05. Phật
giáo và vũ trụ học
Trong
thời đại khoa học, khi mà những tiến bộ khoa học đã làm lui đi phần nào quan
niệm thần thánh và những mớ huyền thoại, mê tín dị đoan của con người, thì càng
ngày Phật Giáo càng chứng tỏ là một tôn giáo, từ cấu trúc, tư tưởng trong các
Kinh điển cho tới phương pháp hành trì, rất là tương hợp với khoa học. Ngày
nay, Phật giáo đã đi vào thế giới Tây phương một cách nhẹ nhàng, cởi mở và hòa
đồng. Cho nên thế giới Tây phương càng ngày càng hâm mộ Phật Giáo về những sắc
thái tiến bộ của Phật giáo, và những khoa học gia thượng thặng ngày nay cũng đã
nhận ra rằng tư tưởng Phật Giáo đã giúp họ rất nhiều trong việc giải thích
những hiện tượng khoa học và đã dẫn họ đến những tư tưởng mới và khám phá mới
trong khoa học. Muốn hiểu được hiện tượng kỳ lạ trên, chúng ta cần duyệt sơ lại
lịch sử khoa học Tây phương cũng như tìm hiểu những sắc thái đặc biệt của Phật
giáo đối với khoa học.
Theo quan niệm của một số khá
đông, nhất là ở Tây phương, thì có vẻ như khoa-học và tôn giáo khó có thể tương
hợp. Thật vậy, tôn giáo Tây phương đặt căn bản trên niềm tin ở 1 đấng siêu
nhiên vạn năng, tác giả của mọi vật trên thế gian và có toàn quyền quyết định
số phận con người trong đời sau, dù rằng cho tới nay không có cách nào con
người có thể kiểm chứng được sự hiện hữu của một đấng toàn năng, hoặc những ai
đã được thưởng hay bị phạt, và thưởng phạt như thế nào. Trái lại, khoa học đặt
căn bản trên thực nghiệm, trực tiếp liên hệ tới những vấn đề xã hội ngay trong
đời này, và không chấp nhận những sự việc có tính cách mơ hồ, viển vông, không
phù hợp với đầu óc ngày càng tiến bộ của con người. <
Trong mấy thế kỷ gần đây,
khoa-học phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ ở Tây phương, do đó Tây phương rất
tự hào về nền văn minh thường được biết là "nền văn minh Thiên Chúa Giáo
Tây Phương" (Western Christian Civilization), vì tôn giáo chính ở Tây
phương là Thiên Chúa Giáo, và vì những phát triển, tiến bộ ngoạn mục nhất của
khoa học và nhiều bộ môn khác cũng ở Tây phương. Nhưng ít người để ý đến sự
nhập nhằng kết hợp tôn giáo và khoa học làm một nền văn minh chung. Ít người để
ý đến sự kiện là khoa học tiến bộ và phát triển ở Tây phương không phải vì niềm
tin trong tôn giáo của các khoa học gia Tây phương, mà chính là vì các khoa học
gia đã phủ nhận niềm tin này, hay ít ra cũng là lãnh đạm với niềm tin này. Thật
vậy, lịch sử khoa học cho thấy tôn giáo Tây phương, thường tự cho là văn minh
tiến bộ, là khai phóng, đã luôn luôn làm đủ mọi cách, trong phạm vi quyền lực
thế gian, để ngăn chặn những khả năng tự tại quý báu nhất của con người, thí dụ
như óc sáng tạo, tự do suy tư v.v..., những thành tố tất yếu của sự phát triển
khoa-học nói riêng, kiến thức con người nói chung. Trong khi đó, Phật Giáo,
thường bị xuyên tạc là một tôn giáo yếm thế, chậm tiến, lại có rất nhiều điểm
tương đồng với khoa học, luôn luôn hòa hợp, cổ võ, và hỗ trợ những tiến bộ của
khoa học, và ngày càng giữ một vị thế thoải mái trong thời đại khoa học. Điều
này không có gì là lạ, vì căn bản tu tập trong Phật giáo cũng dựa trên thực
nghiệm giống như khoa học, và nếu ta để tâm tìm hiểu thì ta sẽ thấy trong nhiều
bộ môn, Phật Giáo đã tiến trước khoa học khá xa về tư tưởng và phương pháp hành
trì chứng nghiệm trực tiếp.
