Thiền học
Truyền Tâm Pháp yếu
H.T THÍCH THANH TỪ
07/06/2556 16:57 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Truyền Tâm Pháp yếu
Mục lục

m được không mau. Thuộc chữ “ly” dễ quá, nhưng hành được chữ “ly” thật khó. Nếu nói ở miệng thì chưa thuộc, như mấy con sáo bắt chước người nói vậy thôi, chớ không có giá trị. Chừng nào nói ly thì tất cả đều ly, ai chửi cũng ly, khen cũng ly, lúc nào cũng ly hết. Đó là chuyện hết sức dễ mà cũng hết sức khó.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm phu chấp cảnh, đạo nhân chấp tâm. Tâm cảnh cả hai đều quên mới là chân pháp.

 

GIẢNG:

 

Phàm phu chấp cảnh, cứ chạy theo cảnh này đẹp, cảnh kia xấu, cảnh này bền chắc, cảnh kia tạm bợ v.v…

Đạo nhân chấp tâm. Chấp tâm là sao? Người tu phần nhiều hay chấp tâm. Biết cảnh ở ngoài hư giả, nhưng cho tâm nghĩ thiện, nghĩ ác, tâm đang trì chú, đang tụng kinh, đó là tâm chân thật. Một bên chấp cảnh, một bên chấp tâm, hai bên chấp có khác nhưng đều là chấp hết. Muốn trị chữ “chấp” thì dùng chữ “ly”. Ly thì không chấp cảnh, không chấp tâm nên không phải phàm phu, không phải đạo nhân. Không phải phàm phu, không phải đạo nhân thì là gì? Là Phật. Chỉ một chữ ly thôi, hết sức đơn giản. Bởi vậy nên Tâm cảnh cả hai đều quên mới là chân pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Quên cảnh vẫn dễ, quên tâm rất khó.

 

GIẢNG:

 

Cảnh ở ngoài chúng ta bỏ dễ hơn là tâm. Cái tâm cho là sáng suốt, tâm hiểu đúng v.v… bỏ thật là khó.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người không dám quên tâm, sợ rơi vào chỗ không, không sờ mó đến.

 

GIẢNG:

 

Có người tu sợ buông hết không còn gì nên không dám bỏ tâm. Lúc nào cũng giữ tâm của mình đang biết, đang thấy, đang nghe, đang nghĩ v.v… cho đó là tâm thật. Tổ bảo người này không biết quên tâm.

 

CHÁNH VĂN:

 

Không biết không vốn chẳng không, chỉ một chân pháp giới.

 

GIẢNG:

 

Chúng ta không biết rằng cái không ấy vốn chẳng phải không. Tại sao? Vì nó là chân pháp giới, tức pháp giới chân thật, là chỗ không chấp tâm không chấp cảnh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tánh linh giác này từ vô thủy đến nay tuổi đồng với hư không, chưa từng sanh, chưa từng diệt, chưa từng có, chưa từng không, chưa từng uế, chưa từng tịnh, chưa từng ồn náo, chưa từng vắng lặng, chưa từng bé, chưa từng già, không chỗ nơi, không trong ngoài, không số lượng, không hình tướng, không sắc tượng, không âm thanh, không thể tìm, không thể cầu, không thể dùng trí tuệ mà biết, không thể dùng ngôn ngữ mà nhận, không thể dùng cảnh vật mà hội, không thể dùng dụng công mà đến.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này Ngài chỉ tâm chân thật của chính mình. Tâm chân thật chính là tánh linh giác của mình từ vô thủy tới giờ, tuổi nó đồng với tuổi hư không. Hư không bao nhiêu tuổi? Hư không không có tuổi. Tại sao? Hư không là hư không, nó không có ngày đêm, không năm tháng nên không có tuổi. Ngày đêm năm tháng, đặt thành thời gian là căn cứ trên vòng quay của trái đất, hư không có quay không? Hư không không quay, không quay làm sao có năm tháng, không có năm tháng làm sao có tuổi.

Tánh linh giác cũng không có tuổi. Tại sao? Vì tánh linh giác không phải là cái sanh cái diệt. Sanh diệt là nghiệp tướng của chúng sanh, chớ tánh giác không sanh không diệt. Quí vị tự nghiệm lại sẽ thấy rõ, cái hằng tri giác của mình chưa từng dấy niệm. Khi chúng ta dấy niệm tức là chạy theo niệm sanh diệt, tạo nghiệp lành dữ, tái sanh vào chỗ lành dữ. Nghiệp lôi kéo tánh linh giác cùng đi vào chỗ tốt, chỗ xấu. Khi sanh ra rồi, tùy nơi đặt thời gian không gian, chớ tánh linh giác chưa từng sanh chưa từng diệt, làm sao có tuổi, làm sao già chết, làm sao có sắc tượng. Tánh linh giác bất sanh bất diệt nên là Niết-bàn vô sanh.

Thân sanh diệt tạm bợ mấy chục năm, người đời quí trọng vui tươi khi nó còn khỏe, chớ nó sắp hoại diệt thì khổ. Thân hoại đi nhưng tánh linh giác không hoại. Đức Phật chỉ cho chúng sanh nhận ra mình có tánh linh giác để thoát ly sanh tử. Nếu đứng trên tánh giác nhìn lại thân này, chẳng khác nào một con phù du trên mặt nước, mới chạy lăng xăng đó liền chết. Trong kinh Phật hay trong lời các Tổ thường ví dụ tánh giác có sẵn nơi chúng ta như hoa sen trong lò lửa. Lửa cháy hừng hực mà nó vẫn tươi, không vì lửa mà bị tàn hoại. Đó là chỉ cho ngay nơi thân tâm vô thường này, tánh giác vẫn sẵn đó không gì làm hoại, không gì chi phối được nó.

Thường chúng ta không nhận tánh giác, mà chỉ nhận thân tâm lăng xăng thiện ác, chạy theo nó để tạo nghiệp sanh tử. Chừng nào không chấp thân này là lìa ngã, không chạy theo niệm sanh diệt là lìa tâm vọng tưởng. Lìa hai thứ chấp đó là trở về tánh thật. Ngược lại cứ chạy đuổi theo hai thứ ấy thì bảo đảm chúng ta sẽ sanh tử liên miên. Thế nên đức Phật thương chúng sanh, nói pháp suốt bốn mươi chín năm không chán, Ngài thấy mình mê muội quá mới ráng nói cho biết, vậy mà cho tới bây giờ chúng ta vẫn chưa biết hết, chỉ biết chút chút thôi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chư Phật, Bồ-tát cùng tất cả hàm linh xuẩn động đồng tánh đại Niết-bàn này. Tánh tức là tâm, tâm tức là Phật, Phật tức là pháp.

 

GIẢNG:

 

Mấy chữ “tức” này thật là khó. Tánh tức là tâm, tại sao tánh tức là tâm? Tánh nói đủ là tánh giác. Giác tức là biết, biết tức là tâm. Cho nên tánh tức là tâm. Tâm tức là Phật. Cái biết giác đó là Phật nên tâm tức là Phật. Phật tức là pháp, tánh giác đó là pháp chân thật trùm khắp cả pháp giới, chớ không phải không ngơ, nên Phật tức là pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Một niệm lìa chân đều là vọng tưởng.

 

GIẢNG:

 

Niệm lìa chân là niệm gì? Như chúng ta đang ngồi an tịnh, không nghĩ không suy lúc đó là chân. Vừa dấy niệm nghĩ cái gì đó là niệm lìa chân. Chúng ta tu để cầu chân, mà luôn luôn khởi niệm lìa chân. Vì chân là phẳng lặng mà dấy lên là động rồi, tức lìa cái chân thật. Cho nên Ngài nói “một niệm lìa chân đều là vọng tưởng”, người tu phải chiếu soi vọng tưởng cho nó lặng xuống, trở về thể chân thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Không thể đem tâm lại tìm tâm, không thể đem Phật lại cầu Phật, không thể đem pháp lại cầu pháp.

 

GIẢNG:

 

Chúng ta phải hiểu Phật là tánh giác sẵn của mình nên không thể khởi niệm hiểu biết, cũng không thể khởi đi cầu Phật vì chính tâm lặng lẽ hằng giác hằng tri là Phật. Không thể đem pháp cầu pháp. Như vậy tâm, Phật, pháp là cái không thể cầu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo thẳng đó vô tâm, thầm khế hội mà thôi.

 

GIẢNG:

 

Người học đạo khôn ngoan, thấu hiểu ngay đó đừng dấy niệm khởi nghĩ là vô tâm. Vô tâm thì khế hội được tánh linh giác. Nếu có tâm nghĩ suy, có tâm tìm kiếm là mất tánh linh giác, rõ ràng như vậy. Như chúng ta muốn nhìn thấy mặt nước hồ phẳng thì cứ yên lặng nhìn nó, chớ lấy cục đá dội xuống để tìm mặt hồ phẳng lặng thì mặt hồ phẳng mất ngay.

Chúng ta đang là Phật, khởi niệm cầu Phật thì mất Phật rồi. Tâm đang phẳng lặng sáng suốt là Phật, bây giờ chúng ta dấy niệm cầu Phật, chẳng khác nào ôm đá quăng xuống mặt hồ phẳng để thấy mặt hồ phẳng. Thấy được không? Đó là lầm lẫn của chúng sanh nhiều đời. Vì vậy Tổ nói: Người học đạo thẳng đó vô tâm, thầm khế hội mà thôi. Ngay đó buông tất cả niệm thì tự khế hội, chớ không có gì lạ.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nghĩ tâm tức là sai, lấy tâm truyền tâm đây là chánh kiến.

 

GIẢNG:

 

Lấy tâm mà khởi nghĩ về tâm đã là sai. Lấy tâm truyền tâm là chánh kiến. Vì sao lấy tâm truyền tâm là chánh kiến? Vì tâm người truyền và tâm người được truyền đều thanh tịnh. Hai bên thông cảm nhau nên nói lấy tâm truyền tâm. Như Tổ Huệ Khả trình với Tổ Đạt-ma: “Bạch Hoà thượng, con dứt hết các duyên.” Tổ Đạt-ma bảo: “Coi chừng rơi vào không.” Tổ Huệ Khả thưa: “Rõ ràng thường biết, làm sao không được.” Tổ Đạt-ma bảo: “Ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế.” Đó là lấy tâm truyền tâm. “Ông như thế” là tâm ông không còn dính các duyên, rõ ràng thường biết. Ta cũng thế, tâm Phật cũng thế. Truyền như vậy mới là chánh kiến, chớ nói truyền tâm ấn bằng cách làm phép gì đó để truyền tâm là trật lất, xa lắm rồi, không phải lẽ thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Dè dặt chớ hướng ra ngoài, chạy theo cảnh, nhận cảnh làm tâm là nhận giặc làm con. Vì có tham, sân, si nên lập giới, định, tuệ. Vốn không có phiền não thì đâu có Bồ-đề. Cho nên Tổ sư nói: “Phật nói tất cả pháp vì trừ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp.”

 

GIẢNG:

 

Ngài dạy chúng ta đừng chạy ra ngoài tìm cầu, nhận cảnh làm tâm là nhận giặc làm con. Nếu thấy cảnh rồi cho cảnh này đẹp, cảnh kia tốt v.v… để khen chê, là tâm đang duyên theo cảnh, đó là nhận giặc làm con.

Tại sao Phật nói giới, định, tuệ? Vì chúng sanh có tham sân si nên Phật nói giới định tuệ. Nếu chúng sanh hết tham sân si thì cần giữ giới, cần thiền định trí tuệ nữa không? Hết tham sân si thì khỏi gì cả. Người nào tham sân si nhiều giữ giới phải nhiều, người nào tham sân si ít giữ giới ít, người nào hết tham sân si thì khỏi giữ giới. Giới định tuệ là để kềm tâm, bây giờ tâm lặng rồi còn gì nữa mà kềm, thì giới định tuệ cũng không dùng. Cho nên ở đây Ngài dẫn lời vốn không có phiền não thì đâu có Bồ-đề. Phiền não là mê lầm khổ sở, còn Bồ-đề là giác ngộ thanh tịnh. Có giác ngộ thanh tịnh vì có mê lầm đau khổ, nếu hết mê lầm đau khổ thì cũng không nói đến giác ngộ thanh tịnh làm gì.

Lục Tổ nói: Phật nói tất cả pháp vì trừ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp. Mới nghe dường như Tổ không cần tới giáo lý, như vậy có ngã mạn không? Không. Vì như bác sĩ tới khám bệnh, những người bệnh thấy mừng vì họ cần xem bệnh xin thuốc. Còn người không bệnh, khi bác sĩ tới, nói “tôi không cần”. Nói không cần chẳng qua vì không bệnh chớ không phải xem thường bác sĩ, vì vậy không có lỗi. Bác sĩ có giá trị đối với người bệnh. Cũng vậy, pháp của Phật có giá trị đối với người còn phiền não. Nếu hết phiền não thì pháp của Phật cũng để dành đó, chớ đâu dùng làm gì. Người nào nhiều tâm vọng tưởng, Phật lấy pháp để trị, Tổ không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp, điều này rõ ràng như vậy, chớ Tổ không có ngã mạn.

Chúng ta bây giờ còn tâm lăng xăng nhiều quá nên phải học pháp nhiều, chừng nào tâm lặng hết thì khỏi học, khỏi ngồi thiền luôn. Nếu không được thế thì thôi chịu khó ngồi thiền, học pháp lâu ngày sẽ thấm. Bởi vì giáo lý là phương tiện trị tâm bệnh cho chúng sanh. Người ta chế thuốc là vì người bệnh chớ không vì người mạnh. Chúng ta còn bệnh buộc lòng phải uống thuốc. Lúc nào hết bệnh thì thuốc cũng bằng thừa. Chỉ có giáo lý Phật mới dám nói một cách quả quyết rằng giáo lý giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Khi chưa thấy mặt trăng thì cần ngón tay, nương đó để thấy mặt trăng. Khi thấy mặt trăng rồi thì ngón tay thừa. Như muốn qua bên bờ kia chúng ta dùng chiếc bè đưa qua sông. Tới bờ kia rồi thì chiếc bè trôi đâu mặc nó, không quan trọng nữa. Nên hiểu pháp Phật là phương tiện, chớ không phải chân lý, không bao giờ bỏ được.

Người học đạo thấy được gốc rồi, sự tu không khó khăn, chỉ cần bền chí. Bền chí gánh đất, nhổ cỏ hay bền chí làm gì? Bền chí thường tỉnh đừng mê, đừng quên. Thường tỉnh đừng chạy theo các vọng niệm, đó là chúng ta thành công.

 

CHÁNH VĂN:

 

Trên bản nguyên thanh tịnh Phật lại không để một vật. Ví như hư không, dù lấy trân bảo vô lượng để trang nghiêm, trọn không thể được. Phật tánh đồng hư không, dù lấy công đức trí tuệ vô lượng để trang nghiêm, trọn không thể được. Chỉ mê bản tánh bèn không thấy vậy.

 

GIẢNG:

 

Bản nguyên thanh tịnh của chính mình là Phật, nên không để một thứ gì trên đó hết. Nói trang nghiêm tịnh độ hay trang nghiêm tự tâm là trang nghiêm tâm nào? Nếu trang nghiêm thì trang nghiêm tâm sanh diệt thôi, chớ tâm bản nguyên không có gì để trang nghiêm, vì nó không thiếu, không dư làm sao trang nghiêm? Chỉ trên tự tâm biết rõ, không thêm gì hết thì đúng, nếu còn để một vật gì là còn mê. Cho nên ở đây nói chỉ mê bản tánh bèn không thấy vậy.

Chỗ này có tu mới thấy vui. Khi nào chúng ta ngồi thiền tỉnh táo lặng lẽ, tâm không vướng bên này không mắc bên kia, gương mặt tươi tỉnh, tự mình cũng thấy vui. Còn vướng còn mắc thì có buồn vui lẫn lộn. Người sống không vướng mắc sẽ tự vui, bởi vì tâm thanh tịnh bản nhiên vốn an lạc tự tại, không kẹt chi cả. Cho nên càng đi sâu, chúng ta càng thấy cụ thể mình sẵn có tâm thanh tịnh, vậy mà cứ đi tìm hoài, tìm đáo để rốt cuộc nhận ra nó ngay dưới gót chân mình, chớ không đâu xa. Hiểu thế, chúng ta mới thấy tại sao Lục Tổ không chịu cho ngồi thiền nhiều. Vì với Ngài không có một niệm, không có một tâm, đi đứng ngồi nằm cũng vậy, cho nên ngồi thiền chi cho cực.

Chúng ta bây giờ thì sao? Chạy ngược, chạy xuôi quá nên phải ngồi. Ngồi ngó xuống cho đỡ một chút, ít nhất cũng giảm đi năm mươi phần trăm lộn xộn. Chừng nào thuần thục rồi thì đi đứng nằm ngồi đều là đạo, không có cách biệt. Tuy nhiên, nhìn lại đức Phật Thích-ca đã thành Phật rồi, Ngài cũng vẫn ngồi thiền như thường. Thọ trai xong Phật đi kinh hành, xế chiều tọa thiền. Các thầy Tỳ-kheo hỏi: “Đức Thế Tôn dạy chúng con ngồi thiền để định tâm, còn Ngài tâm đã thường định tại sao cũng ngồi thiền?” Thế Tôn đáp: “Ta ngồi thiền để điều hoà thân thể và răn nhắc đệ tử sau này không lười trễ tọa thiền.” Ngài ngồi quen, ngồi cho vui cho khỏe và cũng để răn dạy các thầy Tỳ-kheo, chớ không tìm kiếm gì nữa.

 Chúng ta hiểu cho tới nơi, thấy thật tường tận thì sự tu hành sẽ đơn giản vô cùng. Sống đơn giản rồi mình thấy những bày biện lăng xăng của cuộc sống có chóa mắt không, mệt đầu không? Bởi vậy nhiều khi tôi lắc đầu hoài, tu Phật kiểu này thì không biết đời kiếp nào về cõi Phật. Như có ông Sư nói: “Ai muốn tụng kinh cho cha mẹ về Cực Lạc thì đặt tụng ba ngày ba đêm giá hai cây, ai sợ cha mẹ xuống địa ngục, muốn làm lễ phá địa ngục thì năm cây.” Vậy mà người ta ưa lắm, thành ra tôi cũng lắc đầu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói rằng “Pháp môn tâm địa” là muôn pháp đều y tâm này dựng lập, gặp cảnh tức có, không cảnh tức không, không thể trên tánh tịnh lại khởi biết cảnh.

