Mục Lục
Lời phi lộ
I) Có phương thức rõ ràng
II) Kim Cang Công Truyền: Không trụ vào đâu cả!
III) Chỉ thẳng Chân Tâm
IV) Giữ Chân Tâm
V)... Nên vọng niệm không sanh,Tâm ngã sở diệt
VI) Công phu dứt thức của Bồ Tát
VII) Niệm niệm không trụ
VIII) Nghe pháp, Kiến Tánh liền!
IX) Kiến Tánh là Thành
Phật
X) Kết: một hệ thống liền lạc
Lời phi lộ
Bài viết này rất quan trọng, vì diễn tả Pháp Thiền của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vị thiền sư vĩ đại.
Pháp Thiền của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vị thiền sư vĩ đại, là
như thế nào? _Hầu hết mọi người
đều biết rằng Ngũ Tổ dạy: thọ trì Kinh Kim Cang
thì có thể Kiến Tánh. Và hầu hết chỉ biết có thế.
Dĩ nhiên, không phải Ngũ Tổ chỉ dạy có
thế. Khi vừa được truyền ngôi Tổ, ngài đã dạy Kinh Kim Cang và không phải chỉ
dạy có một câu: thọ trì Kinh Kim Cang thì có thể Kiến Tánh. Dạy như thế thì
chán chết, làm sao có thể có hơn 1000 người lúc nào cũng tụ họp ở Đông Thiền
Tự?
Sách vở không ghi lại Ngũ Tổ thuyết pháp
ra sao. Chắc chắn là ngài biện tài vô ngại ; không thế thì sao các Phật tử nườm
nượp về Đông Thiền Tự ( và sau đó, về Đông Sơn) cầu pháp và Thiền Tông hưng
thịnh?
Sách vở không ghi lại ngay cả việc quan
trọng nhất: tại sao thọ trì Kinh Kim Cang thì có thể Kiến tánh. Chắc chắn là
Ngũ Tổ có giảng _mọi người đều hiểu và thấy không cần ghi lại. Việc này tôi đã
trả lời bằng bài luận:
"Không trụ vào đâu cả!
" thì Kiến Tánh tức thì!
Sự giảng dạy của Ngũ Tổ chỉ được ghi lại
khá sơ sài trong:
_Luận Tối Thượng Thừa
_vài lời dạy trong Kinh Pháp Bảo Đàn
_và lời Ngũ Tổ dạy: thọ trì Kinh Kim
Cang thì có thể Kiến Tánh.
Và xưa nay , chưa có ai khảo sát kỹ lời
dạy của ngài , để theo đó tu hành. Thật là một khuyết điểm lớn lao của đệ tử Thiền Tông! Thật lạ lùng! trong khi ngài là giáo
chủ của Đông Sơn Pháp Môn _và Đông Sơn Pháp Môn là tên xưa của Thiền Tông!
May thay, tôi thấy rằng ta có thể gom
lại những điều ghi lại sơ sài đó thành môt hệ thống liền lạc. Đúng như ý của
Ngũ Tổ: phương thức, phương thức,và phương thức!...
Cũng nên nhắc lại rằng , theo ý tôi,
Luận Tối Thượng Thừa được bắt đầu viết khi Ngũ Tổ còn là sa di. Và theo truyền thuyết,
Ngũ Tổ là thân sau của Tài Tòng Đạo Giả, mà vị này, theo ý tôi, thì đã Kiến
Tánh...
I) Có phương thức rõ ràng
Đặc
điểm của Ngũ Tổ: có phương thức rõ ràng! trong khi người ta thường nói Thiền Tông là Cửa Không
Cửa hay Cửa Ải Không Cửa.
Thực ra, từ ngày Ngũ Tổ được truyền ngôi Tổ, thì cửa Ải Thiền tông đã có cửa.
Không phải chỉ một cửa mà có nhiều cửa.
Đó là đề tài bài viết này.
II) Kim Cang Công Truyền:
Không trụ vào đâu cả!
Ngay
sau khi được truyền y bát, Ngũ Tổ đã dạy pháp
Kim Cang Công Truyền: dạy mọi người dùng Kinh
Kim Cang để Kiến Tánh.
Xem bài viết
Kim Cang Công Truyền và thời kỳ hưng thịnh của Thiền Tông
Như tôi đã viết nhiều lần, đại ý của Kinh Kim Cang là
- Không trụ vào đâu cả!
Chúng ta được biết đến ‘tuyệt chiêu’ này của Thiền Tông là nhờ Ngũ
Tổ.