Hẳn nhiên trong một bài viết
ngắn ngủi tôi không có cách nào trình bày toàn vẹn tinh thần khoa học trong
Phật Giáo cũng như không thể đi vào tất cả các bộ môn mà tư tưởng Phật Giáo có
thể coi như là tiền phong cho những khám phá khoa học sau này. Cho nên sau đây
tôi chỉ đưa ra vài sự kiện so sánh giữa những khám phá của Phật Giáo hơn 2500
năm trước và những khám phá mới đây của khoa học chính xác, và tôi sẽ tự hạn
trong đề tài "Vũ Trụ Luận" trong Phật Giáo. Tôi sẽ chứng tỏ để bạn
đọc thấy nhiều khi Phật Giáo còn chính xác hơn và đầy đủ hơn khoa học, và rằng
một số tư tưởng Phật Giáo và phương pháp trình bày các tư tưởng này đã đi trước
khoa học nhiều thế kỷ.
Quan niệm của Phật Giáo về vũ
trụ như sau: thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không
phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều
thế giới khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế
Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ thế giới trong Phật
- giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể
được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành
tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một
ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung
Thiên Thế Giới họp thành một Đại Thiên Thế Giới. Vậy, lấy đơn vị là một hệ
thống tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế
Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng một triệu
thế giới, Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới v.v... Đó là quan niệm
về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về trước. Nhưng sau đó 22 thế kỷ, vào
thế kỷ thế 17, Tây phương vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm tối tăm về trời
tròn đất vuông, trái đất được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay
xung quanh trái đất như đã viết trong Thánh Kinh. Những khám phá mới, xác thực
về vũ trụ của các khoa học gia như Copernicus (các hành tinh quay xung quanh
mặt trời) và Galileo (trái đất quay xung quanh mặt trời), vì không phù hợp với
thánh kinh, nên đều bị quyền lực tôn giáo đương thời lên án.
Trở lại quan niệm về vũ trụ của
Phật Giáo, chúng ta thấy rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với
những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà
vật-lý-học về thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế
kỷ. Một Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên
hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên
đó. Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao (constellation)
Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một chùm thiên hà
(galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại Thiên Thế Giới có
thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong
Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu
thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho
nên các khoa học gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không
phải vì những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay
chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu
hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của con
người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng nhắc không bao giờ
thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại, không có gì có thể
coi như là vĩnh cửu, bất biến.
Nói đến quan niệm về vũ trụ của
Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành
Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế
giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh,
thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô
sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin
luận về hai điểm: hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn
kinh văn sau đây:
Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo
đại chúng rằng: "Chư
Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn...hoặc hình như
nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."
Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm
Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau:
hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước
xoáy, hoặc hình trục xe... hoặc hình hoa sen... có vi trần số hình trạng như
vậy." ("Kinh Hoa- Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học
Viện Quốc Tế xuất bản).
So sánh với những hình trạng của
các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay chúng ta
thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ
như các hình như bánh xe, nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các
chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way)
và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không
gian liên-thiên-hà (intergalactic clouds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi sao
v.v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên
văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính
xác về vũ trụ như trên. Nếu không phải vì đã giác ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ
cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể biết được những điều như trên. Và
chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết
cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong
rừng.
Tiếp theo, về kiếp trụ của các
thế giới, Kinh văn viết rằng:
"Lúc đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại
bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế giới hải có thế giới hải vi
trần số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp trụ,
hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng
kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có
bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả thuyết
kiếp trụ,... có vi trần số kiếp trụ như vậy."