 

GIẢNG:

 

Nói rằng pháp môn của chư Phật chỉ dạy là “pháp môn tâm địa” nên gọi là tâm địa quán. Chính chỗ này ngài Vô Ngôn Thông tới Tổ Bá Trượng. Một hôm Tổ Bá Trượng dạy “tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu”, nghĩa là đất tâm nếu không thì mặt trời trí tuệ tự sáng. Nghe câu đó Ngài liền ngộ, sau sang Việt Nam truyền đạo. Tại sao nói pháp môn tâm địa? Vì tất cả pháp từ tâm sanh khởi, không có pháp nào ngoài tâm, vì vậy gọi là pháp môn tâm địa. Nếu chúng ta trở về được tâm địa, các pháp không còn sanh diệt nữa thì mặt trời trí tuệ tự sáng không nghi. Vì vậy tu là cốt trở về chỗ cứu kính ấy.

Bởi vậy không thể trên tánh tịnh mà khởi biết cảnh, nghĩa là cảnh đến thì đến, cảnh đi thì đi. Cảnh đến tạm có, cảnh đi tạm không, chớ không phải tánh mình có hay không.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói định tuệ là quán dụng thì rõ ràng vắng lặng tỉnh táo, thấy nghe hiểu biết đều phải.

 

GIẢNG:

 

Nói định tuệ là quán dụng. Trong khi chúng ta dụng công tu quán thì rõ ràng vắng lặng tỉnh táo, quán tất cả pháp tánh là không, không thấy có pháp thật, mình vẫn thấy nghe hiểu biết. Cho nên trong cái thấy nghe hiểu biết vẫn biết các pháp tự tánh là không, không có gì sai.  

 

CHÁNH VĂN:

 

Trên cảnh khởi hiểu, tạm vì người trung hạ căn nói thì được. Nếu muốn thân chứng đều không thể khởi thấy hiểu như thế, toàn là cảnh pháp, có chỗ lặn mất thì lặn mất ắt có nơi. Chỉ đối tất cả pháp không khởi thấy có không, tức là thấy pháp.

 

GIẢNG:

 

Ở đây Ngài nói rõ: Trên cảnh khởi hiểu, tạm vì người trung hạ căn nói thì được. Ví dụ đối với cái bàn, quán nó duyên hợp hư giả, hiểu như vậy không có gì sai, nhưng đó là chỉ cho người trung căn và hạ căn.

Nếu muốn thân chứng, đều không thể khởi thấy hiểu như thế, toàn là cảnh pháp, có chỗ lặn mất thì lặn mất ắt có nơi. Thân chứng là chứng đến tận nơi. Nếu cái thấy hiểu mất thì phải có chỗ để cho nó mất.

Chỉ đối tất cả pháp không khởi thấy có không, tức là thấy pháp, quán các pháp như huyễn, không thật thì cũng có cái “có không” đối đãi. Vì vậy nên biết rõ rằng các pháp không phải có, không phải không, đừng cố chấp bên nào, như vậy mới là chỗ chân thật.

Thế nào là người trung căn, người thượng căn? Ví như chúng ta thấy cành hoa, phân biệt đẹp xấu rồi ưa ghét, đó là đangloạn tưởng đắm nhiễm. Bây giờ nếu quán cành hoa đó duyên hợp, không thật, phân tích ra từng cánh tìm cái hoa không có. Như vậy tu quán để trừ chấp hoa thật, hoa đẹp v.v… từ từ tâm yên. Người quán thế ấy thuộc hạng trung căn. Nếu người thượng căn thấy cành hoa là cành hoa, không phân biệt đẹp xấu, thấy người là người, không phân biệt trắng đen, không cần khởi quán. Vì vừa khởi quán là trật rồi. Đối cảnh đẹp xấu không động tâm, đó là thật. Còn khởi quán để đừng dính mắc, đó là gỡ, là tu. Như vậy người tu trên phương tiện thuộc hàng trung căn, người nhìn thẳng tất cả các pháp bằng tâm chân thật, không khởi quán thuộc về thượng căn.

Chúng ta bây giờ thấy hoa có quán hư giả hay thấy hoa trầm trồ đẹp xấu? Nếu thấy hoa trầm trồ đẹp xấu, đó là tâm của ai? Của phàm phu. Còn nếu thấy hoa biết là duyên hợp hư giả, không thật đó là trí quán của hàng trung căn. Vì để phá chấp phàm phu cho nên dạy quán. Còn nếu người thấy hoa là hoa, không cần dạy quán gì nữa. Dạy là thêm bệnh, tức thịt lành khoét thành thương tích. Hiểu rõ chỗ này mới thấy ý nghĩa đạo lý thâm trầm, không hiểu chúng ta tu dễ bị lầm lẫn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Từ Đại sư Đạt-ma đến Trung Quốc chỉ nói một tâm, chỉ truyền một pháp. Lấy Phật truyền Phật chẳng nói Phật khác, lấy pháp truyền pháp chẳng nói pháp khác. Pháp tức là pháp không thể nói, Phật tức là Phật không thể thủ, mới là tâm bản nguyên thanh tịnh vậy.

 

GIẢNG:

 

Tổ Đạt-ma sang Trung Quốc truyền đạo, chỉ lấy một tâm chỉ truyền một pháp. Tại sao nói một tâm? Tại sao nói một pháp? Vì Tổ chỉ cho chúng ta nhận ra bản tâm, đó là một tâm. Phương tiện chỉ tâm cho mình nhận ra, đó là một pháp. Chỉ một tâm chỉ một pháp, vì tâm đó là thể của muôn pháp nên cũng là một pháp, chớ không khác. Nên nói truyền một tâm một pháp, không nói gì khác.

Khi tới vua Lương Võ Đế, Vua hỏi: “Trẫm làm tất cả việc như cất chùa nuôi tăng v.v… như vậy có công đức không?” Tổ đáp: “Không.” Nếu bây giờ chúng ta gặp Vua hỏi thì đáp thế nào, có ai dám nói như Tổ không? Chắc là không, mà còn tán thán bệ hạ làm như vậy phước đức vô lượng vô biên, vì sợ mất lòng Vua. Tổ nói thẳng “không công đức”, đó là tạt một gáo nước lạnh vô mặt Vua, không sợ mất lòng gì cả, đó là vì Tổ muốn truyền một pháp thôi, ngoài ra không muốn gì khác. Khi Vua hỏi: “Thánh đế đệ nhất nghĩa thế nào?” Ngài đáp: “Rỗng thênh không Thánh.” Thế là làm phật ý vua Lương hoàn toàn, nên không thể truyền đạo được ở đây. Đối với Tổ còn Thánh phàm là hai, nên Ngài nói chỗ tột “rỗng thênh không Thánh”, không có cái thứ hai. Biết cơ duyên truyền đạo tại đây không được, Tổ đi nơi khác.

Như vậy để hiểu người xưa truyền đạo rất trung thành với pháp của mình được, chỉ thẳng pháp đó, không nói pháp khác. Ngày nay chúng ta phương tiện nhiều quá, riết rồi xin xăm bói quẻ cũng phương tiện luôn. Tại sao? Vì có tiền, rốt cuộc không còn đạo nữa.

Pháp tức là pháp không thể nói, Phật tức là Phật không thể thủ, mới là tâm bản nguyên thanh tịnh vậy. Tâm bản nguyên là pháp không thể nói, Phật không thể thủ.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ một việc này thật, có hai cái khác thì chẳng phải chân.

 

GIẢNG:

 

Chỉ một là thật, còn hai không phải chân. Kinh Pháp Hoa nói chỉ một Phật thừa, hai chẳng phải chân. Như vậy tâm chân thật ấy không hai.

 

CHÁNH VĂN:

 

Bát-nhã là tuệ, tuệ này tức là bản tâm vô tướng. Phàm phu không đến đạo, chỉ buông lung sáu tình là đi trong sáu đạo. Người học đạo một niệm chấp sanh tử liền rơi vào ma đạo; một niệm khởi các kiến (các thứ thấy biết khác) liền rơi vào ngoại đạo; thấy có sanh tiến đến diệt liền rơi vào Thanh văn đạo; chẳng thấy có sanh, chỉ thấy có diệt, liền rơi vào Duyên giác đạo; không khởi cái thấy có hai, chẳng chán chẳng ưa, tất cả các pháp chỉ là một tâm, nhiên hậu mới là Phật thừa. 

 

GIẢNG:

 

Thấy có hai thì còn mắc kẹt hai bên, người học đạo còn chấp sanh tử thì rơi vào ma đạo. Người học đạo buông lung sáu tình thì đi trong sáu đạo. Sáu tình là sáu căn. Buông lung sáu căn chạy theo sáu trần thì đi trong sáu đường sanh tử. Nếu học đạo mà một niệm chấp sanh tử thật liền rơi vào đường ma. Một niệm khởi các kiến rơi vào ngoại đạo, kiến chấp thế này thế kia. Thấy có sanh tiến tới diệt là rơi vào Thanh văn, nghĩa là thấy cái này sanh lần lần diệt, nó vô thường. Chẳng thấy có sanh chỉ thấy có diệt là rơi vào Duyên giác đạo, tức là thấy các pháp do duyên hợp, sanh không thật sanh, chỉ đủ duyên nó tụ, hết duyên nó tan, đó là Duyên giác đạo.        

Không khởi cái thấy có hai, chẳng chán chẳng ưa, tất cả các pháp chỉ là một tâm, nhiên hậu mới là Phật thừa. Chỉ tất cả pháp là một tâm, đó mới là Phật thừa. Học đạo chỉ biết đến chỗ cứu kính là một tâm, không có gì khác thì thật đơn giản. Còn học phân biệt Thanh văn bao nhiêu hạng, Bồ-tát bao nhiêu hạng, cực quá. Ở đây nói thẳng chỉ đi tới chỗ cứu kính là Phật thôi. Muốn cứu kính là Phật thì không hai, không ưa, không ghét. Đó là chỗ chân thật, cứu kính.

Chúng ta thấy lời chỉ dạy của Tổ Hoàng Bá rất thâm thiết, rất sâu kín. Thấy tường tận như vậy thì trên đường tu không khó.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm phu đều theo cảnh sanh tâm, tâm bèn ưa chán. Nếu muốn không cảnh phải quên tâm ấy. Tâm quên tức là cảnh không, cảnh không tức là tâm diệt. Nếu không quên tâm mà chỉ trừ cảnh thì cảnh không thể trừ, càng thêm lăng xăng. Cho nên muôn pháp chỉ là tâm, tâm cũng không thể được, lại cầu cái gì? Người học Bát-nhã không thấy một pháp có thể được, dứt ý nơi tam thừa, chỉ một chân thật không thể chứng được. Bảo là ta hay chứng hay đắc đều là người tăng thượng mạn. Trên hội Pháp Hoa phủi áo ra đi, đều là bọn người này. Phật nói: “Ta đối với Bồ-đề thật không sở đắc”, thầm khế hội mà thôi.

 

GIẢNG:

 

Phàm phu đều theo cảnh sanh tâm, sanh tâm bèn ưa chán. Nếu muốn không cảnh thì phải quên tâm ấy, nghĩa là quên tâm đuổi theo cảnh, tâm quên tức cảnh không. Nếu quên tâm không dấy chạy theo cảnh thì cảnh tự không, cảnh tự không thì tâm cũng diệt. Nếu không quên tâm mà chỉ trừ cảnh, cảnh không thể trừ, càng thêm lăng xăng. Bệnh người tu bây giờ là vậy, không muốn quên tâm mà muốn dẹp cảnh. Muốn vô hang núi tu một mình để đừng thấy ai hết, đó là quên tâm hay dẹp cảnh? Chắc gì ngồi trong hang núi mà không suy nghĩ. Nhiều khi ngồi hang núi lại muốn chạy ra ngoài, cho nên cái đó không phải gốc, gốc là phải quên tâm, quên tâm tự nhiên cảnh diệt. Như vậy mới là người biết tu.

Cho nên muôn pháp chỉ là tâm, muôn pháp sanh vì tâm dấy niệm chạy theo. Tâm chạy theo cảnh không có thật. Pháp không thật, tâm không thật thì cầu cái gì? Thế nên người học Bát-nhã không thấy một pháp có thể được, vì không một pháp thật.

Dứt ý nơi tam thừa, chỉ một chân thật không thể chứng được, cái chân thật đó sẵn có, không nói chứng nói đắc.

Bảo là ta hay chứng hay đắc đều là người tăng thượng mạn, bây giờ lắm người tu hay khoe, tôi chứng cái này đắc cái kia. Tổ dạy thật rõ không có cái để chứng, không có cái để đắc. Tại sao? Vì cái sẵn của mình thì làm sao nói chứng, nói đắc được. Cho nên đến chỗ chân thật này Phật dạy: “Ta đối với Bồ-đề thật không sở đắc.” Ngài đối với Bồ-đề thật không sở đắc mà người ta nói Ngài đắc Bồ-đề. Đọc kinh nhiều khi chúng ta thấy mâu thuẫn, như kinh Bát-nhã nói “dĩ vô sở đắc cố” nghĩa là không có sở đắc. Từ Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa… chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa… đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩa là đắc hết. Đoạn trước thì không sở đắc, đoạn sau lại đắc. Như vậy là sao? Vô sở đắc vì tất cả pháp đều hư dối, do biết tất cả pháp hư dối nên chúng ta đầy đủ Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, đó là đắc; không đắc mà đắc. Còn nếu thấy tất cả pháp thật, thì không đạt được gì hết. Hiểu như vậy mới thấy kinh nói dường như mâu thuẫn mà không mâu thuẫn. Phật không được Bồ-đề mà thật tình Ngài đã thành Chánh đẳng Chánh giác.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm nhân khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã, chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Chỉ hay quán như thế liền đó chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc bèn là người xuất thế.

 

GIẢNG:

 

Người tu thiền khi sắp lâm chung phải làm sao? Ngài dạy chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã như trong kinh Bát-nhã.

Chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Nói rằng quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã điều này nhiều người quán được. Nhưng tới chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến làm sao biết? Đã không biết vì sao nói chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi? Không biết mình có chân tâm mà bảo quán chân tâm làm sao quán? Đó là một vấn đề.

Ai cũng nói có chân tâm, mà nó hiện lúc nào ra sao lại không biết. Khi đọc kinh sách tưởng như mình hiểu, thực ra chỉ hiểu trên danh từ thôi, chớ thực chất chưa nắm được. Quí vị muốn thấy chân tâm thì phải dùng trí tuệ sẵn có muôn đời của mình mà nhận. Thường mọi người luôn lấy ý thức sanh diệt làm tâm mình. Như vậy tất cả nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ tốt nghĩ xấu v.v… đều cho là tâm mình. Người nào nghĩ khéo, nghĩ trúng thì khen tâm họ sáng, ai nghĩ trật nghĩ sai thì nói tâm họ mù mịt, đần độn quá.

Trăm người như một đều nhận suy nghĩ phân biệt đối đãi làm tâm mình, không biết đó là tâm động, tâm sanh diệt. Nó đâu có nghĩ hoài một việc mà thay đổi luôn luôn. Nó là động, là sanh diệt mà chúng ta nhận là tâm mình, nhận thân tứ đại sanh diệt làm thân mình thì đang sống với cái gì? Sống với cái tạm bợ, hư dối sanh diệt. Đã lấy tạm bợ hư dối sanh diệt là mình, thì cái này hoại bám cái khác, cái khác hoại bám cái khác nữa, liên tục cho nên tiếp tục trong vòng sanh tử không cùng tận. Đó là nỗi khổ của chúng sanh, cứ như vậy triền miên sanh tử kiếp kiếp đời đời, không dừng được. Cho nên đức Phật hết sức thương xót.

Ngày nay chúng ta tu muốn thoát ly sanh tử, mà cứ bám vào thân tâm sanh diệt ấy, làm sao thoát ly được. Như người muốn qua sông lớn mà nương chiếc xuồng lủng, chiếc ghe bể thì sao? Thì chết chìm. Muốn qua sông lớn ít ra cũng có thuyền chắc hay tàu lớn, cái không bền chắc mà dùng vượt sông biển thì không thế nào được. Tu hành cũng vậy, chúng ta phải biết cái gì là chân tâm, cái gì là vọng tâm hư dối. Nắm vững để chúng ta không bị kẹt trong tướng sanh diệt, mà nhận lấy cái bất sanh bất diệt, nhà Phật gọi là Niết-bàn. Chân tâm là nhân của Niết-bàn sẵn có nơi mỗi người, mà không ai chịu nhận. Thật đáng tiếc.

Lục Tổ hỏi ngài Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Đó là Ngài đã chỉ chân tâm cho Thượng tọa Minh rồi. Chúng ta cứ nói tâm chân, tâm vọng mà hỏi tâm là gì cũng không biết, cứ cho suy nghĩ hai bên là tâm. Sự thật ngài Khuê Phong định nghĩa rõ ràng “Tâm là cái biết”. Cái biết nào thuộc về hư dối sanh diệt gọi là biết vọng. Cái biết không sanh không diệt là biết chân. Cái biết nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua là cái biết sanh diệt. Không dùng cái biết sanh diệt, mình vẫn biết đó là chân.

Vì chúng ta không gan dạ, không dám nhìn thẳng để nhận ra cái thật, cứ chạy theo những dấy nghĩ cho là tâm mình nên quên mất cái thường biết lặng lẽ. Như vậy có tủi không? Chúng ta quả tang là chàng bất hiếu cùng tử, ông cha sung sướng giàu có mà bỏ chạy tha hương, tới chừng thức tỉnh mới tìm trở về. Đâu phải cha đuổi mà chính mình bỏ nhà đi hoang. Cũng thế, chân tâm hiện giờ ai cũng có, mà không chịu nhận. Vì vậy chúng ta ngồi thiền để dừng nghĩ phải, nghĩ quấy, dừng vọng tâm. Vọng tâm dừng lúc đó chân tâm hiện ra. Biết tất cả đó là tâm, mà không động.

Các vị Tổ hồi xưa nói “đêm đêm ôm Phật ngủ”, ôm ông Phật ngủ mà không nhớ Phật, lại gác tay gác chân đè Phật, “ngày ngày cùng Phật đi”, mà không thèm ngó ngàng tới Phật, toàn là ngó theo chúng sanh. Thấy cây dù xanh lo nhìn cây dù xanh, thấy chậu hoa đỏ lo nhìn chậu hoa đỏ, cứ phân biệt theo cảnh bên ngoài, không nhớ mình có ông Phật đang đi theo đây. Bởi vậy đi đứng nằm ngồi không rời chân tâm, mà chúng ta lại không bao giờ nhận nó, cứ nhận cảnh vật bên ngoài, trách gì không luân hồi muôn kiếp. Bây giờ muốn dừng luân hồi phải nhớ mình có tâm chân thật. Đó  là cái không nghĩ suy tính toán, lặng lẽ thường biết hiện tiền. Diễn tả nó làm sao? Nó không là gì hết, vì không có hình dáng. Có hình dáng là tướng vô thường sanh diệt. Nó không phải vô thường sanh diệt nên không hình dáng mà hằng tri hằng giác.

