi, đối với cuộc đời, đối với sự sống, các ngài an lành tự tại. Khi
sống với thân này thì không chấp vào nó, khi thân này sắp hoại thì cười
chơi, chớ không than khóc. Tại sao khi thân sắp hoại lại than khóc? Vì sợ
nó mất. Thân đã là giả thì mất đâu có quan trọng gì. Sở dĩ chúng ta thấy
nó quan trọng vì tưởng nó là thật. Thân như bóng như bọt, có gì quan trọng
đâu! Vì vậy chúng ta sống không khổ vì thân, chết cũng không bị thân làm
khổ. Như thế không phải tự do tự tại là gì?
Người an lành tự tại là người biết tu
thiền. Như ngài Từ Minh, dòng Lâm Tế, đã nói "Sanh như đắp chăn đông, tử
như cởi áo hạ". Mình sanh ra cũng như mùa đông được đắp chiếc chăn ấm vậy.
Mình có chết đi chẳng khác nào như mùa hạ cởi áo cho khỏi nóng vậy, có gì
đâu là quan trọng. Hiểu như thế thì sanh tử tự tại, không còn sợ hãi cái
chết, không còn đau khổ nữa. Cho nên đạo Phật cứu khổ hay giải thoát cho
con người là chỉ cho chúng ta thấy lẽ thật bằng trí tuệ. Có trí tuệ rồi
mới hết khổ. Đó là chủ yếu của đạo Phật, cũng là chủ yếu của Thiền tông.
Quí vị hiểu những điều chúng tôi nói, biết
thân này là giả, do vay mượn tứ đại bên ngoài, biết tâm suy nghĩ tưởng
tượng là giả, do vay mượn các kiến thức bên ngoài. Hiểu biết như vậy, quí
vị sẽ buông xả từ từ, không chấp thân tứ đại và tâm vọng tưởng, đó là quí
vị biết tu thiền rồi.
Kính thưa quí vị, hôm nay chúng tôi chỉ
đưa quí vị "Vào Cổng Nhà Thiền", chúng tôi chưa dẫn "Vào Cửa Không" và
chưa "Chỉ Ông Chủ". Muốn vào cửa và thấy Ông Chủ chắc đòi hỏi nhiều thời
gian nữa. Giới thiệu cho quí vị tới cổng, đó là bổn phận chính trong bài
giảng hôm nay của chúng tôi.
VÀO CỬA KHÔNG
Hôm nay là
thời giảng thứ hai của chúng tôi tại chùa Xá Lợi. Trong bài
giảng thứ nhất chúng tôi đã nói về "Vào Cổng Nhà Thiền". Đến bài giảng thứ
hai này, chúng tôi hướng dẫn quí vị "Vào Cửa Không".
Tại sao dùng hai chữ "Cửa Không"? Đó là
chúng tôi dịch nghĩa danh từ "Không môn" trong nhà thiền. Trong đạo Phật,
khi nói đến cửa không, chúng ta biết là cửa thiền. Tại sao cửa thiền được
gọi là cửa không?
Ở bài giảng trước, chúng tôi đã chỉ cho
quí vị thấy rõ bệnh chấp ngã về thân, chấp ngã về tâm, gọi là vô minh hay
là ngu si. Tuy nói về thân về tâm, nhưng chủ yếu nói về sắc thân.
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức
là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ
phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm". Người đạo sĩ biết tu có thể
sống hết sức đạm bạc và kham khổ, không quan trọng đến thân, nhưng họ lại
rất quý cái tâm. Nếu chúng ta không chấp thân mà còn chấp tâm thì cũng là
bệnh.
Để thấy rõ hai chữ "Cửa Không" được xuất
xứ từ trong nhà thiền, chúng tôi xin đọc lại hai bài kệ của hai vị Thiền
sư .
Bài kệ thứ nhất của thiền sư Thần Tán, đệ
tử Tổ Bá Trượng. Sau khi ngộ đạo ở Tổ Bá Trượng rồi, Ngài còn bổn sư chưa
hiểu đạo nên Ngài định về chùa tìm phương tiện để cảnh tỉnh bổn sư của
mình. Nhưng vị bổn sư xem thường Ngài, vì cho Ngài là đệ tử không hiểu hơn
thầy được. Một hôm vị bổn sư ngồi xem kinh bên cửa sổ, vì trời lạnh ông
lấy giấy dán bít cửa sổ lại. Ngài Thần Tán đi ngang qua thấy một con ong
cứ bay đập vào tờ giấy trắng tìm lối ra, mà chui ra không được. Ngài Thần
Tán đứng ngoài cửa sổ ngâm một bài kệ:
Không môn bất khẳng xuất
Đầu song dã thái si
Bách niên táng cố chỉ
Hà nhật xuất đầu thì?
Cửa không chẳng chịu ra
Vùi đầu quá si đà
Bao lâu vùi giấy cũ
Cũng không ngày được ra.
Cửa trống rỗng mà không chịu ra, lại gieo
mình vào cửa sổ bít lại, thật là quá ngu si. Cả trăm năm cứ vùi đầu trong
giấy cũ, đến bao giờ mới trồi đầu ra được? Trong bài kệ người đệ tử tả
chuyện con ong muốn bay ra ngoài mà bay lầm vào cửa sổ bị dán giấy bít
lại. Đây là để chúng ta thấy rõ ý nghĩa của hai chữ "Không môn". Bài kệ có
hàm nghĩa gì khác, ở đây chúng tôi không giải thích thêm.
Bài kệ thứ hai của Thiền sư Động Sơn, đệ
tử Vân Nham Đàm Thạnh:
Không môn hữu lộ nhân giai đáo
Đáo giả phương tri chỉ thú
trường
Tâm địa nhược vô nhàn thảo mộc
Tự nhiên thân thượng phóng hào
quang.
Cửa không ngã ấy người nào đến
Đến đó mới hay chỉ thú trường
Tâm địa nếu không đồ cỏ rác
Tự nhiên thân phóng hào quang
thường.
Cửa Không có một con đường mọi người đều
đến được. Người người đến rồi mới biết chỉ thú của nó là đặc biệt, là cao
siêu. Đất tâm nếu không có cỏ cây vô ích mọc lên, thì ngay nơi thân này đã
phát ra hào quang sáng.
Qua bài kệ trên, chúng tôi đã dẫn chứng
cho quí vị thấy cửa thiền là cửa Không. Vào được cửa Không tức là vào nhà
thiền. Nhưng "Không" cái gì và làm sao để nó "Không"? Đó là chúng ta đi
thẳng vào chi tiết trong bài giảng hôm nay, đi thẳng từng chi tiết từ cạn
đến sâu.
Như tất cả chúng ta đã biết, sở dĩ luân
hồi sanh tử là tại nghiệp. Do nghiệp nên chúng ta bị dẫn đi trong lục đạo,
nghiệp là động cơ đã lôi chúng sanh vào vòng luân hồi. Nhưng nghiệp đó
phát xuất từ đâu, cái gì tạo thành nghiệp? Chắc không ai nghi ngờ, nghiệp
gồm có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Như vậy ai dẫn chúng ta đi
trong luân hồi? Chính chúng ta chủ động trong việc luân hồi do thân, khẩu,
ý của mình. Do thân khẩu ý tạo nghiệp, nghiệp chi phối lại chúng ta, lôi
chúng ta đi trong vòng luân hồi. Như vậy chúng ta là người tạo nghiệp,
chúng ta lại bị nghiệp dẫn đi. Nhưng trong ba nghiệp thân miệng và ý, cái
nào là chủ? Ai cũng biết ý là chủ, vì ý nghĩ thiện thì miệng mới nói điều
lành, thân mới làm điều lành, ý nghĩ ác thì miệng nói lời ác, thân làm
việc ác. Thế thì ý là chủ động của nghiệp. Đó là chúng ta từ ngọn phăng
đến gốc. Ngọn là nghiệp dẫn đi trong luân hồi, nghiệp là do thân miệng ý
tạo nên. Trong thân miệng ý, ý là chủ, ý là động cơ thúc đẩy thân và miệng
tạo lành hay tạo dữ. Nếu chúng ta tu ba nghiệp, chắc ai cũng biết nghiệp ý
là tối quan trọng.
Do đó khi chúng ta tụng kinh, muốn đầy đủ
công đức thì phải làm sao? Tức ý phải định, phải chú tâm, phải lặng vọng
tưởng thì lời kinh mới đầy đủ công đức. Chúng ta muốn trì chú cho được
linh thiêng thì phải làm sao? Miệng tụng chú mà tâm nghĩ việc đông tây
được không? Dĩ nhiên muốn trì chú cho có hiệu quả thì khi miệng tụng chú,
tâm cũng phải trụ lại, như vậy chú mới có hiệu nghiệm. Chúng ta niệm Phật
lần chuỗi, miệng niệm mà ý cứ chạy nơi này nơi kia có được không? Niệm
Phật như vậy có được vãng sanh không? Cũng không được. Khi niệm Phật thì
miệng niệm tâm phải nhiếp, tức là nhiếp tâm theo câu niệm Phật. Như vậy
mới gọi là niệm Phật được nhất niệm, hoặc là nhất tâm.
Chúng ta thấy rõ rằng tụng kinh, trì chú,
niệm Phật là những hành động của khẩu nghiệp lành. Nhưng muốn khẩu nghiệp
được viên mãn công đức lành thì phải định tâm. Khi tụng kinh chúng ta phải
đứng hoặc ngồi rất là nghiêm chỉnh, đó là thân nghiệp; khi tịnh tọa niệm
Phật cũng vậy, miệng niệm tay lần chuỗi cũng là thân nghiệp. Thân nghiệp
và khẩu nghiệp đều gom lại cùng làm một việc thiện, nhưng thành công hay
không là gốc ở cái gì? Gốc ở tâm có nhiếp, có định hay không. Chủ yếu
trong các môn tu là để nhiếp tâm an định.
Nói về tu thiền, tu thiền để làm gì? Chúng
ta thường nghe nói danh từ Thiền định, tức là một phương pháp để cho tâm
mình an định. Tâm an định tức là nhiếp tâm. Thế thì ba bốn pháp tu chúng
tôi vừa nêu ra đó, chỗ trọng tâm có khác nhau không? Nhưng chúng ta niệm
Phật, trì chú, tụng kinh, có khi nào ngồi tụng một thời kinh một tiếng
đồng hồ mà nhiếp được tâm không chạy đi đâu hay không? Hay chúng ta vừa
tụng kinh vừa đi chợ Sài Gòn? Như chúng ta tay gõ mõ, miệng tụng kinh,
thân đứng ngay ngắn mà ý chạy đầu trên xóm dưới, thăm người này viếng
người kia. Thế là chúng ta chỉ dứt được hai thứ thân và miệng, mà chưa dứt
được ý. Trì chú, niệm Phật cũng vậy, tay thì lần chuỗi, miệng niệm Phật,
thân ngồi một chỗ mà ý có ở đó hay không? Y Ù nhớ chuyện hôm qua, hôm kia,
rồi tính việc ngày mai, ngày mốt. Như thế chúng ta chỉ nhiếp được thân và
miệng, còn ý nhiếp không được. Cho đến người ngồi thiền, ngồi kiết già rất
là trang nghiêm ngay thẳng mắt nhìn xuống nghiêm chỉnh, nhưng ý có trang
nghiêm như vậy không? Tuy thân ngồi đó mà ý cứ chạy ngược chạy xuôi không
chịu dừng. Do đó chúng ta thấy nhiếp thân nhiếp miệng dễ, mà nhiếp tâm
thật là cay đắng, không phải dễ. Chính cái cay đắng đó mới thấy giá trị
của người tu. Nếu chúng ta không nhiếp được tâm, chỉ nhiếp được thân và
miệng thôi, có phước chỉ có phước ngoài da. Vì trong tâm mình chưa yên làm
sao có phước tột ở trong được. Vì vậy muốn phước đức được viên mãn, cốt
phải nhiếp tâm.
Từ đây chúng tôi bắt đầu đi sâu vào vấn
đề: Làm sao nhiếp được tâm? Nói về nhiếp tâm, trong nhà Phật có vô lượng
phương pháp kể không hết. Ở đây chúng tôi chỉ nói về phương pháp tu thiền.
Nhiếp tâm bằng cách nào để được "vào cửa Không"? Ngày xưa dưới Tổ Huệ Năng
có một cao đệ tên là Nam Nhạc Hoài Nhượng tức là Tổ Hoài Nhượng ở núi Nam
Nhạc. Một hôm, nhân đi dạo Tổ Hoài Nhượng thấy một vị tăng ngồi thiền hết
sức nghiêm chỉnh, ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, ngày nào đi
ngang qua Ngài cũng thấy như vậy. Ngài chú ý và một hôm Ngài lên tiếng. Vị
tăng đang tọa thiền nhìn thấy Ngài, Ngài liền hỏi: " Ông ngồi thiền mong
làm gì?" Vị tăng thưa: "Con ngồi thiền mong làm Phật." Ngài trở về không
nói gì. Đến hôm sau cũng vào giờ đó, thấy vị tăng ngồi thiền, Tổ đem một
hòn gạch đến tảng đá gần bên và mài. Ngài mài sột soạt hoài. Vị tăng thấy
lạ, hỏi: "Hòa thượng mài gạch để làm gì?" Ngài trả lời: "Ta mài gạch để
làm gương." Vị tăng lắc đầu: "Vô lý làm sao! Gạch làm sao mài thành gương
được?" Ngài trả lời: "Nếu gạch mà không làm gương được thì ngươi ngồi
thiền làm sao thành Phật được. Nếu ngươi nói ngồi là thiền thì ngươi đã
hại thiền, ngồi là Phật là ngươi đã giết Phật…"
Chúng tôi xin giải thích tại sao Tổ Hoài
Nhượng trả lời như vậy. Thiền là một danh từ, theo tiếng Phạn nói đủ là
Thiền-na Trung Hoa dịch là "định tuệ đẳng trì", tức là một phương pháp gìn
giữ bình đẳng giữa định và tuệ. Tại sao? Bởi vì trước có danh từ chuyên
môn xa-ma-tha Trung Hoa dịch là Chỉ, Tam-ma-bát-đề Trung Hoa dịch là Quán.
Rồi tới danh từ thứ ba là thiền-na tức là định tuệ đẳng trì, là Chỉ và
Quán đồng tu. Thế nên nói Thiền tức là nói một phương pháp tu gồm cả Chỉ
và Quán. Chỉ là định, Quán là tuệ, tức là định tuệ đồng tu.
Thường thường chúng ta nghe nói Giới Định
Tuệ, thì tuệ sau định. Nhưng trong Thiền tông trái lại tuệ rồi mới định.
Tại sao vậy? Bởi vì trong nhà thiền chủ trương rằng "Kiến tánh mới khởi
tu", kiến tánh tức là trí tuệ, mới khởi tu tức là an định. Song đây cũng
là một lối nói, sự thật thiền là một phương pháp gìn giữ cả định và tuệ
đồng thời. Như vậy nếu chờ ngồi mới gọi là định tuệ thì khi đi đứng không
có định tuệ sao? Nếu chờ đến ngồi mới có định tuệ thì lối tu ấy quá sơ
sót, quá lơi lỏng. Đúng ra tu thì mọi hành động trong mọi thời gian đều là
tu, đi đứng nằm ngồi đều sống với định tuệ. Cho nên trong nhà thiền thường
nói: đốn củi, hái rau, thổi cơm, gánh nước cũng là thiền, như vậy mới là
biết tu thiền. Đợi tới ngồi ngay thẳng mới là tu thiền thì một ngày chỉ tu
một giờ hai giờ, còn mười giờ kia làm gì? Nếu một ngày tu có hai tiếng thì
thấm vào đâu? Cho nên nếu biết tu thiền thì suốt mười hai giờ đều là giờ
của mình tu. Đợi ngồi mới thiền tức là giết thiền rồi. Phật cũng vậy, quí
vị thấy Phật ngồi hoài hay là Phật có khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm.
Nếu ngồi mới là Phật thì đứng là ai, nằm là ai? Nếu nói ngồi là Phật thì
đứng không phải là Phật, và nằm không phải là Phật. Nhưng Phật có lúc nào
không phải là Phật đâu? Nếu chấp ngồi mới là Phật thì đã giết Phật. Vì vậy
chấp ngồi là Phật là chấp sai lầm.
Trở lại câu chuyện trên, vị tăng ngồi
thiền đó là ngài Đạo Nhất, sau này gọi là Mã Tổ Đạo Nhất, một Thiền sư nổi
tiếng ở Trung Hoa. Ngài thắc mắc câu trả lời của Tổ Hoài Nhượng nên hỏi:
"Thưa Ngài, thế thì làm sao mới đúng?" Tổ trả lời: "Ví như con trâu kéo
xe, nếu chiếc xe không đi, đánh trâu là phải hay đánh xe là phải?" Thưa
quí vị, xe không đi thì đánh cái gì? Không ai dại gì mà đánh xe cho xe đi.
