Mỗi ngày rằm, ngôi chùa nhỏ ven sông lại xôn xao. Tiếng lũ trẻ chạy khắp
xóm la rân: “Lại coi thầy phóng sanh tụi bây ơi!” Những bàn chân khẳng
khiu, đen mốc vì suy dinh dưỡng sải ào ào trên đường làng mấp mô đất sau
một cơn mưa. Và rồi những gương mặt đen nhẻm bởi nắng gió tụ tập đen
kín vòng trong vòng ngoài...
Thầy bảo cô Diệu Thiện bưng thau cá ra bờ sông. Cái thau màu xanh cũ kỹ
nhưng bên trong đặc khừ những cá khiến lũ trẻ reo lên: “Trời ơi, cá rô
ngon quá chừng bây ơi! Tép, tép nữa kìa.” Cô Diệu Thiện chắt lưỡi: “Ngon
cái gì! Người ta phóng sanh mà tụi con muốn ăn hay sao lại bảo ngon?”
Thằng Được buột miệng: “Dạ ngon thiệt chớ! Con cá rô bự chảng kia con ăn
cả chén cơm lận đó!” Con Thuý thấy vậy hùa theo: “Ừa, tao mà có vài con
tép kia rang lên ăn cũng đã. Hôm qua má tao cho ăn kho quẹt mặn chát.”
Cô Diệu Thiện xua tay: “Thôi thôi, nín dùm đi mấy anh mấy chị. Sao mà om
sòm, nói bậy nói bạ, thầy la bây giờ. Tối ngày lo ăn không hà, sát sanh
không sợ!” Cô vừa dứt lời thì thầy ra tới. Lũ trẻ im bặt. Chúng nín thở
nhìn theo bàn tay thầy đang cầm một nhánh bông trang nhúng trong ly
nước trắng. Thầy bắt đầu tụng chú, rồi dùng nhánh bông rải nước lên cái
thau, chuẩn bị thả cá. Lũ cá nghe xao động mặt nước, liền quẫy đuôi làm
bắn nước lên tung toé.
Cô Diệu Hoa và cô Diệu Hồng là hai người xuất tiền mua cá thả hôm nay,
nên được “vinh dự” cầm cái thau nghiêng xuống bờ sông. Cá tép trong thau
tuột dần xuống. Tép thì búng tanh tách, còn những cái lưng đen bóng của
cá rô và cá bống dừa thì lơ lửng một hồi trong làn nước xanh biếc trước
khi tỉnh táo hẳn để quẫy đuôi thật mạnh lội băng theo dòng, mất hút vào
mênh mông tìm lại cuộc đời tự do. Ắt hẳn chúng phải “hú hồn hú vía” sau
một cuộc truy bắt tưởng đâu đã tiêu đời trong nồi trong chảo. Hai cô
Phật tử nở nụ cười sung sướng. Hôm nay họ thả gần 10 ký cá chứ ít sao,
sơ sơ 1 ký chừng 70 con lớn nhỏ, vị chi hai cô đã giải thoát cho 700
sinh mạng. Phước đức biết chừng nào!
Cô Diệu Huệ chắp tay: “Bạch thầy, tháng sau con xin đăng ký phóng sanh.”
Cô Diệu Thông cũng chắp tay: “Bạch thầy, cho con cùng đăng ký với cô
Huệ.” Thầy gật đầu: “Được rồi, thầy sẽ ghi tên hai cô vào sổ. Còn ai
muốn phóng sanh nữa thì cứ đăng ký sau nhé.” Cả đoàn người lục tục kéo
nhau lên chùa lạy Phật trước khi ai về nhà nấy.
Bến sông chỉ còn trơ lại anh Năm Thìn, ngồi chồm hổm dưới gốc cây ô môi
nhìn hoài xuống mặt nước. Bà Bảy đi ngang qua hỏi: “Mầy chưa về hả Năm?
