10g30 sáng thứ bảy...
Chuẩn bị đi Bến Tre. Quà cho tụi nhỏ nhiều quá, mấy bịch to tướng, xe
bus không chịu chở đâu. Mấy lần chứng kiến nhân viên xe bus cằn nhằn
khách, thậm chí la những người khách nhà quê chở đồ lên phố, chắc cho
con đang đi học, thấy thương! Vậy mà luôn miệng quảng cáo "Chúng ta cùng
bus!" Thôi, bây giờ chịu tốn tiền đi xe ôm từ quận 4 ra tới Xa cảng.
Hai chiếc mới chở hết đồ, mất 60.000 đồng. Xót ruột. Lại còn nắng, mới
đầu xuân mà gắt quá.
Ra Xa cảng, phải vác ba lô đi khá xa mới tới chỗ bán vé, rồi quay trở
lại nhờ hai chú xe ôm vác quà ra xe đò. Nếu mình đi xe bus thì ai trông
đồ cho mua vé, ai khiêng nổi suốt 200m? Có nhiều người hỏi: "Sao không
thuê xe đi cho khỏe?". Trời đất, một buổi giảng mà tốn 700.000 đồng thuê
xe, tiền đâu xài sang dữ vậy! Một năm tôi đi 20 lần, 5 năm là bao nhiêu
tiền? Nhưng dù có tiền cũng không dám xài cỡ đó, trong lúc phải đi vận
động kinh phí từng chút một. Năm 2004, thầy Phổ Hòa lén kêu Bác sĩ Minh
thuê chiếc xe cho tôi đi, vì lần ấy giảng tới 5 lớp (tận dụng kỳ nghỉ
phép thường niên kéo dài 1 tuần), và chở 12 thùng quà to tướng. Tôi biết
được, la oai oái, rồi đi xe đò. Tiết kiệm được 500.000 đồng, nghĩa là
mua cho các em được 500 cái bánh. Đi vận động kinh phí rồi mới biết, khó
khăn lắm, cho nên phải tiết kiệm một chút.
12g30
Nói 12g xuất bến, mà thực sự giờ này mới ra khỏi cái barie chặn cổng.
Bắt đầu chạy như rùa đây, vì sợ bắn tốc độ, mình đi hoài, quá quen cái
điệp khúc rùa này!
Xe 50 chỗ, cũng có máy lạnh đàng hoàng, nhưng tắt ngúm. Khách ở quê, đặc
biệt mấy chỗ "thiệt là quê" như Tam Nông, Hồng Ngự, Bến Tre, Lấp Vò,
Bình Minh, không quen máy lạnh, cứ đòi mở cửa sổ cho gió mát. Nhưng mát
nỗi gì, trời nắng chang chang, hắt từ đường nhựa lên rát bỏng da mặt.
Lại còn bụi, trời ơi là bụi của hàng trăm hàng ngàn xe đò xe tải lưu
thông suốt trên quốc lộ. Thỉnh thoảng, có một khúc đường đang làm dang
dở, bụi đá mịt mù, hít vô một cái, cảm giác thiệt rõ cái phổi mình đóng
thêm một lớp đen sì. Rồi mắt, rồi mũi, tóc tai, quần áo... Chao ôi cái
cõi bụi trần! Không có bụi làm sao thành nhân gian cho Thượng toạ Thần
Tú viết bài kệ: "Thân là cây bồ đề. Tâm như đài gương sáng.Thường ngày
hằng lau quét. Chớ cho dính bụi trần." Ờ, có bụi nên mình phải lau quét
thôi.
Lại tẩn mẩn thương người nhà quê của mình. Đồng hương đồng khói chớ đâu
xa. Mấy năm nay người nhà quê toàn đi xe xịn, từ 50 chỗ tới 25, 15 chỗ,
nào Mercedès, nào Toyota, nào Ford, năm bảy trăm triệu là thường. Dân
miền Tây có phước, chứ không như dân miền Trung chịu cảnh cơm tù, nhét
người dưới gầm chở hàng, trói trên nóc xe, hoặc tháo ghế ra bắt khách
ngồi chen dưới sàn. Nhưng khổ nỗi, người nhà quê mình chưa hiện đại kịp,
và đầu tiên là dị ứng với cái máy lạnh. Thế là, chiếc xe mấy trăm triệu
cũng phải mở cửa ra hứng bụi. Mà đóng cửa thì làm sao hút thuốc? Thôi,
mở luôn đi cho phà khói vô tư! Đàn bà, con nít có sặc sụa cũng chẳng dám
nói gì. Chỉ có đi xe Vĩnh Long, Sa Đéc, là hai tỉnh gần cầu Mỹ Thuận
nhất, xem ra "văn minh" hơn cả. Xe máy lạnh răm rắp, ai mở cửa, hút
thuốc đều được nhắc nhở, cả tài xế cũng nhịn thuốc 100%. Mới đầu, khách
khó chịu, riết rồi quen, tự động chấp hành, khỏi nhắc. Mà thôi, từ nay
thế giới kêu gọi tiết kiệm năng lượng, chắc phải tắt máy lạnh rồi đó.
Chắc đến lượt người nhà quê thương lại dân thành phố khổ sở vì không
quen chịu nóng, chịu bụi. Than ôi, mỗi ngày ở thành phố con hít bao
nhiêu là bụi rồi dì ơi, còn dì lâu lâu đi xe mới hít nên dì... chưa
ngán. Dì về tới nhà là có ngay cánh đồng xanh thăm thẳm và ngọn gió
trong lành lọc ngay cái phổi giùm dì... Ủa, cãi nhau làm chi, muốn vậy
thì về quê mà ở, ai cấm. Ừa, đã chọn ở thành phố thì ráng chịu. Thôi, đã
nói là tiết kiệm năng lượng cho thế giới thì vui vẻ đi.
Ngủ nghen. Niệm Phật thầm trong đầu rồi từ từ ngủ. Cảm ơn ông tài xế xe
này không mở nhạc um sùm. Mấy ông khác "tra tấn" tôi suốt 4 tiếng đồng
hồ bằng thứ nhạc trẻ thời thượng, ca từ thì vô duyên, còn giai điệu thì
rẻ tiền lại ầm ĩ, nhức buốt cả đầu. Đi xe, sợ nhất là nghe nhạc kiểu đó.
14g
Giấc ngủ vừa lơ mơ thì nghe gọi: "Xuống xe qua phà bà con ơi!" Phà Rạch
Miễu bắc từ Mỹ Tho, qua bên kia sông mới là địa phận Bến Tre. Vác ba lô
bước xuống. Má ơi, nắng kinh khiếp! Đầu choáng váng, quay một vòng. Ba
lô nặng quá, đau điếng cái "vai gầy" mà hồi xưa có người thường âu yếm
gọi. Vài bộ đồ thì lẽ ra không nặng đến thế, nhưng vì chất thêm giáo
trình, giáo án, sổ điểm, 50 bộ đề thi dày cộm, rồi một xấp mẫu tranh tô
màu, rồi máy cassette, băng ca nhạc để dạy các em hát hò, sinh hoạt...
Ráng đi! Xuống tới phà, thở khì, và len lén đặt ba lô lên yên sau của
một chiếc honda cho nhẹ tay. Hai đứa con trai con gái còn trẻ măng, chở
nhau, ngồi sát tới nỗi cái yên còn dư một khúc. Tụi nó cứ tự nhiên rúc
rích cười nói thì thầm, coi bộ hạnh phúc quá chừng. Chắc nhiều người
chướng mắt. Nhưng thôi, kệ tụi nó. Biết đâu những ngày vui này sẽ rất
ngắn ngủi, rồi tụi nó sẽ phải đương đầu với bao nhiêu đau khổ, lo toan.
Chúc cho tụi nó được như vầy hoài, còn hơn chứng kiến cảnh cắn đắng,
chia tay.