Một ví dụ gần hơn, như hiện giờ chúng ta ngồi trên chiếc xe ô tô đang đậu,
chúng ta muốn chiếc xe chạy thì phải làm sao? Thúc ông tài xế hay là thúc
chiếc xe? Tức nhiên phải thúc ông tài xế xe mới chạy, nếu thúc chiếc xe
thì nó không bao giờ chạy. Như vậy ông tài xế là chủ động của chiếc xe,
con trâu là chủ động của chiếc xe. Muốn chiếc xe đi thì phải nhắm vào cái
chủ động mà thúc, chớ không ai nhắm vào cái bị động mà thúc. Trong ba
nghiệp thân, khẩu, ý thì ý là chủ động. Chúng ta muốn tu thì phải tu cái
ý. Nếu ngồi ngay thẳng, nhiếp phục thân mà ý cứ chạy đông tây thì đâu phải
là đúng phương pháp nhiếp phục. Cho nên muốn điều phục được ba nghiệp thì
phải nhắm thẳng vào ý nghiệp. Y Ù nghiệp dừng rồi thì thân, miệng tự nhiên
tốt. Nếu ý nghiệp không dừng thì dù cho kềm thân, miệng đến đâu cũng sanh
ra những việc lôi thôi. Vì vậy tất cả pháp tu của nhà Phật đều nhắm thẳng
vào việc dừng ý nghiệp. Cho nên làm cái gì cũng bảo đừng vọng tưởng, tụng
kinh đừng vọng tưởng, trì chú đừng vọng tưởng, niệm Phật đừng vọng tưởng,
tọa thiền cũng đừng vọng tưởng. Chung qui đều nhắm thẳng vào cái chủ động
để dẹp nó.
Làm sao dẹp cái chủ động đó? Tổ
Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Quốc chín năm ngồi quay mặt vào vách ở Thiếu Lâm.
Sau này có ngài Thần Quang đến hỏi đạo, được thu nhận làm đồ đệ, và được
đổi tên là Huệ Khả. Một hôm Huệ Khả bạch với Tổ Bồ-đề-đạt-ma: "Bạch Hòa
thượng, tâm con không an, nhờ Hòa thượng dạy con phương pháp an tâm." Đây
là chúng tôi muốn nói thẳng vào đạo sĩ chấp tâm. Tất cả chúng ta nếu biết
tu thì người nào cũng khổ sở về chỗ tâm không an. Tụng kinh, niệm Phật,
trì chú gì tâm cũng bất an. Giờ đây làm sao mà an tâm? Khi xưa chính Tổ
Huệ Khả ngồi thiền quên ăn quên ngủ mà tâm vẫn không an. Vì vậy khi được
thu làm đồ đệ, câu hỏi đầu tiên và có thể là quan trọng nhất của đời Ngài
là cầu xin "Phương pháp an tâm". Làm sao học được phương pháp an tâm, đó
mới là an ổn, đó mới là cái chủ yếu của Ngài nhắm. Ngài hỏi với một lòng
thiết tha như vậy, mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ trả lời: "Đem tâm ra ta an cho".
Nhưng ngài Huệ Khả đâu dám xem thường. Lâu nay mình nói tâm không an, hiện
nay tìm lại xem nó ở đâu. Tìm tới tìm lui, tìm hoài nó mất tăm mất dạng,
Ngài đành trả lời: "Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được." Tổ
Bồ-đề-đạt-ma chỉ nói một câu nhẹ: "Ta đã an tâm cho ngươi rồi." Liền đó Tổ
Huệ Khả ngộ được phương pháp an tâm.
Như vậy ai đọc lịch sử Thiền tông đến chỗ
này, thấy nó lạ lùng bí mật làm sao! Tại sao tâm ngài Huệ Khả đang bị xao
xuyến loạn động, Ngài thành thật thiết tha cầu Tổ dạy cho phương pháp an
tâm, Tổ không chịu dạy, chỉ bảo: "Đem tâm ra ta an cho". Ngài tìm mãi
không được, nói: "Con tìm tâm không được", thì Tổ bảo: "Ta đã an tâm cho
ngươi rồi." Ngài Huệ Khả liền ngộ. Vậy ngộ tại chỗ nào? Hiện nay nghe như
vậy chúng ta có ngộ chưa? Chúng ta nghe thì ngẩn ngơ không biết Tổ nói cái
gì. Thế thì câu nói: "Ta đã an tâm cho ngươi rồi" là câu nói đùa hay là
câu nói thật? Ngài đã nói tìm tâm không được, tại sao Tổ bảo "Ta đã an tâm
cho ngươi rồi"? Thật tình ai nghe câu nói này, đều không hiểu chi hết.
Nhưng từ ngày Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền Thiền tông vào Trung Hoa đến nay gần
hai ngàn năm rồi, câu nói đó vẫn là câu nói bất hủ. Nhưng người thường đọc
thì thấy lạ đời, như là câu nói vô nghĩa. Trước khi giải thích, chúng tôi
dẫn một câu chuyện khác ở trong kinh để quí vị khám phá từ từ về câu nói
đó.
Trong kinh Lăng Nghiêm có một đoạn đức
Phật dùng ví dụ: Một sáng nọ có anh chàng Diễn-nhã-đạt-đa đứng trước mặt
gương nhìn vào, thấy đầu mặt của anh hiện rõ trong gương; một lát úp mặt
gương lại anh thấy đầu mặt mất, hốt hoảng điên lên ôm đầu chạy la: Tôi mất
đầu, tôi mất đầu! Chúng ta nghe Phật thuật câu chuyện đó có lý hay vô lý,
chúng ta có điên như anh chàng đó hay không? Ví dụ này mới nghe qua dường
như ngớ ngẩn, không gần với thực tế, nhưng thật sự là thực tế một trăm
phần trăm. Tại sao vậy? Tất cả chúng ta hiện giờ đều là hiện thân của
chàng Diễn-nhã-đạt-đa ôm đầu chạy la mình mất đầu. Tại sao? Sở dĩ
Diễn-nhã-đạt-đa điên là vì nhận lầm cái bóng đầu và mặt trong gương là
thật đầu mặt của chính mình. Bởi nhận lầm như vậy nên khi mất cái bóng ấy
thì hoảng hốt điên lên, la mình mất đầu. Nếu anh chàng đó biết rõ bóng
trong gương chỉ là bóng thôi thì anh có điên không? Cũng như tất cả chúng
ta khi nhìn vào gương thấy đầu mặt mình trong gương, biết cái đó là bóng
thì khi bóng mất mình có điên bao giờ đâu? Sở dĩ anh chàng Diễn-nhã-đạt-đa
điên lên là vì cho đầu mặt trong gương là thật, bởi tưởng là thật cho nên
khi mất hoảng la lên thành điên.
Cũng như vậy, giả sử chúng tôi hỏi cái gì
là tâm của quí vị, quí vị sẽ trả lời làm sao? Quí vị thường nói tâm tôi
suy nghĩ, tâm tôi phán đoán. Vậy có phải cái suy nghĩ, cái phán đoán, cái
tính toán v.v… là tâm của mình hay không? Ở đây chúng tôi hỏi, quí vị có
thể lắc đầu. Nhưng khi ra về nói chuyện với nhau, quí vị sẽ bảo tâm tôi
nghĩ thế này, tâm tôi nghĩ thế kia. Quí vị chấp nhận cái nghĩ đó là tâm
của mình một trăm phần trăm. Nó là tâm mình, nó phải thật vì mình là thật.
Nhưng tại sao khi tìm lại thì không thấy nó? Nếu nó không thật thì làm sao
nói nó là mình được? Trong bài giảng hôm nay, chính chỗ này khó thật là
khó, nếu quí vị chịu khó nghe thì sẽ có giá trị vô cùng. Đây là một vấn đề
hết sức là khó, không phải thật bản chất nó khó, mà vì cái mê lầm của mình
quá sâu dày cho nên chúng ta nghe không thâu vào được. Như vậy cái mà
chúng ta chấp nhận là tâm mình hoàn toàn là cái suy nghĩ phân biệt. Trong
kinh Lăng Nghiêm, chính ngài A-nan thuở xưa cũng nói như vậy. Phật hỏi:
"Cái gì là tâm của ngươi?" Ngài thưa: "Chính cái hay suy nghĩ là tâm của
con." Ngài bị Phật quở, Phật bác luôn bảy chỗ chỉ tâm của Ngài.
Chúng ta hiện nay cũng như thế. Ngay chính
Tổ Huệ Khả cũng cho cái suy nghĩ là tâm của mình. Vì vậy Tổ Bồ-đề-đạt-ma
không cần dạy, chỉ bảo "Đem tâm ra, ta an cho". Nếu thật là tâm ông thì
ông cứ đưa ra đây. Nhưng khi tìm nó, thì mất tiêu không bóng không hình.
Đã không bóng không hình thì làm sao đưa ra được . Tổ bảo: "Ta đã an tâm
cho ngươi rồi." Ngài Huệ Khả liền ngộ. Quí vị có thấy con đường của Tổ Huệ
Khả ngộ pháp an tâm chưa? Vì cho bóng là mình, cho nên chúng ta mới điên
cuồng, nếu biết bóng là bóng, không thật, thì điên cuồng tự hết. Nếu chúng
ta chấp nhận vọng tưởng là tâm của mình thật, nó dẫn chúng ta chạy từ nơi
này đến nơi khác. Nếu biết rõ vọng tưởng không phải là tâm của mình thật,
chỉ là bóng dáng của sáu trần thì nó hết khả năng lôi cuốn mình. Như vậy
không phải an tâm là gì? Nói là phương pháp an tâm mà thật không phương
pháp chi hết, chỉ là nhìn đúng lẽ thật, biết đúng lẽ thật thì chúng ta đã
an tâm rồi.
Lâu nay chúng ta nhận lầm kẻ giặc làm con,
nên nó phá hết sự nghiệp khiến chúng ta đau khổ. Giờ đây chúng ta biết nó
là giặc, không lầm nữa thì nó còn hại gì mình được đâu. Vọng tưởng vừa dấy
lên, chúng ta biết nó là hư giả, không thật thì nó tự an liền, không cần
phải đè dẹp. Như vậy an tâm mà không có phương pháp chi hết. Sở dĩ lâu nay
chúng ta dùng phương pháp này đè, dùng phương pháp kia dẹp, mà vọng tưởng
cứ bừng dậy hoài tại vì chúng ta thấy nó là thật. Cũng như đứa giặc, đứa
trộm mà chúng ta tưởng nó là con ruột của mình, cho nên hôm nay chúng ta
mất vật này, ngày mai mất vật khác, rồi chúng ta rầy nó. Nghĩa là ngày nào
còn chứa kẻ trộm ở trong nhà là ngày đó chúng ta còn bị mất đồ, bị khổ sở.
Chỉ cần biết nó là kẻ trộm, đuổi ra khỏi nhà thì tự nhiên hết mất đồ, hết
khổ sở. Chỉ chừng ấy việc quí vị thấy tu có khó không? Chỉ cần nhận đúng
lẽ thật, biết rõ mặt thật của vọng tưởng, chúng ta đã biết tu rồi.
Theo Duy Thức Học, những vọng tưởng dấy
lên chỉ là bóng dáng của sáu trần. Ví như chúng ta đang ở nhà, có một
người khách đến thăm. Sau câu chuyện khoảng nửa tiếng đồng hồ, người khách
ra về, chúng ta hoàn toàn không có một ý nghĩ nào dính dấp đến người đó
hay không? Hay là hình ảnh ngôn từ của người khách vẫn còn vãng lai trong
tâm mình? Cái vãng lai đó là gì? Tức là bóng dáng của sáu trần, mình thấy
nghe khi nãy, còn rơi rớt lại trong tâm mình. Cho nên danh từ chuyên môn
trong Duy Thức Học gọi đó là "lạc tạ ảnh tử", tức là bóng dáng của sáu
trần rơi rớt lại trong tàng thức của mình.
Cũng vậy, chúng ta học các lý thuyết cho
thật nhiều, nhồi chúng lại thành khối, liền bảo chúng tôi có kiến thức
này. Thật sự đó chỉ là vay mượn bên ngoài đem vào, tự cho rằng chúng tôi
khôn, chúng tôi hay, mà không có can đảm loại bỏ nó ra. Chứa chấp những
cái bên ngoài như vậy, nói là mình, tức là nhận giặc làm con, để rồi nó
lôi dẫn mình chạy không bao giờ ngừng được. Nếu biết rõ những vọng tưởng
là giặc, không phải là mình thì khi chúng vừa dấy lên, chúng ta nhất quyết
từ chối không theo, các vọng tưởng ấy tự nó hết. Đó là một lối tu hết sức
đơn giản không khổ nhọc gì, chỉ cần nhận đúng như vậy là đã biết tu thiền
rồi. Khi chúng ta quét sân hay rửa chén, một ý nghĩ vừa dấy lên, biết nó
là bóng dáng, bỏ ngay không theo nó, đó là tu thiền ngay khi quét sân rửa
chén, không đợi tới giờ ngồi thiền mới gọi là tu thiền. Thế nên tu thiền
lúc nào cũng được, không đợi tới thời khóa tụng kinh, niệm Phật mới tu.
Giờ phút nào, ở nơi nào cũng gọi là tu, nếu chúng ta luôn nhận đúng lẽ
thật, đừng bị lầm lẫn; lầm lẫn là vô minh, biết được lẽ thật là trí tuệ.
Dùng trí tuệ Bát-nhã, thấy các vọng tưởng không thật, thấy chúng là không,
tìm lại không được, thấy vọng tưởng là không thì tự nhiên vọng tưởng lặng,
như vậy không phải "vào cửa Không" là gì? Tổ Huệ Khả nhân đó tỉnh ngộ nên
Ngài được vào cửa. Chúng ta hiện nay cứ chấp vọng tưởng là mình nên đứng ở
ngoài, vào "cửa Không" chưa được.
Giờ đây chúng tôi xin nói đến Tổ Huệ Năng.
Chắc chúng ta không ai quên bài kệ của ngài Thần Tú và bài kệ của Tổ Huệ
Năng. Ngũ Tổ thấy cần có người thay mình để hóa đạo nên tuyên bố trong
chúng "Mỗi người phải làm bài kệ trình kiến giải, người nào xứng đáng thì
sẽ được truyền y bát để làm Tổ thứ sáu thay ta hoằng hóa". Khi ấy ở trong
hội của Ngũ Tổ có ngài Thần Tú là giáo thọ sư của năm trăm tăng chúng, và
có một vị cư sĩ là Tổ Huệ Năng đang làm việc nặng ở nhà sau, ít người để ý
tới. Toàn chúng đồng ý chỉ có ngài Thần Tú là đủ khả năng làm kệ trình để
làm Tổ thứ sáu, không nghi ngờ gì nữa, chuyện này hết sức là hợp lý. Ngài
Thần Tú gặp hoàn cảnh bất khả kháng, không thể nào trốn tránh được, nên
buộc lòng Ngài phải cố gắng làm kệ. Thao thức mấy đêm mới làm xong bài kệ,
nhưng Ngài chưa tin mình nên không dám trực tiếp trình kệ với Ngũ Tổ. Ngài
nghĩ: "Ngoài hành lang có một khoảng tường trống, ta nên đem kệ ra viết ở
đó. Ngũ Tổ thấy bài kệ thì Ngài đọc, nếu khen bài kệ hay ta sẽ ra đảnh lễ
Ngài, nếu bài kệ không ra gì ta tránh luôn để khỏi mất mặt với tăng
chúng." Suy nghĩ xong, đang đêm Thần Tú đem bài kệ viết lên tường. Sáng
ngày, Ngũ Tổ đi ra, mời ông thợ vẽ đến khoảng tường trống để vẽ họa đồ của
chư Tổ. Ngài nhìn thấy bài kệ, biết là của Thần Tú. Bài kệ như sau:
Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
Thật là hay vô cùng, có phải không? Vì
nghĩa của bài kệ là:
Thân là cây bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để dính bụi bặm.
Bài kệ như vậy không ai chê được. Nhưng
Ngũ Tổ xem rồi Ngài biết chưa vào cửa. Ngài đã ngầm biết người nào sẽ được
vào cửa, nhưng Ngài chưa dám nói vì sợ chúng nghi ngờ ganh tị. Muốn đánh
lạc hướng đồ đệ, Ngài khen: "Bài kệ này hay quá, nên thắp hương đảnh lễ và
học thuộc bài kệ sẽ có phước vô cùng." Chúng đồng thắp hương đảnh lễ và
học thuộc bài kệ. Ngài Thần Tú rất hài lòng. Ngũ Tổ hỏi: "Phải ông làm bài
kệ đó không?" - "Dạ thưa con, nhưng con làm kệ mà không dám mong làm Tổ,
chỉ mong Hòa thượng chứng minh cho." Ngũ Tổ nói riêng: "Ông chưa vào cửa
được, ông trở về làm bài kệ khác trình ta xem." Ngài Thần Tú ngẩn ngơ toát
mồ hôi, làm bài kệ mấy đêm mà bị chê là chưa vào cửa được thì Ngài còn
lòng dạ nào làm bài kệ khác nữa. Thật là đau khổ, Ngài làm thầy dạy chúng
mà không vào cửa nổi. Nhưng vì Ngũ Tổ đánh lạc hướng cho nên cả chúng ai
cũng thuộc lòng bài kệ. Một ông điệu nhỏ cũng học thuộc lòng và đi đâu
cũng lẩm nhẩm đọc bài kệ đó. Khi đi ngang qua ngài Huệ Năng, lúc bấy giờ
Ngài đang giã gạo, ông điệu đọc lại bài kệ, ngài Huệ Năng hỏi: "Sư huynh
đọc cái gì đó?" - "Ông không biết sao? Thượng tọa Thần Tú trình kệ với Ngũ
Tổ, bài kệ hay lắm" - "Xin Sư huynh đọc lại cho tôi nghe." Ông điệu đọc
lại. Ngài Huệ Năng nói tiếp: "Thôi nhờ huynh dẫn tôi lên chỗ bài kệ để tôi
xem." Lúc lên đến nơi, Ngài nói không biết chữ, nhờ đọc lại cho Ngài nghe.
