PHẦN
II
*Truyện
ngắn, tản bút
*Tư
tưởng, kinh nghiệm Thiền…
***********
GIÁ
TRỊ CỦA LÍ DUYÊN KHỞI
TRONG
ĐỜI SỐNG THIỀN TUỆ
Tôi
không phải là một Phật tử. Do khát vọng muốn sống một cuộc sống khế hợp với
chân lí như thực, thật sự có ý nghĩa cho mình và tất cả, tôi đã tìm đọc, suy
nghĩ, rồi thực nghiệm giáo lí trong vài tôn giáo.
Phật
giáo đã giúp tôi vốn liếng khá lớn để phát hiện sự hư dối của bản ngã. Sau đó
tôi đã biết rằng, muốn phát hiện thật tướng của bản ngã, của vô minh thì cần
phải có sự im lặng tư tưởng. Với những ý tưởng luôn chằng chịt trong tâm trí
thì không có tuệ quán như thực, cũng như không thể có tri giác tự do tự tại.
Hơn
mười năm sống thiền bằng pháp Quán Tâm, tôi đã vận dụng vào cuộc sống hằng ngày
qua nhiều nghề: làm rẫy, dạy học, phụ trách công tác thư viện, sáng tác… Một
hôm nhân đọc công án của các thiền sư, tôi chợt nhớ đến lí Duyên Khởi. Thì ra
tâm trí tôi không có những giây phút tỉnh thức và lặng lẽ, là do toàn bộ sự
sống của tôi không chịu công nhận chân lí duyên sinh-vô ngã. Xưa nay tôi cứ
chìm đắm mãi trong những phê phán, nhận xét, quan niệm, ước muốn…, chúng âm
thầm phát xuất từ quy định của bản ngã huyễn ảo. Với sự tỉnh ngộ đó, tôi bắt
đầu có những giây phút sống với Tâm Vô Ngôn Tịch Chiếu. Những ý tưởng chằng
chịt trong tâm trí (một thứ mộng mị lúc không ngủ ở con người) dần vơi bớt…
Bây
giờ tôi đã biết niềm hạnh phúc của cuộc sống trở về với Chân Tâm, của sự tự tin
vào năng lượng thiền định tự tri.
(Nguyệt san Giác ngộ, tháng 10/1996).
(Trang
91-93)
-----------------
CẦN
BIẾT KÍNH YÊU NHÂN CÁCH
Trí
thân mến,
Tôi
đã đọc kĩ thư của em. Em đang chán đời vì không có điều kiện để học đại học. Em
đang mang nặng mặc cảm tự ti.
Tôi
viết thư này không nhằm an ủi em, mà để trách em. Tôi trách em vì em quá kém
nhận thức về ý nghĩa cuộc sống, về giá trị làm người.
Vì
tôi đã tốt nghiệp đại học nên tôi hiểu rằng, mục đích chính của việc học đại
học là để sau này có năng lực làm công việc mình chọn. Học về chuyên môn là để
tạo tác, để lao động. Vậy thì nếu em không có điều kiện để học đại học, em vẫn
có thể học một nghề nào đó ở tư nhân, hoặc ở các trường chuyên nghiệp trung
cấp, hoặc tự học để sau này có năng lực làm công việc gì đó, để lao động sản
xuất… Tại sao lại chán đời, lại ôm ấp mặc cảm tự ti?! Thật đáng trách.
Mọi
năng lực tạo tác đều chỉ có ý nghĩa công cụ. Trí lực để tạo tác là trí-công-cụ.
Công cụ dù “đắt tiền” hay “rẻ tiền” cũng chỉ là công cụ. Người thật sự hiểu
biết sâu rộng thì không đánh giá con người qua công cụ. Cái tạo nên giá trị làm
người ở trong xã hội là nhân cách. Có nhân cách lớn (nhân cách tự-do-tinh-thần)
là do có trí-tuệ-nhân-văn cao, có trí-lương-tri trong sáng, có năng lực học hỏi
để tự giáo dục-đào tạo, tự chuyển hoá nhằm hướng thiện hướng thượng.
Không
có người chân chính nào lại kính trọng một bộ trưởng nặng óc bè phái ích kỉ,
một giám đốc tham ô, một giáo sư nhận hối lộ, một bác sĩ vô lương tâm, một nhà
thơ đồi truỵ, một sĩ quan hách dịch…
Không
có người chân chính nào lại coi rẻ một y tá giàu y đức, một công nhân xây dựng
có tinh thần trách nhiệm cao, một nông dân không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
trái quy định (vì biết tôn trọng sức khoẻ người tiêu dùng)…
Tâm
trí trong sáng mang năng lượng tích cực có lợi cho bản thân và toàn vũ trụ. Tâm
trí đen tối thì tạo ảnh hưởng xấu…
Trí
thân mến,
Tôi
hi vọng, qua trình bày trên, em nhận thức được những sai lầm trong tư tưởng của
em.
Tôi
biết rằng, hiện nay trong xã hội có một bộ phận lớn đang sống theo thứ nhân
sinh quan lệch lạc. Trong số đó cũng có nhiều người có học vấn cao, có chức vị
cao. Mặc dù vậy, em phải tỉnh táo, đừng dại gì hạ thấp nhân cách để chạy theo
quan niệm sống tầm thường của họ.