Xem bài viết
"Không trụ vào đâu cả! " thì
Kiến Tánh tức thì!
III) Chỉ thẳng Chân Tâm
Việc đầu tiên của Luận Tối Thượng Thừa của Ngũ Tổ là để Chỉ
thẳng Chân Tâm.
Trích Luận Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ:
{{ Phàm người tu cần
phải biết bản thể, chính nơi thân tâm nầy xưa nay thanh tịnh, không sanh không
diệt, không có phân biệt, tâm tự tánh thanh tịnh viên mãn là bổn sư, vượt hơn
niệm mười phương chư Phật.
Hỏi:
Làm sao biết tâm mình xưa nay thanh tịnh?
Đáp:Kinh
Thập Địa nói: "Trong thân chúng sanh có Phật tánh Kim cang, ví như mặt
trời tròn đầy sáng suốt không ngăn ngại. Chỉ vì bị mây đen ngũ ấm che đậy, như
ngọn đèn để trong bình, ánh sáng không thể chiếu soi. Thí như thế gian tám
hướng mây mù đều dậy, khắp nơi đều tối tăm. Mặt trời đâu có tan hoại, tại sao
không có ánh sáng? Ánh sáng nguyên không hoại, vì bị mây mù che. Tâm thanh tịnh
của tất cả chúng sanh cũng như thế. Chỉ vì bị mây đen vin theo vọng niệm phiền
não và các kiến chấp che đậy. Nếu hay giữ tâm lắng lặng, vọng niệm không sanh
thì pháp niết bàn tự nhiên hiển hiện".
Cho
nên biết, Tâm mình xưa nay thanh tịnh.
Hỏi:
Làm sao biết Tâm mình xưa nay không sanh diệt?
Đáp:
Kinh Duy Ma nói: "Như không có sanh, Như không có diệt". Như là Chơn
như Phật tánh tự tánh thanh tịnh. Thanh tịnh là nguồn của tâm. Chơn như vốn
không từ duyên sanh. Lại nói: "Tất cả chúng sanh đều Như, các hiền thánh
cũng Như".
Tất
cả chúng sanh là chúng ta vậy. Các hiền thánh tức là chư Phật vậy. Danh tướng
tuy khác, chơn như pháp tánh nơi thân đều đồng. Không sanh không diệt nên nói
đều "Như".
Thế
là, biết Tâm mình xưa nay không sanh không diệt. }}
IV) Giữ Chân Tâm
Liền sau khi Chỉ thẳng Chân Tâm , trong Luận Tối Thượng Thừa
, Ngũ Tổ dạy chúng ta phải Giữ Chân Tâm.
Trích Luận Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ:
Hỏi:
Sao gọi Tâm mình là bổn sư?
Đáp:
Chơn tâm nầy sẳn có, không từ ngoài đến, không ràng buộc trong ba đời (quá khứ,
hiện tại, vị lai). Chổ chí thân không gì hơn tự giữ Tâm nầy. Nếu người biết
tâm, giữ tâm ắt đến bờ kia. Người mê tâm, bỏ tâm thì đọa tam đồ (địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh). Chư Phật ba đời đều lấy tâm làm bổn sư. Luận nói: "Rõ
ràng giữ tâm thì vọng niệm không khởi, tức là vô sanh".
Cho
nên biết Tâm là bổn sư.
Hỏi:
Sao nói Tâm mình vượt hơn niệm các đức Phật?
Đáp:
Thường niệm các đức Phật chẳng khỏi sanh tử, giữ bổn tâm mình thì đến bờ kia.
Kinh Kim Cang nói: "Nếu do sắc thấy ta, do âm thanh cầu ta, người ấy hành
đạo tà, không thể thấy Như Lai".
Cho
nên nói "giữ chơn tâm nầy vượt hơn niệm các đức Phật".
Vượt
hơn chỉ là lời nói nhằm vào sự tu hành và khuyên người, kỳ thật quả thể cứu
cánh không hai.
Hỏi:
Chúng sanh cùng Phật về chơn thể đã đồng, tại sao chư Phật không sanh không
diệt, thọ vô lượng khoái lạc tự tại không ngại, chúng sanh chúng ta đọa trong
sanh tử chịu các thứ khổ?
Đáp:
Chư Phật mười phương ngộ đạt pháp tánh, đều tự nhiên chiếu sáng nơi nguồn tâm,
vọng tưởng không sanh, chánh niệm không mất, tâm ngã sở diệt, nên được không
thọ sanh tử. Không sanh tử nên rốt ráo vắng lặng, cho nên muôn cái vui đầy đủ.