Khi ấy có ông quan Biệt Giá cũng xem bài kệ đó, ông lớn tiếng đọc cho ngài
Huệ Năng nghe. Nghe xong, Ngài nói: "Tôi cũng có một bài kệ." Tất cả đều
ngạc nhiên mà chính ông Biệt Giá cũng ngạc nhiên, vì người quê dốt thì làm
sao có kệ được. Nhưng ông cũng bằng lòng nghe và nhận viết dùm bài kệ lên
vách. Ngài Huệ Năng không có bài kệ nào khác hơn, chỉ đổi lại bài kệ của
ngài Thần Tú như sau:
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm?
Nghĩa như vầy: Bồ-đề là tiếng Phạn, Trung
Hoa dịch là Giác. Tánh giác không có hình tướng cho nên nó vốn không cây.
Gương sáng không cần ở cái đài vì tự bản chất nó sáng rỡ rồi, đó là dẹp
luôn cái đài. Tánh bồ-đề xưa nay không hình tướng, vốn không một vật thì
chỗ nào dính bụi bặm mà phải lau chùi?
Chúng tôi sẽ giải thích hai bài kệ trên,
người đứng ngoài cửa và người vào cửa khác nhau ở chỗ nào? Trong bài kệ
của ngài Thần Tú, câu đầu Thân thị bồ-đề thọ: Thân là cây bồ-đề; Ngài cụ
thể hóa tánh bồ-đề là thân, là một hình tướng, cây bồ-đề là một hình
tướng, văn thì hay thật mà toàn là hình thức. Tâm như minh cảnh đài: Tâm
là đài gương sáng; tâm nguyên nó là tri giác mà nói là đài gương tức cũng
là hình thức, và cái đài cũng là hình thức. Thời thời cần phất thức: Luôn
luôn phải lau chùi; muốn lau chùi thì phải vừa có gương vừa có khăn lau,
đó cũng là hình thức. Vật sử nhạ trần ai: Chớ để dính bụi bặm; bụi và
gương lại là hình thức nữa. Như vậy toàn là tu trên hình thức, chưa vào
được cửa Không. Công phu thì khá nhiều mà chưa vào được đạo. Nếu căn cứ
trên hình thức thì tu trên tướng sanh diệt, làm sao đến được chỗ vô sanh?
Vì vậy nghe bài kệ đó, ngài Huệ Năng biết chưa vào cửa, cho nên mới làm
bài kệ dẹp hết bao nhiêu hình tướng để đối chiếu lại.
Bồ-đề bổn vô thọ: Tánh giác đâu phải là
hình thức thì đâu phải là cây. Minh
cảnh diệc phi đài: Tâm ví như gương sáng không cần ở cái đài, tức là hình
thức cái đài cũng bị dẹp. Đối lại với câu: "Thời thời cần phất thức", Ngài
nói: "Bản lai vô nhất vật", thể không tướng mạo là vật gì, cái gì dính mà
lau chùi? Hà xứ nhạ trần ai: chỗ nào dính bụi bặm. Như vậy ngài Huệ Năng
thấy rõ bản tâm vô tướng, hằng giác bản tâm vô tướng tức là bồ-đề. Ngài đã
thấy rõ như vậy, không vào cửa được là gì? Cho nên khi Ngũ Tổ thấy bài kệ
ấy, Ngài biết rõ người vào cửa được. Nhưng muốn đánh lạc hướng chúng, Ngài
lấy dép xóa bài kệ bảo: "Bài kệ này cũng chưa được" để mọi người khỏi xôn
xao. Nhưng đến tối, Ngũ Tổ gọi ngài Huệ Năng vào thất đóng kín cửa lại và
giảng kinh Kim Cang cho Ngài nghe, Ngài ngộ đạo và được truyền y bát.
Như vậy bồ-đề là tánh giác, tâm là cái
liễu liễu thường tri của chính mình, cái ấy không tướng mạo. Tổ Huệ Khả
tìm tâm không thấy hình ảnh, đó là an tâm. Lục Tổ cũng thấy rõ tất cả vọng
tưởng đều không thật, không tướng mạo, thể nó là không. Vì thể là không
nên không bị dính, bị nhiễm. Nếu được thể tánh không thì vào được cửa
Thiền. Như vậy vào cửa Thiền tức là vào cửa Không. Từ Tổ Huệ Khả đến Tổ
Huệ Năng cũng nhân nhận được lý Không đó mà vào cửa thiền. Cho nên nói đến
thiền là nói đến lý Không, và cái lý Không đó sâu sắc vô cùng, người đời
khó mà thấy được.
Hiện giờ chúng ta tu, muốn cho tâm an
chúng ta phải thấy tột cùng lý Không. Nếu chúng ta không thấy tột lý Không
thì không bao giờ chúng ta an tâm được. Cần biết vọng tưởng là giả dối,
không chấp nhận nó, tự nó mòn giảm dần, không còn lôi cuốn mình được, thế
là chúng ta an tâm. Đó là lý Không của ngài Bồ-đề-đạt-ma truyền cho Tổ Huệ
Khả, cũng chính là chỗ Ngũ Tổ dẫn Lục Tổ vào cửa thiền.
Để thấy rõ lý Không, chúng tôi xin dẫn một
câu trong kinh Kim Cang "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả
đắc, vị lai tâm bất khả đắc", tức là tâm quá khứ không thể được, tâm hiện
tại không thể được, tâm vị lai không thể được. Thường thường chúng ta dấy
niệm là duyên về quá khứ, nghĩ đến kỷ niệm những năm xưa, đó gọi là tâm
quá khứ. Tâm hiện tại là suy nghĩ tính toán những việc trong hiện tại. Tâm
vị lai là hướng những tưởng tượng vào ngày mai. Như vậy tâm luôn luôn dấy
nghĩ về ba thời. Nhưng quá khứ tâm không thể được vì quá khứ là cái đã
qua, hiện tại nghĩ lại là nghĩ những bóng dáng không thật. Cái nghĩ duyên
theo các bóng dáng không thật đó cũng không thật, cho nên quá khứ tâm
không thể được. Hiện tại chúng ta đang suy tính, ví như chúng ta tính phải
làm gì trong ngày hôm nay. Chúng ta nghĩ phải làm việc này, phải làm việc
kia, cái nghĩ không dừng ở một chỗ, mà cứ đổi thay luôn, nó không thật cho
nên hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc, nghĩa là chúng ta
tưởng tượng nghĩ ngợi những chuyện sắp đến. Sắp đến là chưa đến, chưa đến
là không. Nghĩ trước những chuyện chưa đến, tức là những việc không có.
Nghĩa là nghĩ về cái không thì cái nghĩ ấy cũng là không thật. Cho nên
kinh nói ba cái tâm ở trong ba thời: tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai
đều không thể được. Để chúng ta thấy rõ những cái chúng ta gọi là tâm
mình, đều không có thật, nghĩa là tâm quá khứ không thật, tâm hiện tại
không thật, tâm vị lai không thật. Như vậy không phải "Không" là gì?
Về pháp an tâm Tổ Bồ-đề-đạt-ma không cần
giải thích nhiều, mà chỉ nói "Đem tâm ra ta an cho". Nhưng khi tìm lại tâm
thì nó mất dạng, nên biết tâm không thật. Như vậy Tổ nói có trái với kinh
không? Ngài không cần giảng kinh, chỉ với một câu nói hết sức đơn giản mà
thực tế vô cùng, Ngài bắt chúng ta phải dùng trí mà thấy, chớ không cho
dùng sức tưởng tượng tầm thường.
Như thế chúng ta thấy khi học đạo, muốn
vào cửa thiền phải thấy rõ tâm vọng tưởng không thật, ba thời đều không
thật, chỉ là bóng dáng giả dối. Cái bóng dáng giả dối chợt có chợt không
đó, là mình thật hay không? Nếu biết nó không là mình thật thì chúng ta đã
nhận ra đứa nào là giặc, đứa nào là con rồi. Cái mê cái tỉnh khác nhau ở
chỗ này. Ở đây ai ai cũng gật đầu chấp nhận cái suy nghĩ tính toán là kẻ
giặc, nhưng khi về đến nhà thì ai cũng nhận là con, thương nó, không tách
rời nó được. Đó là cái khó của người tu, khó hiểu, khó tu là ở chỗ đó. Nếu
biết rõ nó là giặc, không bao giờ chấp nhận nó, một bề đuổi nó đi thì tự
nhiên cái khó sẽ hết. Khi cái xấu biết nó là xấu thì không chấp nhận được
rồi, nhưng khi điều tốt điều hay thì sao? Nhất là khi nhớ lại một câu kinh
thật chí lý thì làm sao nỡ bỏ, chính cái đó mới thật là khó. Cho nên chúng
ta phải hiểu cho thật tường tận, phải thấy rõ cái mà xưa nay chúng ta thừa
nhận là tâm chúng ta chỉ là bóng dáng không thật, không phải thật là mình.
Nhận được cái giả đó, biết được cái giả đó chúng ta đã tiến tu một bước
khá xa rồi. Biết như vậy tức là đã tỉnh giác, biết như vậy là biết bằng
trí tuệ Bát-nhã, là hằng sống với trí tuệ. Nếu quên đi là sống trong vô
minh.
Hôm qua có đạo hữu hỏi tôi về ý nghĩa lễ
sám hối. Như chúng tôi đã giảng về nghiệp, nghiệp là do thân miệng ý tạo
nên, thân miệng chỉ là công cụ của ý và ý mới là chủ động. Như trong suốt
buổi sám hối chúng ta lạy Phật, tụng kinh là giữ được thân và miệng, mà
không dẹp được ý thì làm sao hết tội. Vì vậy trong bài sám hối có bốn câu:
Tội tánh bổn không do tâm tạo
Tâm nhược diệt thời tội diệt
vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu
không
Thị tắc danh vi chân sám hối.
Tánh tội vốn không do tâm tạo
Tâm nếu diệt rồi tội sạch
trong
Tội trong tâm diệt thảy đều
không
Thế mới thật là chân sám hối.
Nghĩa như sau: Tánh của tội là không, do
tâm mình tạo, vì tâm là chủ động. Nếu tâm mình dứt rồi tức là gốc đã bị
đốn thì ngọn tự nó ngã. Tội do tâm tạo, mà động cơ tâm đã lặng thì tội còn
chỗ nào đứng vững được. Cho nên tâm nếu diệt rồi tội cũng theo đó mà mất.
Tội và tâm đã lặng, cả hai đều không, ấy mới gọi là thật sám hối. Vì sám
hối mà không còn chủ động tạo tội nữa, mới là chân thật sám hối. Nếu như
chúng ta lạy Phật tụng kinh hoài mà chủ động tạo tội cứ được nuôi dưỡng
mãi, làm sao thật hết tội được. Chúng tôi giảng như vậy là có chỉ quí vị
sám hối chưa? Nếu quí vị biết rõ vọng tưởng thể nó là không thì chúng ta
có chân sám hối trong đó rồi. Nhưng chắc quí vị sẽ còn hoang mang, như vậy
tội không có sao? Ở trong nhà chùa thường nói câu này: "Thà chấp có bằng
núi Tu-di, chớ nên chấp không bằng hạt cải". Cho nên khi nói tới thiền,
đại đa số đều dè dặt lắc đầu, vì nói thiền là nói tới cửa Không, học thiền
coi chừng chấp không. Nhưng chúng tôi giảng như vậy là có chấp không
chăng?
Chúng tôi đã giảng qua về lý tâm không,
giờ chúng tôi nói về lý nghiệp không và sau đó sẽ nói đến cảnh không, để
quí vị thấy rõ chữ "Không" trong đạo Phật. Hiện nay xin hỏi quí vị, tội có
hay là không? Nếu tội từ tâm tạo, khi tâm dứt rồi thì tội cũng theo đó mà
dứt. Còn phước cũng từ tâm tạo, khi tâm dứt rồi thì phước còn hay hết? Tội
hết thì mình muốn mà phước hết thì mình không ưng. Tại sao lạ vậy? Nếu tội
từ tâm tạo, tức động cơ gây tội là tâm, thì tâm là gốc. Nếu gốc hạ rồi thì
ngọn phải ngã, dĩ nhiên tội cũng hết. Còn phước cũng từ tâm nghĩ lành tạo
ra, nếu tâm nghĩ lành đó lặng thì phước cũng dứt luôn. Như vậy hết tội hết
phước thì làm sao tu đây? Đó thật là khó, cho nên lý không này thật hết
sức khó giảng. Ai ai cũng hoang mang về lý này. Nhưng tôi xin hỏi quí vị:
Nghiệp từ đâu tạo nên? Chính là từ thân miệng ý. Như vậy nghiệp là những
hành động, hành động lành gọi là nghiệp lành, hành động dữ gọi là nghiệp
dữ. Hành động lành tức thân hoặc miệng nói những lời lành, làm những việc
lành, đó là tạo nghiệp lành. Thân và miệng nói lời dữ, làm việc dữ gọi là
tạo nghiệp dữ. Lời chúng ta nói ra là thật chăng? Ngôn ngữ phát ra lời,
lời hợp lại thành câu, những lời những câu đó nói qua rồi, tìm lại không
còn. Nếu chúng thật có thì phải còn hoài, qua rồi không còn, làm sao nói
chúng thật được. Hành động của chúng ta cũng vậy. Ví dụ chúng ta làm một
động tác gì, động tác đó qua rồi, không dừng lại, không dừng thì làm sao
là thật được.
Trong Chứng Đạo Ca Thiền sư Vĩnh Gia Huyền
Giác nói:
Liễu tức nghiệp chướng bản lai
không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.
Tỏ rồi nghiệp chướng hóa thành
không
Chưa tỏ nợ xưa đành trang
trải.
Liễu tức là liễu ngộ, người liễu ngộ rồi
thì thấy nghiệp chướng xưa nay là
không. Vị liễu tức là chưa liễu ngộ thì phải đền lại nợ trước. Hai câu này
rất phù hợp với những lời tôi vừa giảng.
Nhưng Thiền sư Hạo Nguyệt nghi ngờ, hỏi
Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm rằng: "Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói ‘Liễu tức
nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái’ là sao?" Trong
lịch sử Thiền tông Tổ Sư Tử ngộ đạo rồi mà bị vua Kế Tân chặt đầu, Tổ Huệ
Khả ngộ đạo rồi mà bị chết trong tù, như vậy hai vị đó có liễu hay không?
Nếu liễu rồi thì sao lại phải đền nợ? Lẽ ra liễu thì nghiệp chướng bản lai
không, mà sao lại bị cắt đầu, sao lại bị bắt giam trong khám rồi chết? Đó
là một câu hỏi rất khó trả lời cho ổn được.
Ngài Trường Sa Cảnh Sầm trả lời: "Đại đức
chưa hiểu nghiệp chướng." Hạo Nguyệt hỏi: " Thế nào là nghiệp chướng?" -
"Bản lai không." Nghe câu trả lời như vậy chúng ta có hài lòng chưa? Riêng
tôi thì rất hài lòng. Tại sao vậy? Tôi ví dụ, nếu quí vị biết ngôn ngữ thể
tánh là không, do duyên hợp tức là hơi và lưỡi mới phát ra thành lời. Như
thế chúng ta vô tình phát ra lời gì khiến cho người nghe bất bình tức là
chúng ta đã tạo nghiệp dữ rồi. Người nghe đã bất bình thì họ có tha mình
đâu. Mình nói lỡ lời để người ta giận thì người ta cũng trả lại lời gì để
mình tức. Nếu mình biết thể tánh của ngôn ngữ là không, do duyên hợp giả
có, khi bị mắng lại mình đâu nên giận, đâu có phiền, chỉ cười thôi. Biết
tánh của ngôn ngữ là không là đã liễu rồi. Như vậy là mình có trả nghiệp
hay không? Tuy trả mà không trả, khó là ở chỗ đó. Nếu mình chưa liễu, lỡ
nói mích lòng người, bị người mắng lại thì mình đau khổ, thở vắn thở dài.
Cái đau khổ ấy là mình chưa liễu vậy.