Dòng sông rộng quá. Phà chạy rất lâu. Gió sông thổi tung bay vạt áo. Gió
chợt làm se buồn. Cứ mỗi lần nghe gió, nghe mưa, tâm thức bỗng mênh
mang một điều gì không rõ, chỉ biết là buồn. Nắng chấp chới trên mặt
nước, bến bãi mờ xa tít tắp. Đất đồng bằng quen thuộc, cứ bước ra là gặp
những dòng sông tuổi thơ trôi dài theo năm tháng... Mình đã đi qua
những chuyến phà cuộc đời, giã từ tuổi thơ, đâu còn quay lại được...
Phà cập bến. Đi dọc theo chiếc cầu, nhìn xuống bãi đất bùn lộ ra vì nước
ròng, tuổi thơ lại níu chân lần nữa. Những bãi bùn ẩn giấu những con
hến bé xíu ngày xưa tôi thường bắt đem về cho bữa cơm gia đình. Nhà
nghèo, quanh năm chỉ biết con hến con cua con cá, còn miếng thịt quả
thật xa vời. Hai chị em tôi trở thành những đứa trẻ quê thực sự, suốt
ngày lặn hụp nơi bến bãi, mương đìa, quên mất cái gốc thị thành nơi mình
đã chào đời. Tôi có thể nhìn mặt bùn mà biết nơi nào có lỗ thở của con
hến, chỉ cần đưa nhẹ ngón tay xuống vít lên là được một chú rất to,
không cần phải dùng cả bàn tay mà bóp bùn hoặc lấy rổ cào như lũ mới
"vào nghề". Tôi kiên nhẫn bắt đến khi nào đầy rổ mới chịu thôi, coi như
một "định mức" mà tôi tự đặt ra cho mình và phải hoàn thành.
Ngược lại, thằng Dũng em tôi lại không chịu tỉ mẩn như thế, nó thích làm
cái gì cho nhanh, có nhiều mới ham. Bảo nó bắt hến, nó miễn cưỡng xuống
bãi, rồi nhắm hơi hơi vừa đủ bữa ăn liền dông lên bờ. Nó nói, mấy con
hến nhỏ xíu, chán thấy mồ. Nó bươn bả đi tát mương, bắt cá lóc cá rô bự
hơn, hoặc lùng sục trong đám lục bình dù lúc 5g sáng trời lạnh như cắt
để xúc lên những con cá bống dừa tròn vo hấp dẫn. Tính cách của hai chị
em đã hiện ra rất rõ từ dạo ấy. Sau này, tôi lớn lên, kiên nhẫn góp nhặt
từng đồng lương và nhuận bút nhỏ nhoi để sống, xây nhà, còn em tôi sau
thời gian đi bộ đội đã dấn thân vào những chuyến đi buôn ở Campuchia, có
cả sòng bạc may rủi và cả những bãi đào vàng nghiệt ngã, để cuối cùng
chết trẻ vì căn bệnh sốt rét ác tính. Nhìn bãi bùn mà nhớ em, nhớ một
thời cơ cực nơi bến sông nghèo...
15g
Lại một chuyến phà. Phà Hàm Luông. Xe đậu rất xa bến, vác ba lô đi mệt
mỏi, lòng cứ lo liệu vài năm nữa còn sức để đi hoằng pháp vùng sâu vùng
xa như thế này hay không? Cầu mong một thế hệ trẻ lớn lên, tình nguyện
xông pha về quê, để tôi có thể yên lòng dừng bước. Tôi đâu có sợ cực,
chỉ sợ mình không còn sức mà đi. Cho nên, đặt hy vọng vào người trẻ mai
sau.
15g30
Xe đò thảy tôi và mấy bọc đồ to tướng xuống ngã tư Cái Quao, qua khỏi
thị trấn Mỏ Cày gần chục cây số. Từ Cái Quao, tôi đón xe ôm vô xã. Anh
honda ôm chừng ba mấy tuổi, sốt sắng chất hết đồ lên xe, thật tài tình,
trong khi ở Sài Gòn mấy anh xe ôm cứ loay hoay rớt lên rớt xuống, rốt
cuộc phải tốn hai xe. Người quê chịu cực giỏi hơn mà! Và anh ta cứ sợ
tôi ôm giỏ nặng, khăng khăng treo hết cho tôi nhẹ tay. Tội nghiệp, chạy
xe mà có cái tình! Nghe tôi vô chùa, anh càng sốt sắng. Nhưng chạy mãi,
hết đường nhựa, tới đường đá nhỏ, tới đường cát, còn vết nước lầy lội,
rồi tới đường đất nhỏ xíu... vẫn không thấy chùa đâu. Tôi gọi di động vô
nhà Phật tử của sư cô, người ta chỉ đường. Chao ôi, khi con đường đã
cụt ngọn thì chùa mới hiện ra. Nghĩa là, tới nơi tận cùng của cái ấp 50
xã Bình Khánh Đông, đi vài chục bước là ra bến sông luôn. Sư cô dám về
nơi này hở Sư cô?
16g30
Sư cô cười: "Còn may lắm đó! Kim về hôm qua là phải lội nước bì bõm.
Triều cường dâng nước biển lên mấy bữa nay, ngập hết mấy liếp rau, chết
ngắt, rồi tràn vô nhà bếp. Sư cô đang rầu, sợ Kim về cực quá!" Anh honda
ôm cũng vừa chỉ cho tôi những ngấn nước trên đường và nói nước mới rút
hồi sáng. Tôi nhìn ra liếp rau muống tong teo bên phía trái chùa, chẳng
còn cọng nào ngóc đầu lên nổi. Một dì Phật tử nói: "Ở đây nước mặn lên
hoài cô ơi, chỉ có cây dừa là sống được."
Tôi đã thấy những hàng dừa xõa bóng dọc đường làng và những cụm dừa nước
xanh rì dùng để chằm lá lợp nhà. Chợt nhớ câu hát "Ai đứng như bóng
dừa, tóc dài bay trong gió, có phải người còn đó, là con gái của Bến
Tre..." Nhưng cuộc sống thực không thi vị như thế đâu. Cây dừa gánh biết
bao nỗi niềm của người nông dân, vì tất cả đều trông đợi vào cây dừa.
Một chục 12 trái chỉ có 18.000 đồng, còn tuốt lá ra lấy cọng bán cho thủ
công mỹ nghệ thì một ký chỉ 2.000 đồng. Trời ơi, tưởng tượng 1kg cọng
thì tuốt mất cả ngày trời! Sư cô buồn buồn: "Nhà nghèo nhiều lắm Kim ơi.
Thấy thương lắm. Cả xóm đông vầy mà chỉ có 2, 3 cái nhà tường, nhờ con
cái đi làm ở thành phố gởi về." Những túp lá xiêu vẹo bên dòng kinh đã
rơi vào mắt tôi từ lúc nãy. Cho nên, khi tôi hỏi: "Chùa mình có bi nhiêu
đây hả Sư cô?" thì Sư cô xuýt xoa: "So với đa số nhà dân thì chùa mình
là "giàu" quá rồi!".
Chính vì vậy, có lẽ một trong những lý do mà tụi trẻ tối ngày cứ chạy
tới chùa là để được chà cái bàn chân lên lớp gạch mát lạnh. Sư cô vừa
lau chánh điện vừa thủ thỉ: "Tụi nhỏ đâu có mang dép. Rồi ịn nguyên bàn
chân lên gạch nè. Nhưng thấy thương, cô hổng có la."