Nhìn gì dữ vậy?” Năm Thìn gãi đầu: “Ờ... thì tui nhìn... cá. Tiếc ghê
hén bà Bảy. Hồi nãy mà có lưới kéo một cái thì... đã tay. Tự hôm rày tui
tát mương, kéo lưới gì cũng ít xịt cá, tụi nhỏ ở nhà ăn cực quá chừng.”
Bà Bảy nạt: “Nói bậy. Người ta thả, bây lại đòi bắt. Người ta lo phóng
sanh cho có phước, bây cứ nghĩ chuyện sát sanh.”
Năm Thìn thở dài: “Tui cũng biết phóng sanh thì có phước, nhưng mình
nghèo quá đâu có tiền mua cá mà thả như mấy cô Phật tử đó. Con tui còn
không có cá ăn, lấy đâu tới thả. Mà bà Bảy nói đừng sát sanh, vậy vợ con
tui biết ăn cái gì bây giờ? Bà không thấy cả làng cả xã mình phần lớn
nghèo như tui, sống nhờ con cá dưới sông, cọng rau trong vườn, quanh năm
không có đồng bạc nào để đi chợ. Lo tiền trường cho con, tiền thuốc cho
vợ, đã muốn ná thở.”
Nghe giọng Năm Thìn hơi dằn dỗi, bà Bảy tức cười: “Ai biểu bây kiếp
trước không chịu tu, bây giờ phải chịu cái nghiệp. Càng sát sanh thì
càng khổ hơn đó con. Nếu làm được như mấy cô Phật tử đó thì cái nghiệp
mới nhẹ đi.” “Thôi bà ơi, tui biết hết trơn á. Nhưng bây giờ biểu vợ con
tui nhịn ăn cá luôn chắc... nó chết. Bà cho tiền tui mua tàu hủ đi, cả
nhà tui sẵn sàng ăn chay liền.” Bà Bảy phì cười: “Thì bắt cá bán, đem
tiền mua tàu hủ.” Năm Thìn phủi đít đứng dậy: “Bà chọc tui hoài. Làm
kiểu đó phóng sanh chi cho mất công.” Và anh ta bươn bả đi về nhà.
Căn nhà như một căn chòi nhỏ xíu, bốn bề vách lá thủng lỗ chỗ, che thêm
mấy tấm ni lông đủ màu anh lượm lặt quanh chợ. Cả xóm có rất nhiều căn
nhà như thế, nên riết rồi Năm Thìn tự an ủi, quên đi giấc mơ hồi mới
cưới vợ là phải có một căn nhà tử tế. Chỉ lo chạy gạo và tiền tập vở,
quần áo cho hai đứa con đã đủ mệt. Nhìn con Thúy đã mười tuổi nhưng tong
teo chỉ bằng con bé Misa 6 tuổi của chú em trai trên thành phố mà Năm
Thìn đứt ruột. Bữa anh lên thành phố thăm chú Út, thấy mâm cơm đầy vung
nào cá thu chiên, nào thịt chà bông, nào chả lụa, vậy mà con bé Misa cứ
ngúng nguẩy không thèm ăn. Chả bù với con Thúy và thằng Thương, bữa nào
cũng cá kho khô, tép rang, canh rau mồng tơi hái ngoài hàng rào, vậy mà
vét nồi cạn đáy. Nhưng đó là còn may, chớ bữa nào Năm Thìn tát mương,
kéo lưới không có cá, thì vợ con anh ăn nước mắm là chuyện thường. Con
nít cả xóm này cũng y như vậy, nên thôi, than thở làm gì.
Nhưng mỗi lần mấy cô Phật tử phóng sanh cá, là Năm Thìn... ngồi tiếc.
Anh biết mình nghĩ bậy, nhưng tự nhiên nó nghĩ, biết làm sao! Ước gì
mình có đủ phước đức như người ta mình cũng đi phóng sanh, chớ ai mà
muốn tạo tội sát sanh làm chi!