Mỗi ngày chúng ta ngồi thiền là để sống lại với tâm thật của mình, không tìm cầu bên ngoài. Nhưng khổ nỗi nhiều người ngồi thiền mong thấy hào quang, mà không biết chính tâm lăng xăng loạn tưởng dừng, luôn luôn tỉnh sáng, đó là tâm chân thật hiện tiền. Cho nên nói ôm tâm chờ ngộ là sai. Có gì đâu phải chờ, chỉ cho bọn giặc lặng xuống, đừng rối loạn lăng xăng nữa thì cái thật hiện ra. Thiền sư lúc sống với đạo thường như ngu như ngây, khờ khạo. Khờ khạo với lanh lợi phân biệt, nhưng biết thấu tột cả vũ trụ nhân sinh, thấy tường tận cội gốc của nó. Còn chúng ta ngày nay lanh lợi quá, chỉ biết chuyện hơn thua phải quấy thôi, nên tu hoài vẫn không hết vô minh phiền não. 

Chúng sanh quá khờ dại, những chuyện không có quyền can thiệp, không có quyền xử sự mà cứ muốn biết, còn cái thật đang sống với mình lại bỏ qua, đáng thương không? Vì vậy chư Phật Bồ-tát thị hiện ra đời là vì chúng sanh, muốn độ chúng thoát ly sanh tử. Thoát ly sanh tử không phải thân này, không phải tâm hơn thua phải quấy. Thoát ly sanh tử là nhận ra cái chân thật mà mình bỏ quên nên cứ trầm luân mãi. Phật thương nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu kinh điển, mà nào có mấy người hưởng ứng? Như tôi nói pháp mười năm nữa cũng vậy thôi. Nói qua rồi quí vị quên, chỉ nhớ chuyện bên Tây bên Tàu, chớ không nhớ mình có ông Phật chân thật ngay đây. Tu như vậy tới gần chết quýnh lên không biết mình ra sao? Tại vì cứ bám vào thân sanh diệt, tâm sanh diệt cho là mình, tới khi nó sắp hoại mất thì sợ sệt hoảng hốt. Còn biết mình sẵn tâm chân thật rồi thì thân tạm bợ này hoại diệt có sao đâu, việc gì phải khổ.

Cho nên các Thiền sư cười trước khi chết, vì thấy thân là đồ bỏ không đáng giá chi, tạm mượn nó sống tu. Bây giờ hết duyên thì đi, các ngài xem nhẹ sự sống chết như thế. Chúng sanh ngược lại, cho thân là thật nên một lần mất nó là một lần đau khổ vô cùng. Chẳng những đau khổ vì mất nó, mà đau khổ không biết sẽ đi đâu. Tổ Qui Sơn nói: “Đường trước mờ mờ chưa biết về đâu?” Vì vậy chúng ta học đạo cốt để tu, đừng phụ bạc ông chủ mình nữa. Người nào đừng để tâm chạy ngược chạy xuôi, dừng nghỉ hết lăng xăng, tỉnh táo vui vẻ đó là người sống với chân tâm. Được như vậy người đó khi nhắm mắt đi với cái không sanh diệt tức là nhập Niết-bàn. Ngược lại cứ sống với phải quấy hơn thua thương ghét, thì đi với tâm sanh diệt tạo nghiệp, dẫn trong sáu nẻo luân hồi.

Bây giờ quí vị biết quán chân tâm là sao chưa? Quán chân tâm là biết rõ tất cả niệm khởi thuộc tướng sanh diệt, cái hằng giác hằng tri không dấy động là mình. Cứ nhớ bao nhiêu đó thì sống với ông chủ, ra đi tự tại, thảnh thơi biết mấy. Tổ bảo khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn không thật, bốn đại vô ngã. Cái hằng tri giác không sanh không diệt nên khi sanh tánh nó không đến, khi tử tánh nó không đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như.

Người nào quán được như vậy thì liền chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc, bèn là người xuất thế. Bao nhiêu kinh điển đều chỉ một đoạn này, người thấy được đường tu thì rất gần. Nếu người còn đa mang tâm sanh diệt, luyến tiếc tướng tứ đại thì đi theo chiều sanh diệt. Còn người biết những thứ đó hư giả, chỉ nhớ tâm hiện tiền hằng tri giác bất sanh bất diệt của mình, đó là người xuất thế tức giải thoát vậy.

 

CHÁNH VĂN:

 

Dù người không được ít phần thú hướng, nếu thấy tướng lành, chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo; nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ; chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là điều thiết yếu vậy.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này rất khó. Ai nhắm mắt gần chết, thấy Phật đến đón mà không mừng. Hầu như người tu nào cũng mơ ước được Phật đón. Nhưng ở đây dạy nếu thấy tướng lành chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo. Phật rước cũng không đi. Tại sao vậy? Vì muốn ra khỏi sanh tử nên không đi theo các tướng trạng bên ngoài, dù đó là tướng Phật. Nếu theo Phật cũng còn sanh trong hoa sen. Muốn đi thẳng tới chỗ vô sanh, thì không theo ai kể cả Phật, huống nữa là Thánh Thần hay những người thân yêu.

Các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo, các thứ hiện trước là thân tộc bà con, anh em cha mẹ đón cũng không đi. Điều này khó số một. Đa số quí vị thấy bà con thân tộc là mừng rỡ, nói gì đến đón mình. Cho nên nếu không khéo tu, lúc sắp mất đi theo những hình ảnh này là tiếp tục thọ thân sau, có khi ma quỷ giả hình, dẫn người chết đi vào cảnh giới của chúng, chịu khổ không thể lường.

Đến khó số hai. Nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ. Thấy những tướng dữ tức như thấy cọp rượt, cá sấu đuổi v.v…  cũng không sợ. Tóm lại thấy tướng lành không theo, thấy tướng dữ không sợ.

Chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là thiết yếu vậy. Quên tâm là quên tâm sanh diệt, tâm thương, tâm ghét. Nếu còn tâm ấy thì thấy thân nhân tới đón mừng nên đi theo, tâm sợ thì thấy quỉ sứ dọa nạt, chúng chỉ đâu liền hoảng sợ chạy theo đường đó. Thấy đồng pháp giới tức trùm khắp, bất sanh bất diệt liền được tự tại. Đây là thiết yếu, tức điểm then chốt của sự tu hành. Đó là những điều người tu phải biết, mới không sợ khi nhắm mắt bị rơi vào đường tà. Như vậy cả hai thứ, vui theo tướng lành thì sanh cõi lành, sợ tướng dữ chạy trốn thì bị sanh chỗ dữ, đều đi trong con đường sanh tử. Chỉ nhớ tâm thênh thang không hình không tướng, không sanh không diệt, không sợ hãi, luôn tỉnh táo sáng suốt thì giải thoát an vui.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói Hoá thành đó, Nhị thừa và Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đều là giáo quyền lập để tiếp dẫn, thảy là Hoá thành.

 

GIẢNG:

 

Đây dẫn kinh Pháp Hoa, nói Hoá thành là chỉ cho Nhị thừa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đi từng bậc từng bậc đều là giáo quyền lập. Giáo quyền lập là giáo lý tạm lập để tiếp dẫn người, có thứ bậc cho dễ đi, dễ tiến vậy thôi. Như Bộ Giáo Dục muốn thúc đẩy học sinh học cho giỏi nên mỗi năm tổ chức thi lên cấp. Từ cấp Tiểu học lên Trung học, Đại học rồi Tiến sĩ gì gì đó, ấy là thật lập hay quyền lập? Quyền lập như thế để đo sự hiểu biết của chúng ta qua những năm học, lập ra thứ bậc để thúc đẩy nhắc nhở sự tiến bộ trong học vấn, mục đích vì muốn chúng ta biết sâu hiểu rộng, làm lợi ích cho mọi người. Đó là mục đích phương tiện lập có thứ bậc.

Cũng vậy đạo Phật muốn dạy chúng sanh tu hành để được giác ngộ thành Phật. Giác ngộ thành Phật là thế nào? Là trở lại sống thực với tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác của mình, gọi là chân tâm hay Phật tánh. Sống được với chân tâm là bước vào cảnh giới chư Phật. Nhưng nói sống với chân tâm Phật tánh, người ta nghe cao xa quá, nên Phật dạy tu hạnh này được quả bậc Thanh văn, tu hạnh này được quả bậc Duyên giác, rồi giác được phần nào là Bồ-tát Sơ địa, Bồ-tát Nhị địa v.v… tới cuối cùng cũng trở lại chân tâm Phật tánh. Như vậy giáo lý đó là phương tiện quyền lập, còn chỗ chân thật không hai. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy trong kinh Pháp Hoa nói Hoá thành là phương tiện quyền lập, nói Bảo sở là chỉ chân tâm Phật tánh. Chỗ đó không đối đãi nên nói không Phật, không chúng sanh, không còn tình lượng, không còn kiến lập. Nói Bảo sở là chỗ quí báu, tức chỉ thẳng chân tâm Phật tánh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói Bảo sở đó là bảo chân tâm, bản Phật, tự tánh, cái bảo này không thuộc về tình lượng, không thể kiến lập, không Phật, không chúng sanh, không năng không sở, chỗ nào có thành? Nếu hỏi: đây đã là Hoá thành, chỗ nào là Bảo sở? Bảo sở không thể chỉ, chỉ tức có chỗ nơi, không phải là chân Bảo sở. Cho nên nói “ở gần” mà thôi. Không thể định lượng nơi đó, chỉ chính đây khế hội là phải.

 

GIẢNG:

 

Hỏi Bảo sở chỗ nào Phật nói “ở gần”, các Thiền sư nói ở dưới gót chân ông. Chữ Hoá thành trong kinh Pháp Hoa là chỉ cho tu hành có thứ bậc từ thấp lên cao, còn Bảo sở là chỉ thẳng cho chúng ta biết cái thật nằm ngay nơi mỗi người, không ở đâu xa. Chúng ta tu là để trở về cái thật của mình, đây là con đường gần nhất. Nếu đi thứ bậc thì hơi xa, hơi quanh co. Bởi vậy chỗ thật này chỉ khéo khế hội là được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói xiển đề đó, lòng tin không đủ vậy. Tất cả chúng sanh trong sáu đạo cho đến Nhị thừa không tin có Phật quả, đều gọi là đoạn thiện căn xiển đề. Bồ-tát đó, tin sâu có Phật pháp không thấy có đại thừa, tiểu thừa. Phật cùng chúng sanh đồng một pháp tánh gọi là thiện căn xiển đề.

 

GIẢNG:

 

Chữ “xiển đề” là tiếng Phạn, nghĩa là người không đủ lòng tin. Không đủ lòng tin thế nào? Như những chúng sanh đi trong lục đạo luân hồi không đủ lòng tin mình có tánh Phật, cho tới hàng Nhị thừa không tin có Phật quả. Các ngài tu chứng Diệt tận định là nhập Niết-bàn, không nói lên Phật quả, cho nên những hạng này gọi là đoạn thiện căn xiển đề, tức do không tin làm mất căn lành.  Còn Bồ-tát tin sâu Phật pháp, không thấy có Tiểu thừa, Đại thừa riêng, thấy tất cả chúng sanh đồng có tánh Phật, đồng một pháp tánh gọi đó là thiện căn xiển đề, nghĩa là không tin mà không tin do có căn lành.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đại để, nhân nghe giáo mà ngộ gọi là Thanh văn, quán nhân duyên mà ngộ gọi là Duyên giác. Nếu không hướng trong tâm mình mà ngộ, tuy đến thành Phật cũng gọi là Phật Thanh văn. Người học đạo phần nhiều đối trên giáo pháp mà ngộ, không ở trên tâm pháp mà ngộ, tuy trải nhiều kiếp tu hành trọn không phải là bổn Phật. Nếu không nơi tâm mà ngộ, chỉ đối trên giáo pháp mà ngộ tức là khinh tâm trọng giáo, bèn thành theo khối (theo hình tướng) mà quên bản tâm. Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy.

 

GIẢNG:

 

Chúng ta tu có hai cách. Một là y nơi pháp của Phật dạy, nghe quán chiếu rồi tu, gọi đó là Thanh văn. Thấy các pháp duyên sanh quán chiếu mà tu, gọi đó là Duyên giác. Nhưng nếu chỉ nương theo pháp của Phật dạy tu mà không nhận ra tâm mình, gọi đó là quên tâm cầu Phật, hay quên tâm pháp mà chạy theo giáo pháp. Tu như vậy không thấy được ông Phật gốc của mình. Nếu không nơi tâm ngộ, chỉ đối trên giáo pháp ngộ tức là “khinh tâm trọng giáo”. Người khinh tâm trọng giáo là chạy theo hình tướng, quên mất bản tâm.

Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy. Ai nhận được bản tâm, người đó trở lại gốc ngay nơi mình, không chạy ra ngoài. Đa số chúng ta ngày nay tu theo pháp, ít nhận tâm, vì vậy có lỗi khinh tâm trọng pháp. Mà pháp của Phật nói cốt chỉ cái gì? Chỉ tâm. Bây giờ mình trọng pháp quên tâm tức là chạy theo ngọn mà quên gốc.

Bao nhiêu kinh điển đức Phật dạy đều chỉ cho chúng ta nhận ra bản tâm là tánh giác hằng hữu của mình, từ đó tu mới thành Phật. Chúng ta không chịu nhận, chỉ chạy theo kinh điển học hết bộ này tới bộ nọ, khen bộ này hay bộ kia đặc biệt v.v… mà không biết tất cả bộ đều chỉ tâm của mình. Không nhận tâm lại đi nhận pháp, như vậy là khinh tâm trọng pháp. Trong kinh Phật dụ pháp như ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng là gì? Là chân tâm. Vì muốn chúng sanh nhận ra chân tâm nên Phật dạy giáo pháp, chúng sanh nương pháp để nhận. Bây giờ mình lại kẹt pháp không nhận ra tâm giống như người chỉ mặt trăng hướng tây, chúng ta không chịu ngó hướng tây để thấy mặt trăng, lại nhận đầu ngón tay, hài lòng với đầu ngón tay, cho đó là mặt trăng.

Người tu ngày nay giống hệt như vậy, thích tụng kinh, tụng bộ này qua bộ kia, như vậy là tu rồi đó. Phật dạy chúng ta tu để trở về tâm, không chịu trở về tâm cứ lấy kinh đọc hoài, không khác người muốn thấy mặt trăng mà chỉ quí ngón tay, không nhìn đúng mặt trăng. Tu như vậy chừng nào thành Phật? Nói thẳng mếch lòng, mà không nói thì tội nghiệp. Gốc ở chỗ đó mà không chịu nhìn, chỉ bám ngọn ngành, phương tiện làm sao tu hành đến nơi đến chốn được. 

Phật dạy cho mình nhận ra bản tâm để không còn chấp thân này là thật ngã, tâm chạy theo bóng dáng sáu trần là thật tâm. Nhờ không chấp thân, chấp tâm mới trở về với thể thật sẵn có. Bây giờ cứ đọc hoài, nhưng hỏi kinh dạy gì thì không biết. Chỉ biết tụng kinh có phước vậy thôi, chớ không biết mình là cùng tử đã bỏ cha đi, bây giờ còn lang thang chưa nhận được cha già. Ông cha là chỉ tánh giác hằng hữu của mình. Quên tánh giác chạy theo sáu trần là cùng tử nên khổ sở nghèo nàn. Khi hối hận trở về tìm cha, về tới nhà rồi cũng không dám nhận cha nữa. Cũng thế, chúng ta tu pháp gì nhỏ nhỏ lần lên, chớ không dám đi thẳng. Đó là diễn đạt người mê quên mình theo cảnh vật. Nếu trở về thì chính cha đang sẵn chờ, nhưng gã cùng tử lại không dám nhận. Như chúng ta có Phật tánh sẵn mà lại than mất Phật. Có cái chân thật không chịu nhớ, rồi than sao sống khổ quá, chịu không nổi. Nhiều khi tâm suy nghĩ lanh lợi quá, hết nghĩ cái này tới nghĩ cái kia, tới giờ ngủ cũng cứ nghĩ hoài, ngủ không được than khổ quá. Tại sao khổ như vậy? Tại vì chạy theo nó quen rồi, bây giờ muốn dừng nghĩ không được, ngồi thiền bữa nào cũng nghĩ bậy nghĩ bạ. Tại sao nghĩ? Vì chứa chấp, nếu buông hết thì ngồi lại chỉ còn một tâm thanh tịnh sáng suốt, khoẻ biết chừng nào. Sửa soạn ngủ thì buông hết mọi việc, ngủ cho an ổn. Tất cả nỗi khổ là vì chúng ta đuổi theo vọng tưởng sanh diệt, bám vào bóng dáng sáu trần. Bây giờ buông hết trở về bản tâm tức là Niết-bàn bất sanh bất diệt, không tìm chỗ nào hết.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm nhân phần nhiều bị cảnh ngại tâm, sự ngại lý, thường muốn trốn cảnh để an tâm , đuổi sự để còn lý, không biết chính là tâm ngại cảnh, lý ngại sự. Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không, chẳng biết tâm mình vốn không.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này có một số người đang mắc kẹt, cứ cho rằng cảnh ngại tâm. Ở chùa đông người, kẻ hơn người thua kẻ phải người quấy, phiền nhiễu quá nên kiếm hang hốc chui vô tu một mình cho yên. Vì quí vị ấy nghĩ cảnh ngại tâm, nên tìm chỗ không có cảnh, tu sẽ hết ngại. Nào ngờ vô trong hang hốc lại có chướng ngại của hang hốc. Bây giờ hết gạo làm sao đây? Xách dù xuống núi, xin một ít gạo về, xin một lần đủ chưa? Chưa, lại xin nữa. Có gạo thì phải có nồi, có củi… đủ thứ hết. Chừng đó gặp cảnh không? Trên núi thiếu nước, không lẽ mình xách từ hũ từ hũ uống, thôi mua cái lu lớn chứa khá một chút. Lu lớn thì nhiều người khiêng, rủ bà con phụ đưa lên, từ đó lần lần họ tới thăm nom. Nhờ Phật tử tới có tiền mua gạo, thôi cũng tiếp. Bỏ cảnh chùa nhiều người, lên núi ở một mình, té ra càng nhiều hơn. Ở chùa chia ra mười người, mình mất thì giờ chỉ một. Còn vô núi mình lãnh trọn cả mười, chừng đó phiền hơn nữa. Từ chấp cảnh tịnh biến thành trở ngại, ban đầu thấy dường như hay sau thành quá dở. Đó là chỗ lầm lẫn lớn.