Chùa rộng có hơn 100m2 , vừa hết chánh điện là ra ngay hậu tổ nhỏ xíu,
bên trái có một phòng để Sư cô và bà Năm già ngủ nghỉ. Bên phải là bàn
máy may của Sư cô, và cái tivi, đầu đĩa VCD Sư cô mới mua trả góp để có
phương tiện chiếu phim thuyết pháp cho Phật tử xem. Lúc nào Sư cô cũng
nuôi ước mơ hoằng pháp, nên dành dụm tất cả tiền mà mấy đứa cháu "lì xì"
trong năm để mua tivi, và chiếu liền mấy cái đĩa tôi cho hôm tết. Vậy
mà còn tận dụng không gian để mở lớp Phật Pháp thiếu nhi theo giáo trình
của tôi biên soạn. Lại còn dạy ca hát, và khi tôi đề nghị dạy nữ công
thì Sư cô mừng rỡ chịu liền. Lần này tôi đem vải, kéo, chỉ thêu, Sư cô
tha hồ mà hoạt động. Tôi còn mừng hơn Sư cô, vì như vậy tôi đỡ dạy vất
vả, mà phong trào lại được giữ lâu hơn. Hiếm có một vị đa năng như thế.
Người trẻ còn chưa hăng hái cỡ đó, huống chi Sư cô đã xấp xỉ 50 tuổi.
17g
Đi tắm. Chao ôi là nước! Nước trong ao màu lờ lờ. Vốc lên rửa mặt mà...
sờ sợ. Tắm vội vàng, và "dũng cảm" gội đầu vì phải tẩy lớp bụi đường dày
đặc trên tóc. Thôi kệ, chịu một bữa vậy, cũng như vô chùa Tâm Thành ở
Tam Nông từng tắm nước phèn đó mà. Chậc, lần nào về quê cũng bị đen thui
là tại nắng, tại nước như vầy. Chưa kịp nhả, lại phải đi tiếp. Vùng sâu
vùng xa nào không chịu cảnh nước phèn, nước mặn? Phụ nữ thì quan trọng
cái "sắc" lắm, nhưng thôi, đã phát tâm hoằng pháp thì ráng bỏ qua. Cái
sắc nào dù đẹp rồi cũng tới ngày hủy hoại. Vậy nghen, đừng bận tâm.
Nhưng thấy vậy mới khâm phục Sư cô hơn nữa. Từ Đại Tòng Lâm đang sung
sướng, Sư cô phát tâm về vùng sâu hoằng pháp, chịu đựng cỡ này mà không
than một tiếng. Đúng là bậc chân tu. Thế đó, tôi đã tìm ra biết bao tấm
gương đạo hạnh chính trong những nơi hẻo lánh, đói nghèo. Cuộc sống còn
nhiều điều kỳ diệu, đừng vội nản lòng trước những tiêu cực chung quanh.
17g30
Đói quá, vì từ sáng tới giờ chỉ cầm cự bằng một chén cơm duy nhất, bởi
lên xe hay nôn nên không dám ăn gì. Mấy dì Phật tử từ chiều đã xúm xít
gói bánh tét đãi tôi, cứ như khách quý. "Trời ơi, cô xuống tới đây là
quý thiệt đó chớ. Chùa xa quá, đường khó đi quá, nên quanh năm hổng có
ai tới thăm cô ơi!" Nghe mà đứt ruột! Nhìn mấy dì mấy cô ngồi chùm nhum
bên đống lá chuối, gói gói, cột cột, chợt nghĩ cái nếp văn hóa truyền
thống này sẽ còn được bao lâu? Lớp trẻ cỡ tôi bây giờ đã gần như hết
biết gói bánh rồi, cứ đám giỗ hay tết nhứt thì ra chợ mua bánh mứt làm
sẵn. Hôm tết, đi dạo khu chợ hoa Nguyễn Huệ, thấy mấy chỗ gói bánh tét,
bánh ít, cũng mặc áo bà ba, nấu củi, y hệt ở quê. Nhưng y hệt làm sao
được! Cái không khí đó vẫn là không khí biểu diễn, không khí mua bán,
làm sao giống như ở đây với tình làng nghĩa xóm gắn bó, với những tâm
sự, chia sẻ khi ngồi quây quần bên nhau...
Bếp lửa đỏ hồng suốt buổi, và mùi bánh chín đã thơm lừng. Món bánh tét
nhưn chuối, bên ngoài không bọc nếp mà bọc bằng khoai mì bào ra lấy bột,
ăn dẻo nhẹo, lạ lùng. Lại còn món canh cũng bằng bột khoai mì, nấu với
nấm rơm, ăn thiệt ngộ. Phật tử biết có khách nên đem tới một nắm rau
ngổ, rồi mấy trái cà tím non xèo, và hơn chục trái đậu bắp nhỏ nhỏ. Thứ
nào cũng có vẻ đèo đẹt vì thiếu nước ngọt, nhưng tôi biết chắc chắn là
không có thuốc trừ sâu, thuốc tăng trọng. Sư cô cười: "Bữa nay là được
ăn ngon đó nghen. Cả năm cô hổng có đi chợ, vì hổng có tiền. Bà con cho
cái gì ăn cái nấy, toàn rau cỏ quanh vườn chấm với nước tương." Tôi kêu
trời: "Vậy rồi mai mốt Sư cô bịnh, tốn tiền uống thuốc nha!" "Chớ dân
quá nghèo, tiền đâu mà cúng hả Kim? Mình phải chia sẻ với họ chớ!" "Vậy
mà để dành tiền mua tivi...", tôi trách yêu. Sư cô khoát tay: "Cái đó là
ước mơ hoằng pháp Kim à. Nơi xa xôi này không có giảng sư tới, chỉ còn
cách nghe pháp như vậy thôi." Tôi chịu thua: "Con đem thêm cho Sư cô cả
trăm cái đĩa nữa kìa, tha hồ Sư cô vừa làm thư viện cho chùa vừa tặng
Phật tử!". Mấy dì Bảy, dì Út, cô Năm rộn ràng hẳn lên. Và khói bếp cay
nồng ấm cúng quyện vào gió chiều, ôm lấy những gương mặt hiền lành, chất
phác. Căn bếp tạm bợ với những tấm tole cũ mục ghép lại, và vách lá đơn
sơ chỉ đủ che mấy bộ bàn ghế bằng cây tạp do mấy chú trong làng tự
đóng, ngay cả cà ràng ông táo cũng do bà Năm già tự nhào đất sét nắn ra.
Vậy mà đông vui tình nghĩa hơn nhiều bữa ăn ở nhà hàng sang trọng tôi
đã từng dự một cách miễn cưỡng.
Ăn xong, có một ly nước dừa ngọt lịm đúng "mác" Bến Tre, cái thứ nước mà
ở Sài Gòn cỡ mức lương như tôi mỗi lần uống coi như "xa xỉ" vì tới
5.000 đồng một trái. Hóa ra người dân ở đây sống rất "sang" mà họ đâu có
hay! Thôi thì, cuộc sống luôn có mặt phải mặt trái của nó, chẳng thứ gì
toàn diện.
20g
Phật tử vừa tụng kinh xong, ngồi quây quần nơi chánh điện. Các em nhỏ
cũng tề tựu về, cũng tụng kinh đàng hoàng rồi ngồi chung với mấy dì mấy
bác. Sư cô đã thông báo "có khách" nên mọi người hẹn nhau đến sinh hoạt.
Có cả chú Hải công an ấp và mấy chú đoàn thể địa phương. Ai nấy vui vẻ
và hòa đồng, dù gia đình nào cũng là dân Đồng khởi thứ thiệt. Chú Hải
kể: "Cô hổng biết đó chớ, hồi sư ông khởi công xây chùa, tụi tôi đem
giấy tờ lên huyện xin phép giùm, rồi hè nhau khiêng xi măng, cát đá, tới
tối mịt còn chưa ăn cơm. Làng xóm mà không có chùa buồn lắm. Và có Sư
cô về thấy ấm cúng, tụi nhỏ vô đây được Sư cô khuyên dạy coi bộ ngoan
hơn, bớt phá phách. Nói thiệt, chúng tôi chỉ sợ Sư cô cực khổ quá rồi bỏ
chùa mà đi thôi!" Sư cô cười: "Không bỏ đâu chú ơi! Quý vị thương tui
quá mà bỏ đi sao được!" Mấy dì Phật tử cũng xúm xít nói cười, tình
thương tràn lên ánh mắt. Nhà họ nghèo và xa, nhưng tối nào cũng đi tụng
kinh, coi chùa như ngôi nhà thứ hai, thật cảm động.