°
Lật bật mà một tháng trôi qua thiệt mau. Lại tới ngày phóng sanh. Chùa
lại rộn ràng, bến sông lại đầy ken con nít và dân trong xóm. Nhưng lạ,
sao lần này hổng thấy mấy cô Phật tử đánh tiếng cho người ta đem cá tới
bán như những lần trước. Ngược lại, trong bếp chùa lại um sùm tiếng
người cười nói, tiếng dao thớt lộp cộp. Đằng này xắt đậu hũ, đằng kia
xắt củ sắn, góc nọ rửa nấm mèo, nấm rơm... Năm Thìn mon men hỏi: “Ủa,
chùa mình bữa nay có đám hả bà Bảy?” “Ừ. Thầy mời cả xóm tới ăn đó
nghen. Bây đi ra vàm mời mấy nhà ngoài đó, còn trong này thằng Tám Lựa
đi rồi. À, coi qua nhà ông Tư mượn thêm mấy cái ghế đi con, sợ thiếu.”
Năm Thìn hít mũi: “Chà, làm món gì ngon vậy bà Bảy? Mà... có cho con nít
vô ăn không?” “Có. Lớn bé gì thầy cũng đãi hết. Dẫn đám con của bây vô
ăn luôn.” Năm Thìn vỗ tay cái chát: “Trời, tui phải về kêu vợ tui đừng
nấu cơm!” Bà Bảy cười: “Cái thằng!” Năm Thìn phóng như bay đi.
Mới xế xế trưa mà thức ăn đã nấu xong và dọn lên bàn. Có ba món thôi,
nhưng món nào cũng trông thiệt ngon. Đích thân cô Diệu Thông vô bếp, làm
“chủ xị”. Cô nấu la-gu chay vàng ươm, béo ngậy, lũ con nít chấm bánh mì
tới tấp. Còn món bún riêu chay thì trắng tươi những váng đậu hũ kết lại
trong làn nước sóng sánh màu cà chua đỏ hồng, bên cạnh là một dĩa rau
giá tươi xanh. Cuối cùng là món cơm bì, chan nước mắm chay ăn không thua
gì cơm tấm bì ngoài chợ.
Cả xóm ăn vui quá chừng, mà hổng biết thầy cúng đám gì, sao không nghe
thông báo trước. Đám giỗ Hòa thượng thì đã qua rồi. Phật đản, không
phải. Vu Lan, cũng không. Thôi kệ, từ từ hỏi sau, miễn thầy cho ăn là đỡ
đi chợ một bữa. Nói nghe kỳ vậy ta? Ừ, thì kỳ, nhưng thiệt tình là vậy.
Bữa nay Năm Thìn cũng khỏi đi kéo lưới. Tám Lựa khỏi đi cào cá chạch.
Chà, bữa nay có cả chục con cá chạch thoát khỏi cái bàn cào bén ngót của
Tám Lựa nghen. Thôi ăn đi cha, ngồi ăn chay mà cứ nhớ mấy con cá, tội
lút đầu. Hổng phải đâu cha, tui đang mừng giùm nó là bữa nay nó thoát
chết. Ừ, vậy thì được. Ủa mà ăn chay vầy coi bộ còn bổ hơn mấy bữa nhà
tui ăn nước mắm à nghen. Chớ sao, coi nè, tàu hủ, nấm rơm toàn là chất
gì... gì... tương đương thịt cá, bữa thầy giảng quên mất tiêu rồi. Chất
đạm cha ơi. Nghe lỗ tai bên đây chạy lỗ tai bên kia. Ờ ờ, chất đạm.
Thúy, Thương, ăn nhiều nhiều vô con, bù lỗ hôm qua ăn cực, lát nữa ba
xin thầy một túm đem về chiều cho con ăn. Trời đất, tham quá đi, ăn còn
đòi xách dìa! Kệ tui, tui nghèo, thầy thương, có gì xấu hổ. Phật từ bi
chớ bộ...
Loáng cái, thức ăn đã sạch nhẵn. Mọi người sực nhớ: “Thầy ơi, thả cá đi
thầy, bộ thầy quên hả thầy?” Thầy bước ra tủm tỉm cười: “Thầy thả rồi.”