Cho nên khi vua Kế Tân hỏi Tổ Sư Tử: "Ngài
thấy ngũ uẩn đều không chăng?" Tổ đáp: "Tôi thấy ngũ uẩn đều không?" -
"Ngài cho tôi cái đầu được chăng?" Tổ bảo: "Ngũ uẩn đã là không, sá gì cái
đầu." Ngài vui vẻ cho cái đầu mà không thấy trả nợ trước, vì Ngài đã liễu
rồi. Khi chúng ta nghe nói cho cái đầu liền rùng mình sợ hãi, vì mình chưa
liễu nên còn thấy trả nợ trước.
Tổ Huệ Khả cũng vậy, sau khi ngộ đạo, Ngài
đi truyền bá chánh pháp. Thời bấy giờ ở Trung Hoa nhằm đời Tùy, Phật giáo
đã có lâu rồi, nhưng người tu hành thường nghiên cứu kinh điển, chưa hiểu
lý thiền. Đến khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa nói lý thiền thì nghe lạ
tai, họ chấp nhận không nổi. Sau khi ngộ được yếu chỉ, Tổ Huệ Khả đi
truyền bá lý thiền nhưng bị gièm siểm, kết tội là ngoại đạo và bị bắt cầm
tù. Ngài bảo còn một chút nợ trước phải trả và vui vẻ vào tù, vì Ngài đã
liễu ngộ nghiệp chướng bản lai không, nên trả nợ mà không trả vậy. Nghiệp
lành nghiệp dữ có hay không là do chúng ta liễu hay không liễu. Chúng tôi
xin dẫn hai câu chuyện sau đây:
Có cư sĩ hỏi Thiền sư Quốc Nhất ở Cảnh
Sơn:
- Bạch Hòa thượng có thiên đường không?
Ngài đáp:
- Không.
- Bạch Hòa thượng có địa ngục không?
- Không.
- Bạch Hòa thượng có tội không?
- Không.
- Bạch Hòa thượng có phước không?
- Không.
Với câu hỏi nào Ngài cũng trả lời "không".
Sau này ông cư sĩ đến tìm ngài Trí Tạng Tây Đường, đệ tử của Mã Tổ, và
cũng hỏi bao nhiêu câu hỏi đó:
- Bạch Hòa thượng có thiên đường không?
Ngài đáp:
- Có.
- Bạch Hòa thượng có địa ngục không?
- Có.
- Bạch Hòa thượng có tội không?
- Có.
- Bạch Hòa thượng có phước không?
- Có.
Với bao nhiêu câu hỏi đó, hai vị Thiền sư
nổi tiếng, một vị bảo không, một vị bảo có, ông cư sĩ hoang mang nên hỏi
tiếp ngài Tây Đường:
- Bạch Hòa thượng, Ngài nói như vậy có
đúng chưa?
Tây Đường hỏi:
- Trước khi đến đây ông đã hỏi ai rồi?
- Dạ, con đã hỏi Hòa thượng Cảnh Sơn.
- Hòa thượng nói với ông thế nào?
- Con hỏi câu nào Hòa thượng cũng nói
không. Tại sao con hỏi Ngài câu nào Ngài cũng nói có hết?
Ngài Tây Đường hỏi lại:
- Hòa thượng Cảnh Sơn có vợ không?
- Dạ không.
- Ông có vợ không?
- Dạ có.
- Hòa thượng Cảnh Sơn không vợ cho nên cái
gì Ngài cũng nói không. Ông có vợ nên ta nói cái gì cũng có.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy câu trả
lời có hay không là tùy nơi người hỏi. Nếu một bề nói không, đó là chấp
không. Còn nếu biết tùy người nói có, tùy người nói không, thì không phải
là chấp không. Hòa thượng Cảnh Sơn liễu rồi nên Ngài nói tất cả là không,
ông cư sĩ chưa liễu nên ngài Tây Đường phải nói với ông là có. Như vậy
chúng ta thấy các Thiền sư nói chuyện khó hiểu là vì tùy nơi người chấp mà
trả lời.
Câu chuyện thứ hai như sau: Có người đến
hỏi ngài Triệu Châu Tùng Thẩm: "Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh
không?" Ngài đáp: "Không." Ông hỏi tiếp: "Tại sao trong kinh nói ‘Tất cả
chúng sanh đều có Phật tánh’, mà riêng con chó không có Phật tánh?" Ngài
trả lời đơn giản: "Vì bị nghiệp thức che đậy cho nên nói không." Con chó
không thấy, không biết Phật tánh, tuy có mà cũng như không. Có người khác
đến hỏi: "Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh không?" Ngài đáp: "Có" Ông
ấy lại hỏi: "Đã có Phật tánh, vì sao chui vào đãy da nhơ nhớp như vậy?"
Ngài trả lời: "Vì biết mà cố phạm." Biết là trí tuệ, là Phật tánh, mà
không tránh lỗi nên phải đọa làm thú chui vào đãy da. Giá trị của Thiền sư
là tùy trình độ của người hỏi, biết trả lời thế nào cho hợp lý đừng để sai
lầm.
Như vậy nghiệp đối với người liễu đạo
không thật có, cho nên nói bản lai không. Thân là huyễn hóa, vọng tưởng là
hư ảo thì nghiệp làm sao thật được, chỉ là duyên hợp giả có, có gì là quan
trọng. Đối với người chưa liễu đạo thì thân thật, tâm cũng thật, thì
nghiệp làm sao không thật được!
Đến trần cảnh bên ngoài là thật có hay là
không? Ví như cái bàn ở trước mặt chúng ta là có hay là không? Với con mắt
phàm tục thì cái bàn là thật có. Nhưng với con mắt trí tuệ Bát-nhã thì cái
bàn thể tánh là không, do duyên hợp giả có. Như hiện nay chúng tôi đưa bàn
tay lên, rồi co năm ngón lại thành nắm tay. Như vậy nắm tay này là có hay
là không? Khi chưa co năm ngón lại thì nắm tay không có. Khi năm ngón tay
co lại thì gọi đó là nắm tay. Trong nắm tay này phân tích mỗi ngón rời
nhau cũng không có nắm tay. Thể của nắm tay là không, do duyên hợp giả có,
khi đủ duyên thì hợp, khi thiếu duyên thì tan, không có gì là thật.
Các sự vật ở đời này là như vậy, thể tánh
là không, duyên hợp giả có. Như cái bàn này do nhiều miếng gỗ rời rạc hợp
lại, đóng đinh vào thành cái bàn. Đó là tướng duyên hợp, còn thể tánh
nguyên là không. Như thế từ nắm tay, cái bàn đến tất cả sự vật hiện có
hình tướng ở thế gian này, đều là tướng duyên hợp, thể tánh là không. Bởi
tánh không, duyên hợp giả có, cho nên kinh Kim Cang nói "Phàm sở hữu tướng
giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai". Phàm
tất cả cái gì có hình tướng đều là hư giả, nếu ngay các tướng mà thấy
không thật tức là thấy Phật. Nếu thấy rõ như vậy là chúng ta thấy bằng trí
tuệ Bát-nhã. Trí tuệ Bát-nhã tức là giác, giác tức là Phật.
Từ sự vật cho đến thời gian không gian
cũng không có cái gì là thật. Về thời gian chúng ta đã đặt ra thời quá
khứ, thời hiện tại, thời vị lai. Khái niệm về thời gian được căn cứ trên
sự quay của trái đất, rồi phân định ra ngày tháng năm, thời tiết v.v… Như
vậy thời gian không có thật, huống nữa là trên thời gian không thật đó lại
đặt ra ngày giờ tốt xấu v.v… Trên cái mê thêm một lớp mê khác, trên cái
lầm thêm một lớp lầm nữa, thành tập quán quen thuộc ngàn đời không dám bỏ.
Cho đến việc gầy dựng gia đình, xây cất nhà cửa cũng phải coi ngày tốt
xấu. Nhất là các Phật tử, trước khi làm việc gì cũng đến chùa nhờ thầy cô
xem lịch, lựa ngày tốt cho công việc được tốt đẹp. Nhưng thử hỏi có gia
đình nào nhờ xem lịch mà được hạnh phúc suốt đời hay không? Có nhà cửa nào
nhờ xem lịch mà suốt đời không bị hư hao hay không? Đó rõ ràng là chuyện
vô thường ở thế gian. Chúng ta phải gan dạ thấy lẽ thật ấy, dùng trí tuệ
mà tìm ra lẽ thật, không nên tin tưởng một cách mù quáng, vì đạo Phật là
đạo giác ngộ.
Nói về không gian, như quả địa cầu chúng
ta đang ở, có thật hay không? Chúng ta chỉ cần xác định lại: Phàm cái gì
có tướng là hư vọng giả dối, do nhân duyên hòa hợp, thể tánh là không. Quả
địa cầu này tuy tuổi thọ quá dài, so với tám chín mươi năm tuổi thọ của
chúng ta, nhưng có ngày cũng tan hoại. Khi đủ duyên thì hợp lại thành quả
địa cầu quay vùn vụt trong hư không, khi hết duyên thì nó tan ra, lúc bấy
giờ chúng ta sẽ ở đâu? Biết như vậy rồi chúng ta không còn tham lam giành
giựt với nhau từng mảnh đất, để gây khổ cho nhau. Khi biết tâm không thật,
thân không thật, thời gian không thật, không gian không thật thì chúng ta
tranh giành hơn thua nhau để làm gì? Biết như vậy rồi thì tu hành tâm dễ
an. Khi tâm vừa duyên cảnh vật, dù xinh đẹp quý báu đến đâu, chúng ta đều
biết đó là giả tướng duyên hợp không thật, thì tâm liền thôi dứt, buông
xả. Như thế việc tu hành đòi hỏi chúng ta phải có trí tuệ nhận định đúng
lẽ thật, thì sẽ không bị trần cảnh lôi cuốn và sai sử.
Trong bài Bát-nhã Tâm Kinh chúng ta tụng
hằng ngày, có câu "Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời,
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Nghĩa là Bồ-tát
Quán Tự Tại khi thực hành sâu trí tuệ Bát-nhã, Ngài soi thấy thân năm uẩn
này tự tánh là không thì qua hết khổ nạn. Nếu thấy thân năm uẩn là thật
thì khi bị nhục mạ, chúng ta sẽ đau khổ. Nếu thấy thân năm uẩn là không
thật, thì còn gì khổ nạn. Như vậy tụng Bát-nhã để chiếu soi đúng lẽ thật,
chúng ta sẽ vượt qua hết khổ nạn. Ứng dụng trí tuệ Bát-nhã vào việc tu
hành mới độ được mình, độ được người và tất cả chúng sanh. Thế nên trí tuệ
Bát-nhã rất là cần thiết để vào cửa thiền, vào nhà đạo.
Trong kinh Pháp Hoa đức Phật nói "Vào nhà
từ bi, mặc áo nhẫn nhục, ngồi tòa nhất thiết pháp không". Tòa nhất thiết
pháp không là chỗ ngồi vững chắc nhất của đức Phật.
Trong kinh Kim Cang Bát-nhã, khi Bồ-tát
làm việc bố thí ba-la-mật, tức là bố thí cứu kính, thì phải tam luân không
tịch, nghĩa là ba phần rỗng lặng. Người bố thí, kẻ thọ thí và vật bố thí,
cả ba thể tánh đều là không. Người bố thí, năm uẩn là không. Vật bố thí,
do tứ đại duyên hợp, tánh là không. Hằng xét nét nhận định như vậy là bố
thí ba-la-mật. Vì thế khi hành Lục độ Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ, đều phải có trí tuệ Bát-nhã mới đến
cứu kính, sự tu hành mới tiến lên dễ dàng được.
Lý Bát-nhã là một thứ thuốc hiệu nghiệm vô
cùng, mà cũng là mối họa to vô kể. Người hiểu lý Bát-nhã không đến nơi thì
rơi vào địa ngục nhanh như tên bắn. Như người tu hành vào quán ăn thịt
uống rượu, rồi lấy lý Không biện minh cho việc làm của mình, người ấy sẽ
đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn. Nếu hiểu lý Không một cách thấu đáo để
buông xả vọng tưởng, không chấp vào sự vật, phá được ngã và ngã sở thì lý
Bát-nhã là một thần dược lợi ích không lường.
Cùng một đề tài về lý Không. Người biết
dùng nó là thuốc, người không biết dùng nó là bệnh. Ngày xưa Tổ Bá Trượng
giảng dạy chư tăng, sau buổi giảng chư tăng đi tản mát hết, chỉ còn một
ông già ngồi lại. Tổ hỏi: "Ông còn chuyện gì nghi ngờ mà không chịu đi?"
Ông già thưa: "Bạch Hòa thượng, con không phải là người, con là kiếp hồ ly
(chồn). Thuở xưa con làm vị tăng ở núi này, có Phật tử đến hỏi: ‘Người đại
tu hành còn rơi vào nhân quả không?’ Con đáp: ‘Không rơi vào nhân quả.’ Do
con trả lời Không nên đọa làm thân chồn năm trăm đời. Nay xin Hòa thượng
nói cho con một câu để chuyển kiếp chồn này." Tổ bảo: "Ông hỏi lại ta đi."
Ông già hỏi: ‘Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không?’ Tổ đáp: "Không
lầm nhân quả." Ngay câu nói này ông già đại ngộ, chuyển được kiếp hồ ly.
Tại sao nói "không rơi vào nhân quả" thì
đọa làm thân chồn, mà nói "không lầm nhân quả" thì chuyển được kiếp hồ ly?
Đối với người thế gian còn mê muội, luật nhân quả là một lẽ thật, không có
cái gì có hình tướng mà không từ nhân thành quả. Cho nên nói "không rơi
vào nhân quả" là phủ nhận lý nhân quả, tức là phỉ báng Phật, nên đọa làm
thân chồn. Đối với người đạt đạo, thấy rõ lý nhân quả, biết thể tánh là
không, nhưng duyên hợp giả có. Do đó khi nói "không lầm nhân quả" là thoát
được kiếp hồ ly.
Đức Phật chủ trương nhân quả là căn cứ
trên sự tướng của vạn vật. Vật có hình tướng cũng do nhân và quả, nghiệp
thiện ác cũng do nhân và quả. Nếu chúng ta còn tâm mê thì không thể phủ
nhận luật nhân quả được. Chỉ có người ngộ đạo mới không lầm nhân quả.
Chúng ta phải đạt được lý Không đó mà không rơi vào chấp không. Vì vậy
ngài Qui Sơn, đệ tử Tổ Bá Trượng, nói "Thật tế lý địa bất thọ nhất trần,
vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp". Chỗ lý thật tế không dính một mảy
bụi, đó là chúng ta dùng trí tuệ thấy rõ tánh không của tất cả các pháp,
các pháp đã không tướng mạo thì chỗ nào mà dính bụi bặm. Nhưng trong cửa
muôn hạnh không bỏ một pháp. Vẫn tiếp tục độ chúng sanh mà không thấy có
chúng sanh nào được độ, vẫn hành hạnh bố thí mà tam luân không tịch, vẫn
lạy Phật, tụng kinh mà "Năng lễ sở lễ tánh không tịch". Người năng lễ và
đức Phật sở lễ tánh là không lặng, nhưng con đường cảm ứng thì không thể
nghĩ lường, nên gọi là chân không mà diệu hữu.
Dùng trí Bát-nhã chiếu soi ngay nơi hình
tướng của sự vật, biết thể tánh là không, nên kinh Bát-nhã nói "Sắc tức là
không". Ngay nơi tánh không, nhờ duyên hợp giả có sự vật, nên kinh nói
"Không tức là sắc". Đó là lý chữ "Không" trong Bát-nhã, không phải cái
không trống rỗng.
Hình tướng của sự vật có to có nhỏ, nhưng
thể tánh của chúng là không, không to không nhỏ. Cho nên căn cứ vào lý
tánh, sự vật không chướng ngại nhau. Vì vậy có câu:
Càn khôn tận thị mao đầu
thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử
trung.
Nghĩa là "Cả càn khôn này rút lại bằng mảy
lông. Mặt trăng, mặt trời nằm trong lòng hột cải". Trên tánh không của cái
thật to như càn khôn vũ trụ và tánh không của cái thật nhỏ như sợi lông,
chúng không có ngại nhau mà dung thông nhau. To như mặt trời mặt trăng và
nhỏ như hạt cải, vì thể tánh là không, nên nói sự vật to nhỏ hàm nhiếp lẫn
nhau, không trở ngại. Cho nên người tu thiền phải dùng trí tuệ Bát-nhã
biết lẽ thật cho đến nơi đến chốn.
Thiền sư Duy Tín đời Tống nói rằng "Trước
ba mươi năm tôi thấy núi sông là núi sông, sau gặp thiện tri thức chỉ dạy,
tôi thấy núi sông không phải núi sông, và sau ba mươi năm tôi thấy núi
sông là núi sông". Trước khi đến đây nghe giảng, quí vị thấy nhà là nhà,
đường là đường, người là người, cái gì cũng thật hết. Đến khi nghe giảng
giải, khéo dùng trí tuệ Bát-nhã thấy thân ngũ uẩn tánh là không, sự vật
tánh là không, thì núi không thật là núi, sông không thật là sông. Đến ba
mươi năm sau, mới thấy núi sông là núi sông. Bởi vì rõ biết sự vật tánh là
không, nên tâm không còn chạy theo cảnh, không còn dùng trí tuệ Bát-nhã
quán chiếu nữa, nên cuối cùng đến chỗ tâm như, cảnh như, thì thấy núi sông
là núi sông.