Tôi chào hỏi mọi người, rồi ôn bài sơ sơ cho tụi nhỏ, sau đó mở băng
cassette tập hát những bài dân ca Phật Pháp mà tôi biên soạn. Đúng ngay
cái "máu" vọng cổ của bà con Bến Tre! Mấy dì đeo kính lão lên hát vang
trời không thua gì xấp nhỏ. Làm một hơi 7 bài luôn. Tôi thử mời ai "dũng
cảm" lên hát thử, thì eo ôi, quá nhiều người dũng cảm. Già trẻ lớn bé
gì cũng xung phong lên cầm micro. Quả không hổ danh là con của quê hương
Đồng khởi. Quen sinh hoạt tập thể, quen chất chiến đấu, không sợ hãi,
và quen nếp sống lạc quan yêu đời, bao nhiêu tuổi cũng trẻ trung, năng
động. Tiếng cười, tiếng vỗ tay giòn giã. Đức Phật ngồi trên tòa sen nhìn
xuống chắc cũng mỉm cười.
Tôi nói: "Chúng ta phải làm cho mọi người hiểu rằng đạo Phật của chúng
ta không phải bi quan, yếm thế, thụ động, mà là một đạo tích cực, sáng
tạo, luôn sống có ích cho con người, xã hội. Sống với Đạo cũng có nghĩa
là làm một cuộc cách mạng trong chính bản thân mình, chống lại cái xấu,
cái tiêu cực, để tiến tới cái tốt đẹp, tươi sáng hơn!" Những người con
Đồng khởi vỗ tay nhiệt liệt.
Gần 10 giờ đêm, mà chẳng ai muốn chia tay. Mấy dì nói: "Trời ơi bữa nay
vui quá!" Bình trà thứ mười mấy đã cạn, bánh kẹo cũng ăn xong, và tôi
tặng mỗi vị một cái khăn làm quà kỷ niệm, vì bất ngờ quá đâu có chuẩn
bị. Mấy dì xếp cái khăn trìu mến: "Nhìn cái khăn là tui nhớ cô Kim
nghen!" Than ôi, có một chút quà mọn mà mọi người quý mến như vậy, so
với đô thành xa hoa muốn cho người ta cái gì cũng cân nhắc, e dè. Tôi
thầm ước, giá mình làm có tiền mình sẽ luôn luôn tìm về những nơi như
thế này để sống với những trái tim thương yêu tha thiết! Chính mấy dì,
mấy em đã tặng tôi một món quà vô giá.
23g
Sư cô và tôi cùng chui vào cái mùng bé tí, bề ngang chỉ một mét, tấn bên
này thì hụt bên kia, tấn trên đầu thì hụt dưới chân. Thây kệ, chứ chẳng
còn cái mùng nào nữa. May mà tôi đem xuống cúng dường hai cái mền. Trải
chiếu trên nền gạch chật hẹp giữa hai cái bàn, còn phòng ngủ nhỏ thì
nhường cho bà Năm già hơn 70 tuổi. Hai cô cháu cứ thủ thỉ tâm tình,
không ngủ được.
Tôi nói: "Lạ thiệt, con đã đi rất nhiều nơi, tổ chức nhiều lớp Phật
pháp, nhưng chưa bao giờ gặp nơi nào mà chính quyền gắn bó với đạo pháp
như vậy. Có nơi gây khó dễ, có nơi thì thoải mái hơn nhưng cũng đứng bên
ngoài mà giúp, còn ở đây mọi người cùng xắn tay áo vô làm." Sư cô nói:
"Bởi vậy cô mới ráng bám trụ. Mà bây giờ quen rồi, đi đâu cũng nhớ, quay
về." Thôi ngủ đi nghen, mai còn thức sớm dạy học nữa đó. Sư cô còn thức
công phu khuya nữa. Tiếng dế kêu nỉ non ngoài hè, xa xa tiếng tàu đêm
lướt qua bến sông để lại những đợt sóng nhẹ nhàng vỗ vào trái tim như ru
hời êm ái...
5g sáng chúa nhật
Tôi ngủ say một giấc không mộng mị. Trong đầu có nghe văng vẳng tiếng
chuông mõ dịu dàng, nhưng rồi lại thiếp đi. Toàn thân vẫn chưa hết ê ẩm
sau một ngày đường. Khi choàng tỉnh dậy, trời se lạnh, tôi co rúm người
trong chăn, cuộn mình thưởng thức cái không khí trong lành của miền quê
chen một chút khói bếp của bà Năm đang nấu nước pha trà. Khói lá dừa
nồng nồng, tôi hé mắt nhìn xuống những đốm đỏ bập bùng như nhảy múa tung
tăng trong gian bếp mờ tối. Nhớ ngày xưa còn bé, ở quê ngoại cũng nghèo
khổ như vầy, cũng đốt lá nấu cơm khói nồng cả mái tranh xiêu vẹo. Lá
rụng khắp vườn, tôi và thằng Dũng gom lại từng rổ thật to, chụm tới đâu
nghe tiếng lửa reo giòn tan tới đó. Còn lá dừa thì cuộn lại thành ngọn
đuốc, mỗi đêm soi đường cho tôi đi dạy bình dân học vụ. Những năm mới
giải phóng, bọn trẻ học sinh chúng tôi phải tham gia tất cả phong trào
của nhà nước đề ra, nào xóa mù chữ, nào đắp đê, đào kinh thủy lợi...
Hừng hực khí thế. Làm cực mà vui. Nhờ vậy gắn bó với cộng đồng, bà con,
làng xã. Tôi đi dạy vỡ lòng cho bà Tư, con Út... kiên nhẫn cầm tay họ
viết từng chữ i tờ lên trang giấy trắng.
Tôi đem ngọn đuốc văn hóa soi giùm cho họ, thì đêm về có đuốc lá dừa soi
sáng bước chân tôi. Qua cầu khỉ, cầu gòn trơn trợt, có cả sợ ma, sợ rắn
rít trong lùm bụi chạy ra. Nhưng không ngày nào chịu bỏ dạy, vì cứ nhớ
lớp, nhớ "học trò" già nhứt định đánh vần chữ "ếch" (S) là con..."cóc"!
Đi suốt những mùa hè... cho tới một mùa hè 16 tuổi thì có một ngọn đuốc
lá dừa khác cũng theo về chung lối. Thế là đỡ sợ ma, nhưng lại sợ một...
thứ khác dịu dàng hơn. Rồi chút ấm áp thơ ngây đó cũng trôi qua, tôi
hồn nhiên lớn lên chút nữa, ra đi về một vùng quê khác, bỏ quên những
ngọn đuốc lá dừa của tuổi thơ và lớp học bình dân năm nào...
Chợt đêm nay gặp lại, thấy lá dừa vẫn xõa tóc che suốt đời mình, vẫn
cháy sáng soi đường cho mình cầm tay những học trò quê cũ. Tôi vẫn đi
xóa mù nhưng là xóa mù Phật Pháp, trao tặng những bài học vỡ lòng cho
những xóm làng xa xôi heo hút. Vẫn kiên nhẫn cầm tay họ viết từng chữ i
tờ của Tam Bảo, Ngũ giới, Vô thường, Nhân quả... Cái nghiệp "cô giáo"
ngày nào vẫn tiếp tục, nhưng niềm vui thì lớn thêm nhiều lắm.
7g
Các em đến đông đủ. Tôi xếp các em ngồi xuống nền gạch trên chánh điện
và lấy những chiếc kệ tụng kinh thay cho bàn học. Giấy thi đã in sẵn đề,
tôi soạn rất tiện và đẹp, photo ra hàng loạt, "chính quy" không thua
trường lớp bên ngoài. Tôi gác thi nghiêm túc, không em nào dám gian lận
hoặc coppy. Nói chung, lớp học này khá tốt, có nề nếp, tôi rất hài lòng.