Mọi người ngơ ngác: “Ủa, hồi nào? Sao con không thấy?” “Thầy thả lúc các
con đang ăn đó.” “Mèn ơi, sao thầy hổng kêu tụi con ra coi.” “Chính tay
các con thả, đâu cần chạy đi đâu coi nữa.” “Ơ... vậy là sao...”
Thầy lại tủm tỉm cười: “Mỗi bữa ăn, con ăn bao nhiêu con cá? Thí dụ cá
bống đi.” “Dạ, cá bống nhỏ xíu chắc phải ăn 10 con.” “Vậy ở đây có tất
cả bao nhiêu người?” “Dạ, chừng 70 người, tính luôn con nít đó thầy.”
“Ừ, làm toán nhân thử coi một bữa sáng 70 người ăn có phải hết 700 con
cá bống không. Mà hôm nay các con ăn chay, nghĩa là các con vừa tha cho
700 sinh mạng. Như vậy các con đã phóng sanh rồi, đâu cần phải xuống
sông làm lễ thả cá nữa.”
“Nhưng thầy ơi, tiền này của cô Diệu Thông và Diệu Huệ đi chợ làm tiệc,
thì phước đức phóng sanh là của hai cô chớ tụi con chỉ ăn thôi, đâu có
phước.”
“À, chuyện này thì ngược lại. Nếu cô Thông, cô Huệ mua cá thả thì chỉ
hai cô có phước, nhưng nếu hai cô làm tiệc chay đãi 70 người thì cả cô
lẫn 70 người này đều có phước. Vì 70 người này cùng tham gia tha bổng
cho 700 sinh mạng kia mà. Chưa kể, hai cô còn giúp cho dân mình ăn no,
đầy đủ chất bổ, trẻ em bớt suy dinh dưỡng, thì thầy nghĩ cái phước đó
còn cộng thêm vô cái phước phóng sanh. Phải không nào?”
Cả xóm vỗ tay rần rần: “Hoan hô thầy! Hoan hô cô Thông, cô Huệ!” Thầy
đưa nhánh bông trang lên: “Từ nay, mỗi ngày rằm, thay vì bỏ tiền mua cá
đem thả, thì chúng ta dùng số tiền ấy nấu tiệc chay đãi cả xóm cùng ăn,
cùng giữ giới không sát sanh, các con có chịu không?” “Dạ chịu, dạ
chịu.” “Vậy ai đăng ký cho tháng tới thì nói thầy ghi tên vô sổ nhé.”
“Dạ, dạ.”
“Bạch thầy, còn tụi con không có tiền làm tiệc thì xin tới phụ giúp nấu nướng, dọn dẹp, chớ ăn hoài mắc nợ nhà chùa...”
“Không sao, miễn con phát tâm giữ giới là đã sinh phước đức. Nhờ giữ
giới mà cuộc đời con có thể bớt khổ, hoặc khá giả, rồi sau này đến lượt
con làm tiệc đãi lại mọi người.”
“Thầy dạy hay quá. Nhưng thầy ơi, chừng nào giàu tính sau, chớ ngay bây
giờ cả xóm cùng quây quần ăn uống, tu hành như vầy con thấy hạnh phúc
quá.”
“Đúng vậy, hạnh phúc ngay trong hiện tại. Ngày hôm nay chúng ta còn được
ngồi bên nhau hòa thuận trong tình đồng đạo, tình làng nghĩa xóm như
thế này chính là một hạnh phúc, phải cảm nhận lấy nó.”
Một hồi trống bát nhã ngân vang. Mặt trời lên cao, đường làng ngập bóng
tre bóng trúc. Những dáng người thanh thản bước đi dưới bóng cây râm
mát, nghe lòng cũng dịu mát niềm vui. Dưới dòng kênh xanh, những con cá
lòng tong nhởn nhơ lội trên mặt nước, tấm lưng thon dài trong veo tung
tăng theo từng con sóng nhỏ. Chúng ngước mắt nhìn lên, thấy ai đó mỉm
cười với chúng, thật bình yên...