Em
phải ngẩng cao đầu để thắp sáng lương tri, lương tâm, nhân cách. Những phẩm
chất cao quý này sẽ là người thầy quan trọng hướng dẫn em chọn lựa một nghề
nghiệp, một việc làm thích hợp với điều kiện thực tế của em. Những phẩm chất
này cũng sẽ làm nảy sinh nhu cầu học hỏi, tự học để nâng cao tay nghề, nâng cao
năng lực nghiệp vụ. Rất nhiều tài năng lớn do tự học mà nên…
Có ai
đó đã nói rất đúng rằng, không có công việc (hợp pháp) nào thấp hèn hơn công
việc nào; chỉ có sự yếu kém nhân cách là thấp hèn.
Mong
em biết kính yêu nhân cách, biết nâng cao lòng tự trọng tự tin để sống lạc quan
minh triết.
Mong
em luôn nhớ rằng, giá trị làm người là ở nhân cách tự-do-tinh-thần, chứ không
phải ở “công cụ”. Có nhân cách đó, ta luôn sống khế hợp thiện-ích-mĩ.
Thân
ái chào em.
(Trang
94-98)
-----------------
CÁI
LƯỠI CÂU
Bạn
tôi làm ở một xí nghiệp nọ, gặp tôi anh than thở:
- Tớ
chán cái xí nghiệp nổi tiếng này quá, cậu ạ. Tay
nhà báo nào đó thổi phồng thành tích của nó hết cỡ. Trong khi ấy, bao nhiêu
thối tha lại không đụng đến một chữ!... Càng nổi tiếng, công nhân càng khổ!
Dù ở
ngành giáo dục nhưng tôi cũng không lạ gì vấn đề này. Ung nhọt đang mọc khắp cơ
thể xã hội… Tôi vỗ vai bạn, khích lệ:
- Hãy
đấu tranh! Có tổ chức công đoàn mà.
Bạn
tôi nhếch mép nhìn tôi. Một lúc sau anh ấy nói:
- Khi
người ta có quan hệ thân thiết với cậu, đối xử tốt với cậu, dù cậu không thật
biết lòng dạ người ta như thế nào, cậu vẫn có thiện cảm với người ta chứ?
Tôi
nghĩ bạn tôi đã chuyển đề tài, nhanh miệng nói:
- Dĩ
nhiên là có. Ai lại không vậy.
- Đã
có thiện cảm, cậu có nỡ làm người ta đau lòng, buồn lòng không?
Tôi
dè dặt không trả lời. Bạn tôi trầm giọng:
- Trở
lại vấn đề ở xí nghiệp tớ. Tớ đang suy nghĩ nát óc để tìm một biện pháp hữu
hiệu nhưng vẫn chưa ra. Phải làm sao loại trừ cái lưỡi câu.
Tôi
ngạc nhiên:
- Cái
lưỡi câu?
-
Vâng. Đó là những cái bắt tay quá thân thiện, những chầu cà phê, những buổi
nhậu, những cuộc thăm viếng, những ưu đãi mà ban giám đốc dành cho ban chấp
hành công đoàn. Với cái lưỡi câu đó, kẻ tham mồi chạy đâu cho thoát!
Tôi
giật mình, chợt thấy sợ những cái lưỡi câu đang hiện ra chỗ này chỗ nọ…
(Báo Giáo dục-thời đại, 07/09/2002).
(Trang
99-101)
------------------
SUY
NGHĨ VỀ MỘT VẤN ĐỀ TRỌNG ĐẠI
Cốt
lõi của cảm thức về ý nghĩa cuộc sống, là cảm thức về giá trị của cái “tôi”,
tức là “giá trị làm người”.
Cốt
lõi của giá trị làm người có văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng) là nhân cách.
Cốt
lõi của nhân cách là đạo đức.
Cốt
lõi của đạo đức là khuynh hướng thiện ích cho nhân loại, cho môi trường chung.
Kim
chỉ nam của khuynh hướng thiện ích là tâm trí tỉnh thức-vô ngã.
Điều
kiện để đạt được ít nhiều sự tỉnh thức-vô ngã là tự tri tự giác (tức quán tâm,
biết tâm ý trọn vẹn), là thiền định.
Muốn
tự tri tự giác phải có khát vọng lớn, phải có sự liêm khiết trí thức, phải có
nhãn quan minh triết. (Những điều này không lệ thuộc ở học vấn nhiều hay ít, vì
có nhiều phương cách để bồi dưỡng văn hoá).
Tóm
lại, “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống.
(Trang
102-103)
-------------------
TÌM
NGƯỜI HẠNH PHÚC
(Truyện
ngắn chính luận)
Cô
gái đẹp và dịu hiền ấy có tuổi thiếu niên thật ảm đạm. Cha mẹ cô rất giàu có
nhưng lại chia tay nhau lúc cô ở vào tuổi mười lăm. Từ ấy cô sống trong sự yêu
thương của người cha. Cha cô muốn rằng sau này cô có đời sống lứa đôi may mắn
hơn ông. Ông thường nói với cô về điều đó.
Một
hôm cô thưa với người cha rằng:
-
Thưa cha, con chỉ lấy chồng khi nào gặp được một người đàn ông thật hiểu thế
nào là hạnh phúc, và người ấy phải đang sống trong hạnh phúc. Vì chỉ người nào
biết sống hạnh phúc đích thực mới có khả năng giúp người khác sống hạnh phúc.