Tổ Lâm Tế nói Tứ Liệu Giản, trong đó có:
Thứ nhất là "Đoạt nhân bất đoạt cảnh". Chỉ
buông xả tâm vọng tưởng bên trong, không cần chiếu phá cảnh bên ngoài.
Thứ hai là "Đoạt cảnh bất đoạt nhân". Nhìn
ra ngoài thấy cảnh vật có tướng mạo đều là hư giả, thể tánh là không nên
tâm không nhiễm cảnh.
Thứ ba là "Nhân cảnh lưỡng câu đoạt". Cả
trong và ngoài thể tánh là không, tướng duyên hợp hư giả nên tâm cảnh đều
dẹp hết.
Thứ tư là "Nhân cảnh câu bất đoạt". Đến
chỗ tâm cảnh như như, không còn dụng tâm quán chiếu để dẹp nữa, thì núi
sông là núi sông.
Đó là con đường tu thiền, Tổ đã dạy rõ
ràng, mong quí vị hiểu cho thấu đáo để áp dụng vào việc tu hành.
Để kết luận bài giảng hôm nay, chúng tôi
đọc bốn câu kệ của ông cư sĩ Bàng Long Uẩn:
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ qui.
Mười phương đồng tụ hội
Mỗi mỗi học vô vi
Đây là trường thi Phật
Tâm không thi đậu về.
Nghĩa là: Mười phương cùng nhóm họp. Mỗi
người mỗi người đều học về lý bất sanh bất diệt. Đây là chỗ trường thi làm
Phật. Người nào được tâm không là thi đậu, trở về quê hương vinh qui bái
Tổ.
Như vậy chúng tôi đã nhiệt tình dẫn quí vị
"Vào Cửa Không" rồi, và chúng tôi sẽ chỉ cho quí vị "Ông Chủ Nhà" hay là
"Bản Lai Diện Mục" trong bài giảng thứ ba sắp tới.
CHỈ ÔNG CHỦ
Hôm nay chúng
tôi giảng tiếp đề tài thứ ba "Chỉ Ông Chủ". Đây là đề
tài khó giảng nhất mà cũng khó lãnh hội nhất. Chúng tôi mong quí vị đem
hết tinh thần của mình chú ý lắng nghe thật kỹ, và chúng tôi cũng cố gắng
dùng mọi phương tiện trình bày, để may ra quí vị có thể lãnh hội được.
Được như vậy mới không phí công quí vị đến nghe và không phí công chúng
tôi giảng giải.
Chúng tôi xin nhắc lại, chúng ta hiện sống
ở đây, ai cũng thường nói "mình làm việc này, mình nghĩ chuyện kia, mình
tính việc nọ, hoặc tôi làm cái này, tôi nghĩ cái kia, tôi tính cái nọ
v.v…" Nhưng thử hỏi cái tôi hay cái mình là cái gì? Là thân tứ đại này
chăng? Thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa hợp thành, nó là vô tri. Nếu nói
tứ đại là mình thì thật là vô nghĩa. Cái hiểu biết, cái suy nghĩ là mình
chăng? Cái hiểu biết, cái suy nghĩ luôn luôn thay đổi từ trạng thái này
qua trạng thái khác, không dừng ở một chỗ. Khi tìm lại nó liền mất, không
còn hình ảnh, không còn tăm dạng. Thí dụ khi chúng ta nghĩ điều lành, nói
tôi nghĩ điều lành, thì cái nghĩ lành đó là tôi, nhưng bất thần nghĩ điều
xấu điều ác, thì cái nghĩ xấu ác là ai? Nếu cái nghĩ lành là tôi, cái nghĩ
ác cũng là tôi, thì cái tôi rất là hỗn tạp.
Cái nghĩ lành, cái nghĩ ác, luôn luôn thay
đổi, nhất là khi tìm lại thì mất bóng mất hình. Như vậy, cái tôi là cái
gì? Hằng ngày chúng ta lo các việc, dồn các hành động sống cho cái tôi,
sống vì cái tôi, mà rốt cuộc không biết cái tôi là gì, thật là đáng buồn
vô cùng. Cho nên hôm nay chúng tôi cố tình chỉ cho quí vị cái tôi chân
thật, ẩn náu trong cái không phải là tôi, đó gọi là "Chỉ Ông Chủ".
Chúng tôi đặt tên đề tài "Chỉ Ông Chủ" có
lỗi lầm gì không? Phàm cái gì chỉ được phải có hình tướng, thí dụ như bình
hoa ở trước mắt. Bình hoa có hình tướng và ở ngoài nên chúng ta trông thấy
được, và mới chỉ được. Còn ông Chủ là cái không hình tướng, lại ở nơi mọi
người, không phải ở bên ngoài, chúng tôi dùng ngôn từ "chỉ" là hết sức
gượng gạo, đó là đã sai lầm rồi, không phải là chân lý nữa. Nhưng tại sao
chúng tôi dùng chữ sai lầm như vậy? Vì đến chỗ tột cùng là chỗ vô ngôn,
tức không lời để diễn tả. Nhưng chẳng lẽ vì chỗ vô ngôn đó mà chúng ta
lặng thinh, người nghe làm sao lãnh hội được? Cho nên buộc lòng chúng tôi
phải nói, mà đã có ngôn từ là đã có sai lầm, nhưng nhờ cái sai lầm đó
chúng ta khéo tìm khéo thấy. Chúng tôi nói bên đông quí vị nhìn bên tây mà
thấy, đừng nhìn bên đông mà lầm. Chúng tôi nói bên ngoài quí vị phải nhìn
bên trong mới thấy. Nếu theo lời nói bên ngoài mà thấy, chắc rằng không
bao giờ quí vị thấy được. Đó là điểm cần yếu trong khi quí vị nghe chúng
tôi "Chỉ Ông Chủ".
Tên Ông Chủ tại sao có và tên ấy xuất xứ
từ đâu? Trước nhất chúng tôi xin dẫn kinh. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật
nói đến danh từ khách trần, Ngài giải thích như sau: "Như trong hư không,
mỗi sáng khi mặt trời lên, ánh nắng xuyên qua kẽ hở. Nhìn vào ánh nắng đó,
chúng ta thấy những hạt bụi lăng xăng trong hư không. Hư không là chẳng
động mà hạt bụi chuyển động, hư không là không sanh diệt mà hạt bụi là
tướng sanh diệt. Hạt bụi là trần đối với hư không". Chữ khách đức Phật nói
rằng "Ví như có người khách đi đường, tạm nghỉ đêm nơi nhà trọ, sáng lại
sửa soạn hành lý ra đi. Khách tạm dừng rồi khách ra đi, người không dừng
cũng không đi gọi là chủ". Như vậy khách là người tạm có mặt rồi mất, ông
chủ là người thường xuyên trong nhà. Y Ù nghĩa hai chữ "chủ" và "khách"
cho chúng ta thấy rõ cái gì tạm có rồi mất gọi là khách, cái gì có mãi
không mất gọi là chủ. Như vậy danh từ Ông Chủ xuất xứ trong kinh Lăng
Nghiêm.
Ngoài tên Ông Chủ ra, đức Phật hay các
Thiền sư còn dùng những tên khác như Phật tánh, Pháp thân, Như Lai tạng,
Chân tâm, Trí tuệ Phật, Tri kiến Phật, Bản lai diện mục v.v… tùy chỗ đặt
tên nên có rất nhiều tên không thể kể hết. Tại sao các tên chỉ Ông Chủ lại
quá nhiều như vậy? Bởi vì chính Ông Chủ này là cái không tên. Phàm cái gì
ta đặt tên được thì cái đó có vị trí cố định, còn cái gì không đặt tên
được thì cái đó lại rất nhiều tên. Ví dụ như trong giảng đường này, có một
người khách đến nghe giảng, bất thần người ấy đứng lên, tất cả thính giả
đều thấy người đó vừa cao, vừa mập, vừa đen v.v… Khi về nhà, thính giả
thuật lại: hôm nay có một ông khách đến nghe giảng bỗng đứng lên hỏi. Vì
không biết tên ông khách nên có vị nói ông đó cao cao, vị khác không nói
ông đó cao mà nói ông đó mập mập, vị khác nữa không nói ông đó mập mà nói
ông đó đen v.v… Tại sao người nói cao, người nói mập, người nói đen? Nếu
quí vị biết chắc tên ông đó là A thì không phải dùng nhiều tên như vậy. Vì
không biết tên nên tùy hình dáng có gì đặc biệt tùy theo chỗ mà đặt tên.
Cũng vậy, Ông Chủ này là thể hằng giác
chưa bao giờ sanh diệt cho nên gọi là Trí tuệ Phật. Ông Chủ này là cái
thấy biết thường hằng của mọi chúng sanh nên gọi là Tri kiến Phật. Ông Chủ
này là cái kho Như Lai nên gọi là Như Lai tàng. Ông Chủ này là cái tâm bất
sanh bất diệt nên gọi là Chân tâm. Ông Chủ này là cái thể không bao giờ
đổi thay cho nên gọi là Pháp thân. Ông Chủ này là bộ mặt thật sẵn có của
tất cả mọi người cho nên gọi là Bản lai diện mục v.v… Do tùy chỗ đặt tên
nên có rất nhiều tên để chỉ Ông Chủ.
Tuy nói chỉ Ông Chủ mà thật ra không thể
chỉ được. Trong nhà thiền thường dùng những ngôn từ nói rằng "Đập cỏ rắn
sợ, vỗ nước cá đau đầu". Tức là ở dưới hồ chúng ta không thấy cá đâu,
nhưng lấy một tấm ván đập trên nước, dội vào cá ở dưới nước nên nó đau
đầu. Trong bụi cỏ rắn ở chỗ nào, chúng ta không thấy, nhưng muốn rắn sợ,
chúng ta quơ gậy ào trên cỏ, rắn hoảng sợ nên chạy. Như thế tuy không chỉ
được mà vẫn có ảnh hưởng, đó là lối chỉ của nhà thiền và của chúng tôi hôm
nay.
Chúng tôi xin dẫn vài vị Thiền sư nói về
Ông Chủ. Đời Đường ở Trung Hoa có Thiền sư Tùng Thẩm (778-897), chúng ta
thường gọi là Triệu Châu. Khi ngài Triệu Châu còn là một ông Sa-di đi hành
khước, tức là đi tham vấn thiền, ông đến Thiền sư Phổ Nguyện (749-834) ở
Nam Tuyền. Ngài Nam Tuyền hỏi: "Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?"
Ngài Triệu Châu đáp: "Dạ, con là Sa-di có chủ." Ngài Nam Tuyền hỏi: "Chủ ở
chỗ nào?" Ngài Triệu Châu bèn bước tới gần, khoanh tay cúi đầu nói rằng:
"Giữa mùa đông giá rét, kính chúc Hòa thượng được trăm phước." Ngài Nam
Tuyền gật đầu và cho ngài Triệu Châu vào chúng.
Trường hợp thứ hai là Thiền sư Ngưỡng Sơn
Huệ Tịch (804-899) tông Qui Ngưỡng. Khi ngài còn là Sa-di, Ngài đến với Tổ
Qui Sơn Linh Hựu (771-853). Tổ Qui Sơn hỏi: "Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di
không chủ?" Ngài thưa: "Dạ, con là Sa-di có chủ." Tổ hỏi: "Chủ ở đâu?"
Đang đứng bên đông, Ngài khoanh tay đi qua bên tây đứng. Ngài Qui Sơn gật
đầu cho nhập chúng. Như vậy là Ngài đã chỉ Ông Chủ rồi.
Cuối đời Đường có Thiền sư Sư Nhan, huynh
đệ với Thiền sư Sư Bị (835-908), Ngài ngồi tu trên tảng đá, thỉnh thoảng
tự gọi: "Ông Chủ nhân", rồi Ngài: "Dạ!" Ngài dặn: "Tỉnh, tỉnh, mai mốt
đừng để người lừa." - "Dạ!" Ngài tự gọi tự đáp, rồi tự bảo tỉnh tỉnh đừng
để người lừa. Thử hỏi hiện giờ chúng ta có bị người lừa không? Khi chúng
ta ngồi thiền, niệm Phật hoặc tụng kinh là cốt để định tâm, tức là sống
trở về với Ông Chủ của mình. Nhưng khi đang tụng kinh hay ngồi thiền,
khách dẫn mình đi lúc nào không hay. Nhớ chuyện hôm qua, ôn chuyện hôm
kia, cứ như thế nó lừa gạt mình, dẫn mình đi xa mãi, quên mất Ông Chủ lúc
nào không hay. Nếu chúng ta luôn luôn tỉnh giác, khi một ý nghĩ vừa dấy
lên, biết nó là khách liền buông xả không theo, đó là chúng ta làm chủ,
sống với Ông Chủ. Chỉ cần tự gọi tự nhắc là một pháp tu suốt năm suốt đời.
Đến phần chỉ thẳng Ông Chủ, chúng tôi
không phải dùng tay để chỉ, mà dùng những ngôn từ. Qua những ngôn từ lạt
lẽo ấy, nếu quí vị khéo nhìn quí vị sẽ thấy Ông Chủ của mình. Khi quí vị
thấy Ông Chủ của mình rồi thì đời tu của quí vị được nhẹ nhàng.
Để chỉ thẳng Ông Chủ, chúng tôi xin dẫn
kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói "Từ nhất tinh minh sinh lục hòa hợp", là từ
một cái trong sáng sanh ra sáu cái hòa hợp. Ví dụ như có cái nhà nhỏ,
trong nhà có một ngọn đèn néon đang cháy sáng. Nhà ấy có sáu cửa, mỗi cửa
đều mở toang ra. Ban đêm có người đứng ngoài tối muốn biết trong nhà có
đèn hay không thì phải nhìn vào các cửa, nếu thấy ánh sáng từ các cửa phát
ra là biết bên trong có ngọn đèn. Thật sự chúng ta chưa thấy được ngọn
đèn, chỉ thấy được ánh sáng của ngọn đèn phát ra từ sáu cửa. Như vậy chủ
yếu của kinh Lăng Nghiêm là đức Phật muốn chỉ chân tâm hay là Như Lai tạng
đã có sẵn nơi mọi người chúng ta. Theo danh từ chuyên môn gọi đó là "nhất
tinh minh sanh ra sáu hòa hợp", tức là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý. Nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý đều có mang ánh sáng của cái tinh minh đó,
mà chúng ta không thấy, hoặc chúng ta không thấy đúng lẽ thật. Đức Phật
muốn chỉ cho Tôn giả A-nan và toàn chúng biết nơi sáu căn đã có ánh sáng
của tinh minh đó, nên Ngài đưa tay lên xòe ra nắm lại, xòe ra nắm lại, hỏi
A-nan: "Ông có thấy không?" A-nan thưa: "Dạ thấy." Phật hỏi: "Ông thấy cái
gì?" A-nan thưa: "Con thấy tay Thế Tôn đưa lên xòe ra nắm lại." Phật hỏi:
"Như vậy tay ta động hay cái thấy của ông động?" A-nan trả lời: "Tay của
Phật động, cái thấy của con không có tịnh huống nữa là động". Thấy là
thấy, không có tịnh, không có động. Trong ví dụ khách và trần, trần là cái
lao xao trong ánh nắng, còn hư không là cái an tịnh lặng lẽ. Cái lao xao
khi có khi không, hư không không có đổi thay. Hạt bụi lao xao trong hư
không, hạt bụi là sanh diệt, hư không là không sanh diệt. Như thế tay Phật
đưa lên là tượng trưng cho ngoại cảnh, ngoại cảnh có động tịnh, động tịnh
là cái sanh diệt. Cái thấy của ngài A-nan không có tịnh huống nữa là động,
làm sao nói sanh diệt được. Hiện giờ quí vị có cái thấy ấy hay không? Như
thế lo gì chúng ta không có Ông Chủ. Ví dụ chúng tôi chỉ bình hoa, hỏi quí
vị thấy không? Quí vị trả lời: Thấy. Nếu chúng tôi dẹp bình hoa chỗ khác,
thì quí vị trả lời: Không. Chúng tôi xin nhắc lại cái lầm lẫn của chúng
ta. Có bình hoa quí vị thấy bình hoa, bình hoa là vật ở bên ngoài mình,
còn cái thấy là cái gì? Nó có ở bên ngoài mình không? Như vậy tại sao có
bình hoa quí vị gọi là có thấy, không bình hoa quí vị gọi là không thấy?
Như thế cái thấy của quí vị đã bị lệ thuộc vào bình hoa rồi, tức là quên
mình theo vật, không nhớ mình mà chỉ nhớ có vật thôi. Vì thế chúng ta mất
mình, mất mình một cách đáng thương. Tất cả chúng ta đều như vậy, nghĩa là
có bình hoa là có thấy, dẹp bình hoa mất đi gọi là không thấy. Cái thấy là
cái hay thấy của mình, còn bình hoa là cái hình tướng bị thấy ở bên ngoài,
khi có khi không. Cái thấy hằng nhiên, không bao giờ sanh diệt. Tại sao
chúng ta đồng hóa cái thấy thành bình hoa? Vì vậy chúng ta quên mình chạy
theo cái giả tướng bên ngoài. Có tướng bên ngoài gọi là thấy, là "mình",
không có tướng gọi là không thấy, "không mình", quả thật đã mất mình rồi.