Đến phần sự và lý. Nhiều người tu sợ sự ngại lý nên đuổi sự giữ lý. Vậy lý là gì, sự là gì? Thế gian thường thường ai nói chuyện nhiều, mình bảo người đó lý sự quá. Ví dụ tôi nói đồng hồ này đẹp xấu, vuông tròn… đó là nói về sự, về hình tướng. Còn lý của đồng hồ là gì? Có hai trường hợp, lý thường và lý đạo. Lý thường là đồng hồ không quí ở hình vuông hay tròn, mà quí ở chỗ nó chạy đúng giờ, nhờ đồng hồ chúng ta biết giờ. Lý đạo là đồng hồ giả tướng, do nhân duyên hợp tạm có, lý thật của nó là không. Cho nên Không chính là lý đạo.

Muốn tìm lý không, từ đâu mà tìm? Ngay nơi tướng đồng hồ thấy được lý không của nó, như vậy tướng đồng hồ có ngại gì lý đồng hồ? Tướng cái nhà có ngại gì lý cái nhà, tướng người ngại gì lý người. Ngay nơi sự mình thấu lý thì ở đâu cũng không ngại. Còn bỏ sự để tìm lý làm sao tìm được, như lý nhân duyên mà bỏ sự tướng làm sao biết nhân duyên. Phải ngay nơi sự nhận ra lý, đó là người khéo tu, còn sợ chạy trốn là không khéo. Người tu thường có hai bệnh, thứ nhất là sợ cảnh làm nhiễu loạn tâm, thứ hai sợ sự làm chướng ngại lý, nên bỏ sự tìm lý. Như vậy đều không thực tế, đều lầm cả.

Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Chỉ cần tâm không chạy theo cảnh thì ở đâu cũng là cảnh tốt, không có gì chướng ngại, chớ chẳng phải trốn vô hang sâu mới tốt. Thời này người thích làm Phật sự thì ở thành thị, người muốn tu rục ưa chui vô hang ở một mình. Cả hai đều là bệnh. Chúng ta biết tu là tạo duyên cho mình nghiền ngẫm, thấu triệt lý đạo, thấu triệt lẽ chân thật của Phật dạy, đó là gốc. Tâm không dính với cảnh thì cảnh làm gì ngại tâm. Nếu tâm như như thì lý sự đâu chướng ngại nhau. Người bỏ cái này cầu cái kia là dụng tâm lộn ngược.

Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không chẳng biết tâm mình vốn không. Đây là bệnh của người tu. Nhiều người ngồi thiền tới lúc tâm bặt hết lăng xăng, đâm hoảng không biết tâm mình đâu mất rồi. Tâm chân thật vốn không có lăng xăng, khi lăng xăng lặng thì tâm thật hiện tiền. Chúng ta thấy lăng xăng lặng, sao lại nói không tâm? Ngồi yên thấy rõ tâm lăng xăng đang bặt, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, tại sao nói không tâm? Người hoảng lên nói mất tâm rồi, là vì không biết được lẽ thật. Cho nên nói chẳng biết tâm mình vốn không.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự.

 

GIẢNG:

 

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự. Nhiều người nói nghe thấy thương, như bảo tôi tu rồi không đồng hồ, không cần giường tốt, không cần đồ mới, thành ra ai cho đồ mới thì bỏ không mặc. Đó là chấp hình tướng, là trừ sự không trừ tâm. Đây thuộc người ngu không phải người trí. Người trí trừ tâm không trừ sự. Đừng để tâm mình nhiễm tốt xấu, không mong mỏi quí tiện, cái gì cũng được hết. Ai cho thì nhận, cần xài cứ xài, không nói quí tiện, đó là trừ tâm không trừ sự. Đây mới gọi là người trí.

Người biết tu rồi thì tùy duyên, cái gì đến thì nhận, tâm không mong cầu, không sợ không chê. Ai cho cái xấu không chê, cho cái tốt cũng không sợ, tâm an nhiên bình thường, như vậy mới đúng. Còn sợ cái này cầu cái kia là mắc kẹt, vì vậy Tổ quở người ngu trừ sự không trừ tâm. Người trí mặc áo tốt tâm không hãnh diện, không khoe với thiên hạ, nên không có lỗi. Nếu mặc áo rách để người ta thấy mình tu khổ hạnh, tu giỏi, đó là lỗi.

Ở đời người ta thường nhìn tướng mà không hiểu tâm. Người tu phải hiểu tâm mình, sự tướng bên ngoài không quan trọng. Đừng để tâm đòi hỏi cái tốt, cũng không có tâm sợ sệt cái tốt. Đừng để tâm khoe cái xấu, cũng đừng có tâm sợ cái xấu. được lành mặc lành, được rách mặc rách, không để ý gì hết. Vô tâm như vậy sống thế nào cũng không tội. Nếu hữu tâm dụng ý thì có tội.

 

CHÁNH VĂN:

 

Bồ-tát tâm như hư không, tất cả đều xả, làm việc phước đức đều không tham trước.

 

GIẢNG:

 

Tâm Bồ-tát như hư không rỗng rang vì tất cả đều xả, hơn thua phải quấy khen chê… xả hết. Làm việc phước đức đều không khoe, không chấp, đó là không tham trước.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nhưng xả có ba bậc: trong ngoài thân tâm tất cả đều xả, ví như hư không, không có chỗ thủ trước, nhiên hậu tùy phương tiện làm lợi ích chúng sanh, năng sở đều quên, ấy là đại xả.

 

GIẢNG:

 

Xả có ba bậc: đại xả, trung xả và tiểu xả. Người làm tất cả việc tốt mà tâm như hư không, không chấp trước, năng sở đều quên đó là đại xả. Trong kinh thường gọi bố thí tam luân không tịch, người thí, vật thí, kẻ thọ thí đều không chấp, được vậy gọi là đại xả.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu một bên hành đạo bủa đức, một bên lại xả không có tâm mong cầu, ấy là trung xả.

 

GIẢNG:

 

Trường hợp này là một bên hành đạo bủa đức, tức làm lợi ích cho mọi người, một bên xả hết, không có tâm mong cầu. Đó là trung xả.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu rộng tu các việc thiện có chỗ mong cầu, nghe pháp biết không, nên mới không trước, ấy là tiểu xả.

 

GIẢNG:

 

Người rộng tu các việc thiện, mong được phước đời sau, đó là mong cầu. Nhưng nghe pháp biết không nên như thế, mới không tham trước. Nghe pháp biết tất cả pháp tánh là không, không chấp trước. Nghĩa là ban đầu có mong cầu, sau tỉnh mới bỏ, đó là tiểu xả.

Đối với chúng ta, trong ba thứ tiểu xả còn khó huống là đại xả. Nên người học đạo tu hành phải biết thật kỹ, trên đường tu chúng ta đến đâu, làm gì cho hợp đạo lý. Đừng để tu mà đi trên đường không đúng chánh pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đại xả như cây đuốc sáng để ở trước, lại không có mê ngộ. Trung xả như cây đuốc sáng để một bên, hoặc sáng hoặc tối. Tiểu xả như cây đuốc sáng để phía sau, không thấy hầm hố. Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”.

 

GIẢNG:

 

Cây đuốc sáng để ở trước nên không có phía nào tối, đó là Đại xả. Cây đuốc để một bên thì sáng được bên này, bên kia tối, đó là Trung xả. Cây đuốc để đàng sau, mình đi tới không thấy đường có thể trật chân. Vì còn đắm trước danh văn lợi dưỡng, tuy sau thức tỉnh, nhưng cũng muộn. Nên nói cây đuốc đốt để phía sau, có thể sụp hầm hố, đó là Tiểu xả. 

Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”. Quá khứ, hiện tại, vị lai tâm không thể được thì còn chấp gì nữa, rỗng rang sáng suốt nên “ba thời đều xả”. Được vậy là đại xả.

 

CHÁNH VĂN:

 

Từ đức Như Lai trao pháp cho Tổ Ca-diếp đến nay, lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Ấn (con dấu) in trong hư không thì in không thành dấu. Ấn in nơi vật tức ấn không thành pháp. Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. Song, tâm tức vô tâm, được tức không được.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này nói thẳng về các Tổ Thiền tông. Từ đức Phật trao pháp cho Tổ Ca-diếp là lấy tâm ấn tâm. Ấn như con dấu, nếu con dấu ấn trong hư không thì không thành dấu. Ấn tâm là sao? Tâm của người đệ tử thế nào, vị thầy thấy đúng như thế, đó là thừa nhận, là ấn tâm. Như vậy cái ấn ấy không phải in vào cây cối, mà in hẳn trong tâm. Ví dụ trong sinh hoạt, chúng ta hay nói “tôi đang suy tính việc này mà chưa ra, giờ muốn bàn với huynh đệ giúp đỡ”. Khi đó có người đưa ra cách giải quyết đúng ý mình, chúng ta vui vẻ nói “đúng ý tôi rồi”, đó cũng là ấn tâm, nhưng ấn tâm sanh diệt, không phải ấn tâm chân thật.

Tổ Huệ Khả sau khi được Tổ Bồ-đề-đạt-ma dạy biết lối vào, Ngài tự tu cho tới một hôm trình với Tổ Đạt-ma: “Bạch Hòa thượng, con dứt hết các duyên.” Tổ Đạt-ma sợ Ngài lầm chỗ không tâm nên nói “coi chừng rơi vào không”. Ngài liền nói “rõ ràng thường biết làm sao không được”. Tổ bảo “chỗ đó chư Phật như thế, Ta như thế, ông cũng như thế”, đó là ấn tâm. Ấn chứng như vậy là dùng tâm ấn tâm, ấn mà không có năng ấn, sở ấn. Ngài nói: Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Tâm thầy và tâm trò không khác nhau.

Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. Vì năng ấn và sở ấn cũng không có, không thể được, chỉ hai bên in hệt nhau vậy thôi. Không phải thầy là năng ấn trò là sở ấn, vì nếu có năng cũng như có dấu ấn, có sở như có tờ giấy trắng để in xuống, chỗ này không năng sở gì hết. Đệ tử trình bày đúng như cái thấy của thầy. Thừa nhận như vậy là truyền tâm pháp ấn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phật có ba thân: pháp thân nói pháp tự tánh rỗng suốt, báo thân nói pháp tất cả thanh tịnh, hóa thân nói pháp lục độ vạn hạnh. Pháp thân nói pháp không thể dùng ngôn ngữ âm thanh hình tướng văn tự mà cầu, không có nói, không có chứng, tự tánh rỗng suốt mà thôi. Cho nên nói: “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp”.

 

GIẢNG:

 

Kinh Kim Cang nói “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp” là chỉ cho pháp thân.

 

CHÁNH VĂN:

 

Báo thân, hóa thân đều tùy cơ cảm mà hiện, có nói pháp cũng tùy sự hợp cơ để vì nhiếp hóa đều không phải là chân pháp.

 

GIẢNG:

 

Báo thân, hóa thân là phương tiện tùy cơ, không phải là chân pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cho nên nói: “Báo, Hoá không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp.”  

 

GIẢNG:

 

Như vậy báo thân, hóa thân nói pháp không phải là chân Phật, vì không thể nói thẳng được pháp thân.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói “đồng là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp”. Một tinh minh là một tâm. Sáu hòa hợp là sáu căn. Sáu căn này mỗi cái cùng trần hợp. Mắt cùng sắc hợp, tai cùng tiếng hợp, mũi cùng mùi hợp, lưỡi cùng vị hợp, thân cùng xúc hợp, ý cùng pháp hợp. Khoảng giữa sanh sáu thức là mười tám giới. Nếu rõ mười tám giới không thật có, trói sáu hòa hợp làm một tinh minh. Một tinh minh là tâm vậy. Người học đạo đều biết cái này. Chỉ không thể khỏi cái hiểu “một tinh minh và sáu hòa hợp”, bèn bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Như Lai ra đời muốn nói nhất thừa chân pháp, ắt chúng sanh không tin sanh ra hủy báng chìm trong biển khổ, nếu hoàn toàn không nói thì mắc lỗi san tham, chẳng vì chúng sanh chỉ dạy diệu đạo. Ngài bèn lập phương tiện nói có ba thừa, thừa có đại tiểu, được có cạn sâu đều không phải là bản pháp. Cho nên nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Nhưng, vẫn chưa có thể hiển bày một tâm pháp, cho nên triệu Ca-diếp đồng trong pháp tòa riêng trao một tâm pháp rời nói năng, một nhánh pháp này khiến riêng thực hành. Nếu người hay khế ngộ liền đến Phật địa.     

 

GIẢNG:

 

Nói một tinh minh sanh sáu hòa hợp, đó là dẫn trong kinh Lăng Nghiêm. Phật dạy, chúng ta có tâm trong sáng, hiện ra ở mắt gọi là cái thấy ở mắt, hiện ra ở tai gọi là cái thấy ở tai v.v… Cái chân thật đều hiển lộ qua các căn. Cho nên ở đây bảo trói sáu căn trở về với một tinh minh, tức gom sáu căn về một tinh minh. Chỗ này nếu nói một tinh minh sanh sáu hòa hợp thì bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Vì vậy chúng ta phải trói sáu hòa hợp thành một tinh minh. Chỗ này hết sức quan trọng, trên ngôn ngữ nghe thường nhưng trên sự tu lại tối quan trọng, trói lục hòa hợp thành nhất tinh minh. Đó là mình trói pháp, không để pháp trói mình.

Làm sao trói sáu hòa hợp thành một tinh minh? Khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm v.v… mỗi cái đều theo trần cảnh, vừa thấy liền khởi thức phân biệt, thành ra sáu căn, sáu trần, sáu thức hợp lại. Bây giờ trói sáu căn trở về một tinh minh là thấy nghe… sáu cái đều hoạt động, nhưng không cho dính cái gì hết. Chỉ sống với một tinh minh là thấy nghe đủ cả mà liễu liễu thường tri. Không để thức phân biệt cái này dính cái kia, như vậy là trói lại. Nếu trói sáu căn trở về một tinh minh là đến chỗ chân thật. Tinh minh thì đâu phải vô tri giác. Tổ Huệ Khả nói “tâm con dứt hết các duyên”, là không dính các pháp bên ngoài tức Ngài trói sáu căn, không cho dính với sáu trần. Từ trói sáu căn không dính với sáu trần bị Tổ Đạt-ma nói “coi chừng rơi vào không”, Ngài thưa “ con rõ ràng thường biết, làm sao không được” tức là nhận một tinh minh rõ ràng thường biết, chớ đâu phải không.

Chúng ta ngày nay thích trói sáu căn hay thích thả sáu căn. Như ở đây nghe đàng kia có hoa thơm thì chịu ngồi đây hay đi tìm hoa. Hoặc đang ngồi đây mà nghe đàng kia có tiếng nhạc hay, lúc đó ngồi yên hay chạy lại coi nhạc gì vậy. Rõ ràng chúng ta thả sáu căn để cho sáu trần xỏ mũi dẫn đi. Nếu ngồi đây nghe mùi hoa thơm, nghe tiếng nhạc hay vẫn rõ ràng thường biết, không thèm dính không thèm chạy, đó là trói sáu căn trở về nhất tinh minh, hay trói sáu hòa hợp trở về nhất tinh minh. Nó hay chạy theo, bây giờ cột lại không cho chạy, đó là trói. Chúng ta tu là trói lục hòa hợp để trở về nhất tinh minh. Một tinh minh tức là một tâm. Nếu chúng ta nói một tinh minh sanh ra lục hòa hợp, đó là chạy theo pháp, bị pháp trói rồi.

Tất cả kinh điển đều là do chư Phật lập phương tiện nói có ba thừa. Thừa lại có đại thừa tiểu thừa, được có cạn sâu đều là chẳng phải là bản pháp. Bản pháp là trói lục hòa hợp trở về nhất tinh minh.

Cho nên dẫn kinh Pháp Hoa nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Chân là chỉ có cái chân thật, còn thấy hai là đối đãi không phải chân. Trong bài “Tín Tâm Minh” Tổ Tăng Xán kết thúc “tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm”, nếu tin tâm thì không hai, có hai là chưa tin tâm. Ở đây nói còn hai thì không phải chân. Chúng ta thấy kinh Phật với lời Tổ không khác, khít khao, rõ ràng nhưng vì chúng ta không hiểu nên chấp câu chấp lời, cho rằng Tổ dạy khác, Phật dạy khác, thật sự không phải như vậy.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào?

Đáp: Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành?

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào?

Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp gì?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà tìm, tự mình còn không thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp hình trạng gì”?

 

GIẢNG:

 

Câu hỏi thứ nhất: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào? Thông thường ai cũng hay hỏi câu này. Đáp: Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành? Ở đây cần phải hiểu chữ đạo cho thật tường tận. Nhiều người cho rằng đạo là phương pháp là con đường. Nhưng sự thực, chữ đạo trong nhà Thiền là chỉ cho tâm chân thật của chính mình. Thấy được, nhận được tâm chân thật gọi là thấy đạo hay đạt đạo. Tâm chân thật vốn của mình, đâu phải vật gì bên ngoài mà muốn tu hành. Tu là tu những thứ tạm bợ, giả dối. Nên Tổ trả lời “Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành”. Như vậy chữ đạo ở đây chỉ cho tâm thể chân thật của chúng ta, nó sẵn có, chỉ đừng bị vọng duyên, ngoại cảnh lôi cuốn thì đạo hiện tiền. Tu hành chẳng qua dẹp duyên là đủ.

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào? Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ. Lâu nay chúng ta nói học đạo, nói thiền là nói với người nào? Nói với người độn căn. Độn căn là người không sáng. Vì vậy chúng ta đừng lấy đó làm chỗ y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp gì?” Những câu nói tham thiền học đạo là tiếp dẫn kẻ độn căn, người thượng căn phải dạy làm sao?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà tìm, tự mình còn không thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Nếu người thượng căn thì không cần đến người khác tìm. Tại sao? Bởi vì thượng căn thì nhận ngay nơi tánh mình, tâm mình là chỗ y cứ, là chỗ chân thật. Đã có chỗ y cứ còn đi tìm đâu nữa. Chính mình nhận ra còn không có sở đắc, huống nữa có pháp để mình được. Đối với người thượng căn, thượng trí tu là trở lại với tâm tánh sẵn có của mình, đã là sẵn có thì còn tìm đâu nữa. Không tìm thì không có được. Sở dĩ nói được là do tìm, tìm cái bên ngoài chớ không phải cái của mình, vì vậy nói tự mình còn không có thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Xứng tình là hợp với mong muốn của mình. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp hình trạng gì”? Tổ dẫn kinh để xác chứng ý này.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần tìm kiếm?