Cô
nói tiếp:
- Qua
kinh nghiệm sống ở gia đình chúng ta, con đã hiểu rằng tiền tài, danh vọng, sắc
đẹp, sức khoẻ, tình cảm, học vấn không phải là những điều kiện quyết định hạnh
phúc cuộc sống. Nhưng con cũng không biết đâu là chân lí, không biết điều gì
đem lại hạnh phúc. Vì thế con phải chờ đợi…
Vừa
thương con, lại vừa muốn học hỏi minh triết ở trường đời, người cha khăn gói đi
tìm chàng rể tương lai.
Sau
khi tiêu tốn nhiều tiền bạc và thời gian, ông đã gặp được một người đúng như mơ
ước của con ông. Đó là một giáo viên còn trẻ, goá vợ, cha một bé gái mười tuổi.
Bà con chòm xóm và bạn bè đồng nghiệp khẳng định với ông rằng chàng là một
người hạnh phúc, thiết tha mến yêu cuộc sống, mến thương con và mọi người.
Chàng
nói với ông:
- Muốn
có hạnh phúc đích thực, theo cháu, trước hết chúng ta phải luôn nhớ rằng mọi sự
đều vô thường. Có như vậy, chúng ta mới can đảm, bình thản và sáng suốt giáp
mặt, ứng xử với mọi biến động của dòng đời… Điều cần thiết nữa là, chúng ta
phải biết ý thức trọn vẹn về nội tâm, về bản ngã của mình để lương tri và trí
tuệ tâm linh luôn tỉnh sáng. Như vậy sẽ sống với năng lượng tinh thần tự do,
trong sạch. Tinh thần đó luôn mang tính chất an vui, nhân hậu và đầy cảm hứng
sáng tạo… Có đủ hai điều này, chúng ta sẽ sống trọn vẹn những năm tháng có ý
nghĩa cho mình, cho đời.
Ông
thấy cảm mến chàng. Ông bày tỏ ước muốn với chàng, nhưng chàng từ chối. Lí do
là chàng sợ con gái của mình phải gặp những đau buồn vì cảnh “mẹ ghẻ con
chồng”.
Ông
ra về, buồn rầu kể lại cho con gái nghe về chàng giáo viên trường làng nọ. Cô
gái an ủi ông:
-
Mình phải vui mừng khi biết trên đời này có những người giàu trí tuệ như vậy,
cha ạ. Giờ thì con hiểu rằng, chỉ với tâm linh trong sáng mới có an vui và tình
thương đích thực… Con hi vọng là sẽ có nhiều người khác như thầy ấy.
Người
cha lại khăn gói ra đi. Qua một thời gian dài trèo đèo lội suối lên chợ xuống
đồng, ông mỏi gối trở lại quê nhà.
Cô
gái săn sóc người cha khả kính. Nàng dịu hiền hỏi ông:
-
Chuyến viễn du này, cha có gặp được người nào thông đạt những giá trị làm
người, biết sống hạnh phúc không, thưa cha?
- Có…
có… một thầy.
-
Thưa cha, thầy ấy có bị ràng buộc gì về vợ con hay tình ái không?
-
Không. Thầy ấy đang hướng đến mặt vĩnh hằng bất diệt trong cuộc sống.
Cô
gái lộ vẻ vui mừng. Nhưng nàng e thẹn, không nói gì thêm. Nàng nhìn cha dò hỏi.
Người cha xoa đầu con gái, nói nhỏ với nàng:
- Đó
là… một thầy… tu.
(Tạp chí Tài Hoa Trẻ, 15/12/1998).
(Trang
104-108)
-------------------
LỜI
DÂNG
Nghề
nghiệp, công việc chỉ có tính chất quan trọng (nhiều hay ít), chứ
không có tính chất cao quý. Sự cao quý thuộc về nhân cách, lương tâm.
Không
thật lòng tôn trọng sự lao động chân tay thì không biết yêu nhân dân; không
biết yêu nhân dân thì không thể có lương tri trong sáng, không thể có
nhân cách cao.
Không
ghét thói hối lộ thì không yêu sự công bằng; không yêu sự công bằng thì không
yêu dân; không yêu dân thì không yêu nước, không yêu nhân loại, không thật có
tinh thần cách mạng.
Xây
và chống, mà không chống thói hối lộ-thói nhận hối lộ, là không chân
chính.
(Trang
109)
--------------
Nếu
giàu tri thức, giàu tài năng nhưng yếu kém lương tâm, lương tri thì chỉ là công
cụ; chưa có nhân cách; còn nghèo trí tuệ; chưa trưởng thành toàn diện.
Không
có sự liêm khiết trí thức thì không có năng lực tư duy minh triết về những vấn
đề trọng đại của cuộc sống, dù có học vị tiến sĩ triết học hay bất cứ gì.
Chưa
có triết lí về giá trị nhân sinh thì văn hoá-giáo dục còn khập khiễng, chính
trị còn khập khiễng.
Sự
xấu ác là biểu hiện của cái “tôi” (bản ngã) đen tối.
Cái
“tôi” càng lớn thì tình thương càng nhỏ. Càng chấp thủ cái “tôi, bệnh
tinh thần càng nặng; càng ảnh hưởng có hại cho tha nhân, môi trường bằng hành
vi, bằng thái độ, bằng năng lượng tâm ý.
(Trang110)
--------------
Theo
cách nói của nhiều nhà vật lí thì vũ trụ là một mạng lưới chằng chịt vật chất
và tâm linh tương quan với nhau. Hiểu như vậy, sẽ thấy toàn vũ trụ là một cơ
thể bất khả phân.
Con
người cần có sự định tâm tỉnh trí để thấy biết trọn vẹn tâm hồn mình. Không tự
tri thì không tự chủ, không có sự liêm khiết và tự do tinh thần, không có
Thiền.
