Theo chân nghĩa triết học, các pháp thuộc
Abhidhamma gồm có 4 loại tất cả: Tâm, Tâm sở, Sắc và Niết bàn.
I. TÂM: Có 4 loại Tâm:
- Dục giới tâm
- Sắc giới tâm
- Vô sắc giới tâm
- Siêu thế giới tâm.
I.1. Dục giới tâm: Có tất cả 54 loại
Dục giới tâm (kàmàvacaram) bao gồm các loại như sau: 23 Dị thục tâm, 20 Thiện
và bất thiện tâm, 11 Duy tác tâm và được trình bày như sau: (theo bất thiện
tâm, vô nhân tâm, và tịch quang tâm).
· Về bất thiện tâm thì có 12 tâm như sau:
- 8 Tâm đi cùng với tham (gọi là 8 tham tâm)
- 2 Tâm đi cùng với sân (gọi là 2 sân tâm)
- 2 Tâm đi cùng với si (gọi là 2 si tâm)
a). 8 Tham tâm:
a.1. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt tà kiến,
không cần nhắc bảo (vì tham tâm này khởi mạnh)
a.2. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt tà kiến, cần nhắc bảo (vì tham tâm này yếu,
cần có thêm duyên nhắc nhở, đánh thức, kích thích)
a.3. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt tà
kiến, không cần nhắc bảo (vì tâm này mạnh)
a.4. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt tà
kiến, cần nhắc bảo (vì tâm này yếu)
4 loại tâm này làm việc bất thiện một cách
thích thú.
a.5. Một tâm đi cùng với xả, có mặt tà kiến,
không cần nhắc bảo (vì tâm này mạnh)
a.6. Một tâm đi cùng với xả, có mặt tà kiến,
cần nhắc bảo (vì tâm này yếu hơn)
a.7. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt tà
kiến, không cần nhắc bảo (vì tâm này mạnh)
a.8. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt tà
kiến, cần nhắc bảo (vì tâm này yếu).
Bốn tâm này làm việc bất thiện một cách thản
nhiên.
b). Hai sân tâm:
b.1. Một tâm đi cùng với ưu (chán ghét,
domanassa), có mặt của hận (muốn huỷ diệt đối tượng chung, Patigha), không cần
nhắc bảo (vì tâm này mạnh).
b.2. Một tâm đi cùng với ưu, có mặt của hận,
cần nhắc bảo (vì tâm này yếu)
Hai tâm này làm việc bất thiện với thái độ
chán ghét, oán hận đến muốn tiêu diệt đối tượng bị chán ghét ấy.
c). Hai si tâm:
c.1. Một tâm đi cùng với xả, có mặt nghi.
c.2. Một tâm đi cùng với xả, có mặt trạo cử.
Đối chiếu với kinh tạng Nikàỳa, chúng ta
thấy 12 tâm bất thiện trên bị chi phối bởi đủ năm triền cái (trạo cử, hôn trầm,
dục, sân, nghi: tất cả hành động bất thiện đều do năm triền cái phát sinh ra
cả).
· Về vô nhân tâm thì có 18 tâm, bao gồm:
- 7 Bất thiện dị thục tâm
- 8 Thiện dị dục tâm
- 3 Vô nhân duy tác tâm.
a.7 bất thiện dị thục tâm:
- Nhãn thức đi cùng với xả.
- Nhĩ thức đi cùng với xả
- Tỷ thức đi cùng với xả
- Thiệt thức đi cùng với xả
- Thân thức đi cùng với khổ
- Tiếp thọ tâm đi cùng với xả
- Suy đạc tâm đi cùng với xả.
b.8 thiện dị thục tâm:
- Nhãn thức đi cùng với xả
- Nhĩ thức đi cùng với xả
- Tỷ thức đi cùng với xả
- Thiệt thức đi cùng với xả
- Thân thức đi cùng với lạc.
- Tiếp thọ tâm đi cùng với xả
- Suy đạc tâm đi cùng với hỷ
- Suy đạc tâm đi cùng với xả.
c.3 Vô nhân duy tác tâm:
- Ngã môn hướng tâm đi cùng với xả,
- Ý mông hướng tâm đi cùng với xả
- Tiếu sanh tâm đi cùng với hỷ.
· 24 Dục giới tịnh quang tâm: (# Dục
giới thiện tâm) bao gồm:
- 8 Dục giới tịnh quang thiện tâm,
- 8 Dục giới tịnh quang dị thục tâm,
- 8 Dục giới tịnh quang duy tác tâm.
a.8 Dục giới tịnh quang thiện tâm:
a1. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt trí,
không cần nhắc bảo.
a2. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt trí, cần
nhắc bảo.
a3. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt
trí, không cần nhắc bảo.
a4. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt
trí, cần nhắc bảo.
a5. Một tâm đi cùng với xả, có mặt trí,
không cần nhắc bảo.
a6. Một tâm đi cùng với xả, có mặt trí, cần
nhắc bảo.
a7. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt
trí, không cần nhắc bảo.
a8. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt
trí, cần nhắc bảo.
b.8 Dục giới tịnh quang dị thục tâm:
b1. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt trí,
không cần nhắc bảo.
b2. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt trí, cần
nhắc bảo.
b3. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt
trí, không cần nhắc bảo.
b4. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt
trí, cần nhắc bảo.
b5. Một tâm đi cùng với xả, có mặt trí,
không cần nhắc bảo.
b6. Một tâm đi cùng với xả, có mặt trí, cần
nhắc bảo.
b7. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt
trí, không cần nhắc bảo.
b8. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt
trí, cần nhắc bảo.
