1. VỀ TÂM LÝ HỌC PHƯƠNG TÂY
1.1.Các định nghĩa:
Các dịnh nghĩa tâm lý học trước thế kỷ XX
(tiêu biểu):
a.Wilhelm Wundt (1832 – 1920), người Đức:
Wundt là nhà sáng lập phòng thực nghiệm về
tâm lý đầu tiên gọi là Psychological laboratory (1879), định nghĩa: “Tôi thiết
nghĩ, tâm lý học phải là nghành nghiên cứu về kinh nghiệm của ý thức. Công việc
của chúng ta là phân tích các cảm giác, các cảm thọ và các ý niệm, đi vào những
phần căn bản (nền tảng) nhất của chúng, hệt như các nhà hóa học phân tích các
vật chất phức tạp. Bằng cách đó, chúng ta sẽ đi đến hiểu biết bản chất của cái
tâm của con người...” Nghành Tâm lý học này có tên gọi là “Tâm lý cấu trúc học”
(Structuralist)
(Psychology, Robert A. Baron, Prentice Hall
of India Private Limited, New Delhi – 110001, 1995, p.4)
b. William James (1842-1910), người Mỹ:
James là tác giả của một tập sách có ảnh
hưởng trước đây gọi là tập “Các nguyên lý của Tâm lý học” (Principles of
Psychology), định nghĩa: “Tôi không đồng ý – không đồng ý với định nghĩa của
Wundt - Cái tâm thì không tỉnh tại. Nó luôn luôn thay đổi. Cái tâm còn hữu dụng
nữa – có lẽ nó là cái hữu dụng nhất mà chúng ta có được. Như thế, công việc
chính của chúng ta dành cho Tâm lý học phải là công việc hiểu rõ cái Tâm vận
hành trong đời sống hằng ngày. Như thế nào để bản chất Tâm lý cơ bản của chúng
ta giúp chúng ta thích nghi với cái thế giới phức tạp và vô thường này? Để hiểu
rõ cái Tâm con người, chúng ta phải nghiên cứu cái Tâm vận hành như thế nào, sự
nhận ra rõ ràng các phần căn bản của tâm, hay các phần tố của tâm, là có ý
nghĩa, nhưng nó cung ứng chỉ một phần của sự miêu tả tổng thể”. Nghành tâm lý
học này gọi là “Tâm lý vận hành”.
(Ibid, p.4)
c. John B. Watson, người Mỹ (1878-1958):
Watson là nhà sáng lập về một phương pháp
chế ngự nghành Tâm lý học mãi cho đến thế kỷ XX (suốt thế kỷ XX), định nghĩa:
“Cả hai anh (chỉ Wundt và James) đều nghệt. Chúng ta không thể biết được (thấy
được, hiểu được) cái tâm, cũng không thể thấy biết “cảm nghiệm của ý thức”.
Những gì chúng ta có thể quan sát là cách ứng xử công khai (bên ngoài). Chúng
ta không thể ghi lại một cách chính xác về những gì đang tiếp diễn trong tâm –
dù là những gì. Như thế, ý tưởng xử dụng nội quan như là một phương pháp nghiên
cứu để xây dựng lên cái khoa học mới mẻ của chúng ta quả là buồn cười. Sự ứng
xử biểu lộ bên ngoài là điều duy nhất mà chúng ta có thể khảo sát (quan sát)
hay trắc đạc một cách khoa học, nên sự ứng xử công khai (tánh hạnh) phải là quy
điểm của Tâm lý học”. Nghành Tâm lý mà ông đưa ra gọi là “Tâm lý ứng xử” hay
còn gọi là “nghĩa cử học”, “tánh hạnh học” (Behaviorism).(Ibid, p.4)
Các
định nghĩa về tâm lý học của thập niên cuối thế kỷ XX:
Từ ba định nghĩa vừa được giới thiệu ở trên,
Wundt thực sự là đại biểu của các nhà “Cấu trúc học”, James là đại biểu của các
nhà “Chức năng học”, còn Watson là đại biểu của các nhà “Tánh hạnh học” (hay
ứng xử học). Các nhà Tâm lý học của thập niên cuối của thế kỷ XX phần lớn tin
tưởng vào nghành “Tánh hạnh học” (Behaviorism) – phần ít hơn của các nhà Tâm lý
học thì chủ trương nghành tâm lý nhân bản (Humanism) – Tuy nhiên các nhà tâm lý
ấy cũng nhận thức rằng “Tánh hạnh học” không phải là điều quan tâm duy nhất của
họ, họ còn quan tâm về sự nghiên cứu tâm lý ở nhiều khía cạnh (hay phương diện)
khác nữa, như về Nhận thức, về Sinh lý, về Xã hội – Văn hóa, và về Động lực tâm
lý học (Cognitive, Physiologycal, Sociocultural, Psychodynamic perspectives).