Tham
cứu Thiền là tham cứu sự sống và ý nghĩa cuộc sống.
“Tự
tri-tỉnh thức-vô
ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền;
mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
(Trang
111)
--------------
Thiền
là tự tri, là siêu vượt tín ngưỡng, hình tướng, khái niệm…, là sống tỉnh thức
toàn diện với trí vô sư, với trí tuệ siêu vượt quy định nhị nguyên (tức là sống
với trí bát-nhã).
Về
tôn giáo cũng như về các lĩnh vực khác, rất nhiều người đạt đến đỉnh cao
bằng con đường tự học, tự đào tạo, bằng cách sống thông thường. Khát vọng lớn
thì thành công lớn.
Có
thể có tinh thần tôn giáo mà không theo tôn giáo nào, tín ngưỡng nào.
Một
người ngoại đạo có thể sống khế hợp giác ngộ nếu có khát vọng. Ngộ đạo không
khó, cái khó là có khát vọng.
(Trang 112)
---------------
Một
nguyên thủ quốc gia, một nhà thơ, một bộ trưởng, một sĩ quan, một giáo sư...
nếu mang nặng thói tham ô, hối lộ, bè phái thì giá trị làm người không bằng
một người ăn xin lương thiện.
Người
đảng viên không thật lòng kính yêu nhân dân thì chỉ là kẻ “cơ hội chủ nghĩa”
ích kỉ.
Không
phải “danh ngôn” nào, “lễ nghĩa” nào, “truyền thống” nào cũng giá trị, cũng
đáng theo.
Tinh
thần càng tự do thì trí tuệ-lương tri càng sáng.
Bệnh
thành tích sinh ra thói dối trá, thói dối trá sinh ra sự thối nát.
Ở
giữa vườn hoa, xác chuột chết vẫn thối; ở giữa đầm bùn lầy, đoá sen vẫn thanh
khiết.
(Trang
113)
--------------
Đồng
tiền nhà nước là mồ hôi của nhân dân, trong đó có cả mồ hôi của người ăn xin
(vì người ăn xin cũng tiêu thụ hàng hoá, tức là đã gián tiếp đóng thuế).
Tham ô, lãng phí tiền nhà nước là có tội với toàn dân.
Không
ai là không có tâm xấu ác, điều quan trọng là phải nỗ lực cải tạo. Thực hành
“tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là trách nhiệm của mọi người.
Có
những thứ “vinh quang” dính đầy sự bẩn thỉu. Ai mới thấy hào quang danh lợi đã
trọng vọng, đó là người không minh mẫn, không biết chính tà.
Chưa
nghiên cứu nghiêm túc về bản ngã (cái “tôi") thì chưa thể có đường lối
giáo dục đúng đắn.
Không
biết phục thiện thì không thể học được những bài học vĩ đại trong trường đời;
dù có bằng cấp cao cũng chi là kẻ ấu trĩ về trí tuệ.
(Trang
114)
--------------
Muốn
giác ngộ chân lí tuyệt đối, phải biết “đạt lí, quên lời”, không chấp thủ ngôn
từ, hình tướng - dù hình tướng thánh nhân.
Tâm
hồn đen tối tạo ra xã hội đầy tệ nạn. Muốn xây dựng xã hội tốt đẹp, phải có nền
giáo dục có khả năng giáo dục tất cả mọi người (không trừ một ai) nhận thức sâu
sắc các bệnh tâm hồn, phải làm cuộc cách mạng nội tâm tận đáy cái “tôi”.
Nhà
giáo yếu kém nhân cách thì chỉ là công cụ tồi, có hại cho xã hội rất lớn (vì
nhiều người ngây thơ tin tưởng vào họ). Tu sĩ yếu kém nhân cách cũng thế.
Một
vấn đề lớn của thời đại chúng ta, là làm thế nào để xây dựng vững chắc cảm hứng
sống có đạo đức nhân văn ở con người.
(Trang
115)
--------------
LỜI
DÂNG
(Tiếp
theo)
Thiền
định tự tri thì không thuộc riêng tôn giáo nào hay nền văn hoá giáo dục nào; đó
là tài sản cực kì quý giá của nhân loại muôn đời, của vũ trụ.
Tu
viện lớn, lễ lược nhiều không có ý nghĩa bằng chăm lo chu đáo và khoa học cho
sự tu tập và đời sống vật chất của tu sĩ.
Bắt
học sinh, sinh viên học quá nhiều là bóc lột tuổi trẻ.
Một
tinh thần thật sự trẻ trung và đầy sinh lực là một tinh thần trong sạch. Tinh
thần đó ít lệ thuộc vào thể trạng và hoàn cảnh.
Không
xiển dương sự thanh tẩy tâm thức thì tôn giáo, tín ngưỡng chứa đầy mê tín có
hại.
Sách
báo là thầy, là bạn, là nguồn cảm hứng.
(Trang
116)
--------------
Trái
đất đang nóng dần lên; tâm hồn nhân loại đang nóng bỏng. Nhà khoa học nỗ lực vá
tầng ô-dôn; thiền gia nỗ lực thiền định để góp phần chuyển hoá tâm trí nhân
loại bằng năng lượng tỉnh thức, an lạc, thanh thoát, từ bi. (Nên thấu hiểu
rằng, lòng tự hào tôn giáo cũng là cái “tôi” hiếu chiến vô minh).