Ghi chú:
- Tám tâm này là kết quả chín muồi (dị thục)
của tám dục giới tịnh quang thiện tâm.
- Tám tâm Vô nhân dị thục (giới thiệu ở phần
kế) – Ahetuka kusabavipàkacittam- Như thế 8 thiện tâm làm nhân tạo ra 16 dị
thục tâm.
- Riêng ở 12 bất thiện tâm đã giới thiệu ở
phần trước chỉ có mặt 7 Vô nhân bất thiện dị thục tâm.
c.8 Dục giới tịnh quang tâm:
c1. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt trí,
không cần nhắc bảo.
c2. Một tâm đi cùng với hỷ, có mặt trí, cần
nhắc bảo.
c3. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt
trí, không cần nhắc bảo.
c4. Một tâm đi cùng với hỷ, không có mặt
trí, cần nhắc bảo.
c5. Một tâm đi cùng với xả, có mặt trí,
không cần nhắc bảo.
c6. Một tâm đi cùng với xả, có mặt trí, cần
nhắc bảo.
c7. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt
trí, không cần nhắc bảo.
c8. Một tâm đi cùng với xả, không có mặt
trí, cần nhắc bảo.
+ Ghi chú chung về Dục giới tâm:
1.- Trong 54 tâm dục giới sinh khởi (hoạt
động) thì có 12 bất thiện tâm và 7 bất thiện dị thục tâm (7 tâm này được xem
như bất thiện tâm), tổng cộng chỉ có 19 dục giới tâm bất thiện.
- Trong khi đó thì có 8 dục giới thiện dị
thục tâm và 24 tịnh quang tâm (được xem là thiện tâm), tổng cộng có tất cả là
32 dục giới thiện tâm.
- Ở đây, chúng ta thấy rõ rằng ở cõi dục
(bao gồm Dục giới thiên) hoạt động của các thiện tâm vẫn nhiều hơn, mạnh hơn.
Cuộc sống bao giờ cũng nổi bật hẳn ra những nét thiện, hiền. Đây là quan điểm
trình bày các luận sư Abhidhamma.
2.– Các thiện tâm luôn luôn có động cơ, hay
có mặt, chánh kiến, chánh tư duy và được đưa đẩy bởi tâm xỷ xả.
- Các bất thiện tâm luôn luôn bị điều động
bởi tham, sân, si và hận
3. Phân tích lại và tổng hợp lại các Dục
giới tâm mà Abhidhamma giới thiệu thì chúng ta phát hiện ra rằng: Tất cả bất
thiện tâm đều phát sinh từ 5 nhân tố (hay một phần tử của năm nhân tố) gọi là
Ngũ triền cái.
Các thiện tâm ở cảnh Dục (Dục giới) đều phát
sinh từ chánh kiến, từ sự nhiếp phục dần và mạnh Ngũ triền cái. Khi ngũ triền
cái lặn hẳn đi, nhường chổ cho năm thiền chi: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm thì
Dục giới tâm liền được chuyển hóa thành sắc giới tâm (từ sơ đến Ngũ thiền – hay
sơ đến Tứ thiền theo kinh tạng). Như thế Abhidhamma đã bằng phương pháp phân
tích chi li có tính cách triết học, khoa học, và hệ thống các tâm một cách rất
logic những gì đã được kiết tập rõ ràng ở kinh tạng. Abhidhamma, quả thật, như
luận sư tác bộ luận này đã nói từ đầu luận rằng: Từ đúng ý nghĩa triết học (hay
một cách triết học rằng), Abhidhamma gồm có 4 pháp: Tâm, Tâm sở, Sắc và Niết
bàn – Tattha vuttàbhi – dhammatthà paramatthato, cittam, cetasikam, rùpam
nibbànamiti sabbathà – là một hệ thống vừa rất triết lý tâm lý, vừa rất là tâm
lý thực nghiệm. Từ đây, Abhidhamma đã hiện rõ sắc thái của Phật giáo phát
triển, mở đầu cho một dòng Phật giáo phát triển về sau (mà thường được gọi là
Mahayana).
I.2 SẮC GIỚI TÂM (Rùpàvacaram):
Sắc giới tâm có 15 tâm: 5 sắc giới thiện
tâm, 5 sắc giới dị thục, và 5 sắc giới duy tác tâm.
· Về 5 sắc giới thiện tâm:
- Đệ nhất thiền thiện tâm đi với tầm, tứ, hỷ
lạc và nhất tâm.