Đặc biệt, nhiều em còn mặc những bộ đồ vạt hò mà Sư cô may tặng, trông
xinh xắn đáng yêu làm sao. Sư cô đi Sài Gòn xin vải về may, thật khéo
tay.
Tôi vừa chấm điểm bài kiểm tra, vừa mở băng cho các em học hát. Tập bài
hát tôi cũng đánh máy, photo sẵn, trang trí đẹp mắt. Không khí vui và
sinh động.
Các em được ăn trưa trong khi chờ tôi soạn phần thưởng. Tôi đã trang bị
60 cái khay nhựa có nhiều ngăn. Các em thích ăn trong cái khay xinh xinh
đó, nên tuần nào cũng đòi tới chùa học giáo lý. Mấy dì Phật tử cũng
lăng xăng nấu giúp từ sáng, tạo nên sự gắn bó lạ lùng. Từ chuyện ăn
thôi, nhưng mỗi người đều có thể gởi gắm tình cảm của mình vào đấy. Cho
nên, mỗi dịp đám tiệc không chỉ là ăn, mà còn là cơ hội gắn kết cộng
đồng với nhau. Chùa nghèo, chỉ có món bánh mì nguội đem hấp, cuốn với
rau sống, chấm nước tương, nhưng cái sự "ngon" ở đây bao gồm cả trạng
thái tinh thần nữa.
Lúc trao phần thưởng thì có mấy anh chủ tịch xã, bí thư ấp và mặt trận
tổ quốc xuống thăm theo lời mời của Sư cô. Cán bộ rất trẻ và thân thiện.
Mọi người cùng ăn bánh mì hấp như tụi nhỏ, và tiễn tôi ra về. Chuyến xe
chót tại thị trấn Mỏ Cày sẽ khởi hành lúc 12g. Mấy dì Phật tử xếp một
giỏ đầy nào bánh tét, dừa, bánh tráng, bắt tôi phải mang đi. Tôi từ chối
không được, dù biết mình xách lên tới thành phố chắc cái lưng cụp lại
như hôm nọ. Đến vùng quê nào cũng vậy, các dì cũng trìu mến gởi những
món quà quê hương, cây nhà lá vườn, mình không nhận sợ các dì buồn. Thôi
thì khệ nệ khiêng nè...
13g30
Xe chờ đủ khách mới chịu lăn bánh. Và lại nắng, lại hai chuyến phà dằng
dặc, lại những cơn gió rát da, lại những lớp bụi mù trên đường thiên
lý...
Nhưng rồi tôi sẽ trở về, rồi tôi sẽ dâng tặng những gì mà trái tim tôi
chân thành ấp ủ. Bàn tay tôi nhỏ bé, nhưng cũng xin góp một chút cho
đời, để rồi nhận lại từ cuộc đời những niềm tin và hy vọng. Xa rồi Bến
Tre. Tạm biệt những hàng dừa xõa tóc bến sông xanh... Tạm biệt những mái
lá nghèo nhưng nhân hậu, yêu thương...
CHẠY XE
Mỗi ngày đều đi làm, đều phải dùng tới chiếc honda, chưa kể còn đi những
công việc khác. Nghĩa là, hầu như ngày nào cũng phải chạy xe. Chạy xe
trở thành một động tác quen thuộc trong đời sống, mãi rồi ít ai để ý
tới.
Chợt một hôm, lẩn thẩn nhận ra mình đang chạy một chiếc xe rất khác mà hình như mình không hề quan tâm.
Thật ra, ai leo lên xe cũng là đã hoạch định được đường đi rồi. Tôi muốn
đi tới đường X thì phải qua mấy ngã tư, ngã ba, qua cây cầu nào, bùng
binh nào, tới đèn đỏ thì phải dừng kẻo công an phạt, hết xăng thì phải
biết đổ ở cây xăng nào thuận tiện... Chưa hết, về tới nhà lại còn kiểm
tra xe cộ xem có mòn bánh, mòn bố thắng, rơ máy, tróc sơn... để mà tu
sửa cho an toàn, cho đẹp mắt. Chạy xe, muốn đi tới đích, cũng biết bao
thứ suy nghĩ trong đầu hoặc sự chú ý, quan tâm, chứ đâu có phải tự nhiên
leo lên yên là tới nơi ngay tắp lự. Và đi gần còn dễ, chứ muốn đi xa,
thí dụ xuống miền Tây, ra Đà Lạt cả trăm cây số thì càng phải trang bị
sức khoẻ, áo nón, kiểm tra xe thiệt kỹ, mua bản đồ hướng dẫn v.v... Cuộc
hành trình nào cũng đòi hỏi sự chuẩn bị nghiêm túc.
Ấy vậy mà... hình như có một cuộc hành trình quan trọng hơn nhưng mình
lại chuẩn bị rất thờ ơ. Có một chiếc xe quan trọng hơn mà mình leo lên
chạy nhưng đôi khi rất lười biếng, cẩu thả, vi phạm luật giao thông,
hoặc không thèm sửa thắng, thay sên gì ráo... Quanh năm suốt tháng,
chiếc xe ấy không lúc nào ngơi nghỉ, luôn chạy trên những con đường nắng
mưa sương gió, nhưng mình chẳng bao giờ để tâm chăm sóc. Và không khéo,
có một ngày... chiếc xe lao xuống vực, kết thúc một kiếp người quý báu!
Đó là chiếc xe nghiệp của mỗi người, đang chạy trên hành trình cuộc đời.
Và hành trình ấy có thể rất xa tới cõi Phật, Bồ Tát, hoặc cõi trời...,
cũng có thể rất gần như cõi người, ngạ quỷ, súc sanh... Ngày nào mình
cũng chạy chiếc xe nghiệp ấy, sao không hoạch định gì hết, cứ để nó đi
tới đâu thì tới? Gặp ngã ba Tham lam và Bố thí, thì nhớ rẽ sang Bố thí.
Tới đèn đỏ Sát sanh, Trộm cắp thì đừng quên thắng cái két, bởi có ông
cảnh sát đang đứng ở góc đường sẵn sàng chìa tờ giấy phạt Nhân quả ra.
Tới đèn vàng Lợi, Suy, Hủy, Dự, Xưng, Cơ... thì cẩn thận chạy chậm lại.
Gặp ổ gà của nghịch duyên thì lấy Nhẫn ra mà rà bánh xe cho đừng ngã.
Gặp đường nhựa thuận duyên thì chớ bon bon tăng tốc kiêu mạn, mà nhớ đội
mũ bảo hiểm hiệu Vô thường để nhắc mọi thứ đều là tạm thời, giả hợp.
Rủi có chạy lạc qua mấy cái quận Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy, thì lấy bản
đồ Tứ Diệu Đế ra xem. Nếu hết xăng thì đổ Tứ Nhiếp Pháp, Tứ Vô Lượng
Tâm vào, không lo phải ì ạch đẩy giữa đường. Và thường xuyên lau rửa
chiếc xe, tẩy hết bụi trần bằng nước Thiền định hoặc câu niệm Phật
A-di-đà. Có vậy chiếc xe nghiệp của mình mới sáng trưng đẹp đẽ và bảo
đảm không thể nào rơi xuống vực Ngạ quỷ, Súc sanh, nói chi là Địa ngục.
Xe nào xịn, chạy một hơi thẳng tới cõi Phật. Hạnh phúc lắm thay!
Lẩn thẩn, rồi lại tức cười, cái xe có mười mấy triệu đồng thì tối ngày
lau lau chùi chùi, o bế, còn cái xe vô giá kia thì bỏ lăn bỏ lóc. Thậm
chí đang chạy xe mà còn không biết là đang chạy xe, cứ theo thói quen
ngồi trên yên rồi đầu óc miên man đủ thứ. Thôi, đã nhớ vậy thì nắm chặt
tay lái nghen!