Tư
tưởng “trọng thầy khinh thợ” là tư tưởng của hạng người yếu kém văn hoá (dù có
bằng cấp cao, địa vị cao), là tư tưởng của hạng người vong ân bội nghĩa đối với
nhân dân lao động, là tư tưởng phản giáo dục (dù đang làm nghề dạy học, lãnh
đạo giáo dục).
Nhà
tâm lí học không thể hiểu biết sâu sắc cơ cấu tâm lí nếu không thiền định tự
tri. Nhà giáo dục học, nhà chính trị học sẽ không có tầm nhìn minh triết về
giáo dục, về chính trị nếu không hiểu biết sâu sắc cơ cấu tâm lí con người. Nhà
truyền bá tôn giáo sẽ hạ thấp giá trị tôn giáo nếu thiếu quan tâm vấn đề này.
(Trang
117)
--------------
Tham
quyền cố vị thì không yêu dân, không yêu nước.
Làm
chính trị chân chính thì đừng sợ bị chê bai, bị phê phán; không có lời
chê bai, phê phán thì khó nhận thấy khuyết điểm, sai lầm.
Cái
đầu tham ô làm tổn thất hơn một nửa chất xám cho công việc thuộc trách nhiệm
của nó.
Nếu
các cơ quan, các nơi công cộng, các phương tiện truyền thông thường xuyên dùng
khẩu hiệu để chống tham ô, hối lộ, bè phái… thì các tệ nạn này sẽ giảm nhanh.
Phải
thấy rằng nạn hối lộ là một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân loại,
của đất nước.
(Trang
118)
--------------
Đôi
tay thì đưa hối lộ và nhận hối lộ, còn miệng thì ca tụng đường lối cách mạng,
chắc chắn đó là kẻ “cơ hội chủ nghĩa” độc hiểm, hay “chụp mũ” người tốt.
Có
đức mà không có tài, không phải là vô dụng, vì vẫn có tác dụng giáo dục lớn lao
đối với xã hội (qua lối sống), vì vẫn mang năng lượng tinh thần (thiện ích) ảnh
hưởng tốt đến môi trường sống của cộng đồng (có cả giá trị giáo dục). Có tài mà
không có đức, không chỉ có hại cho xã hội về hành vi xấu, mà còn mang năng
lượng tâm thức độc hại cho môi trường (và cho bản thân mình). (Vấn đề
này Phật giáo gọi là tạo nghiệp tốt xấu; nghiệp cũng mang năng lượng; toàn vũ
trụ là những dòng chảy năng lượng).
(Trang
119)
--------------
Viên
mãn “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” rất khó, nhưng chỉ có hướng đến đó mới xây dựng
được mẫu số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc sống. Chỉ có hướng đến đó mới
tạo nên tiếng nói chung cho hoà bình, công bằng, nhân ái - thật sự biết tôn
trọng nhau giữa người với người.
Thiền
chân chính, tôn giáo chân chính không thể không lấy “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”
làm lí tưởng, làm mục đích. Đó là cốt tuỷ của Thiền học chân truyền, của hành
trạng Đại thừa.
Tâm
hồn không thanh bình thì cuộc sống kém chất lượng, hiệu quả công tác không cao,
không có kinh nghiệm về niềm an vui tự phát, không thể ngộ nhập Tánh Viên Giác
vốn có ở chúng sinh và trùm khắp mười phương.
Truyền
bá minh triết thiền “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là góp phần xây dựng nền văn hoá
hoà bình, nền văn hóa tiên tiến.
(Trang
120)
---------------
Nền
văn học nào, nền giáo dục nào không giúp được con người nhận ra các bệnh tâm
hồn, không giúp con người biết cách tự chữa trị có hiệu quả, thì đó là nền văn
học, nền giáo dục còn nhiều yếu kém.
Óc
địa vị là biểu hiện của bản năng quyền lực đậm nét thú tính; nó không biết quý
trọng giá trị nhân cách.
Tuyên
truyền quá nhiều về giá trị của kinh tế, của văn minh vật chất sẽ làm cho giá
trị của nhân cách, của đạo đức, của văn minh tinh thần bị coi thường.
Từ
năng lượng quán tâm (tự tri) xuất sinh tình thương, niềm vui,
năng lực sáng tạo có chất lượng cao, xuất sinh nhãn quan minh triết, tác dụng
giáo dục.
(Trang
121)
--------------
Tâm
thái vô ngã là tâm thái hòa bình, bao dung, minh triết, thông minh.
Khi
đã biết sống với tâm vô ngôn thì tuỳ duyên ứng xử, không bị quy định bởi bất cứ
gì; đó là sự tự do tự tại đích thực của tâm trí. Tâm Thiền là Chân-Thiện-Mĩ.
Minh triết tối thượng là biết dừng tâm và tịch chiếu.
Theo
nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng tâm thức là dạng năng lượng cơ bản, có
ảnh hưởng tốt hoặc xấu cho toàn vũ trụ (tuỳ tính chất tâm thức) và cho bản
thân.
“Tự
tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
Sự
tĩnh tâm tự tri có công năng giữ gìn lương tri, sự tự chủ, sức khoẻ tinh thần,
giá trị làm người .
(Trang
122)
--------------
Người
biết yêu nét đẹp của tâm hồn là người trưởng thành tâm trí, là người có tinh
thần dũng cảm, biết sống với hạnh phúc chân chính.
Càng
hướng đến lí tưởng vô ngã thì cái “tôi” càng giàu thiện ích mĩ.