Tất cả chúng sanh mê chơn tánh, không biết gốc tâm, các thứ vọng duyên, không
tu chánh niệm, nên tâm yêu ghét dấy khởi. Do yêu ghét nên hồ tâm bị bể chảy; hồ
tâm bị bể chảy nên có sanh tử, có sanh tử thì các khổ đều hiện. Kinh Tâm Vương
nói: "Chơn như Phật tánh lặn trong biển sáu thức thấy biết, chìm đắm sanh
tử không được giải thoát".
Cố
gắng lãnh hội chỗ ấy, giữ chơn tâm thì vọng niệm không sanh, tâm ngã sở diệt,
tự nhiên cùng Phật bình đẳng không hai.
Hỏi:
Chơn như pháp tánh đồng một không hai, nếu mê lẽ ra đồng mê, ngộ lẽ ra đồng
ngộ, tại sao Phật giác ngộ bản tánh, chúng sanh thì mờ tối, nhơn đâu như vậy?
Đáp:
Từ đây về trước là vào phần bất tư nghì (không nghĩ bàn), không phải chỗ phàm
phu đến. Biết tâm nên ngộ, quên tánh nên mê, duyên hợp liền hợp, nói không
thể định, chỉ tin quả quyết gìn giữ tâm mình. Kinh Duy Ma nói: "Không
tự tánh, không tha tánh, pháp xưa không sanh, nay cũng không diệt, ngộ pháp nầy
liền lìa hai bên vào trí vô phân biệt". Nếu người hiểu được nghĩa nầy, chỉ
khi tu biết được pháp yếu giữ tâm là bậc nhất. }}
Ngũ Tổ dạy phải Giữ Chân Tâm.
Tất có người phản đối: Chân Tâm nếu chưa chứng,chưa có được
thì làm sao mà Giữ Chân Tâm?
Ngày xưa, Đức Phật có dùng một chữ tương tợ, đó là: bảo tồn
Chân Lý (Pháp Trích Lục, Những Nguyên Tố). Trong trường hợp này, Phật dạy bảo
tồn Chân Lý cho những người chưa đắc Chân Lý ; chẳng có ai
thấy đó là mâu thuẫn...
Vậy thì, ta có thể hiểu Giữ Chân Tâm là như sau:
1) Hành giả tu thiền phải hiểu, biết, tin nhận Chân Tâm.
2) Sau đó, Hành giả tu thiền phải giữ gìn cái hiểu, biết, tin
nhận Chân Tâm đó.
3) Hành giả tu thiền phải cư xử cho hợp với Chân Tâm, hằng
ghi nhớ Chân Tâm:
- Chân Tâm thanh tịnh
- Chân Tâm không sinh không diệt
- Chân Tâm sẵn có trong tâm ta, trong mỗi chúng sinh
V)... Nên vọng niệm không sanh,Tâm ngã
sở diệt
Điều kiện cần thiết để tu thiền Thiền Tông là phải hiểu,
biết, tin nhận Chân Tâm.( Nếu ta không tin có Chân Tâm thì theo Thiền
Tông làm gì?).
Điều lý thú ở đây là: Ngũ Tổ nói Giữ Chân Tâm... nên vọng
niệm không sanh,Tâm ngã sở diệt.
Có thể như vậy chăng?
- Tôi nghĩ rằng chắc chắn là như vậy!
Bởi lẽ nếu chúng ta hằng Giữ Chân Tâm (giữ gìn cái hiểu,
biết, tin nhận Chân Tâm; hằng ghi nhớ Chân Tâm ) thì ta đâu thèm để ý đến, chấp
nhất cái Vọng Tâm điên đảo của ta, của thế nhân mà ta chung đụng hằng ngày?.
Tức là,
Ta
lấy cái Tình rộng lớn diệt Tình nhỏ nhít
Như tôi có viết, trong bài thơ Đổi Tâm:
Như tình nhân phải đổi thôi (!),
Tâm sầu rơi rụng, sáng soi Tâm Từ!
Tình yêu rộng lớn như như ,
Đổi thay nhỏ nhít tình tư thế tình!
Đại Tình dần dần sẽ diệt được Tiểu Tình
Đại Tình diệt thất tình!
Xem bài:
Thánh Nhân không có tình , chỉ có... Đại Tình!
Chú Thích:
"Tâm ngã sở diệt", theo ý tôi, xuất phát từ Kinh
Kim Cang: Không còn Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sinh tướng, Thọ giả
tướng.