a. Về khía cạnh nhận thức (hiểu biết):
Như khi giới thiệu một sinh viên chuyển
trường hay tiếp tục theo học ở cấp học cao hơn tại trường khác, Viện trưởng,
đại diện Viện trưởng, hay một giáo sư, cần theo dõi, quan sát sinh viên ấy để
cung cấp một số thông tin về khả năng nhận thức, khả năng ghi nhớ, tiếp thu,
khả năng học vấn (thông minh, giỏi...), về sự hiếu học, cần mẫn, v.v... của
sinh viên ấy. Đây là sự để ý (lưu ý) về các tiến trình nhận thức (hiểu biết).
b. Về khía cạnh sinh lý:
Khi một người suy tư, nghe nhạc, đói bụng,
khát nước hay giận hờn, giận dữ, có cái gì xảy đến với cơ thể của người ấy? Cái
gì xảy đến khi người ấy mơ mộng, âu sầu, ham muốn dục tình hay muốn đọc cuốn
sách hay?
Thực sự hẳn là có “một cái gì ấy” xuất hiện
trong các trường hợp vừa nêu. Là con người đang sống, trong các cảm thọ của
mình, luôn có các sự kiện sinh lý đi kèm theo ở một mức độ nào đó. Hoạt động
của não bộ, hệ thần kinh, sự giải phóng các hormores, các năng lượng, nhiệt
lượng trong cơ thể luôn luôn nối kết với những gì mà con người cảm thọ, tư duy,
nói năng, v.v... Hiểu biết các sự kiện về sinh vật học cũng là một phần tố
nghiên cứu của Ngành tâm lý học.
c. Về khía cạnh Văn hoá – Xã hội:
Về khía cạnh này, Robert A. Baron nêu ra một
trường hợp biểu trưng để nhận rõ, đại để:
Quan sát hai nhà ngoại giao đang đàm phán về
một thoả thiệp về thương mãi: một là người Mỹ, và một là người Nhật. Nhà đàm
phán Mỹ đưa ra một số đề nghị. Nhà đàm phán Nhật chỉ mỉm cười mà không đáp lại
một lời đáp cụ thể nào. Nhà đám phán Mỹ nhắc lại, nhưng nhà đám phán Nhật cũng
chỉ mỉm cười. Điều nầy khiến nhà đàm phán Mỹ trở nên giận dữ và phá vở cuộc đàm
phán.
Thái độ biểu hiện khác nhau của hai nhà đàm
phán ấy có sự liên hệ đến hai nền văn hoá (Culture) khác nhau. Mỗi nền văn hoá,
giáo dục thường chỉ dẫn cho con người của nền văn hoá ấy cách xử sự (ứng xử)
riêng biệt: người Mỹ thì chấp nhận cách nói thẳng thắn: chấp nhận hoặc chối từ
(không có gì sai khi chối từ đề nghị của người khác); nhưng người Nhật thì quan
niệm nên cần thời gian để tìm hiểu ý muốn của hai bên trước khi đi vào giải
quyết vấn đề, nếu nói thẳng lời chối từ là không lịch sự, không phải cách tốt.
Điều này nói lên rằng các hệ thống văn hóa, xã hội có ảnh hưởng rất mạnh đến
nhận thức, cảm nhận hay ứng xử của các cá nhân. Vì vậy, để hiểu rõ cách ứng xử
(tánh hạnh), nhiều khía cạnh ứng xử, chúng ta cần tìm hiểu các yếu tố văn hoá,
xã hội.
d. Về
động lực tâm lý (Psychodynamic Perspective)
· Do nhiều nhà tâm lý học chủ trương, không
do một nhà sáng lập.
· Quan sát, phân tích các giấc mơ và mối
liên hệ giữa mơ và tâm lý hàng ngày. (Mộng làm sao chiêm bao vậy!)
· Quan sát các hiện tượng:
- Tâm lý rối loạn (Psychological disorder)
- Tâm bệnh (Metal illness)
à Do các động lực bên trong và bên ngoài tác
động (Forces; Urges; Tendencies).
· Chấp nhận Behaviorism, nhưng cần bổ sung
thêm nhiều phương diện tâm lý (nghiên cứu).
· Chấp nhận vô thức (tiềm thức) do Freud
khởi xướng, nhưng không chấp nhận lý thuyết Nhân tính của ông ta.
1.2.Nét đặc trưng của Tâm lý học phương Tây:
Từ các phần vừa trưng dẫn, Tâm lý học phương
Tây nổi bật một số nét tiêu biểu như sau:
- Dựa vào thông tin của các giác quan giới hạn và thiếu chính xác của con
người.
- Dựa vào quan sát và khả năng quan sát của
người quan sát.
- Dựa vào sự phân tích và tổng hợp và tổng
hợp của tư duy ngã tính.
- Dựa vào các phương pháp nghiên cứu và kỷ
thuật khoa học về sự ghi nhận và trắc đạc.
- Mục tiêu tìm hiểu tâm lý cá nhân (riêng lẻ, đại chúng và quần chúng) là thực
dụng để đáp ứng các yêu cầu về lợi ích kinh tế, ngoại giao, xã hội, các yêu cầu
lợi ích cá nhân.