“Vô
ngã” là bản ngã (cái “tôi”) chuyển thành trạng thái tâm trí hòa bình, tỉnh
sáng, “vô ngôn giữa muôn lời”.
Khi
cái “tôi” xâm lấn, bóc lột người khác, nó luôn ẩn núp sau những lời hoa mĩ.
“Vô
ngã” là Sự Sống bất sinh bất diệt. “Vô ngã” là chân ngã, là giải thoát.
(Trang
123)
--------------
Tâm
hồn không tự do thì không có năng lực tư duy độc lập, không cảm thụ được trọn
vẹn vẻ đẹp cuộc sống, nghèo nàn tinh thần sáng tạo, kém nhân cách.
Nặng
óc cục bộ thì không yêu dân, không yêu nhân loại; chỉ yêu cái “tôi”, luôn bao
che những xấu ác.
Tâm ý
xấu ác không chỉ có hại cho thế giới, mà còn rất hại cho môi trường năng lượng
của mình.
Tư
tưởng xuất thế góp phần làm trong sạch sự nhập thế.
Muốn
chữa cơn bệnh nặng, không thể chỉ uống vài lần thuốc. Muốn rèn luyện cơ thể,
không thể chỉ cần một vài buổi tập. Cũng vậy, muốn cải tạo những tính xấu thì
phải có chương trình học tập, rèn luyện lâu bền. Đây là điều mà ngành giáo dục
cần quan tâm đúng mức khi bàn đến chất lượng giáo dục, hiệu quả giáo dục, đào
tạo cán bộ...(Giúp cho mọi người có cảm hứng tự hoàn thiện nhân cách, đó là vấn
đề cực kì quan trọng của giáo dục, của văn hóa).
(Trang
124)
--------------
Tâm
trí không tĩnh lặng thì không thể giáp mặt thực-tại-đúng-như-thực, không
thể giáp mặt chân lí cuộc sống.
Thượng
Đế (hay Chân-Thiện-Mĩ) không thuộc về phe này hay nhóm kia, không thuộc về hình
tướng nào; mà thuộc về những tâm hồn trong sạch, bình đẳng, bác ái, từ bi. Đó
là Tánh Viên Giác.
Khi
sống muốn bao la cùng trời đất thì khi chết sẽ không bị trói buộc vào chốn
phiền não.
(Trang
125)
--------------
Thursday, May 31, 2012
ĐƯỜNG VỀ MINH
TRIẾT - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
LỜI
DÂNG
(Tiếp
theo)
Tự
tri là, bằng trí tuệ nội quán, nhận biết trọn vẹn mọi cảm giác, tư tưởng, ý
muốn, nhận thức phân biệt v. v…đang xảy ra trong tâm trí. Đây là sự nhận biết
(kiến chiếu) một cách tự nhiên, không phê phán, không lấy-bỏ (thủ-xả), không
dụng công. Có năng lực kiến chiếu này thì tâm trí sẽ tĩnh lặng (tỉnh thức) và
thấy rõ bản chất của bản ngã (cái “tôi”). Bản ngã sẽ được chuyển hoá thành
trạng thái tâm vô ngã - tức là tâm thái hoà bình, từ bi đích thực, mang năng
lượng tích cực có lợi cho toàn “mạng lưới vật chất và tâm linh” của vũ trụ.
Khi
ngồi định tâm mà vẫn nhớ nghĩ đủ chuyện (tức nói năng bên trong) thì giống như
khi ngồi một mình mà nói đủ điều. Đó là tình trạng bất bình thường của tâm trí,
của bộ não và hệ thần kinh.
“Tỉnh
thức” là “có mặt” trong giây phút hiện tại với những gì đang xảy ra.
“Có
mặt” tức là tâm trí không còn vọng tưởng lang thang.
(Trang
126)
---------------
Người
biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết phục thiện; người biết phục
thiện thì dễ tiếp thu đạo lí giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lí giác ngộ thì
dễ thực hành tự tri; người biết thực hành tự tri thì dễ thực chứng chân lí
tuyệt đối, siêu vượt khái niệm-tướng trạng.
Khí
kẻ ác tấn công ta, ta sử dụng trí tuệ và lòng dũng cảm để đối phó với chúng;
làm như thế thì có lợi hơn là sử dụng lòng căm thù.
Vô
ngã là tâm thái tịch tri, tịch chiếu, thường tịch quang. Vô ngã là Chân ngã.
Đừng
coi thường việc chữa trị các bệnh tinh thần, vì nếu thế, văn minh vật chất và
sự hưng thịnh kinh tế chỉ như sức lực dồi dào của một gã khùng hung hãn, sẽ rất
nguy hiểm cho nhân loại.
(Trang
127)
--------------
Những
người yếu kém văn hoá (có thể có học vị cao, tri thức dày) thường coi khinh dân
quê, coi khinh những nghề lao động vất vả, thu nhập thấp. Tâm hồn họ bị xơ hoá,
vô cảm, vong ân.
Cái
nhìn khách quan không thể đánh giá được nhân cách minh triết; chỉ họ tự biết.
Nhân cách minh triết tối cao chính là nhân cách tự-do-tinh-thần. Đó là
giá trị cao nhất.
Tâm
bất bình thường thì não bất bình thường. Tâm não bất bình thường tác động
bất bình thường đến sự vật và ảnh hưởng xấu đến nhận thức của ta, đến cuộc sống
của ta (kể cả hoàn cảnh).