VI) Công phu dứt thức của Bồ Tát
Tri = biết ; Thức = nhận biết.
Ngũ Tổ dạy phải quán thức: ngồi quán sự nhận biết của ta, mỗi
nhận biết đều quán, rồi sau đó...
Ngũ Tổ gọi đó là Công phu dứt thức của Bồ Tát. Đây là phương
thức số 2 của Luận Tối Thượng Thừa.
Đây là một cách quán tâm. Quán tâm là pháp mà Tổ Đạt Ma bảo
là cực kỳ khẩn yếu.
Trích Luận Tối Thượng Thừa:
{{ Đáp:
Hội thì lòng tin đầy đủ, chí nguyện thành tựu, tâm an ổn yên lặng. Nếu chưa
hội, lại một lần nữa dạy ông khéo tự thân tâm yên lặng; tất cả không duyên theo
cái gì, ngồi ngay thẳng chánh niệm, khéo điều hòa hơi thở, xét lại tâm nầy
không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa, an ổn như như. Quán được yên
lặng thuần thục thì thấy rõ dòng tâm thức nầy trôi chảy như giòng nước, sóng
nắng liên tục chẳng dừng. Khi thấy thức nầy chỉ là không ở trong, không ở
ngoài, an ổn như như, quán được yên lặng thuần thục thì xoay lại tiêu dung lóng
đứng rỗng lặng, thức trôi chảy nầy nhẹ nhàng tự diệt. Diệt được thức nầy rồi là
diệt được cái chướng hoặc trong chúng Bồ tát bậc Thập địa. Thức nầy diệt được
rồi tâm kia liền lóng lặng trong sạch sáng sủa an lành, tôi không thể nói hết
hình trạng của nó. Ông muốn biết rõ lấy Kinh Niết Bàn trong quyển thứ ba phẩm
Kim Cang Thân và Kinh Duy Ma quyển thứ ba phẩm Kiến A Súc Phật, tâm chín chắn
thong thả xem xét thật kỹ sẽ thấy... }}
VII) Niệm niệm không trụ
Như tôi đã viết nhiều lần, đại ý của Kinh Kim Cang là
- Không trụ vào đâu cả!
Chúng ta được biết đến ‘tuyệt chiêu’ này của Thiền Tông là nhờ Ngũ
Tổ.
Yếu chỉ thứ nhì của Thiền Tông là "niệm niệm
không trụ". Đây cũng là đệ nhị tuyệt chiêu
của Thiền Tông.
Yếu chỉ này là phương thức số 1 của Luận Tối Thượng Thừa của
Ngũ Tổ.
Xem bài:
Ngũ Tổ và Luc Tổ: niệm niệm không trụ!
(Yếu chỉ thiền tông và giải quyết vấn đề vô niệm)
VIII) Nghe pháp , Kiến Tánh liền!
Ngũ Tổ xác định tính cách Đốn Ngộ của Thiền Tông: Nghe pháp ,
Kiến Tánh liền!
Hãy đọc lời Ngũ Tổ:
{{Phàm người thấy tánh,
khi nghe pháp rồi thì phải thấy liền.}}
{{ Ngũ Tổ nói (với Thần
Tú): Ông làm bài kệ ấy, tỏ ra chưa thấy bổn tánh. Ông mới tới ngoài thềm cửa,
chưa vào trong nhà. Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà tìm đạo Vô Thượng Bồ Đề thì rõ
ràng không thể được. Theo đạo Vô Thượng Bồ Đề, hễ khi nghe nói pháp rồi,
liền phải biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh của mình. Tâm của mình chẳng sanh
chẳng diệt, trong cả thảy thời gian, niệm niệm mình thấy tánh. Đối với muôn
pháp, tâm mình suốt thông, không ngưng trệ. Một pháp, mình thấy hiểu chơn
tướng. Cả thảy các pháp, mình đều hiểu thấu chơn tướng. Đối với muôn cảnh, tâm
mình như như. Tâm như như tức là tâm chơn thật. Thấy như thế, tức là thấy Vô
Thượng Bồ Đề của mình.}}
IX) Kiến Tánh là Thành Phật
Ngũ Tổ khẳng định Kiến Tánh
là Thành Phật:
{{ Cả thảy các pháp, mình
đều hiểu thấu chơn tướng. Đối với muôn cảnh, tâm mình như như. Tâm như như tức
là tâm chơn thật. Thấy như thế, tức là thấy Vô Thượng Bồ Đề của mình.}}
Thấy
Vô Thượng Bồ Đề của mình là Thành Phật
Ngũ Tổ còn khẳng định rõ
ràng hơn nữa, trong Luận Tối Thượng Thừa:
{{ Người nghe cố gắng sau
nầy sẽ thành Phật, nguyện hiện tiền độ môn đồ của tôi.