Đáp: Nếu cùng mài thì sức tâm tỉnh giác.

Hỏi: Như thế thì lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia?

Hỏi: Đã không cho tìm, cớ sao lại nói: “chớ đoạn kia”?

Đáp: Nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư không ở trước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần tìm kiếm? Đáp: Nếu cùng mài thì sức tâm tỉnh giác. Từ này nghe thật khó hiểu. Nếu cùng mài thì sức tâm tỉnh giác nghĩa là sao? Chỗ đó không phải tìm kiếm bên ngoài, nhưng biết mài biết giũa thì tâm tỉnh giác càng sáng. Vậy cái gì mài, cái gì giũa? Thật ra chúng ta không có gì để dụng công, nhưng trên thực tế vẫn hằng dụng công. Nghe như mâu thuẫn. Tại sao? Bởi vì nếu có dụng công, tất nhiên người dụng công và cái bị dụng công khác. Còn ở đây mình tự tỉnh, tự giác. Tất cả vọng tưởng phiền não dấy khởi, mình buông đi không theo, lúc đó dường như thấy có buông bỏ phiền não, mà thật ra phiền não không thật, cái thấy phiền não cũng không thật. Như vậy cả hai đều không thật. Do chúng ta tự tỉnh thấy nó không thật nên buông bỏ, chớ không phải thấy thật rồi cố mài giũa cho nó sạch.

Trong giai đoạn tu phải dụng công như thế, không thể nói tâm mình sẵn thanh tịnh là ta sống thanh tịnh được. Rõ ràng bây giờ nó không chịu thanh tịnh, luôn nghĩ bậy nghĩ bạ đây. Nếu chúng ta để y nguyên như thế, thì nó nghĩ hoài làm sao dẹp được, nên phương tiện dùng sức tỉnh giác mài giũa nó. Khi nó lặng thì cái tỉnh giác cũng lặng theo. Vì vậy nói “nếu cùng mài thì sức tâm tỉnh giác”.     

Hỏi: Như thế thì lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không? Câu hỏi này rất có ý. Chúng ta mài giũa tới khi cả hai mòn hết, thì thành đoạn tuyệt, chẳng lẽ tu tới không ngơ?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia?

Ai dạy kia không, nghĩa là dạy tới chỗ cuối cùng là không. Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia? Đó là cái thật của chính mình, chúng ta không thấy, không nhận là do vọng tưởng điên đảo mờ ám che đậy, buộc lòng phải mài giũa. Mài giũa nó tiêu mòn dần, cái thật hiện ra, đâu nói là không được.

Hỏi: Đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”? Đáp: Nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư không ở trước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

Ở đây hỏi đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”, tức là chớ đoạn nó. Đáp nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ngừng tâm đuổi tìm là được, chớ nói gì đoạn. Vì thể tâm chân thật không tướng trạng nên dùng hình thức hư không để ví dụ. Hư không không có hình tướng làm sao đoạn, thể tâm cũng thế, làm sao đoạn được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Hỏi: Lý ưng cùng người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về tình, tình sanh thì trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh tình phải chăng?

Đáp: Nếu không sanh tình ai nói là phải?

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Trong hư không buổi sáng mặt trời lên thì thấy sáng, buổi chiều mặt trời lặn thì thấy tối, sáng tối là cảnh bên ngoài. Hư không không sáng tối, như vậy đồng khác với ta chăng? Hư không là vô tri, tánh giác là thường tri. Cái vô tri với cái thường tri mà hỏi đồng hỏi khác là sao? Đây chẳng qua tạm dùng hư không để thí dụ, ông bèn nhằm vào nó sanh hiểu, tưởng chỗ chân thật giống như hư không. Như vậy không đúng.

Hỏi: Lý ưng cùng người sanh hiểu chăng? Như vậy cho người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về tình, tình sanh thì trí cách.

Câu này đáp rất rõ ràng. Hỏi “như vậy cho sanh hiểu không”, Ngài đáp tôi không từng chướng, không ngăn, không che ông, ông tự muốn hiểu thì cứ hiểu, nhưng cái hiểu thuộc về tình. Cho nên khi các Thiền sư hỏi “hội không” thường đáp “chẳng hội”. Chẳng hội mà được, còn nói hội thì ăn đòn. Chẳng hội là chẳng hiểu, bị vì hiểu tức là tình, mà tình sanh thì trí cách, không còn trí chân thật hiện tiền.

Chúng ta sống thường dùng tình nhiều hơn trí. Cái gì cũng đặt thức tình tìm hiểu, càng tìm hiểu thì trí chân thật càng lặn mất. Tu được định trí chân thật mới hiện ra. Đã định thì tình còn không? Tình hết. Tình hết trí mới hiện. Tìm hiểu thuộc về tình, càng hiểu tình càng sâu nên nói tình sanh thì trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh tình phải chăng? Đáp: Nếu không sanh tình ai nói là phải? Hỏi có phải không sanh tình chăng? Nếu còn thấy phải thấy quấy là còn tình. Nếu không sanh tình thì đừng nói phải quấy. Đây là chỗ đặc biệt.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Hòa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái gì là rơi vào?

Hỏi:  Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người?

Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, tìm thật pháp chỗ nào?

Hỏi: Đã là chỗ hỏi tự sanh điên đảo thì chỗ đáp của Hòa thượng thế nào?

Đáp: Ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Hòa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng? Hòa thượng vừa mới nói, người nghe lập lại, tại sao lại rơi vào chỗ nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái gì là rơi vào? Ông không hiểu lời nói, chớ có gì rơi vào, chẳng qua là thấy với chưa thấy thôi, không có gì rơi vào hết.

Hỏi:  Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người? Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, tìm thật pháp chỗ nào? Thật pháp là không điên đảo mà ông hỏi quanh hỏi co, hỏi phải hỏi quấy, đó là tự điên đảo rồi, làm sao thấy thật pháp.

Hỏi: Đã là chỗ hỏi tự sanh điên đảo thì chỗ đáp của Hòa thượng thế nào? Hỏi điên đảo thì chẳng lẽ Hoà thượng đáp cũng điên đảo luôn sao.

Đáp: Ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động. Ở đây Ngài dạy, ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, đừng chạy theo lời nói, mạch văn của người. Nếu chạy theo người ta thì giống như con chó ngu thấy tiếng động là sủa, không biết gió hay cây.

 

CHÁNH VĂN:

 

Về Thiền tông tôi đây từ các bậc tiền bối trao truyền đến nay, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ nói “học đạo” là lời để tiếp dẫn. Nhưng, đạo cũng không thể học, còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết. 

 

GIẢNG:

 

Đứng về mặt Thiền tông, các bậc tiền bối trao truyền từ trước đến giờ, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ dạy người nhận ra, thấy liền thấy, không thấy thì thôi, chớ không cho cầu hiểu biết. Học đạo là lời nói để tiếp dẫn người sau thôi. Nhưng đạo cũng không thể học. Còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Tại sao? Lẽ ra học hiểu thì thông đạo, tại sao mê đạo? Vì càng học, càng hiểu càng trở thành trí suy luận, so sánh, đối chiếu. Mà so sánh đối chiếu thì xa đạo rồi.

Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. Vì đạo không có chỗ nơi nên đạo chỉ cho tâm Đại thừa, tâm thênh thang rộng lớn của mình.

Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết. Tâm này không có chỗ nơi và đặc biệt muốn thấy, muốn gần nó là đừng khởi hiểu biết. Vừa khởi hiểu biết liền cách xa.

Ngài nói đi nói lại, rốt cuộc cũng chỉ cho chúng ta thấy nơi mọi người có tâm thể chân thật, không cho suy luận hiểu biết để mình nhận ra tâm ấy. Bởi vì phải lặng dừng tất cả suy luận tâm ấy mới hiện. Vì vậy chúng ta tu muốn tâm chân thật hiển hiện phải dừng tất cả niệm lăng xăng, đối đãi, phân biệt.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ nói với ông chỗ tình lượng hiện nay, tình lượng nếu hết thì tâm không chỗ nơi. Đạo thiên chân này vốn không danh tự. Bởi vì thế gian không biết, mê ở trong tình. Cho nên chư Phật ra đời nói để phá việc này, sợ e các ông không rõ, quyền lập tên “Đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm, đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn.

 

GIẢNG:

 

Chỉ nói với ông chỗ tình lượng hiện nay, tình lượng nếu hết thì tâm không chỗ nơi. Tình lượng tức là tâm suy luận hiểu biết. Nếu hết tâm suy luận hiểu biết thì tâm chân thật trùm khắp. Tâm suy lượng hiểu biết luôn đặt trên danh tướng. Khi chúng ta phân biệt tên đó, chữ đó, nghĩa đó… là danh. Phân biệt hình này, tướng kia đẹp xấu… là tướng. Tất cả tình lượng phân biệt đều nằm trên danh tướng. Nếu danh tướng tình lượng lặng thì tâm thênh thang bủa khắp, đó là đạo.

Cho nên ở đây dùng chữ “đạo thiên chân” này vốn không danh tự. Tại sao nói đạo thiên chân? Thiên chân có hai cách hiểu. Thứ nhất, thiên chân là cái chân nghiêng một bên. Thường thường nói thiên chân là chỗ đạt được của Nhị thừa, chỉ mới có một bên, chưa viên mãn. Thứ hai, thiên chân ở đây là cái chân thật sẵn có. Đạo sẵn có chân thật này vốn không danh tự. Nên đạo thiên chân tức là đạo sẵn có chân thật. Người thế gian không hiểu nên mê trong tình.

Cho nên chư Phật ra đời thì nói để phá việc này, sợ e các ông không rõ quyền lập tên đạo. Chúng ta sẵn có đạo chân thật, không tên tuổi, không danh tự, người thế gian không biết mê lầm trong tình chấp. Cho nên chư Phật ra đời để phá chấp này, quyền lập tên “đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Chúng ta tu phải nhận ra chỗ chân thật, không nên sanh thêm hiểu biết phân biệt nào, vì vậy nói “được cá quên nôm”. Như người cầm nôm đi nôm, cốt được cá chớ không phải được nôm. Cho nên khi được cá thì quên nôm. Chúng ta cũng vậy, nhận ra đạo thì quên hết danh tự, dù danh tự đạo cũng không còn. Nếu còn bám vào danh tự là còn giữ nôm mà không giữ cá.

Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn. Sa-môn là gì? “Thức tâm đạt bản nguyên danh vi Sa-môn.” Hiểu được tâm, đạt được nguồn cội gọi là Sa-môn. Người tu mà không hiểu tâm, không thấu suốt được nguồn cội thì chưa xứng là người tu. Vì vậy Tổ dẫn kinh Tứ Thập Nhị Chương nhắc câu này.

 

CHÁNH VĂN:

 

Quả Sa-môn là dứt duyên lự mà thành, không phải từ học mà được.

 

GIẢNG:

 

Quả của Sa-môn có nhiều bậc. Thí dụ như Tứ quả Sa-môn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Riêng quả Sa-môn ở đây là quả đạt đạo tuyệt cao, không phải do tâm phân biệt so sánh đối đãi mà thành. Cho nên nói không phải học mà được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ông nay đem tâm cầu tâm, bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy, có khi nào được.

 

GIẢNG:

 

Nếu đem tâm cầu tâm, có khi nào được. Muốn được tâm chân thật tự mình phải buông hết mọi thứ phân biệt vọng lự, thì tâm chân thật hiện tiền. Bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy là đến nhà các bậc thầy cầu mong chỉ dạy, như thế trọn chẳng thể được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người xưa tâm lanh lợi vừa nghe một câu bèn dứt học, cho nên nói là “tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”.

 

GIẢNG:

 

Người xưa nghe một câu bèn dứt học, gọi là tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân. Ngài Huyền Giác nói câu này để nhắc chúng ta đến chỗ chân thật rồi không còn học là tuyệt học, vô vi là không còn mọi động tác, mọi suy luận. được như thế gọi là nhàn đạo nhân, đạo nhân thảnh thơi không còn bận bịu việc gì.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người thời nay chỉ muốn được biết nhiều hiểu rộng, rộng cầu văn nghĩa, bảo là tu hành, không biết biết nhiều hiểu rộng trở thành bít lấp.

 

GIẢNG:

 

Tại sao biết nhiều, hiểu rộng lại trở thành bít lấp? Bởi vì chúng ta học nhiều, nhớ nhiều thì càng che cái chân thật của chính mình, cho nên gọi là bít lấp. Nếu tâm trống rỗng không còn gì che đậy, tâm chân thật sẽ hiện ra.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ cần biết nhiều sánh với trẻ con ăn tô ăn sữa, trọn không biết tiêu cùng chẳng tiêu.

 

GIẢNG:

 

Người muốn biết thật nhiều, thuộc lòng tam tạng kinh điển, giống như mấy đứa bé thích ăn bơ, ăn sữa. Nó không biết ăn nhiều không tiêu sẽ thành bệnh. Chúng ta cũng vậy, cứ ngỡ rằng học nhiều, hiểu rộng là hay, không ngờ chính học nhiều hiểu rộng lại trở thành bít lấp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”. Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này. Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”. Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng.

 

GIẢNG:

 

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu, học nhiều quá tiêu hóa không nổi gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”, tất cả hiểu biết nhiều mà không tiêu hóa nổi thì trở thành thuốc độc.

Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này, học hiểu tìm kiếm phân biệt… tất cả những thứ ấy đều nằm trong sanh diệt, không phải thể chân như.

Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”, trong kho vua không có đạo như thế, không có học lăng xăng như vậy.

Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng. Sao gọi là Như Lai Tạng? Sao gọi là Không Như Lai Tạng? Khi không còn dính chấp, không còn khởi phân biệt gọi là Không Như Lai Tạng. Như Lai là Phật, Tạng là kho. Như Lai Tạng là kho của Phật. Kho của Phật chứa gì? Kho của Phật trống rỗng thênh thang, cho nên gọi là Không Như Lai Tạng.

Còn kho chúng ta chứa gì? Chứa đủ thứ bá nạp, tốt xấu hay dở không thiếu thứ gì. Bởi vậy nên gọi là tạng hay tàng thức. Tàng thức đối với Duy Thức học gọi là thức thứ tám, chứa tất cả chủng tử thiện ác, đó là những thứ phân biệt nên gọi là thức. Khi ta dẹp hết tất cả chủng tử thiện ác rồi gọi đó là Không Như Lai Tạng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Như Lai Tạng lại không một mảy bụi có thể có, tức là vị Pháp vương phá hữu xuất hiện ở thế gian, cũng nói rằng: “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được.”

 

GIẢNG:

 

Như Lai Tạng không một mảy bụi có thể có, nghĩa là không còn một mảy bụi mới gọi là Như Lai Tạng. Nếu không còn một mảy bụi thì gọi là vị Pháp vương phá hữu xuất hiện ở thế gian. Pháp vương phá hữu là gì? Là ông vua pháp dẹp hết những cái có ở thế gian. Cũng nói rằng “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được”, đây dẫn kinh Kim Cang để nói đức Phật là vị Pháp Vương Phá Hữu xuất hiện ở thế gian.

 

CHÁNH VĂN:

 

Lời nói này chỉ là không. Tình lượng hiểu biết của ông cần được tiêu dung, trong ngoài tình hết, trọn không y chấp là người vô sự.

 

GIẢNG:

 

Những lời dẫn từ trước đến đây, cốt chỉ cho chúng ta thấy là không, không một pháp, như vậy tất cả tình lượng, hiểu biết cần phải tiêu dung. Tiêu dung là dọn dẹp tiêu hoá hết, không còn gì lợn cợn nữa. Trong ngoài tình hết, ở trong ở ngoài đều không còn tình chấp. Trọn không y chấp là người vô sự, tức không có gì để dính mắc nữa là người vô sự. Người vô sự là người thế nào? Chắp tay ra sau đi tới đi lui thong thả, ngó trời ngó mây là người vô sự chăng? Ngó trời ngó mây mà trong đầu lăng xăng, có phải vô sự chưa? Thân thì thấy như vô sự mà thực tâm chưa vô sự. Vô sự là tất cả tình chấp không còn, trong ngoài đều dứt sạch, chính chỗ đối cảnh vô tâm mới là người vô sự.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cương yếu giáo lý tam thừa chỉ là thứ thuốc hợp cơ, tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng, chỉ cần rõ biết thì không bị mê hoặc là hay bậc nhất. Không được bên một cơ, một giáo chấp văn nhận hiểu. Tại sao như thế? Thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói.

 

GIẢNG:

 

Ở đây Ngài muốn nói cho chúng ta hiểu, sở dĩ Phật giảng dạy có chia ra tam thừa Phật giáo, hoặc ngũ thừa Phật giáo là vì đối bệnh cho thuốc, chớ chưa phải chỗ cứu kính. Bởi hợp cơ cho nên tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng nên pháp này khác pháp kia. Chỉ cần rõ biết thì không mê hoặc, chúng ta cần biết những pháp ấy Phật phương tiện tùy cơ mà thuyết. Biết rành rẽ như vậy, không lầm lẫn là hay bậc nhất.

Gần đây tôi có một cái nhìn, như hàng Thanh văn lấy pháp Bát chánh đạo làm căn bản, Duyên giác lấy Mười hai nhân duyên làm căn bản. Trong Bát chánh đạo thứ nhất là Chánh kiến, kế đến là Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, tới Chánh định thì dừng. Còn Đại thừa lấy Lục độ làm căn bản. Lục độ gồm Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ. Như vậy hai bên khác nhau chỗ nào?

Theo Thanh văn, bước đầu là Chánh kiến, nhận định đúng với Chánh pháp, đúng với lý Tứ đế. Muốn thế phải có trí tuệ mới Chánh kiến được. Trí tuệ ở đâu ra? Phật dạy “các ngươi hãy thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Trí tuệ đó từ học mà được. Các hàng Thanh văn nhờ nghe, nhờ học kinh Phật mà có nhận định đúng, thành ra trí đó là trí hữu học. Từ trí hữu học đi lần lần lên thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, tu hành đúng tới chánh định thì dừng. Tại sao? Bởi vì Thanh văn tu muốn cầu Niết-bàn, cứu kính Niết-bàn của Thanh văn là Diệt tận định, cho nên dừng lại ở định.