Đó là khuyết điểm lớn lao của tất cả chúng ta.
Sau ví dụ xòe nắm tay, đức Phật lại dùng
hào quang phóng qua bên trái ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên trái,
Phật phóng hào quang bên mặt ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên mặt.
Phật hỏi A-nan: "Tại sao cái đầu của ông hôm nay lay động vậy?" Ngài A-nan
thưa: "Con nhìn hào quang của Phật phóng qua bên trái, bên phải con, nên
đầu con xoay qua xoay lại." Phật hỏi: "Như vậy cái đầu của ông lay động
hay cái thấy của ông lay động?" Ngài A-nan thưa: "Cái đầu của con lay
động, cái thấy của con không lay động." Cái đầu tượng trưng cho thân, thân
mình là cái động, vì động nên sanh diệt. Cái thấy là cái không động, không
động nên không sanh diệt. Quí vị nhận mình có cái thấy không sanh diệt hay
không? Thế thì mình lo gì không có Ông Chủ. Đó là giai đoạn thứ nhất chỉ
Ông Chủ qua cái thấy.
Đến giai đoạn thứ hai cũng để chỉ Ông Chủ.
Vua Ba-tư-nặc nghe Phật nói mình có cái chưa từng sanh chưa từng diệt, ông
nghi nên hỏi Phật: "Tôi nghe chúng ngoại đạo nói chết rồi là hết, tại sao
Phật lại nói ngay thân này có cái chưa từng sanh chưa từng diệt?" Phật hỏi
thân ông hiện nay là thân sanh diệt hay không sanh diệt?" Ông thưa: "Thân
tôi là thân hoại diệt." Phật hỏi: "Ông chưa hoại diệt sao ông nói thân ông
hoại diệt?" Vua Ba-tư-nặc thưa: "Thân tôi tuy chưa hoại diệt nhưng tôi tự
biết thân này hoại diệt từ từ. Khi tôi mười tuổi cho đến hai mươi tuổi thì
đổi khác rồi, đến ba mươi tuổi thì già hơn hồi hai mươi tuổi, đến bốn mươi
tuổi thì đã già hơn hồi ba mươi tuổi… cho đến hiện giờ tôi đã trên sáu
mươi tuổi, nó đã già hơn hồi bốn mươi, năm mươi tuổi rất nhiều. Vì vậy tôi
biết thân tôi là tướng hoại diệt." Phật hỏi: "Ngay nơi thân hoại diệt đó
ông có thấy cái gì chưa từng hoại diệt chăng?" Vua Ba-tư-nặc thưa: "Không
thấy." Phật hỏi: "Nhà vua hồi mấy tuổi thấy được sông Hằng?" Vua thưa:
"Khi tôi ba tuổi, được mẹ bồng đi yết kiến thần Kỳ-bà-thiên, đã đi qua
sông Hằng, và đã thấy được sông Hằng." Phật hỏi: "Khi ba tuổi thấy sông
Hằng, đến khi mười tuổi, hai mươi tuổi thấy sông Hằng, cái thấy có đổi
khác không?" Vua thưa: "Cái thấy không có đổi khác." Phật hỏi: "Từ hai
mươi tuổi đến ba mươi, bốn mươi tuổi ông thấy sông Hằng, cái thấy có đổi
khác không?" Vua thưa: "Cái thấy không có đổi, cho đến hiện giờ tôi sáu
mươi mấy tuổi, cái thấy vẫn như xưa không đổi." Phật nói: "Ông lo thân ông
bị hoại diệt, ngay nơi thân ông có cái chưa bao giờ đổi thay. Cái gì có
đổi thay thì cái đó bị hoại diệt. Cái chưa từng đổi thay tại sao lo rằng
nó bị hoại diệt, mà ông còn tin rằng thân này chết rồi là hết?" Như thế
chúng ta thấy rõ cái tánh thấy sẵn có nơi mình, cái tánh thấy ấy không trẻ
không già. Nếu cái thấy không già tại sao khi lớn tuổi chúng ta lại mang
kiếng lão? Đó là vì bộ phận trong con mắt chúng ta nó cũ nó mờ đi, chớ
không phải cái thấy của ta có cũ có mờ, cũng như bóng đèn xài lâu thì hư,
chớ điện không có đổi khác.
Đến giai đoạn thứ ba đức Phật chỉ Ông Chủ
qua tánh nghe thường trụ. Phật bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông
"boong", rồi hỏi ông A-nan và đại chúng: "Các ông có nghe không?" Đại
chúng trả lời: "Có nghe." Khi tiếng chuông lặng dứt, Phật hỏi: "Có nghe
không?" Ông A-nan và đại chúng đều đáp: "Không nghe." Phật lại hỏi: "Tại
sao gọi là nghe, tại sao gọi là không?" Ngài A-nan và đại chúng thưa: "Khi
đánh chuông, âm ba vang ra gọi là nghe, khi âm ba bặt hết gọi là không
nghe." Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông nữa rồi hỏi
ông A-nan: "Có tiếng không?" Ông A-nan và đại chúng đáp: "Có tiếng." Giây
lâu tiếng chuông im bặt, Phật hỏi: "Có tiếng không?" Ông A-nan và đại
chúng đều đáp: "Không tiếng." Phật lại hỏi: "Tại sao gọi là có tiếng, tại
sao gọi là không tiếng?" Ông A-nan và đại chúng đều thưa: "Khi đánh chuông
âm ba vang ra gọi là có tiếng, khi âm ba lặng đi gọi là không tiếng." Đức
Phật quở: "Tại sao hôm nay các ông điên đảo lắm vậy?"
Nếu chúng ta trả lời các câu hỏi của Phật
như ngài A-nan và đại chúng, thì tất cả chúng ta đều điên đảo mà không hay
biết. Vì sao? Vì tiếng thuộc về thanh trần tức là âm ba bên ngoài, còn
nghe là cái hay nghe nơi mình, của chính mình. Tiếng và cái nghe, chúng ta
đồng hóa là một, không phải điên đảo là gì? Chúng ta hằng ngày sống trong
điên đảo, tiếng không biết thuộc về tiếng, nghe không biết thuộc về nghe.
Tiếng là cái sanh diệt, có đánh chuông thì có tiếng kêu, cái nghe thì khi
có tiếng có nghe, không tiếng vẫn có nghe, vì nếu không nghe làm sao biết
là không tiếng, mà nói không nghe.
Chúng tôi xin thuật một câu chuyện sau
đây: Tổ thứ mười tám ở Ấn Độ tên Già-da-xá-đa, đang đi hóa đạo, thấy một
thanh niên dòng Bà-la-môn là người khí khái, có khả năng đảm đang việc
lớn, có thể truyền được chánh pháp sau này. Người thanh niên ấy hỏi Tổ tu
theo phái nào, Ngài đáp: "Tôi tu theo Phật giáo." Vừa nghe như vậy người
thanh niên hoảng lên bỏ chạy về nhà đóng sầm cửa lại, núp trong nhà không
dám ra. Tổ đuổi theo tới trước cửa nhà, Ngài gọi: "Chủ nhà mở cửa ra!"
Người thanh niên ở trong nói vọng ra: "Không có chủ ở nhà." Tổ hỏi: "Không
có chủ ở nhà vậy ai nói đó?" Người thanh niên hoảng sợ mở cửa ra. Ông được
Tổ chinh phục, theo làm đồ đệ, sau được truyền Tổ vị. Câu chuyện mình mới
nghe thấy như trẻ con, nhưng chúng ta có giống trẻ con như vậy không? Luôn
luôn biết thấy, biết nghe, mà hỏi ông chủ đâu thì không biết. Nếu không có
chủ thì ai nói, không có chủ thì ai nghe, không có chủ thì ai thấy? Biết
nói, biết thấy, biết nghe mà hỏi ông chủ đâu thì đáp "Không biết, không có
ông chủ", chẳng khác nào người thanh niên kia vọng ra bảo "Chủ không có ở
nhà".
Để chỉ ông chủ các Thiền sư hay đưa ra câu
chuyện sau đây, có một thiền khách đến hỏi một Thiền sư: "Bạch Ngài, thế
nào là Phật?" Thiền sư trả lời: "Cỡi trâu mà tìm trâu." Chúng ta nghe câu
nói đó lạ quá. Hỏi thế nào là Phật, tại sao lại trả lời "cỡi trâu đi tìm
trâu". Nếu chúng ta biết Ông Chủ phát ra từ cái thấy, cái nghe, cái nói,
cái ngửi, thì đó là Ông Chủ cũng là Pháp thân, Phật tánh. Không có cái đó
làm sao biết hỏi, làm sao biết thấy, làm sao biết nghe? Nếu không chịu
nhận cái đó mà đi tìm Phật ở bên ngoài là cỡi trâu tìm trâu. Mới nghe qua
chúng ta tưởng như Thiền sư trả lời lạc đề, không giải nghĩa thế nào là
Phật, lại bảo "cỡi trâu tìm trâu". Bởi vì chính cái biết hỏi đó đã là Phật
rồi, nhưng cẩn thận, nhiều khi mình lầm tưởng là Phật, nhận luôn cả phiền
não nữa, đó là bệnh.
Khi nói tới Ông Chủ, kinh Lăng Nghiêm lúc
nào cũng chỉ thẳng tánh nghe, tánh thấy v.v… của chính mình đã biểu lộ nơi
sáu căn. Như ở trên tôi đã ví dụ, trong căn nhà, có một ngọn đèn néon thắp
sáng, ánh sáng xuyên qua các cửa. Nếu nhìn ánh sáng xuyên qua các cửa,
chúng ta thấy có ánh sáng hình vuông to, hình vuông nhỏ, có ánh sáng hình
dài, có ánh sáng hình tròn v.v… khác nhau. Sự khác nhau ấy do cái gì? Tại
ánh sáng hay tại các cửa? Rõ ràng chúng ta thấy ánh sáng không khác, mà có
khác là do từ các cửa. Nếu đứng ngay tại cửa mà xây mặt nhìn ra ngoài thì
chúng ta thấy tất cả sự vật bên ngoài, không bao giờ thấy được ngọn đèn.
Khi nhìn ra chúng ta chỉ thấy hoặc là cây cối vườn tược, hoặc là đường sá
xe cộ v.v… Chúng ta toàn thấy những gì qua lại, những gì sai biệt. Nếu
chịu khó xây mặt trở vào thì chúng ta không còn thấy cảnh vật ở ngoài nữa
mà chúng ta thấy ngọn đèn. Cho nên kinh Đại thừa luôn luôn nói rằng "Hồi
đầu thị ngạn", tức là xoay đầu lại là bờ Niết-bàn. Xoay mặt hướng ra là bờ
mê, xoay mặt hướng vô là bến giác. Vì vậy kinh Đại thừa nói xoay ra ngoài
gọi là bối giác hiệp trần, xoay trở lại là bối trần hiệp giác. Chúng ta
đứng ở cửa xây mặt ra thì lưng trở vô ngọn đèn, gọi là bối, xây lưng lại
ngọn đèn thì thấy toàn là cảnh vật bên ngoài. Nếu lúc chúng ta chịu xây
lưng trở ra thì không thấy sự vật bên ngoài mà thấy ngọn đèn sáng. Như vậy
bối giác hiệp trần hay bối trần hiệp giác chỉ là cái xây lưng mà thôi, mê
hay ngộ chỉ là cái xây lưng lại thôi. Nhưng từ thuở bé đến giờ chúng ta
đều xây mặt ra nhìn theo trần cảnh bên ngoài. Hiện nay chúng ta xoay nhìn
trở lại mình, nào có khó gì? Cho nên Điều Ngự Giác Hoàng tức là vua Trần
Nhân Tông, Tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm, khi đồ đệ là Pháp Loa hỏi: " Yếu
chỉ của sự tu hành là thế nào?" Ngài đáp: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự."
Nghĩa là xoay nhìn lại chính mình, đó là phận sự gốc của người tu.
Rất tiếc tất cả chúng ta đều xây mặt ra,
nên muốn tu mà một bề chạy theo ngoài, lễ lạy những hiện tượng lạ bên
ngoài, quên mất ông Phật của chính mình. Điều chính yếu là trở lại tánh
giác của mình, tự mình sáng suốt soi rõ sự vật, không phải nhờ người ngoài
soi thế cho mình được. Ví dụ có người học rất giỏi rất cao, được cử làm
Viện trưởng Viện Đại Học, ông ký cấp bằng cho những sinh viên đỗ đạt đầy
đủ khả năng, ông không thể ký cấp bằng cho các con ông nếu chúng chưa học
đến mức, chưa đủ khả năng đỗ đạt. Nếu muốn được cấp bằng cha ký cho, các
con ông phải nỗ lực học hành cho đúng mức, và đỗ đạt thành tài. Cũng như
vậy, tu là giác ngộ, mà giác ngộ thì trước phải sạch hết bụi bặm phiền
não. Nếu bụi bặm phiền não không chịu phủi giũ cho sạch, trí tuệ không mở
mang, mà muốn được điểm đạo cho thành Phật ngay, giống như anh học trò
không chịu học tập cho đến nơi đến chốn, mà muốn người cha ký cấp bằng cho
mình thành cử nhân tiến sĩ vậy.
Đa số Phật tử thường yếu đuối biếng nhác,
muốn làm việc gì cũng chóng kết quả. Nghe nói tu phải cực khổ, phải bỏ
phiền não tam độc, xem như lâu quá. Chỉ tập khí sân thôi mà dứt hoài không
được, biết chừng nào thành Phật! Vì muốn được kết quả mau chóng nhờ điểm
đạo mà phải lạc vào con đường tà giáo, nguyên do tại yếu đuối và tham lam.
Cho nên người tu hành chân chánh phải biết đúng lẽ thật và phải thực hành
đúng lẽ thật đó. Học đạo là tìm chân lý, dùng chính trí tuệ của mình để
thấy lẽ thật, chớ không nhờ ai bên ngoài điểm đạo cho mình được. Cũng như
học là mở mang trí tuệ của mình, đến đúng trình độ thì được phát cấp bằng,
học chưa đủ sức mà muốn được cấp bằng sớm, cấp bằng đó chỉ là giả thôi,
không có nghĩa lý gì.
Chúng ta tu hành, không nên tham mau, mà
phải bền chí, ngày nào cũng gỡ bỏ phiền não, xây mặt ngó vào mình thì tự
nhiên con đường giác ngộ sẽ đến với mình. Nếu chúng ta xây mặt trở ra đếm
người đếm cảnh, nhìn mặt người đi qua, nhìn mặt kẻ đi lại, nhớ người nhớ
cảnh hoài, thì làm sao giác ngộ cho được. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy
tầm quan trọng của sự tu. Tu là biết xoay lại, biết trở về con đường giác,
tức là bối trần hiệp giác, nghĩa là xây lưng với trần cảnh, trở về với
tánh giác của mình. Ngược lại như chúng ta hiện giờ, là bối giác hiệp
trần, nghĩa là xây lưng với tánh giác, chạy theo trần cảnh, mà muốn thành
Phật, thì thành sao được! Chỉ cần một cái xây lưng thôi thật là dễ, nhưng
lắm người không chịu xây, chả trách gì chúng ta làm chúng sanh mãi.
Trong kinh Lăng Nghiêm, không riêng đức
Phật Thích-ca mà mười phương chư Phật đồng nói cho ngài A-nan và đại chúng
nghe rằng "Chính sáu căn của các ông là gốc của sanh tử luân hồi, cũng
chính sáu căn của các ông là gốc của Bồ-đề Niết-bàn". Tại sao vậy? Cũng
trong kinh Lăng Nghiêm có câu "Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến
vô kiến tư tức Niết-bàn", nghĩa là thấy biết mà lập thấy biết là gốc của
vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây là Niết-bàn. Tại sao? Như
chúng ta xây mặt ra ngoài, nhìn người nhìn cảnh, phân biệt hay dở, tốt xấu
v.v…, bởi chấp cái phân biệt cảnh vật ấy nên gọi là "tri kiến lập tri", đó
là nguồn gốc của vô minh, tức là quên mình chạy theo cảnh. Khi chúng ta
vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết mà không phân biệt tốt xấu hay dở, không thêm
một lớp vọng tưởng phân biệt, gọi là "tri kiến vô kiến", là gốc Bồ-đề
Niết-bàn. Như thế Phật chỉ quá rõ ràng, gốc của sanh tử hay gốc của
Niết-bàn là ngay nơi sáu căn của mình, không có ở đâu xa xôi.
Chúng tôi xin trích dẫn trong kinh Pháp
Hoa, phần chỉ về Ông Chủ. Kinh Pháp Hoa được gọi đầy đủ là kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, nghĩa là kinh Diệu Pháp dụ như hoa sen. Diệu Pháp là gì? Trong
kinh nói "Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh
ngộ nhập Tri kiến Phật". Tất cả chư Phật chớ không riêng gì đức Thích-ca
ra đời, đều vì một việc lớn là khai mở và chỉ bày cho chúng ta nhận ra và
nhập Tri kiến Phật của chính mình. Tri kiến Phật đó chính là Diệu Pháp.