Rồi trong bài kệ để tuyên lại
nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền có giải thích bằng một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi những tâm nguyện đều chẳng
đồng." Chỉ một câu "bởi những tâm nguyện đều chẳng
đồng" cũng đã giải quyết vấn đề "thiên sai vạn biệt" trong vũ
trụ. Thật là đầy đủ, thật là rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu
vào một chút trong đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước
khoa học như thế nào.
Phật giáo phân biệt: Tiểu Kiếp
có 16 triệu 8 trăm ngàn năm, Trung Kiếp có 336 triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ
344 triệu năm. Theo khoa học hiện nay thì một ngôi sao (coi như là một thế
giới) mà chất lượng (mass) càng nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó
có những ngôi sao chỉ "sống" được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã
tính được rằng một ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng 90
phần trăm thì ngôi sao này có thể sống tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này rất phù
hợp với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có
thế giới tồn tại vô số kiếp v.v....
Thứ đến, những danh từ như
a-tăng-kỳ, vô lượng, vô biên,... bất khả thuyết có vẻ như mơ hồ và không rõ
ràng như những con số trong thời đại khoa học. Thật ra không phải vậy, vì trong
phẩm A-Tăng-Kỳ, Kinh Hoa Nghiêm ta đọc được như sau, tôi xin đánh số cho nó rõ
ràng hơn:
Phật nói: Này thiện nam tử!
1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu
Chi.
2. Câu Chi lần Câu Chi làm một
A-Giu-Đa
3. A-giu-Đa lần A-Giu-Đa làm một
Na-Do-Tha
4. Na-Do-Tha lần Na-Do-Tha làm
một Tần-Bà-La và tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 104 là A-
Tăng-Kỳ, số 106 là Vô Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô Đẳng, số 112 là
Bất-Khả-Sổ, số 114 là Bất-Khả- Xưng, số 116 là Bất-Khả-Tư, số 118 là Bất-Khả-
Lượng, và số 120 là Bất-Khả-Thuyết.
Chúng ta biết rằng khoa học ngày
nay dùng ký hiệu lũy thừa để viết những con số lớn. Thí dụ như 1 triệu là con
số 1 với 6 con số 0 đằng sau, 1 000 000, theo ký hiệu điện toán được viết như
sau: (10^6) hay 106 và đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có 9 số 0 và được viết là
109 (billion), lớn hơn nữa là 1012 (1 ngàn tỷ hay trillion), 1015 (1 triệu tỷ
hay zillion) và khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ những con số lớn
hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất.
Theo Kinh Phật thì 1 Lạc Xoa là
100 ngàn, nghĩa là 105. Như vậy 1 Câu Chi là 10 triệu, nghĩa là 107; 1 A-
Giu-Đa là 100 ngàn tỷ, nghĩa là 1014; 1 Na-Do-Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là
1028. Tiếp tục tính ra ta sẽ thấy 1 A- Tăng-Kỳ là khoảng, nếu chỉ lấy 9 số lẻ,
10(8 x 10^31), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở
đằng sau, một con số vô cùng lớn nhưng vẫn có một tên riêng. Chúng ta có thể
suy ra:
Vô Lượng ~= 10^(3 x 10^32), Vô
Biên ~= 10^(1.13 x 10^33),...và Bất-Khả-Thuyết ~= 10^(4.6 x 10^36) nghĩa là con
số 1 tiếp theo bởi khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những con số khoa học hiện đại
dùng tới có lẽ chỉ vào khoảng 10^40 nghĩa là chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng
ta thấy ngay rằng, ngay cả về phương diện toán số, Phật giáo đã đi trước khoa
học khá xa về sự biểu thị chính xác những con số và đã có quan niệm về những
con số vô cùng lớn, lớn ngoài mức tưởng tượng của các khoa học gia hiện đại.