Bồ-tát bắt đầu từ Bố thí, kế đến là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Với tinh thần Đại thừa, trước hết dùng lòng Từ bi, do dùng Từ bi nên bố thí. Bố thí dẹp cái gì? Dẹp tham. Kế đến Trì giới là bảo vệ cho chúng ta tránh những lỗi lầm. Nhẫn nhục để trừ sân. Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ diệt hết si. Như vậy trí tuệ của Lục độ từ đâu ra? Từ Thiền định mà được, nên trí tuệ đó là trí tuệ vô sư. Bồ-tát ban đầu đi từ tâm từ bi, lần lần tới diệt tham, sân, si, cuối cùng trí tuệ chân thật hiện. Phân biệt sự khác nhau trên pháp tu của hai bên Thanh văn và Bồ-tát, chúng ta mới thấy hai giáo lý sai biệt nhau ở mục đích cứu kính.

Người tu Bồ-tát đạo khi được trí tuệ rồi, biết trí tuệ ấy đâu phải riêng mình có, ai cũng sẵn vì nó là trí vô sư. Do đó mọi người đều có khả năng thành Phật, vì vậy các ngài không nhập Niết-bàn mà chấp nhận đi trong sanh tử để độ chúng sanh. Còn các vị Thanh văn tu học từ Tứ đế được Diệt tận định, nên muốn ra khỏi sanh tử nhập Niết-bàn. Một bên hết duyên nhập Niết-bàn. Một bên nhận ra trí tuệ vô sư, lăn lóc vào đời độ chúng sanh. Đó là chỗ khác biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa.

Hiểu vậy mới thấy giáo lý của Phật có từng chặng, nên nói giáo lý Tam thừa chỉ là phương pháp khế cơ thôi. Ở đây chỉ thẳng cho chúng ta biết tới chỗ cuối cùng không còn tất cả những suy nghĩ luận bàn. Nên nói “thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói”, chẳng qua chỉ là phương tiện.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tông môn của tôi đây chẳng bàn việc này, chỉ biết dứt tâm liền thôi, không cần suy trước tính sau.

 

GIẢNG:

 

Tổ bảo tông môn của Ngài chỉ cần dứt tâm, không cần suy trước tính sau. Chỗ này đơn giản mà khó. Ví dụ như người bị bệnh ái nặng, Phật dạy họ quán thân bất tịnh. Quán đến khi nào gớm nó thì bớt ái, như vậy dễ trừ. Còn ở đây không nói bệnh gì hết, miễn niệm dấy lên liền bỏ. Chúng ta bỏ hoài mà không thấy hết nên nói khó. Càng đơn giản càng khó. Cũng thế, chân lý rất đơn giản cho nên khó tìm. Cái gì màu sắc hoa hòe tô điểm bên ngoài, dễ tìm nên người ta thích, nhưng nó không phải chân lý. Chân lý là lẽ thật, rất đơn giản. Hiểu vậy chúng ta thấy lối tu chỉ biết dứt tâm liền thôi là quá đơn giản, vì thế nên khó. Đó là con đường tắt. Khó mà bền chí tu cũng sẽ thành tựu. Còn dễ là con đường quanh, đi không khéo lòng vòng mãi không biết bao giờ mới về đến nhà. Như người leo núi, đi thẳng lên khó, còn đi vòng vòng dễ hơn. Việc tu của chúng ta cũng giống như vậy. Hiểu rồi mới bền chí, mới quyết tâm tu. Nếu không hiểu thì tu lâu thấy mệt mỏi sanh ra chán ngán. Người khéo tu biết buông bỏ những gì dính mắc, che lấp thì tự sáng thôi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật? 

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm?

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không?

Đáp: Trong tam thừa rõ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp tình phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm, trở lại mê tâm mình, vì thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Một niệm tình sanh liền sa vào cõi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay. Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật?

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm? Hỏi tâm nào là Phật, Ngài hỏi lại ông có bao nhiêu thứ tâm? 

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không? Tam thừa nói rõ ràng có phàm thánh, nếu người tu Thiền từ Sơ thiền tới Tứ thiền thuộc về Phàm phu thiền. Từ Tứ thiền trở lên bước qua Thánh quả, có phàm có thánh. Còn Bồ-tát từ thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng thuộc về Hiền, từ sơ địa cho tới thập địa… thuộc về Thánh. Rõ ràng từ giáo lý Nhị thừa tới giáo lý Đại thừa đều nói có phàm thánh. Tại sao Ngài nói không phàm thánh.

Đáp: Trong tam thừa rõ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, trong tam thừa giáo lý cũng nói tâm phân biệt phàm, tâm phân biệt thánh là tâm vọng. Nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Vì ông còn chấp hai bên phàm thánh, đó là vọng nên còn mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp tình phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, bây giờ hai bên phàm thánh đều dẹp hết. Nói dẹp phải quấy hơn thua thì dễ, chớ dẹp phàm thánh hơi khó. Dẹp được phải quấy hơn thua cũng là hạng khá, huống nữa là dẹp tình phàm cảnh thánh. Nếu dẹp được tình phàm cảnh thánh thì không còn Phật nào khác nữa, đó là Phật rồi. Cho nên nói ngoài tâm chân thật không có Phật khác.

Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm, trở lại mê tâm mình, vì thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Ở đây dẫn lời của Tổ Đạt-ma chỉ dạy. Ngài chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm tức chạy ra ngoài tìm phàm tìm thánh, trở lại mê tâm mình tức quên tâm, vì thế buộc lòng phải nói với ông “tức tâm là Phật”. Nói thế để nhớ tâm mình là Phật, không thể bỏ nó tìm Phật bên ngoài được.

Một niệm tình sanh liền sa vào cõi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay, thể chân thật hay tâm Phật của mình từ xưa đến giờ không đổi thay tí nào hết. Nếu người có niệm phân biệt suy tính liền rơi vào cõi khác.

Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác. Đẳng là ngang nhau, được Chánh giác bằng nhau chớ không có cao thấp riêng khác.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lý gì?

Đáp: Tìm đạo lý gì? Vừa có đạo lý bèn tức tâm khác.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lý này thế nào?

Đáp: Chỉ vì tìm nên ông tự khác người, ông nếu không tìm thì chỗ nào có khác?

Hỏi: Đã là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh thì ai đến ông nói “tức”? Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào tìm?

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lý gì?

Đáp: Tìm đạo lý gì? Vừa có đạo lý bèn tức tâm khác. Vừa thấy có đạo lý là tâm khác, chớ không còn tức tâm là Phật nữa.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lý này thế nào?

Đáp: Chỉ vì tìm nên ông tự khác người, ông nếu không tìm thì chỗ nào có khác? Vì chúng ta chạy tìm nên thành khác. Nếu không tìm kiếm thì có gì khác.

Hỏi: Đã là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh thì ai đến ông nói “tức”? Tại ông nói tâm này là phàm, tâm kia là thánh, nên nói tức phàm là thánh.

Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào tìm? Tới chỗ cuối cùng chữ tức cũng phải buông, chữ tâm cũng phải bỏ, cả hai đều hết. Như vậy không cần tìm kiếm ở đâu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Vọng hay chướng tâm mình, chưa biết nay nên lấy cái gì dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”.

Hỏi: Đã không y chấp thì truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rõ tâm này tức là không tâm không pháp.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Vọng hay chướng tâm mình, chưa biết nay nên lấy cái gì dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Nói khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vừa thấy vọng chúng ta khởi dẹp nó, như vậy cái khởi dẹp cũng là vọng. Nhưng nếu vọng khởi mình không dấy niệm bỏ, làm sao nó hết, cho nên giai đoạn đầu phải phương tiện dùng cái này bỏ cái kia.

Nhưng khi chúng ta tu sâu rồi, vọng vừa dấy mình nhìn nó mất. Quí vị đừng cố đè, đừng cố dẹp, chỉ thấy nó buông thôi, đừng theo là được. Tại sao đừng đè đừng dẹp? Bởi vì nó có thật đâu mà đè, có thật đâu mà dẹp, chẳng qua biết nó hư dối không theo là được rồi. Vọng vốn không gốc, không thật, chỉ nhân phân biệt mà có. Cho nên Tổ dạy ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Tất cả hai bên: phải quấy, hơn thua, tốt xấu, đúng sai, phàm thánh… đều không dính bên nào thì vọng tự hết. Ngược lại, nếu kẹt một bên, bên này hoặc bên nọ thì vọng không bao giờ hết. 

Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Tổ dẫn hình ảnh Bồ-tát chặt hai cánh tay để cúng dường, đây là để nói ý bỏ hai bên. Hai bên không còn dính, không còn kẹt, không còn chấp, đó là Phật. Có người bảo khởi nghĩ là vọng, dừng nghĩ là chân, cho nên bỏ vọng cầu chân. Bỏ vọng cầu chân thì còn hai bên hay một bên? Cũng là hai bên. Nói vọng nói chân là phương tiện, chớ không phải thật. Chỉ vọng lặng hết tự nó là chân, cái chân cũng không còn chân, vì đối với vọng nên gọi chân. Vọng hết thì còn gọi là gì? Nó là tâm thể chân thật hiện tiền, không nói vọng, nói chân gì hết.

Cúng dường hai cánh tay là bỏ chấp hai bên. Kinh Đại thừa có những hình ảnh người ta dễ hiểu lầm. Nói Bồ-tát bố thí hai cánh tay, ta tưởng đâu bỏ hai cánh tay được Phật thọ ký. Thích quá hôm nào ta cũng chặt tay để được Phật thọ ký. Nhưng mình chặt tay rồi thì thành người cụt tay, chớ không ai thọ ký cho đâu.  

Hỏi: Đã không y chấp thì truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rõ tâm này tức là không tâm không pháp.

Truyền tâm là người không còn dính chấp nào, tâm thể hiện tiền, nghe người kia trình bày chỗ không còn dính mắc của họ, hai bên thông cảm nhau gọi là lấy tâm truyền tâm. Tổ Đạt-ma truyền pháp cho Tổ Huệ Khả. Tổ Huệ Khả nói “ngày nay con dứt hết các duyên”, nghĩa là không còn chút dính mắc nào. Tổ Đạt-ma sợ dứt hết các duyên lại chấp không, nên nói “coi chừng rơi vào không”. Tổ Huệ Khả nói “rõ ràng thường biết, làm sao không được”. Dứt hết các duyên mà tâm vẫn rõ ràng thường biết, làm sao không. Tổ Đạt-ma nói “ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế”, đó là truyền tâm. Như vậy có truyền gì không? Thường nói truyền trao là đem gậy, đem bát, đem y trao cho gọi là truyền. Còn ở đây ông thấy như vậy đúng với cái thấy của ta, ta thấy đúng với cái thấy của Phật. Đó là thừa nhận chỗ hợp nhau, gọi là truyền, chớ không phải đem cái gì ra truyền cho người. 

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy, ông đâu kham lãnh hội.

Hỏi: Như hư không ở trước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rõ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ gì việc của ông?

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật thì cần gì phải chiếu, ông nếu mở mắt thì nói hết ngủ.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lãnh hội.

Nói truyền tâm là sao? Ngài dẫn Tổ sư nói khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, nhận được chỗ không còn nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết. Khi được cũng không nói tôi biết nó, vì nó rõ ràng hằng biết, đâu thể nói biết được nó. Nếu biết nó thì nó là vật bị biết. Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lãnh hội. Tôi có dạy ông cũng không lãnh hội được.

Hỏi: Như hư không ở trước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rõ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ gì việc của ông?

Người hỏi nói rằng như hư không ở trước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm. Như hư không ở trước mắt, ta có thể nhìn biết, sao không lấy đó mà chỉ? Ngài nói tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Tâm đó không phải ngoài cảnh mà có, nó có ngay nơi ông. Giả sử mình thấy được nó, chỉ là thấy tâm chiếu cảnh, chớ không phải thấy tâm thật. Như lấy gương soi mặt, mặt mày trong gương chúng ta thấy được là cái bóng, chớ không phải mặt mày thật. Mặt mày thật không thể thấy, như con mắt không thể thấy con mắt. Vì vậy những gì chúng ta tìm thấy chỉ là bóng dáng thôi, không phải cái chân thật.

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”. Ở đây hỏi nếu nói không nhân chiếu khi nào được thấy? Ngài đáp nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, nhân tức là nhân chiếu. Muốn chiếu thì phải có vật mới chiếu được, như vậy chừng nào liễu ngộ. Đây dẫn lời các Tổ nói ông thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”, dù nói mấy ngàn điều chỉ là chuyện luống công, chớ gốc là buông tay không dính một vật. Đó là chủ yếu, còn nói đông nói tây chỉ phương tiện thôi.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật thì cần gì phải chiếu, ông nếu mở mắt thì nói hết ngủ.

Đơn giản vô cùng. Hỏi “nếu người hiểu rồi chiếu soi cũng không vật sao”, Ngài đáp “nếu là không vật thì cần gì phải chiếu”. Vì chiếu là soi lại, mà cái ấy không có, lấy gì soi. Bây giờ chỉ nói nếu ông hết mê tức là giác, giống như người mở mắt thì không ngủ. Thức ngủ khác nhau ở chỗ mở mắt với nhắm mắt thôi, sáng tối khác nhau ở chỗ tỉnh hay mê thôi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ngài thượng đường bảo:

Biết nhiều trăm thứ, chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy. Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cũng không có đạo lý gì có thể nói. Vô sự giải tán đi.

 

GIẢNG:

 

Ngài bảo “biết nhiều trăm thứ chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy”, chỗ không cầu là tột bậc nhất, còn biết nhiều trăm thứ không phải là hay.

Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cùng sự không có đạo lý gì có thể nói, nói đạo nhân là chỉ cho những người vô sự, vô sự thì không có tâm lăng xăng lộn xộn, chỗ tột cùng sự không còn đạo lý gì để nói nữa. Cuối cùng Ngài nói một câu dễ dàng nhất: Vô sự giải tán đi, không còn chuyện gì nữa thì giải tán đi, học nhiều làm chi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Thế nào là thế đế?

Đáp: Nói nhánh nhóc ấy làm gì? Xưa nay thanh tịnh đâu nhờ nói năng vấn đáp, chỉ không tất cả tâm liền gọi là trí vô lậu. Ông mỗi ngày đi đứng ngồi nằm tất cả nói năng, chớ đắm pháp hữu vi, nói ra nháy mắt thảy đồng vô lậu. Như nay nhằm đời mạt pháp, phần nhiều người học Thiền học đạo đều đắm tất cả thanh sắc, sao không cùng ta mỗi tâm đồng hư không đi, như cây khô hòn đá đi, như tro tàn lửa tắt đi, mới có một ít phần tương ưng. Nếu không như thế, hôm nào sẽ bị Diêm Vương dẫn ông đi.

 

GIẢNG:

 

Thế đế cũng gọi là thế tục đế. Đệ nhất nghĩa đế cũng gọi là Thánh đế. Thế đế là đối với đệ nhất nghĩa đế mà lập. Chữ đế là lẽ thật. Hỏi thế đế là nói về thế tục, những vấn đề rất thường tình. Cho nên ở đây Ngài đáp: Nói nhánh nhóc ấy làm gì? Tổ giải thích: xưa nay thanh tịnh đâu nhờ nói năng vấn đáp, chỉ không tất cả tâm liền gọi là trí vô lậu, đơn giản làm sao. Chúng ta cứ tìm hiểu ngôn ngữ, văn tự mà không buông tất cả tâm cho thanh tịnh. Nếu tâm không thanh tịnh dù hỏi tới đâu cũng chỉ là ngôn ngữ thôi. Vì vậy Ngài nói chỉ không tất cả tâm liền gọi là trí vô lậu. Chúng ta không tất cả tâm dấy khởi lăng xăng, gọi là trí vô lậu.

Ông mỗi ngày đi đứng ngồi nằm tất cả nói năng, chớ đắm pháp hữu vi, nói ra nháy mắt thảy đồng vô lậu. Đi đứng ngồi nằm nói năng v.v… là tướng hữu vi, đừng mắc kẹt nó. Nếu không mắc kẹt thì mọi hành động đều là vô lậu. Ngược lại nếu mắc kẹt trong pháp hữu vi thì rơi vào hữu lậu.

Như nay nhằm đời mạt pháp, phần nhiều người học thiền học đạo đều đắm tất cả thanh sắc, sao không cùng ta mỗi tâm đồng hư không đi, như cây khô hòn đá đi, như tro tàn lửa tắt đi, mới có một ít phần tương ưng. Ngài dạy chúng ta học đạo không phải học ngôn ngữ, hình thức mà phải tập mỗi tâm đồng hư không. Mỗi tâm đồng hư không là sao? Tâm tâm không dính với cảnh, tâm tâm không dính với hơn thua phải quấy v.v… là tâm đồng với hư không.

Như cây khô hòn đá đi, tại sao bảo mình phải như cây khô như hòn đá? Nhịn đói để chết cứng như cây khô, hòn đá phải không? Nói cây khô, hòn đá để chỉ tâm không dính, không kẹt, không gì làm lay động được tâm.

Như tro tàn lửa tắt đi, mới có một ít phần tương ưng. Làm sao tâm như lửa tắt, như tro tàn? Nghe một lời nói trái tai nổi nóng lên là lửa tắt hay lửa cháy? Lửa cháy chớ không tắt. Nghe nói nặng, nói nhẹ mà tâm vẫn lạnh không bực, không nóng nảy là lửa tắt. Lửa tắt thì tro lạnh, tro tàn. Nghe nói danh lợi mình thích, có lửa không? Sân là lửa mà tham cũng là lửa. Cho nên chúng ta phải khéo tu, làm sao tâm như lửa tắt tro tàn, mới đi tới chỗ tương ưng cùng Phật pháp hay tương ưng cùng chân tâm Phật tánh.

Nếu không như thế, hôm nào sẽ bị Diêm Vương dẫn ông đi. Đó là câu nói cảnh cáo. Cảnh cáo ai? Ai không để lửa tắt tro tàn. Nếu người như lửa tắt, tro tàn thì Diêm Vương biết đâu mà dẫn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ông chỉ lìa hẳn các pháp hữu vô, tâm như vầng mặt trời trong hư không, ánh sáng tự nhiên không chiếu mà chiếu, không phải là việc của sức phản tỉnh. Khi đến đây thì không chỗ nương tựa, tức là làm hạnh của chư Phật, bèn là “nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Đây là pháp thân thanh tịnh của ông, gọi là A-nậu Bồ-đề. Nếu không lãnh hội được ý này, dù ông học được biết nhiều, siêng năng khổ nhọc tu hành, áo cỏ ăn cây, không biết tâm mình đều gọi là hạnh tà, quyết định sẽ làm quyến thuộc của thiên ma, tu hành như thế sẽ có ích lợi gì?