Nếu có người y văn tu hành thì hiện đời thành Phật. Nếu
tôi nói dối ông thì đời sau sẽ đọa trong mười tám địa ngục, chỉ trời đất mà thề
vậy}}
X) Kết: một hệ thống liền lạc
Có thể nói Ngũ Tổ là một nhà toán học lỗi lạc: luôn luôn tìm
phương thức! Và đã tìm ra.
Pháp thiền của ngài có thể xếp đặt lại thành một hệ thống liền lạc.
Này
nhé:
1) Hành giả tu thiền phải hiểu, biết, tin nhận Chân Tâm.
2) Sau đó, Hành giả tu thiền phải giữ Chân Tâm.
Hành giả tu thiền phải cư xử cho hợp với Chân Tâm, hằng ghi
nhớ Chân Tâm
3) nên vọng niệm không sanh,tâm ngã sở diệt.
( Như vậy, đã ở trình độ khá)
4) Nhưng chưa đủ, cần
Kiến Tánh. Vì Kiến Tánh là Thành Phật.
5) Muốn Kiến Tánh
Thành Phật thì luyện Kinh Kim Cang.
Cụ thể là: "Không trụ vào đâu cả! "
6) Cũng có thể dùng pháp "niệm niệm không trụ"
thay thế cho pháp "Không trụ vào đâu cả!"
7) Pháp "niệm niệm
không trụ" này còn giải quyết được vấn đề
Vô Niệm
8) Nếu không tập được hai pháp trên thì có thể tập "Công
phu dứt thức của Bồ Tát"
Ngài xác định:
a) Tu hành như vậy thì sẽ thành Phật!
Dĩ nhiên, nếu tâm ta không làm nổi việc "Không trụ vào
đâu cả!" thì đó không phải là lỗi của Ngũ Tổ
b)
Ta có thể tự tu tự chứng
c) Tính cách Đốn Ngộ của Thiền Tông.
Đặc
tính này không mâu thuẫn với hệ thống phương thức ở trên vì:
- Tu
hành bao giờ cũng là tiệm tu
- Sự
Kiến tánh bao giờ cũng là Đốn Ngộ
Trước
Ngũ Tổ, chưa có vị Thiền-sư nào đưa ra những phương thức rõ ràng như vậy.
Sau
Ngũ Tổ, cũng chẳng có ai!
Mấy
trăm năm nay, Thiền Tông có phương thức Khán Thoại Đầu; nhưng phương thức này
nhiêu khê và không có nguyên lý vững chắc (mãi đến cách đây mấy mươi năm, mới
có thiền-sư Nguyệt Khê giải thích được tại sao:
Khán Thoại Đầu = = > Kiến Tánh)
Ngoài
ra, không phải Ngũ Tổ chỉ đưa ra phương thức Kiến Tánh , mà cả hệ thống tu hành
Thiền Tông.
Vào thời Ngũ Tổ,
Thiền Tông là thiền của Ngũ Tổ.
Bây
giờ ta cũng có thể nói rằng 80% thiền Thiền Tông là thiền của Ngũ Tổ.
Ngày
nay, nghiên cứu và tu học những phương thức Ngũ Tổ là điều khẩn yếu!
Chính
vì thế mà khi xưa, Tài Tòng Đạo Giả gặp
Tứ Tổ , Tổ đã bảo Tài Tòng Đạo Giả đi đầu
thai để nhận ngôi Tổ...
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh:
Kinh Đại Bát
Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim
Cang Kinh Luận
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Kim
Cang, dịch giả Đoàn Trung Còn
Kinh Kim
Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Kim
Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải: Thích Huyền Vi
Kinh Kim
Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Pháp Trích
Lục, Huỳnh văn Niệm trích lục.
Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa
Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Luận Tối
Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch giả Thích Thanh Từ
Kinh Pháp
Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Kinh Pháp
Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng
Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm
Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội nguồn
truyền thừa và phương pháp tu trì của thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc
Hiền
Chơn tâm
trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ
Lục
Thiền Đốn
Ngộ, nhiều tác giả: Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền
Luận, Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách:
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền Sư
Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ Thiền
Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị Truyện, Hạnh Huệ biên dịch