Trong kinh Pháp Hoa, phẩm nổi nhất về chỉ
Ông Chủ là phẩm Hiện Bảo Tháp, là phẩm thị Phật tri kiến. Trong hội Pháp
Hoa, các Bồ-tát và thánh chúng đang nghe kinh, bất thần có tháp báu ở dưới
đất vọt lên và trụ giữa hư không. Trong tháp ấy vang ra tiếng nói của Phật
Đa Bảo khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni. Đức Đa Bảo khi xưa có bổn nguyện,
hội nào có giảng kinh Pháp Hoa thì Ngài đến trong hội đó v.v… Nếu chúng ta
không đạt được lý kinh, nghe đến đây sẽ thấy huyền bí thần thoại. Tại sao
dưới đất lại vọt lên một tháp bằng bảy báu, trong tháp ấy có Phật Đa Bảo
đã chết từ vô số kiếp rồi mà hiện nay còn nói và khen ngợi đức Thích-ca
Mâu-ni. Vậy phẩm này chỉ Tri kiến Phật ở chỗ nào?
Chúng tôi xin gỡ từng điểm một để quí vị
thấy tầm quan trọng của kinh Pháp Hoa. Quí vị còn nhớ đoạn nói về "Vào nhà
Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai" chăng? Nhà Như Lai là lòng từ
bi, áo Như Lai là hạnh nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như Lai là nhất thiết pháp
không, tức là thấy tất cả pháp, tánh nó là không. Như thế bảo tháp vọt lên
lơ lửng trong hư không, không dính với cái gì hết, đó là tượng trưng cho
tất cả pháp không. Do vì không dính với sáu trần cho nên mới thấy cái gốc
của chính mình, đó là Tri kiến Phật hay là Phật Đa Bảo ngay chính mình,
không phải Phật Đa Bảo ở trong tháp báu kia. Phật Đa Bảo là tượng trưng
cho Pháp thân, cho Tri kiến Phật. Tháp làm bằng bảy báu, có nghĩa là kim
ngân, lưu ly, xa cừ, mã não v.v… hay không? Đó chính là thân thất đại của
chúng ta. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói chúng ta mang thân thất đại,
thất đại là bảy thứ lớn: đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức. Nơi
chúng sanh mê lầm gọi là thất đại, khi chúng ta ngộ được Pháp thân rồi,
gọi là thất bảo. Cho nên tháp của Phật Đa Bảo bằng thất bảo, tháp của
chúng ta bằng thất đại.
Vì sao gọi Phật là Đa Bảo, tức là nhiều
báu? Như trong các kinh, khi nói đến chỗ chân thật đều dùng các thứ báu để
tượng trưng. Như ví dụ Hệ Châu trong kinh Pháp Hoa: Có một anh chàng ăn
xin nghèo khổ, gặp được người bạn cho anh hạt châu và cột vào chéo áo cho
anh. Vì anh mê uống rượu quên mất hạt châu, nên phải đi xin ăn, lang thang
đói khổ. Gặp lại người bạn xưa, chỉ cho hạt châu trong chéo áo, anh lấy
hạt châu ra xài và trở nên giàu có.
Ví dụ thứ hai nói về nhà vua có hạt minh
châu trong búi tóc, nhà vua thưởng hạt châu đó cho vị tướng tài giỏi nhất
đi đánh giặc, thắng trận trở về. Hạt minh châu trong búi tóc là ví dụ cho
Tri kiến Phật, còn vị tướng tài giỏi là dụ cho người có khả năng dẹp được
các giặc phiền não. Như vậy hạt châu dường như ở ngoài tặng cho mà thật ra
là chỉ cái mình có sẵn, tức là Tri kiến Phật hay là Pháp thân của chính
mình.
Các Thiền sư cũng thường nói đến của báu
ấy. Có vị Thiền sư đến hỏi Hòa thượng Thạch Cựu, đệ tử của Mã Tổ: "Trong
tay Bồ-tát Địa Tạng có hạt minh châu, đó là ý nghĩa gì?" Ngài hỏi lại:
"Trong tay ông có hạt minh châu không?" Vị Thiền sư thưa: "Con không
biết." Hòa thượng liền nói kệ:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân.
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Kẻ nhìn gương mất đầu.
Nghĩa là: Mình không biết được kho báu nhà
mình, cứ chạy theo những trần cảnh ở bên ngoài. Ví như đang ở giữa trưa
trời nắng mà chạy đi trốn bóng, trốn có khỏi không, càng chạy trốn thì
bóng càng đuổi theo. Như người xem gương mất đầu. Đó là ví dụ trong kinh
Lăng Nghiêm: Có chàng Diễn-nhã-đạt-đa, một buổi sáng xem gương, thấy đầu
mặt của mình trong gương, úp gương lại không thấy đầu mặt mình đâu nữa,
hoảng lên ôm đầu chạy la: "Tôi mất đầu!", liền phát điên. Người đi cầu đạo
cũng vậy, xin người chỉ dạy đạo cho mình mà không ngờ chính nó đã sẵn nơi
mình rồi.
Trong Chứng Đạo Ca, ngài Huyền Giác ở Vĩnh
Gia nói:
Ma-ni châu nhân bất thức
Như Lai tàng lý thân thâu đắc
Lục ban thần dụng không bất
không
Nhất khỏa viên quang sắc phi
sắc.
Ngọc ma-ni, người chẳng biết?
Như Lai kho ấy thâu trọn hết
Sáu ban thần dụng không chẳng
không
Một điểm viên quang sắc chẳng
sắc.
Nghĩa là: Mỗi người có một hạt châu Ma-ni
mà không tự biết. Hạt châu Ma-ni còn gọi là hạt châu Như Y Ù, khi có hạt
châu đó rồi thì ước muốn điều gì cũng được toại nguyện. Ngay nơi kho Như
Lai của mình, chính nơi đó mà nhận. Sáu thứ thần thông mầu nhiệm dường như
không mà chẳng phải không. Một viên tròn sáng sắc mà chẳng phải sắc. Đó là
để diễn tả hạt châu riêng của mỗi người chúng ta ai cũng sẵn có.
Một câu chuyện khác như sau: Một thiền
khách đến, ngài Pháp Đăng hỏi: "Đầu sào trăm trượng làm sao tiến được?"
Thiền khách trả lời: "Câm." Ngài cứ khán câu đó hoài trong ba năm. Một hôm
Ngài cưỡi ngựa đi qua cây cầu ván, ván mục, ngựa sụp chân té nhào, quăng
Ngài rơi xuống cầu. Vừa rơi xuống Ngài liền ngộ, nói bài kệ:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao quang tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Ta có một viên minh châu
Đã lâu bị bụi vùi sâu
Hôm nay bụi sạch phát sáng
Soi thấu núi sông muôn vật.
Dịch nghĩa là: Ta có một hòn ngọc minh
châu. Lâu rồi bị bụi bặm che lấp không thấy. Sáng nay bụi hết, ánh sáng
phát ra, soi rõ khắp cả núi sông muôn vật. Như vậy chính chỗ nhận ra được
Ông Chủ hay là Pháp thân của mình thì luôn luôn ví dụ như được hạt minh
châu.
Từ các kinh cho đến các Thiền sư đều dùng
hạt minh châu để tượng trưng cho Pháp thân. Phật Đa Bảo hay Pháp thân là
một kho báu quý vô lượng vô biên mà tất cả thế gian không gì sánh bằng.
Cứu sống một sanh mạng được đền đáp bằng một số châu báu, sanh mạng ấy chỉ
sống thêm được vài mươi năm. Nhận ra được mạng sống miên viễn bất tử, tức
là Pháp thân hay Niết-bàn, chẳng là một kho báu vô lượng vô biên hay sao?
Cho nên được tượng trưng là Phật Đa Bảo.
Nhưng làm sao thấy được Phật Đa Bảo, làm
sao mở cửa tháp để thấy Phật? Đức Phật Thích-ca nói: Phật Đa Bảo có bản
nguyện là "Sau này nếu nơi nào nói kinh Pháp Hoa, tháp ta sẽ hiện lên nơi
đó. Vị Phật đang thuyết pháp muốn thấy được thân ta thì các phân thân của
vị Phật ấy đang giáo hóa ở các nơi phải thu hồi trở về một chỗ, rồi mở cửa
tháp sẽ thấy được thân ta". Khi ấy cõi ta bà ô uế này biến thành thanh
tịnh và các loại ngạ quỷ súc sanh đều dời đi nơi khác. Nghĩa lý đoạn này
rất thâm sâu.
Phật Đa Bảo là Pháp thân hay Tri kiến Phật
của chính mình, muốn thấy Phật thì các tưởng nhớ đến nơi đây nơi kia,
chuyện này chuyện khác phải gom về một chỗ, tức là trụ. Cho nên nói các
hóa thân Phật trở về một chỗ không còn phân tán, tức là định vậy. Khi trụ
một chỗ rồi thì tâm ô uế trở thành thanh tịnh, tham sân si không còn nữa,
nên nói các cõi nước liền biến thành thanh tịnh, các loại ngạ quỷ súc sanh
(dụ cho tham sân si) đều dời đi nơi khác, chỉ còn Phật thôi. Đức Phật
Thích-ca dùng thần thông bước lên tháp, mở cửa tháp thấy Phật Đa Bảo, vào
tháp được ngồi chung với Phật một tòa. Cũng vậy, sau khi tâm chúng ta an
trụ rồi, không còn phóng tâm ra ngoài nữa thì lúc đó gọi là định. Khi định
xong thì thấy Phật Pháp thân hay là thấy Phật tri kiến của chính mình. Đó
là ý nghĩa Phật Tri Kiến trong kinh Pháp Hoa.
Đến đây chúng tôi xin nói về Ông Chủ, được
chỉ qua các câu chuyện thiền. Đọc lại lịch sử Thiền tông, chúng ta nhớ lại
lần đầu tiên đức Phật truyền chánh pháp cho vị Tổ thứ nhất là ngài Ma-ha
Ca-diếp. Trong hội Phật nói kinh ở núi Linh Thứu, tức núi Linh Sơn, khi
chúng hội đông đủ, đức Phật lên tòa, tay cầm hoa sen đưa lên, cả chúng hội
đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca-diếp chúm chím cười. Phật bảo "Ta có chánh
pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn,
nay phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp v.v…" Như thế ngài Ca-diếp được truyền pháp
là do đức Phật đưa cành hoa sen, Ngài nhìn thấy rồi ngộ đạo, được truyền
tâm ấn. Ngài Ca-diếp thấy hoa sen ngộ đạo hay thấy cái gì? Trong nhà thiền
gọi là "Kiến sắc minh tâm", là thấy sắc mà ngộ được tâm của mình. Đức Phật
đưa cành hoa sen, không phải để nói về hoa sen, chính là nhân nhìn thấy
hoa sen biết được mình có cái chưa bao giờ sanh diệt. Ngài Ca-diếp mỉm
cười, biết được ý Phật, nên nhận tâm pháp của Phật truyền trao.
Trong nhà thiền cũng vậy, các Thiền sư khi
có người đến hỏi đạo, liền đưa cây phất tử lên, không chịu trả lời. Trường
hợp ngài Mã Tổ Đạo Nhất là một Thiền sư nổi tiếng, sau Lục Tổ hai đời. Một
hôm Ngài đi dạo vườn với thị giả là ngài Bá Trượng Hoài Hải, thình lình có
bầy chim bay qua, Tổ hỏi ngài Bá Trượng: "Cái gì đó?" Ngài Bá Trượng nhìn
lên thấy bầy chim bay qua, nói: "Dạ, bầy chim le le bay." Giây lát Tổ hỏi:
"Đâu rồi?" Ngài trả lời: "Bay qua mất rồi!" Khi nghe trả lời như thế, Mã
Tổ nắm mũi của ngài Bá Trượng véo mạnh đau điếng. Ngài Bá Trượng la lên
thất thanh. Tổ bảo: "Sao không nói bay qua mất đi?" Ngài Bá Trượng nhân đó
liền ngộ.
Như thế là ngộ cái gì? Ngộ cái mũi đau hay
ngộ bầy chim? Bầy chim bay qua là bay mất đi, nhưng cái thấy bầy chim bay
và cái thấy bay mất, cái thấy ấy đâu có mất bao giờ! Chúng ta cứ cho thấy
bầy chim là có thấy và chim mất đi là mất cái thấy của mình. Cho nên ngài
Bá Trượng bị nắm mũi kéo mạnh, hoảng la lên. Tổ hỏi: "Sao không nói mất
đi?" Nhân đó biết rằng cái mũi không bao giờ mất. Trong nhà thiền, lỗ mũi
luôn luôn tượng trưng cho bản lai diện mục, nó ngay trước mắt mà mình
quên. Vì vậy khi bị kéo mạnh lỗ mũi, biết rằng lỗ mũi không bao giờ mất,
ngài Bá Trượng ngộ liền.
Đến khi ngài Bá Trượng làm thầy, có người
đệ tử là Qui Sơn Linh Hựu. Một hôm trời lạnh, Qui Sơn đứng hầu thầy, ngài
Bá Trượng bảo bới tro trong lò lấy lửa. Qui Sơn bới trong lò, không thấy
lửa, bạch: "Bạch Hòa thượng, lửa hết rồi." Ngài Bá Trượng lại bới sâu
trong lò, lấy được cục lửa, đưa lên hỏi: "Nói hết lửa, cái này là gì?" Qui
Sơn liền ngộ, và sụp xuống lễ thầy.
Chúng ta vì không hiểu nên giải thích, đệ
tử bới không thấy lửa là vì bới cạn, còn vị thầy nhờ bới sâu trong lò nên
được lửa, và nói rằng Phật tánh phải tìm sâu mới gặp. Không ngờ chỗ ngộ
của ngài Qui Sơn là do câu hỏi của thầy: "Nói hết lửa cái này là cái gì?",
ngài Qui Sơn liền thấy cục lửa và ngộ liền. Nhân thấy lửa mà biết mình có
cái thấy hằng sẵn nơi mình, chưa bao giờ mất. Có thấy là có biết, cái biết
đó là tâm, có nghe là có biết, cái biết đó là tâm. Cái biết đó không bao
giờ động, bất sanh bất diệt và thường hiện hữu. Nhận ra cái ấy là đã bước
vào con đường của chư Tổ đã đi.
Hai câu chuyện trên dùng cái thấy để chỉ
cho chúng ta cái chưa bao giờ mất ở nơi mắt, gọi là "Kiến sắc minh tâm".
Sau khi Tổ Ca-diếp ngộ đạo, đức Phật đem y
bát truyền để làm tin. Khi đức Phật diệt độ rồi, vị đệ tử đa văn nhất của
Phật là ngài A-nan hỏi ngài Ca-diếp: "Đức Thế Tôn, ngoài việc truyền y Kim
Lan cho sư huynh, còn truyền cái gì nữa không?" Ngài Ca-diếp liền gọi:
"A-nan!" Ngài A-nan: "Dạ!" Ngài Ca-diếp bảo: "Cây phướn trước chùa ngã."
Ngài A-nan liền ngộ, ngộ việc ngoài lá y còn truyền cái khác.
Vậy cái khác là cái gì? Có phải là cây
phướn trước chùa chăng? Phần nhiều chúng ta cứ giải thích cây phướn trước
chùa ngã. Không ngờ khi kêu: "A-nan" - "Dạ", vừa kêu liền dạ, cái đó đã
sẵn có, nhận ra cái đó là cái Phật đã truyền cho Tổ Ca-diếp. Như vậy ngài
A-nan nhận được cái đó, ngộ đạo, được truyền y bát làm Tổ thứ hai.
Trường hợp Thiền sư Hoàng Bá (? - 850), đệ
tử của Tổ Bá Trượng, đến ngụ tại một ngôi chùa, nhằm lúc tướng quốc Bùi
Hưu đến thăm chùa. Ông Bùi Hưu thấy trên vách chùa có vẽ hình các vị cao
tăng. Ông hỏi thầy trụ trì: "Hình cao tăng ở đây, cao tăng đâu?" Vị trụ
trì không trả lời được. Ông Bùi Hưu hỏi: "Ở đây có Thiền sư không? Thầy
mời hộ tôi." Vị trụ trì nói: "Hình như có một Thiền sư, để tôi mời ra." Và
ngài Hoàng Bá được mời ra. Ông Bùi Hưu nói: "Khi nãy tôi có hỏi một câu mà
quý Đại đức tiếc lời không đáp. Bây giờ xin hỏi Thiền sư, Thiền sư đáp dùm
tôi". Ngài Hoàng Bá nói: "Ông cứ hỏi." Ông Bùi Hưu lặp lại câu hỏi: "Hình
cao tăng ở đây, cao tăng đâu?" Ngài Hoàng Bá liền gọi: "Bùi Hưu!" - "Dạ!"
Ngài hỏi: "Ở đâu?" Ông Bùi Hưu liền ngộ. Như vậy cao tăng ở đâu? Đến đây
chúng ta thấy thuật truyền thừa có hệ thống rõ ràng, người ngoài đọc sẽ
ngạc nhiên vì nghe lạ tai.