 

GIẢNG:

 

Ở trên Ngài dạy như lửa tắt tro tàn. Đến đây Ngài dạy phải biết lìa các pháp hữu vi tức là lìa hai bên như có không, phải quấy, hơn thua v.v… Khi nào chúng ta không nghĩ hai bên, lúc đó tâm động hay tịnh? Tâm tịnh. Thường thường chúng ta không nghĩ thiện thì nghĩ ác, không nghĩ phải thì nghĩ quấy, luôn luôn nghĩ trong đối đãi. Mà đối đãi là tướng sanh diệt, sanh diệt là động. Cho nên chúng ta lìa hết các tâm, các pháp hữu và vô.

Nếu tất cả hai bên đều lìa thì tâm mình như vầng mặt trời trong hư không, ánh sáng tự nhiên không chiếu mà chiếu, không phải là việc của sức phản tỉnh. Câu này rất thiết yếu, ai có tu mới thấy nó quan trọng. Khi ngồi tu, tâm không dấy niệm, nhiều người cảm thấy vô tri quá, lúc ấy lại khởi nghĩ muốn sáng đạo, có hào quang mới thích. Đó là sai lầm. Vì vậy Ngài dạy nếu không dính kẹt hai bên, tâm như vầng mặt trời trong hư không, ánh sáng tự nhiên không chiếu mà chiếu. Hai chữ không chiếu mà chiếu nói được ý quan trọng này. Không chiếu mà chiếu là sao? Thường thường lúc tâm yên, nó không phản quan, không soi lại, nên nói không chiếu, nhưng nó vẫn sáng, dấy niệm liền biết nên nói chiếu. Đó là không chiếu mà chiếu. Chỗ này rất thiết yếu. Bởi vì khi tu chúng ta nghe nói niệm dấy đừng theo, rồi nhìn niệm hoài. Nhìn niệm như vậy là chiếu hay không chiếu? Chiếu. Vì vậy niệm dấy lên liền đè xuống. Người nào ngồi nhìn niệm như vậy, một giờ đầu sẽ nặng trĩu, không khéo thành đau đầu. Cho nên trong khi tu, chiếu mà không chiếu, chỉ bàng bạc nhẹ nhàng như mặt trời trong hư không thôi. Tâm không khởi niệm chiếu nhưng rất sáng, niệm lên vẫn thấy chớ không phải không thấy.

Tuy nhiên, nói không nhìn chớ không phải thả lỏng, chỗ này rất khó. Nhiều người nghe nói không nhìn liền thả lỏng, mặc tình nó làm gì thì làm, như vậy tu làm chi? Không nhìn mà không thả lỏng nghĩa là tâm lúc nào cũng biết, do biết nên niệm lên không chạy theo. Nếu niệm không lên thì cứ như vậy biết thôi, chớ không phải chăm chăm nhìn. Nhiều người chăm chăm nhìn nên nghe tim đập, nghe nghẹn thở, đó là bệnh. Vì vậy ai ngồi thiền mà tim đập quá thì biết dụng công nhiều, chăm chỉ quá. Cho nên chỗ này phải nhớ thật kỹ.

Không phải là việc của sức phản tỉnh, vậy mà cứ quay lại soi hoài. Tuy không phải quay lại mà vừa dấy niệm liền thấy. Như ánh sáng mặt trời bủa khắp, không cố tình soi rọi chỗ nào, mà sáng tất cả mọi nơi. Khi đến đây thì không chỗ nương tựa tức là làm hạnh của chư Phật. Tu tới chỗ này không còn chỗ nương tựa nữa, tức đang tu theo hạnh chư Phật. Tổ dẫn kinh Kim Cang làm chứng “nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”, Lục Tổ và ngài Trần Thái Tông cũng thấy chỗ này.

Như vậy chúng ta thấy lời dạy trong kinh và chỗ thấy của chư Tổ rất trùng hợp, sự tu không mất gốc. Chúng ta tu mà không nắm vững, nên sanh bệnh này tật nọ, rồi đổ thừa tu thiền sanh bệnh. Khi không có niệm đối đãi dấy lên, lúc đó tâm mình sáng, biết một cách bàng bạc, giống như ánh sáng mặt trời trong hư không trùm khắp. Cái bàng bạc trùm khắp đó không chiếu một chỗ nào, mà không lúc nào không chiếu. Bởi nó sáng biết nên cái gì dấy động liền biết. Nếu tâm của chúng ta được như vậy là tu hạnh của chư Phật, không còn dính kẹt. Cho nên kinh nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.

 Đây là pháp thân thanh tịnh của ông, gọi là A-nậu Bồ-đề. Chúng ta thử ngồi lại tu, mới thấy mình có sẵn pháp thân. Chỉ ba phút, năm phút tâm không dấy niệm đối đãi duyên theo cảnh, lúc đó vẫn thường tri giác nên gọi là pháp thân. Pháp thân tuy có sẵn, nhưng vừa có niệm đối đãi dấy lên là nó phủ che. Vì vậy lặng niệm lại thì pháp thân hiện ra, chớ không đâu hết.

Pháp thân ở đâu mà ngộ? Nó không có chỗ nơi. Cho nên các Tổ nói “ngộ rồi đồng không ngộ”. Không có cái thứ hai. Pháp thân không hai, nó sẵn từ trong. Cái có sẵn đó là cái của chính mình hay nói chính xác hơn thì không có chữ “của” nữa. Thêm một chữ là trật. Cái chính mình mà chúng ta quên, chạy theo đối đãi hai bên thành ra khuất lấp. Bây giờ dừng đối đãi hai bên thì cái đó hiện rõ ra. Khi nó hiện ra, chúng ta biết rõ để sống, đó là sống trở lại pháp thân. Còn thấy ngờ, không biết phải mình không, rồi chạy theo niệm, đó là bỏ quên nó. Cho nên Tổ dẫn kinh nói “người cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác làm sao an trụ tâm”, Phật trả lời “không trụ sắc sanh tâm, không trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Kỳ tâm là tâm vô thượng Bồ-đề, không dính sắc thanh hương vị xúc, đó là tâm vô thượng Bồ-đề.

Chúng ta có Phật mà không chịu sống với Phật lại đi sống với ma, đó là lỗi lớn. Sống với ma rồi sợ ma, chạy đi tìm Phật. Không gặp Phật thật chạy tìm Phật giả lạy, như vậy cứ quanh quanh quẩn quẩn. Thật đáng thương! Vì vậy ở đây chư Tổ chỉ thẳng lối tu trực chỉ, không tìm kiếm ở đâu hết, đừng để tâm dính kẹt hai bên. Tâm không dính kẹt hai bên mà hằng tri hằng giác là Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tâm chân thật không phải xa, xa là vì chúng ta không chịu nhận. Hồi xưa không có ai chỉ dạy nên không biết, bây giờ có người chỉ dạy rồi chúng ta phải khéo nhận, khéo biết.    

Nếu không lãnh hội được ý này, dù ông học được biết nhiều, siêng năng khổ nhọc tu hành, áo cỏ ăn cây, không biết tâm mình đều gọi là hạnh tà, quyết định sẽ làm quyến thuộc của thiên ma, tu hành như thế sẽ có ích lợi gì?

Ngài trách nếu người không lãnh hội được ý trên, dù học làu làu Tam tạng kinh điển, siêng năng khổ nhọc tu hành, lấy cỏ kết thành áo, ăn lá cây mà không biết tâm mình, đều gọi là hạnh tà. Học giỏi, hiểu nhiều, tu khổ hạnh mà không biết tâm mình, đều gọi là hạnh tà. Chỗ này chúng ta phải lưu ý. Mình có tâm ham học, ham tu là rất tốt, người thế gian rất kính nể. Nhưng đối nơi chỗ cứu kính, nếu không nhận ra bản tâm thì tất cả các việc trên đều là hạnh tà. Nếu là hạnh tà quyết định sẽ làm quyến thuộc Thiên ma. Tu hành để cầu giải thoát sanh tử, mà như vậy thì có lợi ích gì.  

 

CHÁNH VĂN:

 

Chí Công nói: “Phật vốn tâm mình làm, đâu được trong văn tự cầu.”

 

GIẢNG:

 

Phật là từ tâm mình mà thành, chớ không phải trong chữ nghĩa. Nếu lấy chữ nghĩa làm sở đắc, đó là sai lầm.

 

CHÁNH VĂN:

 

Dù ông học được tam hiền tứ quả, thập địa mãn tâm, cũng chỉ là ngồi trong phàm thánh, không thấy đạo.

 

GIẢNG:

 

Được tam hiền tứ quả, là bậc nào? Nếu Bồ-tát thì thập tín, thập trụ, thập hạnh là tam hiền. Tứ quả là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Được những quả vị này cho tới thập địa mãn tâm cũng còn ngồi trong đối đãi phàm thánh, chớ chưa phải chỗ chân thật. Đã là phàm thánh đối đãi thì không thấy được đạo. Không thấy được đạo tức không nhận ra Phật tánh hay pháp thân của chính mình.

 

CHÁNH VĂN:

 

Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, thế lực hết thì tên lại rơi xuống, chiêu cảm quả đời sau không như ý. Đâu bằng môn thật tướng vô vi, một phen vượt lên thẳng đến địa vị Như Lai. Vì ông không thể như người kia nên cần đến hóa môn của cổ nhân, học hiểu cho rộng.

 

GIẢNG:

 

Ở đây Ngài nói thật rõ ràng, nếu còn nằm trong phàm thánh thì chưa thấy đạo. Vì tam hiền, thập thánh là đối với phàm, cho nên còn hai bên đối đãi, còn đối đãi là không thấy đạo. Thấy đạo tức thấy được pháp thân. Tất cả hạnh là tướng sanh diệt nên vô thường. Vô thường sanh diệt có ngày phải hết. Nếu hết thì rơi trở lại, như mũi tên bắn lên thật cao, nhưng khi hết sức đẩy nó rớt xuống. Chỉ thấy được cái thật của mình mới không lên, không xuống. Cốt lõi của người học đạo là thấu suốt được thật tướng vô vi. Có thế mới một phen vượt lên thẳng địa vị Như Lai.

Vì ông không thể như người kia nên cần đến hóa môn của cổ nhân, học hiểu cho rộng. Người kia là người nào? Người kia là người lên thẳng địa vị Như Lai. Do không thể như người kia nên cần đến hóa môn của cổ nhân, học hiểu cho rộng. Hóa môn là cửa giáo hoá, có học nhiều hiểu rộng mới truyền đạo được. Nếu đủ khả năng đi thẳng lên địa vị Phật thì không phải quanh co.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chí Công nói: “Không gặp minh sư xuất thế, uổng uống pháp dược đại thừa.”

 

GIẢNG:

 

Nếu chúng ta ra đời không gặp minh sư chỉ dạy thì uổng uống pháp dược đại thừa, vì không thể hiện được tâm chân thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ông hiện nay trong tất cả thời đi đứng ngồi nằm chỉ học vô tâm, lâu ngày sẽ thật đắc.

 

GIẢNG:

 

Trong tất cả thời, từ sớm đến chiều đi đứng nằm ngồi, chỉ cần vô tâm. Vô tâm là vô tâm nào? Người ta dễ lầm chữ vô tâm lắm, tưởng vô tâm như gỗ như đá. Ở đây vô tâm là vô cái tâm sanh diệt, trong bốn oai nghi đều không dấy niệm sanh diệt, gọi là vô tâm. Nếu không có niệm sanh diệt, lâu ngày sẽ thật đắc được pháp vô sanh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Vì ông lực lượng kém không thể đốn siêu, cần được ba năm, năm năm hoặc mười năm phải được chỗ vào, tự nhiên hội giải.

 

GIẢNG:

 

Nếu khả năng chúng ta kém không thể tiến thẳng được thì cần cù tu hành ba năm, năm năm, mười năm cũng được chỗ vào.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu ông không thể như thế, thiết tha đem tâm học thiền học đạo, Phật pháp có gì liên hệ?

 

GIẢNG:

 

Nếu không được như vậy, dù đem tâm thiết tha học thiền học đạo cũng không có gì liên hệ với Phật pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cho nên nói: “Như lai nói ra đều vì giáo hóa người, như nắm lá vàng bảo là vàng để vỗ trẻ con khóc, quyết định không thật.”

 

GIẢNG:

 

Chúng ta không đi thẳng ngay chỗ chân thật, mà cứ bám vào giáo lý, bám vào kinh điển, nên Ngài dẫn trong kinh nói: “Như lai nói ra đều vì giáo hóa người, như nắm lá vàng bảo là vàng để vỗ trẻ con khóc, quyết định không thật.” Giáo pháp của Phật là giáo pháp chân thật hay giáo pháp để an ủi người? Chỗ này chỗ hơi khó nói. Lâu nay chúng ta tán thán lời Phật dạy là chân thật, cứu kính, không gì làm lay chuyển được. Nhưng ở đây Phật nói, giáo lý của Ngài như nắm lá vàng nói là vàng để vỗ con nít khóc thôi, chớ không phải vàng thật. Cho nên nói tới chỗ cuối cùng thì tất cả lời Phật nói là phương tiện, chớ không phải cứu kính. Cứu kính thì phải vượt qua lời nói.

Như bây giờ chúng ta đọc Bát-nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không, đó là lời bên ngoài, thành hay không do tự mình làm. Nếu lấy lời bên ngoài làm vàng ngọc, rồi đọc hoài có thành không? Như vậy mới thấy Phật Tổ dạy chúng ta phải làm, chớ không phải nói. Song lâu nay đa số người kẹt lời nói, nên học đạo hành đạo bằng cách đọc tụng lại lời của Phật, cho đó là trung thành với Phật.

Phật dạy giáo lý để khuyên chúng ta tu. Nếu đạt được lý thì phải quên lời, cũng như qua sông phải bỏ bè. Giáo lý là ngón tay chỉ mặt trăng, thấy mặt trăng rồi phải bỏ ngón tay. Giáo lý là phương tiện mà lâu nay chúng ta lại lấy làm cứu kính. Suốt một đời tu cứ đọc hoài lời Phật. Một ngày tụng ba biến, bảy biến kinh Kim Cang hay nửa bộ Pháp Hoa… như vậy cho là tu kỹ. Đọc tụng mà không hành đúng lời Phật dạy, đó chỉ là mắc kẹt trên phương tiện, không thấu triệt được chỗ cứu kính.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu có thật đắc thì không phải người khách trong Tông môn của ta, vả lại cùng bản thể của ông có gì liên hệ?

 

GIẢNG:

 

Nếu người bám vào giáo điển cho là thật đắc thì không phải ở trong tông môn nhà Thiền, cũng không liên hệ gì tới bản thể của mình. Vì Phật tánh là bản thể, cái bên ngoài làm sao gọi là bản thể của mình được. Vì vậy không thể nói trong tông môn của ta, cũng không phải bản thể của ông.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cho nên kinh nói: “Thật không có chút pháp có thể được gọi là A-nậu Bồ-đề.”

 

GIẢNG:

 

Kinh Kim Cang nói “thật không có chút pháp có thể được gọi là A-nậu Bồ-đề”. A-nậu Bồ-đề là vô thượng chánh đẳng chánh giác. Không có pháp nào gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác hết. Vì vô thượng chánh đẳng chánh giác là tâm. Đã là tâm mình thì không phải pháp bên ngoài.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu như hội được ý này mới biết Phật đạo ma đạo đều lầm.

 

GIẢNG:

 

Nếu người thấu suốt được nghĩa này thì Phật đạo ma đạo đều lầm. Sao vậy? Ma đạo lầm thì phải, Phật đạo vì sao lầm? Vì Phật đạo ma đạo là cũng là hai bên, mà hai bên thì không phải thể chân thật. Nếu có lối ở ngoài, dù phải quấy gì cũng là lối ở ngoài, không phải cái thật của mình. Vì vậy nên nói đều lầm.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỗ xưa nay thanh tịnh trong sáng, không tướng vuông tròn, lớn nhỏ, dài ngắn v.v… Vô lậu vô vi không mê không ngộ, rõ ràng thấy không một vật, không người cũng không Phật, “hạt bọt trong biển đại thiên sa giới, tất cả Thánh hiền như điện chớp”.

 

GIẢNG:

 

Ở đây nói lên chỗ chân thật của mình xưa nay thanh tịnh, trong sáng, không tất cả tướng vuông tròn, lớn nhỏ, dài ngắn, vô lậu vô vi, không sanh không diệt, không hai bên mê ngộ. Thấy không một vật là đến chỗ cứu kính, rõ ràng không có một vật. Không người cũng không Phật nữa. Ở đây dẫn bài “Chứng đạo ca” của ngài Huyền Giác hạt bọt trong biển đại thiên sa giới, tất cả Thánh hiền như điện chớp, những hình ảnh ấy đều tạm bợ hư ảo, không có gì thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tất cả không bằng tâm chân thật pháp thân, từ xưa đến nay cùng Phật, Tổ đồng một loại, chỗ nào thiếu kém một mảy lông? Đã hội được ý như thế cần phải cố gắng trọn một đời này thôi, hơi thở ra không bảo đảm trở vào!

 

GIẢNG:

 

Tất cả mọi thứ đều không bằng tâm chân thật tức pháp thân của mình. Tâm chân thật đó từ xưa đến nay cùng Phật, Tổ không khác, không thiếu kém một mảy lông. Chư Phật có tâm chân thật, chúng ta cũng có tâm chân thật, tâm Phật tâm chúng ta không khác. Chúng ta biết được như vậy rồi phải cố gắng buông xả, không nên mắc kẹt hai bên.

  Nói buông xả ai nghe cũng dễ quá, buông xả là bỏ hết đi. Nhưng trên thực tế buông xả dễ hay khó? Có cái đang dính mắc, biểu buông cho nhẹ nhàng, nhất là đang gánh một gánh thật nặng, bảo quăng xuống đi, quăng xuống được thì khỏe, thảnh thơi làm sao. Vậy mà làm không dễ. Thành ra buông bỏ là lẽ thực mà chúng ta không can đảm nên buông không được. Nếu gánh một gánh đất hay một gánh gì hôi hám, ai bảo buông đi chúng ta thấy dễ, nhưng nếu gánh một gánh đồ quí mà bảo buông thì không dám buông. Như vậy chúng ta có thể buông được cái xấu dở, còn cái hay tốt thì không thể buông.