Được
lên thiên đường bởi niềm vui: niềm vui mang tính chất nhân từ. Bị xuống địa
ngục cũng bởi “niềm vui”: niềm vui mang tính chất gian ác.
(Trang
128)
--------------
Không
quan tâm đến sự sống sau khi thể xác chết là quá thờ ơ với tương lai.
Trong
ta có “tấm gương” “nghe và thấy” được tư tưởng, cảm giác, ý muốn... Tĩnh
tâm một thời gian thì tấm gương này sẽ lộ rõ. Nó càng sáng, ta càng dễ thấy cái
“tôi” và cái “tôi” dễ dàng được chuyển hoá thành “vô ngã”.
Mọi
tài năng đều có giá trị về mặt công cụ, đều có thể góp phần làm cho cuộc đời
tốt đẹp hơn. Nhưng cái năng lực quý giá nhất làm cho con người giữ vững giá trị
làm người, đó là sự tự tri tự chủ. Thiếu cái năng lực này, các tài năng khác có
thể biến con người thành ác quỷ, dã thú, kẻ đê tiện.
Tôn
giáo có ý nghĩa lớn về đạo đức, về cảm hứng, nhu cầu cải tạo tâm tính, nếu tôn
giáo giàu từ bi bác ái .
(Trang
129)
--------------
Gọi
là “Thiền” hay từ nào khác cũng được, điều quan trọng là cái nội hàm “tự
tri-tỉnh thức-vô ngã”.
Thiền
học không nên chỉ dạy hạn chế ở một vài ngành đại học, mà nên phổ cập ở
mọi cấp học để có nền tảng vững chắc trong giáo dục-đào tạo nhân cách.
Cái
“tôi” làm cho tâm hồn nặng trĩu vì uy lực, còng xuống vì nô lệ, đen tối vì tự
ti, tự phụ, tự ái…
Thiền
định tự tri càng cao thì càng minh mẫn hơn, chủ động hơn với cuộc sống, với
công việc; năng lượng phiền não được chuyển hoá thành năng lượng an lạc, thiện
ích .
(Trang
130)
--------------
Niệm
(nhớ-nghĩ) luôn xuất hiện trong tâm. Chúng là ngôn từ (tiếng nói bên
trong) và có hình tướng (sóng tâm thức). Trong thiền định (tự tri), ai
thấy rõ niệm sinh diệt liên tục, thấy rõ chỗ niệm xuất hiện và chấm dứt (tức là
khoảng trống giữa hai niệm) thì sẽ nhận ra (ngộ) tâm vô niệm, “vô ngôn”. Đó là
tâm thể “một niệm vô ngôn" như vầng trăng toả sáng. (“Niệm” trong
“niệm vô ngôn" có huyền nghĩa khác hẳn với “niệm” trong “vọng niệm”. Phải
ngộ mới thấy, mới biết). Vô ngôn đó khi đã “an định”, sẽ soi sáng muôn lời (tức
là soi sáng trí phân biệt tương đối), sẽ là tri giác tự do tự tại, thoát
tình trạng vọng động vô minh. Đó là “tánh sáng” bất sinh bất diệt.
Phải
biết “ghét” bệnh phong, nhưng đừng ghét người mang bệnh phong; cũng vậy,
phải biết ghét thói xấu nhưng đừng ghét người đang có thói xấu. Sự xấu ác là
bệnh tinh thần .
(Trang
131)
--------------
Nếu
chưa quán tâm (tự tri) để thấy rõ tướng trạng như huyễn của bản ngã thì
chưa biết “đọc kinh bằng tâm”, chưa biết đọc công án Thiền.
Nhiệm
vụ quan trọng nhất của văn nghệ sĩ là giúp người khác biết sống với hạnh phúc
trong sáng - thứ hạnh phúc mà người văn nghệ sĩ chân chính phải có, nhà văn hoá
chân chính phải có, con người biết tự tin-tự trọng phải có.
Thỉnh
thoảng có được một vài phút sống với tâm vô ngôn cũng có công đức và phước đức
rất lớn.
Giới
hạnh là vấn đề khoa học, vấn đề nhân quả. Chí hướng giác ngộ biết tôn trọng
nhân quả, nhưng muốn siêu vượt nhân quả, luân hồi.
Muốn
có hiệu qủa cao trong việc chống hối lộ-tham ô-bè phái, một đại nạn của thế
giới, thì tôn giáo phải vào cuộc với giới luật rõ ràng về vấn đề này.
(Trang
132)
--------------
Thói
hối lộ sinh ra nhiều tội ác nghiêm trọng.
Thấy-biết
khác với hiểu. Nếu thấy-biết của tâm chưa khế hợp với Bát Nhã Tâm Kinh thì chưa
có Trí Bát Nhã.
Một
trong những phương cách giúp duy trì cảm hứng sống thiền là tọa thiền mỗi ngày.
Không nên bỏ trắng ngày nào cả (vì lí do gì đó cũng nên duy trì vài phút).
Tâm
vô ngôn là sự tỉnh thức toàn diện của sự sống.
Khoác
lác, tự đại, tự ti, khiêm tốn đều không có lợi cho Đạo.
Muốn
đi sâu vào kinh sách về Thiền, phải có năng lực đọc-hiểu và đọc-thấy. Thiền
định tự tri làm xuất sinh năng lực đọc-thấy. Đó là cái thấy nội tại.
(Trang
133)
--------------
Khi
tâm hồn không có lí tưởng thánh thiện và minh triết thì con người rất dễ bị cái
xấu lôi cuốn, rất dễ bị tha hóa biến chất.