THỜI THỜI THƯỜNG PHẤT THỨC
Phật tử cúng dường thầy một chiếc honda để thầy tiện đi học, đi công
việc. Thế là, mỗi ngày thầy đều lau chùi chiếc xe cẩn thận, đến nỗi nó
cứ láng coóng lên. Một số người hay tấm tắc khen chiếc xe đẹp, nên thầy
càng hãnh diện. Sáng, đi một chút cũng lau. Chiều, đi một chút cũng lau.
Trời mưa thì xịt nước rửa hoài, dính một vệt bùn cũng kiên quyết tẩy
cho ra. Bảo đảm chiếc xe bóng tới soi mặt vô cũng thấy. Thì thôi, đồng
tiền vất vả của Phật tử lo cho thầy, giữ gìn kỹ vậy cũng chẳng sao!
Nhưng khổ nỗi, từ dạo đó thầy còn rất ít thời gian dành cho chuyện chấp
tác trong chùa. Bàn thờ bắt đầu đóng bụi, sáp đèn cầy chảy lan ra gạch,
thậm chí mấy pho tượng Phật cũng bụi bám nhện giăng. Chùa nhỏ, tượng
cũng nhỏ, đặt gần nhau nên có con nhện giăng lưới từ cánh tay của Phật
Thích Ca qua đầu của tượng Bồ Tát Thế Chí. Gió thổi nhè nhẹ là con nhện
đong đưa trên lưới, đâu có biết nó đang phạm cái tội tày đình là dám
trèo lên thân Phật.
Một bữa, tôi tới chùa, ngó lên bàn thờ, hết hồn hết vía. Rồi lập tức lấy
khăn, lấy nước lau dọn tưng bừng. Tới chỗ con nhện giăng dây, tôi năn
nỉ nó: "Mày chạy đi, không thôi tao phải lau trúng mày, tội nghiệp."
Nhưng con nhện im ru (biết gì mà hổng im ru!). Thế là tôi thở dài:
"Thôi, cái nghiệp của mày nghen. Tao xin chịu cái tội sát sanh chớ không
lẽ để mầy trèo lên đầu Phật!" Tôi ráng gỡ nó ra khỏi lưới để quăng
xuống đất, nhưng con nhện cứ kiên quyết "tử thủ", chạy tới chạy lui trên
mấy sợi tơ, cuối cùng tôi phải quơ một cái làm nó dính vô khăn, bẹp dí.
Tôi đọc chú vãng sanh cho nó, còn mình hổng biết lãnh tội cỡ nào!
Vừa lau Phật, tôi vừa chảy nước mắt. Đây là vầng trán trí tuệ mênh mông.
Đây là đôi mắt hiền dịu từ bi. Đây là cái miệng mỉm cười hỷ xả bao
dung. Còn đây là cánh tay làm chỗ tựa cho chúng sanh nắm lấy bước đi
trên đường Chánh pháp. Còn đây nữa, chiếc áo ca sa vàng óng như kim thân
Phật tỏa hào quang vô lượng kiếp... Tôi lau tới đâu, Phật hiện ra tới
đó, đẹp đẽ, trang nghiêm, thanh tịnh, nhiệm mầu. Trước mặt tôi, không
phải là khối xi măng cốt thép, mà là Đức Phật gần gũi, thân thương, yêu
kính. Tôi xoa nhẹ lên vai Phật và khẽ tựa đầu vào đó như tựa vào người
cha lành làm dịu mát cả trái tim. Tôi muốn ôm chầm lấy Người như Người
đang hiện hữu bên tôi...
Lau dọn xong, bàn thờ rực sáng. Tôi dọn nốt những bát nhang vương vãi
tàn tro và đốt lên những nén hương thơm ngát. Trong làn khói mỏng mảnh,
tôi chợt cảm nhận có một tượng Phật khác trong tôi mà hình như tôi cũng
đã từng để cho bụi bám nhện giăng. Một tượng Phật có từ vô thỉ vô chung
mà tôi đã lãng quên, lười biếng, không chịu chăm sóc, lau chùi. Tôi cũng
y như thầy mà thôi, cũng quanh năm suốt tháng lo lau dọn những chiếc xe
honda cho sạch bóng, hoặc quét tước nhà cửa cho ngăn nắp, vệ sinh, hoặc
tẩy rửa, trang điểm cho cái thân tứ đại thêm mỹ miều, thơm tho... Bao
nhiêu thứ trần gian đó đã ngốn gần hết thời giờ, còn đâu để quan tâm tới
tượng Phật trong tâm thức của mình. Ôi, chắc có cả trăm con nhện đang
giăng kín trong tâm tôi!
Thế là, tự nhắc, cầm khăn lên, mỗi ngày tự lau chùi dọn dẹp, để tượng
Phật hiện ra đẹp đẽ, trang nghiêm trong bản tâm thanh tịnh của mình. Làm
được không nhỉ? "Thời thời thường phất thức", cứ nhắc vậy đi, lẽ nào
không làm được ít nhiều! Lỡ có quên, thì ngay trong lúc lau xe honda
chắc cũng sực nhớ lại. Lau xe như vậy cũng không đến nỗi vô ích, phải
không thầy?
Hay làm thêm một bài kệ nhựt tụng nói về chuyện lau xe? Ờ, chắc nhiều
người áp dụng lắm đó... Thời hiện đại, chúng sanh thêm việc mới thì ta
thêm bài kệ mới, miễn tu được là tốt rồi!
ĐỒ CỔ
Vô chùa, thấy trong cái tủ lớn tại phòng khách trưng bày nhiều món đồ cổ
khá đắt tiền. Thầy hãnh diện giới thiệu từng món. Tôi ngơ ngác không
phân biệt nổi món nào đời Thanh, món nào đời Tống... Biết là quý, nhưng
đứng xa xa mà nhìn thôi!
Chợt nhớ, có một vị học giả nổi tiếng khắp Việt Nam vì bỏ cả đời sưu tầm
đồ cổ, toàn những thứ đặc biệt quý giá. Có những món ông phải dành dụm
tất cả tiền bạc trong nhà để mua cho bằng được. Trong tay ông là một tài
sản to lớn, dù ông vẫn sống rất đạm bạc. Khi ông qua đời, căn nhà và bộ
sưu tập của ông được hiến cho nhà nước. Nhưng, người ta đã không bảo
quản chu đáo như ông kỳ vọng, mà một số đồ quý bị vứt lăn lóc, sách vở
thì mối mọt gặm nhấm. Căn nhà cũng xuống cấp trầm trọng, ẩm thấp, mục
gãy và bị đám con cháu chia năm xẻ bảy, tranh chấp kiện tụng ầm ĩ dư
luận. Chính cái khối tài sản ấy làm động lòng tham của dòng họ. Báo chí
lên tiếng, thiên hạ thở dài, oán trách hậu thế tệ bạc...
Riêng tôi, tôi lại trách ông, hay nói đúng hơn là thương ông. Ông có
tình yêu đối với các sản phẩm văn hóa, nhưng ông không nhìn thấy cái lẽ
vô thường. Cuộc đời này có cái gì thường hằng vĩnh viễn đâu mà chúng ta
lại mơ giữ gìn nó đến vô tận vô biên? Ông có thể giữ lại những món đồ cổ
của nhà Thanh, nhà Tống... ừ thì cho là như vậy đã quý, thế còn những
món xưa hơn nữa, trước đó hằng bao nhiêu thế kỷ, thì ai đang giữ? Hay là
nó cũng đã bị chôn vùi, tan rã? Ông đã nỗ lực, nhưng khi ông nằm xuống
lòng đất thì mọi nỗ lực đó tan thành mây khói. Một đời góp nhặt mà con
cháu lại ăn chơi, phá hết của gia bảo, trở lại nghèo trắng tay. Chạnh
lòng, giá như ông dùng số tiền to lớn ấy mà đi bố thí, làm lợi ích cho
xã hội, thì đúng là để phúc đức cho con cháu, có khi bây giờ nó đỗ đạt
nên người, giàu sang vinh hiển, làm rạng danh ông.