Ở đây Tổ bảo tất cả tâm tốt xấu hay dở đều buông. Bởi vì tốt xấu hay dở đều là tướng động, tướng sanh diệt. Nếu mình bám vào một tướng nào cũng đều là gốc của sanh diệt. Cho nên buông hết cái sanh diệt thì cái chân thật rõ ràng thường biết mới hiện ra. Do đó nhà Phật bảo buông tất cả để được tất cả hoặc nói ngược lại được tất cả là mất tất cả. Sao lạ vậy? Bây giờ nói như thế gian làm đâu được đó. Năm năm, mười năm, hai ba chục năm nhà lầu xe hơi đủ hết gọi là được tất cả. Nhưng tới khi thở khì ra không hít vô thì sao? Mất tất cả. Tất cả cái được đều mất, bởi vì chúng cung cấp cho thân này. Có cái gì không vì thân này đâu, như sắm xe để mình đi, cất nhà để mình ở, cái gì cũng để cho thân này. Khi thân này hoại thì tất cả cái được ấy đều mất hết. Đó là được tất cả mà mất tất cả. Còn chúng ta buông tất cả cái sanh diệt, tạm bợ phải quấy, hơn thua, để tâm chân thật hiện tiền. Ấy là bỏ tất cả mà được tất cả, bởi vì trong cái chân thật đã đầy đủ hết rồi. Vậy buông tất cả sẽ được tất cả không sướng hơn sao.

Người tu mới nhìn thấy như thiệt thòi, khờ dại. Nhưng sự thực trong cái khờ dại ấy có cái vi diệu bên trong, chớ không phải khờ dại như mấy chú khờ khờ ngoài đường. Người tu sống thâm trầm trong nội tâm, chớ không chạy theo hình tướng bên ngoài.

Đã hội được ý như thế, cần phải cố gắng trọn một đời này thôi, ngay trong đời phải làm cho tròn; hơi thở ra không bảo đảm trở vào. Một câu nhắc này buồn làm sao, thở khì ra nhắm mắt đi xuôi. Như vậy còn mong chờ cái gì mà không cố gắng. Cố gắng làm gì? Không phải cố gắng cuốc đất hay cất nhà nhiều, mà cố gắng buông tất cả. Đó là chỗ thiết yếu. Buông tất cả sẽ được tất cả, có thiệt thòi gì đâu mà không chịu buông. Những người hay phân biệt hơn thua phải quấy, hay phân biệt tốt xấu v.v… dễ buông hay khó? Khó buông.

Phật dạy trong kinh Kim Cang “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Thế gian có gì thật đâu, không thật thì buông dễ chớ tại sao lại khó? Chúng ta nói buông nhưng nghe khen cũng thấy thật, nghe mắng cũng thấy thật, nên buông không được. Muốn buông phải có trí tuệ Bát-nhã nhìn các pháp như huyễn như hóa. Thấy như vậy thì buông không khó khăn, buông được đời tu mới có giá trị. Nếu buông không được thì hơi thở ra không hít vào uổng đi một đời, tất cả đều mất hết.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Lục Tổ không hiểu kinh sách sao được truyền y làm Tổ. Thượng tọa Tú là Thủ tọa của năm trăm người, làm thầy giáo thọ, giảng được ba mươi hai bản kinh luận, tại sao không được truyền y?

 

GIẢNG:

 

Câu hỏi này có lẽ một ít chư tăng, chư ni cũng thắc mắc, một ông nhà quê dốt nát mà được truyền y, còn một vị thông minh giảng kinh thao thao lại không được, tại sao như vậy?

 

CHÁNH VĂN:

 

Đáp: Vì kia (Tú) có tâm là pháp hữu vi, có tu có chứng cho là phải. Ngũ Tổ trao cho Lục Tổ, Lục Tổ khi ấy chỉ nhằm khế hội, được thầm trao ý thậm thâm của Như Lai. Thế nên truyền y cho Ngài, ông chẳng thấy nói:

 

Pháp bản pháp vô pháp

Vô pháp pháp diệc pháp

Kim phó vô pháp thời

Pháp pháp hà tằng pháp

 

Dịch:

 

Pháp bản pháp là không pháp

Pháp không pháp cũng là pháp

Nay trao cái không pháp này

Mỗi pháp đâu từng là pháp

 

GIẢNG:

 

Pháp bản pháp vô pháp, pháp bản là pháp gốc, pháp chân thật, pháp đó vốn không pháp. Chữ “không pháp” này hay vô cùng. Khi Lục Tổ trình bốn câu kệ cho Ngũ Tổ, trong có câu “bản lai vô nhất vật”, vật là pháp, xưa nay không có một pháp, Lục Tổ thấy đến chỗ này nên Ngũ Tổ mới cho vào thất giảng kinh Kim Cang rồi truyền y bát. Đệ tử của Lục Tổ là Nam Nhạc Hoài Nhượng, khi tới, Tổ hỏi một câu hết sức tầm thường: “Ông đến có mang vật gì không?” Nghe tầm thường như vậy mà tám năm sau Ngài mới trả lời nổi “nói một vật tức không trúng”. Tổ hỏi thêm: “Có tu chứng không?” Đáp: “Tu chứng chẳng phải không, nhiễm ô không thể được.” Sau đó được Tổ ấn chứng.

Nói “một vật không trúng” giống như Tổ thấy “bản lai vô nhất vật”. Nói một vật không trúng tức là không có một vật. Không có một vật là không ngơ sao? Cho nên Tổ hỏi gạn lại “có tu chứng không”, trả lời “tu chứng chẳng phải không”, nhưng “nhiễm ô không thể được”. Như vậy để thấy nó không phải là cái không ngơ. Chính chỗ đó nên nói pháp gốc là vô pháp, tức không có pháp gì hết. Bởi vì có một pháp là có một vật, mà có một vật là có tướng sanh diệt. Tâm chân thật vượt ngoài tướng sanh diệt, làm sao có một pháp.

Vô pháp pháp diệc pháp, như trên đã nói bỏ tất cả là được tất cả. Không một pháp mà là tất cả pháp, bởi vì không có pháp nào ngoài nó. Như vậy pháp gốc không phải pháp, nhưng không có pháp nào ngoài nó.

Kim phó vô pháp thời, nay trao cái không pháp này, nói trao nhưng sự thực có gì đâu để trao. Thầy thấu suốt như vậy, trò hiểu đúng chỗ của thầy gọi là trao, chớ có gì để trao đâu. Vì vậy nói: “pháp pháp hà tằng pháp”, tức pháp pháp đâu từng là pháp. Chỗ chân thật này không thể diễn tả được, chỉ tạm nhắc tới nhắc lui hai trường hợp như sau:

Trường hợp thứ nhất dễ nhớ dễ thấy nhất là một giờ nửa giờ chúng ta ngồi dưới gốc cây một mình, tâm rỗng rang, không dính mắc gì hết, lúc đó có một vật nào không? Không có một vật, không dính là không có vật. Lúc ấy có tri giác không? Rỗng rang nhưng tri giác hiện tiền. Chỉ không một vật vướng bận trong lòng, lúc đó rỗng rang, tri giác rõ ràng. Thế thì có ai không được một phút hai phút như vậy, đủ biết chúng ta có cái chân thật sẵn đây rồi. Nhưng nếu sực nhớ chuyện này chuyện kia liền quên nó. Đó là nói trường hợp ngồi thảnh thơi ngắm trời ngắm mây, hoặc ngồi dưới cội cây chơi như vậy mà có những phút rất tỉnh.

Trường hợp thứ hai là khi ngồi thiền. Khi ngồi yên tỉnh, chúng ta thấy không có niệm nào hết, lúc đó đâu có pháp gì. Không có một pháp nhưng tất cả động tịnh bên ngoài, mình đều biết hết. Không có một vật mà vẫn hằng giác tri thì Phật Tổ chỉ dạy mình tu đâu phải là chuyện bâng quơ, mà rất thực tế. Có những giờ phút ngồi chơi hoặc ngồi thiền, chúng ta nhận được rõ ràng như vậy nhưng vì nó bàng bạc, rỗng rang nên dễ quên.

Tôi thường ví dụ như chúng ta đang ngồi chơi ngó trời trong veo, thấy cũng thích thích. Nhưng đàng kia có chiếc máy bay, bấy giờ mình xoay lại nhìn chiếc máy bay mà quên bầu trời trong veo. Chừng nào máy bay bay qua mất rồi, họa chăng ta mới nhìn lại bầu trời trong veo cũ. Như vậy cái nào hấp dẫn hơn? Qua hình ảnh ví dụ này chúng ta thấy cụ thể vô cùng. Ngồi nhìn bầu trời trong veo, tâm yên ổn, thời giờ trôi qua mình không quan tâm. Nhưng nhớ chuyện vui buồn thì chạy theo không còn nhớ tới bầu trời trong veo. Một khi vui buồn trỗi dậy, nó dây chuyền hết cái này tới cái kia, gỡ được nút này lại sanh nút khác, không yên. Vậy mà chuyện buồn vui dường như hấp dẫn hơn, còn bầu trời lặng lẽ thênh thang thì dễ quên. Bao giờ chúng ta nhìn bầu trời trong không thấy chán, dù có chim bay hay máy bay bay cũng kệ, chỉ nhớ bầu trời trong veo thì tiến khá rồi. Tuy cũng có chim bay qua, nhưng mình không quan tâm, như thế khả dĩ không đánh mất cái quí báu có sẵn nơi mình.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu hội được ý này mới là kẻ xuất gia, mới là tu hành tốt. Nếu không tin tại sao Thượng tọa Minh chạy đến ngọn Đại Dữu tìm Lục Tổ, Lục Tổ hỏi: “Ngươi đến cầu việc gì, vì cầu y vì cầu pháp?” Thượng tọa Minh nói: “Không vì y mà đến, chỉ vì pháp mà đến.” Lục Tổ bảo: “Ông hãy tạm thời thu niệm, thiện ác đều chớ nghĩ tính.” Thượng tọa Minh nhận lời này. Lục Tổ bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy hiện lại bộ mặt thật của Thượng tọa Minh khi cha mẹ chưa sanh.” Thượng tọa Minh ngay câu nói đó bỗng nhiên thầm khế hội, bèn lễ bái thưa: “Như người uống nước, lạnh nóng tự biết, tôi ở trong hội Ngũ Tổ uổng dùng công phu ba mươi năm, ngày nay mới biết lỗi trước.”

 

GIẢNG:

 

Chỉ một câu nói mà Thượng tọa Minh nhận ra được cái chân thật của mình. Song muốn trình bày chỗ chân thật ấy, Ngài nói như kẻ uống nước lạnh nóng tự biết, không diễn tả cho người khác biết được. Chúng ta có phần chớ không phải vô phần, nhưng vì không khéo nhận nên có cũng như không.

 

CHÁNH VĂN:

 

Lục Tổ bảo: “Khi đến đây mới biết Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không ở nói bàn.”

 

GIẢNG:

 

Lục Tổ bảo có nhận được rồi mới biết Tổ sư từ Ấn Độ sang chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không ở nói bàn. Nghĩa là phải nhận ngay được tâm mình là Phật, không phải suy luận, nói bàn mà biết được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đâu không thấy Tổ A-nan hỏi Tổ Ca-diếp: “Thế Tôn ngoài truyền y Kim Lan, còn riêng truyền pháp gì?” Ca-diếp gọi: “A-nan.” A-nan đáp: “Dạ.” Ca-diếp bảo: “Cột phướn trước chùa ngã.” Đây là chỗ bộc lộ của Tổ sư vậy. Ngài A-nan ba mươi năm làm thị giả chỉ vì trí tuệ đa văn bị Phật quở: “Ngươi ngàn ngày học tuệ, không bằng một ngày học đạo. Nếu không học đạo, một giọt nước cũng không tiêu.”

 

GIẢNG:

 

Tổ Ca-diếp khi nghe Tổ A-nan hỏi “Thế Tôn ngoài truyền y Kim Lan, còn pháp gì khác không”, Tổ Ca-diếp chỉ gọi “A-nan”, A-nan đáp “dạ”, Tổ Ca-diếp bảo “cột phướn trước chùa ngã”. Đó là chỉ cho ngài A-nan pháp mà Phật truyền riêng cho Ngài. Phật truyền pháp gì? Truyền cây phướn trước chùa ngã, phải không? Người xưa đã chỉ rõ cho người sau, nếu không khéo chúng ta không sao nhận ra được. Bởi vậy nên đa số cứ suy nghĩ, tại sao cây phướn trước chùa ngã. Suy nghĩ như vậy biết chừng nào ra.

Ngài A-nan theo Phật, nổi tiếng là đa văn, tức trí tuệ học giỏi nhớ nhiều, rốt cuộc bị Phật quở: “Ngươi ngàn ngày học tuệ không bằng một ngày học đạo. Nếu không học đạo một giọt nước cũng không tiêu.” Học tuệ là học gì? Học đạo là học gì? Tuệ đây là văn tuệ, tư tuệ. Còn đạo là tánh thật của chính mình. Nói thấy đạo là nhận ra bản tánh chân thật của chính mình. Chúng ta biết quay lại nhận ra tánh chân thật đó là học đạo, còn cứ theo chữ nghĩa học thuộc lòng bài này bài nọ, đó là học tuệ. Ở đây Phật dạy nếu không học đạo, một giọt nước của thí chủ cũng khó tiêu. Cho nên người tu phải học đạo. Bây giờ đa số tu sĩ chịu học gì? Chịu học tuệ. Lâu lâu thi lên cấp này cấp nọ, giỏi nữa tới bằng Tiến sĩ, oai quá chừng. Đó là học tuệ, không phải nhân giải thoát. Nhân giải thoát là trở về chính mình.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Thế nào được không rơi vào giai cấp?

Đáp: Chỉ hằng ngày ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo trắng, trọn ngày đi mà chưa từng đạp một cân đất, cùng khi ấy không có tướng nhân, tướng ngã…, trọn ngày không rời tất cả việc mà không bị các cảnh mê hoặc, mới gọi là người tự tại.

 

GIẢNG:

 

Ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo trắng, nghĩa là sao? Câu này mang ý nghĩa ăn mà không dính vị ngon vị dở, vì vậy ăn cả ngày mà không kẹt vị. Trọn ngày đi mà chưa từng đạp một cân đất là sao? Nghĩa là đi mà không dính với cây cối, cỏ hoa, không dính với tất cả những gì trên đất. Khi ấy không thấy có mình thật, có người thật v.v…

Trọn ngày không rời tất cả việc mà không bị các cảnh mê hoặc, chúng ta nghe nói ăn mà không nhai nát hạt gạo, đi mà chưa từng đạp cân đất, không có tướng nhân, tướng ngã tưởng là không làm gì hết, nhưng ở đây Tổ dạy trọn ngày không rời tất cả việc là việc gì cũng làm, nhưng đặc biệt không bị các cảnh mê hoặc. Làm tất cả mà không dính tất cả, dính là bị mê hoặc. Như vậy mình nên làm hay không nên làm? Khi không việc thì nghỉ, có việc thì làm, làm tất cả mà đừng bị việc kéo lôi, làm cho mình mắc kẹt trong đó. Mới gọi là người tự tại, ai được vậy mới là tự tại.

Chúng ta có bệnh, khi không làm thì ai kêu làm nói để tôi tu, không chịu làm gì hết. Nghe cũng phải, để cho rảnh tu, chớ bắt làm hoài làm sao tu. Như vậy làm có nghĩa là không tu. Nếu ai cũng sợ làm tu không được thì chắc tới giờ múc nước lạnh uống cho rồi, làm gì có cơm ăn. Cho nên phải hiểu rằng không phải ngồi không mới gọi là tu. Chúng ta làm tất cả việc mà không bị cảnh mê hoặc, lôi kéo mới là người tự tại. Làm thì cứ làm, mà không bị việc làm cho kẹt là đúng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Lại, lúc nào mỗi niệm đều không thấy tất cả tướng, chớ nhận ba thời trước sau, quá khứ không đi, hiện tại không dừng, vị lai không đến, ngồi ngay an ổn mặc tình không câu chấp, mới gọi là người giải thoát.

 

GIẢNG:

 

Người giải thoát là không dính tất cả niệm, không kẹt ba thời, không bị tất cả tình chấp trói buộc.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cố gắng! Cố gắng! Trong môn này ngàn người, muôn người chỉ được ba người, năm người.

 

GIẢNG:

 

Ngài nói trong môn học này, ngàn người muôn người chỉ được năm ba người. Sao khó lắm vậy. Khó hay dễ? Không khó, nó dễ nhưng người ta không chịu dễ, bảo bỏ niệm mà không chịu bỏ cứ giữ hoài. Giữ cái nghĩ lăng xăng lộn xộn đau đầu hay thảnh thơi? Than đau đầu mà kêu bỏ không chịu bỏ. Bảo làm việc nhẹ nhàng lại nói khó, còn việc khó khăn thì cho là dễ, thật vô lý. Khó là vì chúng ta không can đảm, không dứt khoát, buông là buông, không cho nó tái lại, như vậy lần lần mới hết. Quí vị buông mà tiếc hoài. Tâm dính kẹt sao dễ vướng quá, chỉ nghe thoang thoáng gì đó là thấy khó chịu rồi. Ví dụ mình không làm việc ấy, bỗng ai đi ngang nói nho nhỏ, nghe động tới tên mình thì hơi khó chịu rồi, muốn tìm hiểu xem họ nói cái gì? Họ khen hay chê mình? Chưa kêu tận mặt chỉ nói nho nhỏ có tên mình là muốn điều tra rồi, như vậy dính hay không dính? Mới phớt qua thôi, chưa gắn vô mà mình đã dính, huống nữa chỉ mặt chú này hư xấu thì thôi ba bốn ngày bỏ ăn bỏ ngủ. Đó là vì chúng ta dễ dính quá, nên gỡ khó. Nếu không thèm dính thì buông rất dễ, có khó gì đâu. Như vậy lỗi buông không được là lỗi tại ai? Tại mình giữ kềm mãi nên không mất.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu không làm việc này, ắt có ngày thọ ương. Cho nên nói: “Cố gắng đời nay phải xong xuôi, còn đâu nhiều kiếp mang tai họa.”

 

GIẢNG:

 

Cố gắng đời nay giải quyết cho xong, thì khỏi nhiều kiếp mang tai họa. Nếu không chịu giải quyết ngay đời này thì những kiếp sau phải mang họa, bị lôi kéo trở lại sanh nơi này, nơi kia chịu nhiều khổ nhọc.

 

 

]