Chưa
thật thấy chúng sinh là ân nhân của mình thì chưa có phẩm chất Bồ tát, chưa
tỉnh thức.
Tâm
Đại thừa là tâm khiêm hạ, hiểu rằng tội lỗi của mình từ vô lượng kiếp đã ảnh
hưởng xấu đến tất cả chúng sinh.
Tâm
Đại thừa khởi phát từ sự nhận thức sâu sắc rằng, tội lỗi của cá thể ảnh
hưởng đến toàn thể, qua thân khẩu ý.
(Trang
134)
--------------
Thể
xác thì tất nhiên có sở trụ, nhưng tinh thần thì cần “hướng đến” vô sở trụ.
Làm
cho con người biết yêu quý nét đẹp tâm hồn mình, đó là nhiệm vụ cao cả của văn
hoá, của giáo dục, của tôn giáo.
Thiền
định tự tri là sống tận nền tảng, tận cội nguồn sự sống.
Giá
trị giác ngộ, giá trị Đại thừa không nằm ở hành vi, hình tướng bên ngoài,
mà ở thực chất của tâm. Nếu thật sự có giác ngộ, có tâm Đại thừa thì dù sống ẩn
dật vô danh vẫn có thiện ích lớn cho chúng sinh, cho sự nghiệp giác ngộ chung.
Có
duyên lành với nền văn hoá giác ngộ là có diễm phúc cực kì lớn lao.
Không
tôn trọng phương tiện thăng hoa tâm linh của người khác thì chưa có tâm thái
hòa bình, tỉnh thức.
(Trang135)
--------------
Thursday, June 7, 2012
Tuệ Thiền Lê Bá
Bôn - ĐƯỜNG VỀ MINH TRIẾT
LỜI DÂNG
(Tiếp theo)
Khi ta suy nghĩ, ta chỉ tiếp xúc với một vài
khía cạnh cuộc sống. Nhưng nếu muốn giáp mặt thực tại toàn diện của cuộc sống
thì phải im lặng tâm trí.
Tâm
giải thoát phiền não mang ý nghĩa hiếu nghĩa lớn nhất, mang ý nghĩa nghĩa vụ và
trách nhiệm cao quý nhất, vì đó là hành động thuận đạo lí, thuận hợp đại luật
vận hành của vũ trụ.
Nếu
đã thật sự phát khởi tâm nguyện lớn (tâm Đại thừa) thì dù chưa triệt
ngộ, vẫn có thể tuỳ duyên sử dụng nghịch hạnh.
Khi
triết lí giáo dục chưa minh triết thì tất yếu dẫn đến suy yếu đạo đức nghề
nghiệp ở người lao động, suy yếu lương tri ở người cán bộ.
Càng
tôn vinh quá độ các gíá trị bản năng và công cụ (nhất là công cụ trí óc) thì
thế giới càng đảo điên, khốn đốn.
(Trang
136)
--------------
Vắng
mặt năng lực tự tri tự chủ, vắng mặt trí-lương-tri thì trí-công-cụ sẽ trở thành
tôi tớ cho trí-chó-sói.
Cái
“tôi" càng lớn, càng bền chắc, càng xảo quyệt, càng tự tôn, càng bè phái
thì sự liêm khiết trí thức càng suy yếu, tư tưởng và hành vi “người bóc lột
người” càng đa dạng .
Người có tâm Đại thừa thì vui mừng vì nhiều người biết hướng thượng, chứ không
cố chấp “hơn thua" về khái niệm, về từ ngữ.
Giáo
dục “toạ thiền-quán hơi thở-tự tri” là biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả
giáo dục, thăng hoa tâm trí, cải thiện thế giới.
(Trang
137)
--------------
Thiền
là sống tỉnh thức, thực tế và minh triết.
“Vô
niệm” để chấm dứt trí nhớ tâm lí - thứ trí nhớ lấy cái “tôi”, cái chấp
ngã làm trọng tâm.
Niềm
tin nếu đi đôi với sự chấp ngã nặng nề thì nuôi dưỡng lòng kiêu ngạo sân
si.
Không
biết tu tâm thì không thể phát triển nhân cách. Sự tu tâm chân chính là việc
làm quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với xã hội, vũ trụ.
Không
tự tri, tức quán tâm, thì không thể thấy huyễn tướng cái “tôi”, tức bản ngã.
Sự
giác ngộ đích thực thì đi đôi với lòng từ bi, bao dung.
(Trang 138)
--------------
“Tự
tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng
tưởng. “Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu thương, thiện ích, tự do tự
tại, diệu dụng, bất sinh bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.
Truyền
bá minh triết Thiền Định Tự Tri là góp phần cải tạo xã hội.
Khi
dục vọng vô mình và sự chấp ngã ngự trị thì không có tự do tinh thần.
Vô
minh là trạng thái tâm trí trụ vào kiến chấp nhị nguyên (nhị tướng).
Tự
tri là hồi quang phản chiếu, là nội quán.
Giá
trị làm người thể hiện ở hiệu quả thiện ích, ít tác hại (nhất là ở mặt “tiềm
ẩn” là năng lượng tâm thần) đối với xã hội , đối với vận hành của vũ trụ.
(Trang
139)
--------------
Thấu
triệt lí duyên sinh-vô ngã thì tâm dễ tĩnh lặng, não dễ chuyển hóa, dễ ngộ nhập
chân lí tuyệt đối.
(Trang
140)