Và cái lẽ vô thường trước sau gì cũng thực thi quyền lực mạnh mẽ của nó,
sẽ lại chôn vùi những món quý giá kia trở lại lòng đất, lòng biển, nơi
người ta đã tìm thấy nó bị đắm chìm. Chỉ cần một cơn sóng gió đại dương,
hoặc một cơn động đất, một cuộc chiến tranh, là mọi sự vật sẽ lại tan
tác. Chính cái mạng sống con người còn mong manh dường này, huống chi
đem cái mạng sống ấy đi giữ gìn từng món đồ vô tri giác?
Những năm gần đây thế giới có quá nhiều thiên tai và thảm hoạ chiến
tranh, tai nạn giao thông đường thủy, đường bộ lẫn đường hàng không. Báo
chí đưa tin liên tục, rúng động toàn cầu. Cảm giác mỗi người đều đang
ngồi trên một lớp băng mỏng, không biết vỡ ra bất cứ lúc nào, cuốn ta
vào dòng xoáy thăm thẳm của cái chết...
Vậy thì, có còn đủ thời gian và sức lực để đi góp nhặt những món đồ của
nghìn xưa? Và nghìn sau, ai sẽ là người lưu giữ? Thôi thì, như một thú
chơi của người đời, cũng tạm chấp nhận, nhưng đến ngôi Tam bảo mà cũng
quên lẽ vô thường thì hơi... oái oăm! Không chừng, bao nhiêu "ngã sở"
dồn hết cho những món đồ quý giá, khó mà bước đi thong dong. Trước mắt
đã thấy, thầy đi đâu cũng lo có kẻ trộm vào chùa bẻ khoá tủ, ai làm gì
mạnh tay cũng lo đụng vỡ món đồ. Mệt quá thầy ơi!
Sực nhớ mình cũng có một món "đồ cổ" quý giá vô cùng. Món này không xác
định được niên đại, đã có từ vô thỉ. Và mình đã chôn vùi nó, đã làm rơi
nó không biết bao nhiêu lần, rồi lại khai quật không biết bao nhiêu
kiếp. Có giữ thì giữ cái này đây, phải làm cho nó luôn vẹn nguyên đẹp
đẽ. Khó lắm! Nhưng thế mới thật là người biết chơi đồ cổ!
ĐI TÂY
Nhiều năm nay, xu hướng đi du lịch của người dân càng ngày càng tăng.
Đời sống kinh tế khá hơn, giao thông cũng thuận lợi hơn, thậm chí đi
nước ngoài thủ tục cũng dễ dàng hơn, nên nhiều người đổ xô "đi cho biết
đó biết đây". Người đời thì gọi đúng tên là "du lịch", chơi cho vui, cho
khoẻ. Còn người trong chùa, Phật tử thì hay đi dưới dạng "hành hương",
vừa thăm thú các địa phương, vừa viếng cảnh chùa, tiện lợi đôi bề.
Chùa trong tỉnh đi chán thì đến chùa ngoài tỉnh, miền Tây có Hà Tiên,
núi Sam, núi Cấm, miền Đông có núi Bà Tây Ninh, núi Dinh, rồi Thường
Chiếu, Viên Chiếu, Linh Chiếu... Ra Đà Lạt mù sương có Thiền viện Trúc
Lâm. Hay ra miền Bắc leo lên đỉnh Yên Tử, hoặc chùa Đậu có nhục thân của
hai thiền sư nổi tiếng v.v...
Chán nữa thì đi Thái Lan, giá tour rẻ rề, rẻ hơn cả đi Hà Nội. Đi tuốt
qua Ấn Độ thăm Tứ Động Tâm, nhặt chiếc lá bồ đề ngỡ Đức Phật còn ngồi
thuyết pháp đâu đây. Hoặc đến chùa Việt Nam của thầy Huyền Diệu, nơi có
những con hồng hạc sống yên lành trong vòng tay từ bi của quý thầy.
Quá nhiều nơi để đi, để chiêm ngưỡng, vui thú, tạm quên, rồi sau đó trở về chiến đấu với cuộc sống thường nhật mệt mỏi.
Tôi thường được rủ đi du lịch và đi hành hương như thế, nhưng tôi thường
từ chối. Gạn hỏi nguyên nhân, tôi chỉ cười, gọn lỏn: "Lên xe hay ói,
mệt lắm." Vậy là không truy cứu nữa. Mấy lần bạn bè dự trại sáng tác văn
học ở Đà Lạt, Nha Trang, thật vui, réo gọi liên tục, nhưng tôi đã làm
tụi nó giận vì cái lắc đầu của mình. Nó bảo tôi tham công tiếc việc,
thậm chí... ham tiền. Rồi nào là xơ cứng tâm hồn, hết dung dăng dung dẻ
cùng văn chương như ngày trước. Rồi quên hết bạn bè ở quê, trở thành con
người của thành thị... Ôi thôi là dư luận!
Thiệt tình, tôi cũng muốn đi lắm, và cũng có khả năng để đi. Lương ít,
nhưng kiếm hơn trăm đô để sang Thái Lan thì đâu đến nỗi. Còn ra Đà Lạt,
chỉ cần lận lưng một triệu, ở hai ba ngày, vừa ngủ khách sạn vừa ăn uống
thoải mái. Một năm, tôi có thể đi nghỉ mát một lần, tự thưởng cho mình
sau bao nhiêu mệt mỏi. Thế nhưng, tôi ngồi rù rì cân nhắc, rồi... thôi.
Bởi tôi nghiệm ra mình không còn bao nhiêu thời gian, sức khỏe, cũng như
tiền bạc, thì phải tính toán ưu tiên sử dụng những thứ quý giá ấy vào
chuyện thật cần thiết cho mình. Tóc đã muối tiêu trên đầu, càng phải
tính, kẻo không còn kịp nữa. Mình tự biết mình, chứ không dám chạy đua
theo người ta.
Thế là tôi không đi chơi. Nhưng lại vác ba lô đi chỗ khác. Một năm đi cả
chục lần, hăng hái lắm. Có khi một tháng mà đi mấy lần. Không đi thì
nhớ, cứ nôn nao ngồi không yên nơi thành phố. Khổ nỗi, người ta đi nghỉ
mát, còn tôi đi... nghỉ nóng. Những xứ sở biệt mù san dã, nghèo nàn,
nóng bức, nước nôi chua phèn, ao sông múc lên, chứ có vòi sen xịt tràn
trề như khách sạn đâu! Những xứ sở quá nhiều người nghèo, lam lũ, nhìn
họ mà lòng mình nặng trĩu. Chiếc ba lô của tôi luôn trong tư thế sẵn
sàng, khỏi cần soạn ra soạn vô hành lý chi cho mất công, vì loay hoay
hai, ba tuần đã tới ngày lên đường. Xà bông, bàn chải đánh răng, giáo
trình, giáo án, máy cassette, máy chụp hình, quần áo, khăn nón... cứ thế
mà "lập trình" sẵn. Tôi hát mãi bài ca lãng du trên từng nẻo đường xa
xôi hẻo lánh. Rành từng bến đò có hàng trúc xanh thơ mộng, rành từng cây
cầu ván gập ghềnh mới được đổ bê tông, rành từng món ăn quê hương, tỷ
như xứ dừa có món bánh tét khoai mì thiệt lạ, còn ở xứ khác thì ăn lẩu
có kèm rau mồng tơi mới ngộ! Rành cả xứ nào trồng dưa hấu, xếp lăn lóc
bên vệ đường như heo con, giòn và ngọt lịm, xứ nào người ta hát dân ca
hay hơn nơi khác... Tôi tròn mắt khám phá con người và những góc nhỏ quê
hương, thấy đáng yêu vô cùng.