- Dựa vào kết quả nghiên cứu gián tiếp về
các nhân duyên (lãnh vực) liên hệ đến các biểu hiện của tâm lý cá nhân.
Tất cả điểm dựa ấy của nghành Tâm lý học sẽ
không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và
tâm lý người khác, và sẽ không bao giờ có thể nói lên sự thật của hạnh phúc,
con người và cuộc đời. Đây là lý do mà nghành tâm lý học tiếp tục cuộc hành
trình vô định của nó (nếu không như vậy thì đã chấm dứt, ngừng lại, công tác
tìm hiểu, nghiên cứu tâm lý con người).
2. Về Tâm lý học Phật giáo:
Từ thời kiết tập Kinh, Luật, Luận thứ ba,
dưới triều đại đế Asoka (thế kỷ thứ III trước Tây lịch) cho đến thế kỷ thứ IV
sau Tây lịch (và cả cho đến nay), có ba hệ thống Tâm lý học Phật giáo xuất
hiện:
- Cu Xá Luận (thuộc Nhất Thiết Hữu Bộ –
Sarvastivada)
- Duy Thức luận (thuộc Phật giáo phát triển
– Mahayana)
- Abhidhamma (thuộc Thượng Tọa Bộ –
Theravada).
Cả ba hệ thống này đều xây dựng từ hệ thống
kinh tạng, từ sự chứng ngộ giải thoát tận cùng của Đức Phật. Đây là dòng tâm
linh thực nghiệm vừa xử dụng phương pháp phân tích, vừa dựa vào “tâm chứng” của
chư Phật, chư Tổ, vừa để thích ứng với thời đại phát triển triết học, văn học
hầu để giới thiệu con đường huấn luyện tâm lý dần đến chân lý và hạnh phúc của
Phật giáo: Con đường Thiền định (hay Giới – Định – Tuệ).
Bài viết này chỉ giới thiệu hệ Tâm Lý Abhidhamma.
Về Abhidhamma, cụ thể phần giới thiệu ở đây
là tập: Abhidhammatthasangaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận).
Như lời giới thiệu tổng quát của Hoà thượng
Viện trưởng HVPGVN, tại TP. HCM, lời nói đầu của tập Thắng Pháp Tập Yếu Luận,
tạng Abhidhamma là công trình hệ thống lại những gì đức Phật đã dạy cho nhiều
người, tại nhiều nơi, về nhiều vấn đề liên hệ đến Sắc pháp (thế giới vật lý) và
tâm pháp (thế giới tâm lý), về các cảnh giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới,
Siêu thế giới), về các ác tâm, hại tâm, sân tâm, tham tâm, si tâm, tuệ tâm,
giải thoát tâm, về nhân quả nghiệp báo, về sự tái sanh, luân hồi, v.v... vốn đã
được kết tập trong kinh tạng.
Tập Abhidhammatthasangaha là bản tóm tắt
(toát yếu và hệ thống hoá) bảy bộ luận của luận tạng Pàli, bao gồm:
1. Dhammasangani (Pháp tụ luận) Được một số
nhà nghiên cứu
2. Vibhanga (phân tích, phân biệt luận) Phật
học xem là ba bộ luận
3. Patthàna (Phát trí luận) xưa nhất
4. Dhàtu -kathà (Giới luận, Giới thuyết
luận) Được xem là đã có mặt
5. Puggala-Pannđđatti (Nhân thi thiết luận) trước
thời vua Asoka
6. Yamaka (Song đối luận).
7. Kathàvatthu (Luận sự hay Thuyết sự luận).
Do ngài Moggaliputta sáng tác vào thời kỳ kiết tập kinh điển lần thứ ba.
Bản luận tóm tắt này phân tích tâm lý con
người rất chi ly, ghi nhận Tâm hoạt động thường xuyên qua 89 (hay 121) tâm
(cittas) và 52 tâm sở (cetasikas). Sự hiện diện di động của các nhóm tâm sở đã
hình thành ra các loại tâm, như Dục giới tâm, Sắc giới tâm và, Vô sắc giới tâm,
Siêu thế giới tâm; hoặc hình thành ra các thể loại tâm như Bất thiện tâm, Vô
nhân tâm và Tịnh quang tâm (thuộc thiện tâm, ác tâm và tâm do nghiệp quá khứ
hình thành – Vô nhân tâm-); hoặc trình bày dưới các dạng Thiện tâm, Dị thục
tâm, và Duy tác tâm.
Đặc biệt Abhidhamma miêu tả Kiết sanh thức (Patisandhi) liên hệ giữa đời này và
đời sau, giới thiệu trạng thái tái sanh của con người.
Abhidhammatthasangaha giới thiệu con đường
đi vào các cảnh giới tâm, vẫn là con đường Thiền định, rất truyền thống (hay là
con đường Giới-Định-Tuệ)
Các phần thuộc nội dung của tập sách sẽ được
lần lượt giới thiệu tiếp.