Đến trường hợp khác, ngài Thanh Nguyên
Hành Tư (? - 740), đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, có vị môn đệ là ngài Thạch
Đầu Hy Thiên (695 - 785). Có Thiền sư Linh Mặc (747 - 818) đến hỏi đạo
ngài Thạch Đầu Hy Thiên và tự nói "Nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp
thì đi". Khi thưa hỏi, Thiền sư Linh Mặc không được hài lòng nên bỏ ra đi.
Ngài Thạch Đầu theo sau tiễn đến cửa liền gọi: "Xà lê!" Sư xoay đầu lại.
Ngài Thạch Đầu bảo: "Từ xưa đến giờ chỉ cái ấy, xoay đầu chuyển não làm
gì?" Sư nhân câu nói này liền đại ngộ, dừng lại đây hai năm. Như thế chúng
ta thấy sự truyền thừa theo hệ thống này đã bắt nguồn từ đức Phật đến ngài
Ca-diếp, đến ngài A-nan và đến các Thiền sư sau này: chỉ bày cái thấy, cái
nghe, cái biết luôn luôn có sẵn nơi chính mình. Tri kiến Phật là gồm cả
kiến văn giác tri và hằng biểu lộ nơi sáu căn.
Để chỉ Tri kiến Phật, chúng tôi xin dẫn
câu chuyện trong kinh Pháp Bảo Đàn, nhân bài thuyết pháp đầu tiên của Lục
Tổ Huệ Năng cho ngài Huệ Minh. Khi nhận được tâm ấn của Ngũ Tổ, Lục Tổ đi
trốn về phương Nam. Tu sĩ Huệ Minh, khi chưa xuất gia là một võ tướng,
cưỡi ngựa rượt theo định giành lại y bát. Chẳng ngờ đến khi thấy y bát,
Huệ Minh nhấc lên không nổi, biết có việc gì mầu nhiệm, vội kêu lên: "Hành
giả! Hành giả! Tôi đến đây vì pháp, chớ không phải vì y bát." Lục Tổ lúc
đó mới ra mặt và bảo ngài Huệ Minh hãy lặng tâm ý nghe Tổ hỏi: "Không nghĩ
thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?" Vừa
hỏi đến đó ngài Huệ Minh liền ngộ. Thế là ngộ cái gì? Nghĩ thiện, nghĩ ác
là cái nghĩ hai bên, là tướng động, là tướng sanh diệt. Trong vũ trụ từ
con người đến vạn vật, cái hai bên là nguồn gốc của sự sanh diệt, ở người
thì có nam nữ, ở điện thì có âm dương v.v… Nếu buông được cái hai bên thì
sự sanh diệt không còn nữa. Cho nên khi Lục Tổ bảo "Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác" ngay đó Thượng tọa Minh liền nhận được bản lai diện mục của
chính mình.
Câu chuyện sau đây thuật việc ngài Lâm Tế
Nghĩa Huyền (? - 867) đến hỏi đạo nơi Thiền sư Hoàng Bá: "Bạch Hòa thượng
thế nào là đại ý Phật pháp?" Ngài Hoàng Bá liền đập cho ba gậy mà không
trả lời. Ba lần hỏi đạo, ngài Lâm Tế đều bị ba lần ăn đòn đau đớn. Buồn
tủi Ngài ra đi, Tổ Hoàng Bá bảo ông nên đến Thiền sư Đại Ngu mà hỏi đạo.
Khi đến nơi, Thiền sư Đại Ngu hỏi: "Ông ở đâu đến?" Ngài Lâm Tế thưa: "Dạ
con ở Hoàng Bá đến." Hỏi: "Hoàng Bá dạy ông cái gì?" Thưa: "Con ba lần hỏi
đại ý Phật pháp, ba lần đều bị ăn đòn, không biết con có lỗi hay không
lỗi." Vừa nghe như vậy ngài Đại Ngu liền nói: "Hoàng Bá thật là tâm lão bà
(tâm như mẹ thương con), dạy người rất thống thiết, ngươi lại đến trong ấy
hỏi có lỗi không lỗi." Ngài Lâm Tế ngay câu ấy liền đại ngộ, thưa: "Vậy
thì Phật pháp của Hoàng Bá rất ít." Ngài Đại Ngu liền nắm đứng lại bảo:
"Con quỉ đái dưới sàng, vừa rồi nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói Phật
pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau, nói mau." Ngài
Lâm Tế liền thoi vào hông ngài Đại Ngu ba cái. Ngài Đại Ngu xô ra nói:
"Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì đến ta." Về sau, khi ngộ đạo
rồi, Ngài làm Tổ dòng Lâm Tế, còn truyền đến hiện nay.
Chúng ta không khỏi thắc mắc ngài Lâm Tế
ngộ tại chỗ nào, ngài Hoàng Bá từ bi như thế nào? Nếu ngài Lâm Tế không ba
phen bị đòn thì chắc Ngài không làm Tổ dòng Lâm Tế đến ngày nay. Ngài
Hoàng Bá thật có tâm lão bà, nhưng nếu không có người bạn đồng hành là
ngài Đại Ngu biết được chỗ đó, và gợi ý thì chắc ngài Lâm Tế không bao giờ
ngộ được. Nhờ ngài Đại Ngu nhấn mạnh câu "có lỗi không lỗi" ngài Lâm Tế
ngay đó liền bừng ngộ. Tại sao vậy? Vì vừa dấy niệm "có lỗi không lỗi" là
đã sai đại ý Phật pháp rồi, cho nên bị ăn đòn. Bị ăn đòn mà không được trả
lời, dồn người hỏi đến chỗ bế tắc, đau đớn cùng tột, đến khi được khai mở
thì nhớ đời đời không quên. Đó là tâm lão bà thống thiết của người xưa. Vị
thầy phải biết căn cơ của người học trò, có đủ khả năng chịu đựng sức dồn
ép đến chỗ tột cùng không, nhờ người bạn đồng hành khai thông để dẫn đến
chỗ ngộ đạo.
Đến câu chuyện của ông Tú tài Trương
Chuyết hỏi đạo ngài Thạch Sương Khánh Chư (806-888). Thiền sư Thạch Sương
hỏi: "Ông tên gì?" Ông Tú tài đáp: "Dạ con tên Trương Chuyết." Thiền sư
bảo: "Trong đây cái xảo (khéo) còn không có, huống là cái chuyết (vụng)."
Ông chợt tỉnh ngộ, làm bài kệ như sau:
Quang minh tịch chiếu biến hà
sa
Phàm thánh hàm linh cộng ngã
gia
Nhất niệm bất sanh toàn thể
hiện
Lục căn tài động bị vân già.
Phá trừ phiền não trùng tăng
bệnh
Thú hướng chân như tổng thị tà
Tùy thuận chúng duyên vô quái
ngại
Niết-bàn sanh tử đẳng không
hoa.
Sáng soi lặng lẽ khắp hà sa
Phàm thánh hàm linh chung một
nhà
Một niệm chẳng sanh toàn thể
hiện
Sáu căn vừa động bị che lòa
Muốn trừ phiền não càng thêm
bệnh
Hướng đến chân như thảy đều tà
Tùy thuận các duyên không quái
ngại
Niết-bàn sanh tử thảy không
hoa.
Nghĩa là: Ánh sáng lặng lẽ chiếu soi khắp
hết. Phàm thánh và tất cả chúng hàm linh đều ở trong nhà của ta, tức là
nhà của Phật Đa Bảo. Một niệm không dấy lên thì cái quang minh tịch chiếu
hiện rõ ràng. Sáu căn vừa dấy động, thấy cảnh dấy niệm phân biệt, liền bị
che ngăn. Muốn trừ phiền não là thêm một lớp bệnh nữa, vì phiền não là
niệm dấy lên, nó là giả tướng hư ảo, tìm nó thì nó mất tăm mất dạng, biết
nó không thật thì trừ cái gì. Nếu cố tình trừ phiền não vì tưởng nó là
thật thì thêm một lớp bệnh. Nếu nhắm hướng về chân như thì đó là tà. Vừa
dấy niệm tìm chân như thì chân như ở ngoài mình rồi. Chân như là tâm thể
chân thật ngay nơi mình, chỉ cần đừng theo vọng tưởng thì chân như hiện.
Tìm chân như tức là quên cái thật nơi mình đi tìm cái giả, không phải tà
là gì? Chỉ có sống tùy thuận với mọi duyên thì không có gì ngăn trở. Sanh
tử và Niết-bàn cũng như hoa đốm giữa hư không, không có gì thật hết. Nếu
còn thấy hai bên là còn thấy tướng đối đãi, giả dối không thật.
Người tu hành phải biết rõ tất cả niệm
phân biệt hay dở, phải quấy v.v… đều là gốc của sanh tử. Cho nên khi sự
việc đến, tâm không dấy động, như gương soi ảnh, người tới thì hiện ảnh
người, vật tới hiện ảnh vật, người vật đi rồi gương vẫn trong sáng. Cũng
như tâm không dấy niệm thì không có gì chướng ngại. Đó là đạo vậy. Khi ấy
chúng ta mới nhận thấy rằng Niết-bàn sanh tử chỉ là một lối nói, còn nằm
trong đối đãi, chớ chưa phải đến chỗ cứu kính. Trong kinh Pháp Hoa đức
Phật nói "Những pháp Phật dạy hoặc Tam thừa hoặc Nhị thừa chẳng qua là hóa
thành, chớ không phải là bảo sở". Dù nói được Niết-bàn cũng là tạm thôi,
chưa phải là cứu kí?h. Cứu kí?h là không còn kẹt hai bên.
Sau đây là câu chuyện gia đình ông cư sĩ
Bàng Long Uẩn. Một hôm ngồi trong am, ông chợt nói: "Nan, nan, nan! Thập
thạch du ma thọ thượng than." (Khó, khó, khó! Mười tạ dầu mè vuốt trên
cây). Nghĩa là: Đem mười tạ dầu mè vuốt trên cây làm một việc hết sức khó,
dầu mè thì trơn mà muốn trèo lên cây vuốt hết mười tạ dầu mè là chuyện khó
vô cùng. Long bà đáp lại: "Dị dị dị, bách thảo đầu thượng Tổ sư ý." (Dễ dễ
dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư). Cô con gái tên Linh Chiếu đáp: "Dã bất nan
dã bất dị, cơ lai khiết phạn, khốn lai thùy." (Cũng chẳng khó cũng chẳng
dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò).
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy, trên
phương tiện công phu tu hành, ông Long Uẩn thấy thật là khó, vọng tưởng là
cái gốc của sanh tử luân hồi, mà nó khởi liên tiếp không ngừng, buông bỏ
hết vọng tưởng là một việc hết sức khó khăn. Nhưng nếu mình thấy rõ cái gì
cũng là ý Tổ sư thì không còn khó nữa. Ông bảo là khó, Bà nói là dễ, đó là
còn hai bên, cho nên cô con gái kết thúc lại: Cũng không khó, cũng không
dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. Để chỉ trong mọi hành động tâm thể đều
như, không đòi hỏi, không tính toán, tùy duyên hành động mà tâm không
loạn.
Thiền sư Huệ Hải cũng cùng một ý trên, khi
được hỏi: "Sự tu hành của Ngài như thế nào?" Sư bảo: "Đói thì ăn, mệt thì
ngủ." Người hỏi bảo: "Như vậy thì Ngài giống hệt như người thế gian. Người
thế gian cũng đói thì ăn, mệt thì ngủ, Ngài có gì hơn đâu?" Sư đáp: "Người
thế gian đói mà không chịu ăn, đòi trăm thứ, mệt mà không chịu ngủ, nghĩ
trăm việc, khác nhau ở chỗ đó." Có một số người không hiểu chỗ khác nhau
này, nên nói đói thì ăn nên tha hồ ăn, mệt thì ngủ nên tha hồ ngủ, bê tha
biếng nhác gọi đó là tu thiền, là lầm lẫn quá nặng.
Ông Bàng Long Uẩn lại có làm bài kệ:
Hữu nam bất thú
Hữu nữ bất giá
Đại gia đoàn biến đầu
Cộng thuyết vô sanh thoại.
Có con trai không cưới vợ
Có con gái không gả chồng
Cả nhà cùng đoàn tụ
Đồng nói lời vô sanh.
Như vậy trong nhà con trai con gái không
lập gia đình, không sanh con cái, cả nhà tụ họp lại nói lời vô sanh; vô
sanh trên hình thức và vô sanh trên tâm niệm. Cả gia đình ông Bàng Long
Uẩn đều được sanh tử tự tại, tự do, không có gì chướng ngại. Sở dĩ được
như vậy là do không kẹt ở hai bên, cho nên được chỗ vô sanh, nếu còn mắc
kẹt hai bên là còn ở chỗ sanh hóa.
Khi chúng ta ngồi thiền, vọng dấy lên thì
biết có vọng, vọng lắng thì biết không vọng. Như vậy vọng khởi vọng lặng
là khách, còn cái biết vọng thì thường hằng, là chủ. Chủ thì có mặt luôn
luôn. Hiện hữu rõ ràng, không sanh không diệt, không mắc kẹt ở hai bên có
không, còn mất v.v… Trong mọi phương pháp tu hành đức Phật đều nói có định
rồi mới có tuệ. Định là dừng vọng tưởng, vọng tưởng lặng rồi thì thể giác
sáng suốt của chính mình hiện bày, đó gọi là tuệ. Như vậy trăm ngàn pháp
môn Phật dạy đều gom về một mối, không có điều thứ hai, cứu kí?h không có
hai.
Hình ảnh chúng ta thường thấy trong các
chùa, ở phía sau nhà Tổ là hình Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Ngài quảy trên vai một
chiếc giày, tại sao như vậy? Vì đó là hình ảnh cụ thể của giáo lý Thiền
tông hay giáo lý Đại thừa. Quảy trên vai là tượng trưng cho sự gánh vác
đảm đang, một chiếc giày là vượt ngoài đối đãi. Thông thường giày có một
đôi là còn hai bên, quảy một chiếc là vượt qua cái hai bên đó, bỏ cái
tương đối đi đến chỗ không hai. Cho nên khả năng gánh vác của Tổ là đem
con người đến chân lý tuyệt đối, không còn kẹt hai bên, thoát ra ngoài
vòng đối đãi. Từ thủy chí chung, Phật, Tổ đều nói như nhau. Phải vượt qua
cái đối đãi mới đến cái chân thật cứu kính, đó là thoát ly sanh tử.
Để kết thúc buổi nói chuyện "Chỉ Ông Chủ"
hôm nay, chúng tôi xin kể một câu chuyện do chúng tôi vọng tưởng sau thời
gian nhập thất ba tháng để ví dụ: Có anh chàng trớ trêu nọ, để trước nhà
anh một bên là lọ mực đỏ một bên là lọ mực đen. Mỗi khi anh ra vào nhà,
anh phết lên mặt anh hoặc một vết mực đỏ hoặc một vết mực đen. Anh bôi mực
trên mặt hoài mà không chịu rửa mặt. Lâu ngày người ta nhìn vào mặt anh
thấy phân nửa đỏ phân nửa đen. Người ta gọi anh là chú mặt đỏ mặt đen và
quên tên thật của anh. Anh có một người bạn thân từ thuở nhỏ (lúc mười
hai, mười ba tuổi) đi xa về, người bạn gặp anh thì nhìn không ra, hỏi:
"Cái mặt chú mày sao lạ vậy?" Anh trả lời: "Cái mặt tôi như vầy, chớ có
chi lạ đâu." Người bạn nói: "Mặt của chú mày ngày xưa đâu có đỏ đen như
thế này." Anh nói: " Mặt của tôi đỏ đen như vậy chớ sao." Người bạn nói:
"Không phải vậy, tao chơi với chú mày lâu năm tao biết rõ, mặt thật của
chú mày hồi trước không phải đỏ và đen, đỏ và đen là tại chú mày bôi mực
vào đó. Bây giờ muốn có cái mặt thật như hồi xưa, chú mày đừng bôi mực vào
nữa, và chịu khó chùi rửa hết các vết mực đi, thì mới lộ được cái mặt thật
xưa nay của chú mày." Anh nghe có lý, từ đó không bôi mực vào mặt nữa, và
bắt đầu tẩy rửa các vết mực đi. Vì anh bôi mực vào mặt lâu ngày quá, nên
công phu tẩy rửa phải khó khăn nhọc nhằn. Nhưng ngày qua ngày, anh cố tình
tẩy rửa, màu đen đỏ nhạt dần, chỉ còn ửng ửng đỏ, thâm thâm đen. Anh rán
dùng mọi phương tiện rửa thật sạch hết các vết ửng thâm còn sót lại, cho
đến một hôm khi soi gương thì cái mặt thật của anh hiển bày.
Câu chuyện này kết thúc buổi nói chuyện
"Chỉ Ông Chủ" hôm nay của chúng tôi. Như thế là chúng tôi đã đưa quí vị từ
"Vào cổng nhà Thiền" bước "Vào cửa Không và "Chỉ Ông Chủ". Đây là trách
nhiệm và bổn phận của chúng tôi xong.