Và số tiền thay vì tiêu tốn cho một mình vui, tôi "tính sói trán" ra
những thứ người khác cùng vui. Một triệu đồng đi Đà Lạt? Ừm... đổi được
100 cuốn tập, 100 cây bút bi, 50 hộp bút màu, và 100 cái bánh ngọt cho
mấy đứa nhỏ nghèo trong làng. Tụi nhỏ mừng lắm, mắt cứ long lanh như
biển trong veo, miệng chúm chím cười như hoa mùa xuân, và trái tim đang
lớn dần sự thánh thiện như ngọn núi dịu dàng mây trắng... Ừ, thôi, khỏi
đi ngắm biển, ngắm hoa, ngắm núi chi xa, về tận vùng sâu vẫn thấy biển
đó, hoa đó, núi đó trong từng sinh linh nhỏ bé. Đi chơi thì vui một
mình, bây giờ vui tới... 50 mình, 100 mình. Lãi nhiều quá xá!
Ngồi nghĩ tức cười, hổng chừng mình đi "du lịch" gấp mấy lần người ta,
vậy mà làm bộ nói hổng thích đi. Cái chân có chịu ngồi yên đâu! Có điều,
tôi đi mấy chỗ này chẳng có gì để kể. Người ta mang về cả xấp hình chụp
cung điện, đền đài, núi non hùng vĩ, hổng lẽ tôi "khoe" mấy tấm hình
chụp với lũ con nít áo quần lem luốt, đứng ngồi lố nhố bên mái hiên chùa
trơ cột kèo tole lá nghèo nàn? Thôi, cất làm kỷ niệm mình ên.
Thằng con hay hỏi:
– Mẹ à, sao mẹ kỳ vậy?
Tôi cười hì hì, giả bộ "chảnh":
– Mẹ khoái đi Tây hà!
– ???
– Nước đó có ông Tổng thống tên A-di-đà. Chỗ nào cũng vàng bạc lấp lánh,
khỏi cần nấu nướng thức ăn chi cho mệt, chỉ cần nghe pháp là no. Cũng
khỏi cần xây nhà xây cửa, lo chạy sổ hồng sổ đỏ xất bất xang bang như
bây giờ, mà mình cứ chui vô cái bông sen, sáng bông nở ra cho mình đi
nghe pháp, chiều bông cụp lại cho mình ngủ, mát hơn là máy lạnh. Muốn
tắm thì nhảy xuống ao Bát công đức thủy, không lo nước ô nhiễm, đục bẩn
như nước máy bây giờ.
Thằng con nhảy lên:
– A, con biết cái nước đó rồi!
– Cho nên mẹ ráng dành dụm "tiền" để mua "vé" đi nè. Giá cao lắm nghen
con. Lơ mơ cả đời cũng không đủ mà mua. Hễ đi là đi một chuyến thiệt xa
cỡ đó mới thích!
– Mẹ này! Lãng mạn quá đi!
Hì, không lãng mạn mà dám mơ đến Tây phương sao? Nói chơi mà là... thiệt đó nghen! Tôi vẫn mơ đi du lịch một chuyến như thế...
CHÙA XUÂN
Mỗi lần Tết đến, tôi lại nhớ quê với bà ngoại già và ngôi chùa làng ẩn
sâu sau những vòm cây xanh mát. Từ nhỏ, tôi đã chạy lon ton theo bà, sau
này lớn lên thì đi chùa một mình hoặc đi với bạn bè, em gái, lòng lâng
lâng một cảm xúc yên bình...
Quê tôi cũng như nhiều làng quê khác ở nông thôn, ít có nơi vui chơi,
hoạt động văn hóa, nên ngôi chùa trở thành trung tâm sinh hoạt của mọi
người, nhất là phụ nữ. Mà dù cho có gánh hát, có đoàn cải lương về diễn,
người ta vẫn thích đi chùa. Ngôi chùa nằm trong tâm thức mọi người,
"một cõi đi về" cho từng khoảnh khắc cuộc đời. Ngày xuân, cái khoảnh
khắc xôn xao nhất của trời đất, mà lạ, lại kéo bước chân người ta tìm
đến nơi thanh tịnh, yên bình. Có lẽ không khí chốn thiền môn giúp tâm
hồn con người lắng xuống sau một năm đua chen, bươn chải với đời.
Qua mấy con đường đất quanh co và một cây cầu nhỏ bắc ngang con mương
nước trong leo lẻo, ngôi chùa hiện ra khiêm tốn. Cổng vào có một ao sen
kề bên và hai hàng bông trang thâm thấp trổ đầy bông đỏ thắm. Những viên
gạch tàu mốc thếch rêu, nhẹ kêu giòn dưới chân. Tôi thường đi thẳng ra
sau nhà Tổ để xá sư ông trụ trì hoặc sà vào nhà trù nơi mấy bà mấy cô
đang gói bánh. Bởi mới rẽ vào cổng đã nghe mùi nếp, mùi đậu thơm lừng
hòa lẫn trong mùi khói hương nghi ngút. Trên bộ ván gỗ bóng loáng có đến
gần 50 năm tuổi, các bà các cô đang quây quần, tay thoăn thoắt buộc
những đòn bánh tét to nặng hoặc xếp những cái bánh ít hình tam giác xinh
xinh, miệng thì kể những câu chuyện đạo, hoặc chuyện xóm chuyện làng.
Vui vẻ và đầm ấm lạ kỳ. Có những người ngày thường xích mích với nhau,
vậy mà khi đến chùa cùng ngồi bên nhau lau từng tấm lá, cột từng đòn
bánh, thổi từng ngọn lửa, họ chợt thấy gần gũi, rồi dễ dàng xí xóa, làm
hòa.
Ai không rảnh để xuống phụ bếp thì tranh thủ lên chánh điện lễ Phật.
Ngày mùng một Tết người ta đi lễ đông nhất. Đó là ngày vía Đức Phật Di
Lặc nên mọi người thường tìm đến bức tượng một ông có cái bụng tròn to
như cái trống, phạch áo ra cho 6 đứa nhỏ xúm quanh nghịch ngợm, mà miệng
vẫn cười hết cỡ. Ai trông thấy bức tượng cũng phải vui vẻ, và mở lòng
hỉ xả như ông. Đầu năm, nở được nụ cười đã là một liều "thuốc bổ" giúp
người ta thêm sức mà đi tiếp cuộc hành trình. Chùa nào không có tượng Di
Lặc thì mọi người chiêm bái Đức Thích Ca Mâu Ni, vừa cầu nguyện cho đất
nước, gia đình, vừa nhủ lòng sống tử tế, đàng hoàng như lời dạy của
Ngài. Đơn giản, thấm nhuần, ngôi chùa hiện diện trong nền văn hóa dân
tộc như thế đó.
Hồi nhỏ tôi thường bỏ bà ngoại để chạy theo mấy con quy màu vàng bò
quanh sân chùa. Nó hiền lành thưởng thức món quà xuân của tôi là mấy
trái chuối chín, rồi rụt cổ vào chiếc mai trốn lũ trẻ con xúm đến chọc
ghẹo. Lớn lên, tôi vẫn đi tìm nó, thấy chiếc mai đã thêm những vòng rêu
mốc cũ kỹ, và chiếc cổ thêm những đốm vẩy sần sùi. Con quy vẫn thích ăn
những trái chuối thơm mềm mà tuổi thơ của tôi đã trao cho nó...
Mỗi năm một lần, tôi lại về thăm ngôi chùa quê nhỏ bé nằm nép mình sau
vòm cây. Lại nghe hương nếp, hương sen hòa lẫn, lại thấy các bà các cô
chắp tay lễ Phật, rồi thoăn thoắt gói bánh mời khách thập phương. Không
biết nơi đâu là đạo, là đời...