Trên đây tôi đã trình bày sơ
lược, sơ lược vì còn rất nhiều chi tiết tôi chưa nói tới, những sự tương đồng
giữa Phật Giáo và khoa học hiện đại trong một số quan niệm về vũ trụ, và chứng
tỏ rằng những tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ, và rằng
Phật giáo cũng vô cùng chính xác trong một số nhận định. Nhưng Phật Giáo không
phải chỉ có những tương đồng với khoa học trong bộ môn thiên văn như vừa trình
bày ở trên, hay với môn Vật lý các hạt nhỏ (particle physics) như đã trình bày
trong cuốn The Tao of Physics của Fritjoff Capra, mà còn nhiều tương đồng khác
trong các bộ môn như sinh học (bioscience), vật lý hạt nhân (nuclear physics), triết
lý khoa học (philosophy of science), tâm lý học (psychology), phân tâm học hay
tâm lý trị liệu (psychotherapy), di truyền học (genetics) v.v..., và nếu khảo
sát kỹ thì trong bộ môn nào, tư tưởng Phật Giáo cũng đi trước khoa học khá xa.
Cũng vì vậy mà những bộ óc khai phóng, tiến bộ nhất của nhân loại hiện nay càng
ngày càng phải tìm về những chất liệu trong Phật Giáo với hi vọng giải quyết
những bí tắc trong việc mở mang kiến thức loài người. Ngoài ra, cái tinh thần
từ bi hỉ xả và bản chất khoan dung của Phật giáo cũng lần lần đi vào đầu óc của
những con người tiến bộ trong thời đại khoa học.
Để kết luận, tôi xin mượn lời
của luận gia Gerald Du Pré như sau:
"Trong thế kỷ này, đã có
nhiều công cuộc hòa hợp tôn giáo trên thế giới, với mục đích đáng tán thưởng là
tìm ra những điểm chung giữa các tôn giáo, và cổ súy tinh thần khoan dung giữa
các tôn giáo. Tuy nhiên, điều này không làm cho tôn giáo sống lại, vì những thứ
mà hầu hết những tôn giáo cùng có là lòng tin, giáo điều, thánh kinh và các
thần tính, tất cả những thứ này làm cho các tôn giáo đó không tương hợp với
khoa học. Phật giáo (cùng với Lão giáo) là một biệt lệ, vì Phật giáo không phải
là một tín giáo, không có giáo điều cứng nhắc, không có thần quyền và không
chấp nhận hiệu lực cứu rỗi của bất cứ ai khác.
Tôi không tin rằng chúng ta nên
tìm cách hợp nhất Phật giáo với các tôn giáo khác. Điều này chỉ dẫn đến sự lẫn
lộn. Chúng ta hãy cố gắng tranh đấu để hợp nhất Phật giáo và khoa học, để tạo
nên một tôn giáo khoa học cho thế giới hiện đại. Khoa học Phật giáo sẽ làm tan
biến sự hoang mang, bối rối bằng cách làm sáng tỏ và hợp nhất lý thuyết và
phương pháp hành trì Phật Giáo để làm một căn bản giác ngộ vững chắc, hữu hiệu
cho người Tây phương."
(During this century, a great
deal of work has been done for uniting the religions of the world, with the
praiseworthy object of discovering what they have in common, and for promoting
tolerance among them. However, this has not lead to a revival of religion,
because what most religions have in common is faith, dogma, divine scriptures
and deities, all of which make them incompatible with science. Buddhism (along
with Taoism) is the great exception to this, for it is not a faith, has no
dogma or divine authority of its own and does not accept the validity of anyone
else's.
I don't believe that we should
be trying to unite Buddhism with other religions. This only leads to confusion.
Instead, we should be striving to unite Buddhism and science, so as to produce
a religion of science for our modern world. Scientific Buddhism will dispel
confusion by clarifying and unifying Buddhist practice and theory and making it
an effective stepping-stone to enlightenment for Westerners."
("Scientific Buddhism" by Gerald Du Pré, in "Buddhism and
Science", Edited by Buddhadasa P. Kirthisinghe, New Delhi, India, 1984).