- Đệ nhị thiền thiện tâm đi với: tứ, hỷ, lạc
và nhất tâm.
- Đệ tam thiền thiện tâm đi với:hỷ, lạc và
nhất tâm.
- Đệ tứ thiền thiện tâm đi với: lạc và nhất
tâm.
- Đệ ngũ thiền thiện tâm đi với:xả và nhất
tâm.
@ Ghi chú:
1) Theo phần thích nghĩa của
Abhidhammatthangha, để vào đệ nhất thiền hành gia phải dùng một tượng quán để
tu tập:đối tượng này gọi là Parikamma Nimitta (sơ tướng). Nhìn đối tượng ấy cho
đến kết quả khi nhắm mắt mà vẫn thấy một vòng tròn sáng hiện ra (đối tượng quán
là một vật bằng đất sét, hình tròn trét bằng phẳng, màu hồng): đây là kết quả
gọi là Uggaha Nimitta (thô tướng). Nếu đối tượng được nhìn thấy (lúc nhắm mắt)
là một vòng sáng không có tỳ vết theo trí tưởng tượng của mình: đây là kết quả
gọi là Pàtibhàga Nimitta (quang tướng). Tiếp tục trú trên quang tướng này cho
đến khi ngũ triền cái bị đoạn trừ (chuyển thành 5 thiền chi) thì chứng đắc đệ
nhất thiền sắc giới.
2) Theo tôn giả Buddhaghosa và theo kinh
tạng Nikàya thì trú tâm trên đối tượng đối nghịch để trực tiếp đoạn trừ ngũ
triền cái (như trú bất tịnh tướng để loại trừ Dục triền cái; trú từ tâm để loại
trừ sân triền cái; trú vào như lý hay chánh kiến để loại trừ nghi triền cái;
trú vào tư duy để loại trừ hôn trầm triền cái; và trú vào chỉ để loại trừ trạo
cử triền cái.) Như thế hình thức quán (nhìn) Parikamma Nimitta thì mang sắc
thái thiền chỉ (samatha); hình thức dưới này là thiên về quán (vipassana).
3) Phần thích nghĩa trên không nói phương
cách nào để vào định thứ hai. Riêng theo kinh tạng Nikàya thì khi hành giả ở Đệ
nhất thiền tác ý loại trừ Tầm tâm sở (hay Tầm thiền chi) – Vitakka - (nghĩa là
nhiếp tâm trên dối tượng hơi thở) thì hành giả vào được Đệ nhị thiền sắc giới.
Theo kinh thuật lại lộ trình hành thiền của Thế Tôn thì Đức Thế Tôn tác ý
(quán) đến cái nguy hiểm của ngũ dục lạc (lạc về sắc, thanh, hương, vị và xúc)
thì liền đoạn trừ cả tầm và tứ thiền chi để vào đệ tam thiền sắc giới (# Đệ nhị
thiền ở Kinh Tạng)
® Như thế hình thái tu tập nhiếp niệm vào
hơi thở là hình thái Samatha; còn hình thái quán hiểm nguy của ngũ dục là hình
thái Vìpassana.
· Về 5 sắc giới Dị Thục Tâm (Vipàkacittam):
tương tự như 5 sắc giới Thiện Tâm, chỉ thay từ thiện tâm thành Dị Thục Tâm.
@ Ghi chú quan trọng:
1. Phần thích nghĩa của Abhidhammatthangaha
nói rằng: 3 thiện tâm (Kussalahetu) là amoha, adosa và alobha (vô si, vô sân và
vô tham) trong các sắc giới tâm rất mạnh nên có quả dị thục giống như các tâm
chứng đắc nầy đến đời sau.
2. Kinh tạng Nikàya thì ghi rằng: Hành giả
nếu khi đang tu trú thiền sắc giới nào mà bỗng nhiên xả báo thân(chết) thì liền
được sanh về cảnh giới tương ưng với thiền chứng.
3. Như vậy, về điểm này, Abhidhamma phản ánh rất trung thành với Kinh Tạng.
· về 5 sắc giới duy tác tâm (Kriyàcittam):
tương tự như 5 sắc giới thiện tâm, chỉ thay từ thiện tâm thành từ duy tác tâm.
I.3. VÔ SẮC GIỚI THIỆN TÂM
(Arùpàvacarakusalacittàni hoặc Arùpàvacarakusalacittam)
Có 12 vô sắc giới thiện tâm: 4 vô sắc thiện tâm, 4 vô sắc dị thục tâm, và 4 vô
sắc duy tác tâm.
· Về 4 vô sắc giới thiện tâm
- Không vô biên xứ thiện tâm.
- Thức vô biên xứ thiện tâm.
- Vô sở hữu xứ thiện tâm.
- Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện tâm.
¢ Ghi chú quan trọng:
1. Abhidhammatthangaha chú nghĩa rằng: Trú
tâm trên quang tướng (Patibhàganimitta) thì một ánh sáng yếu ớt như đom đóm
sinh ra từ đối tượng ấy cho đến khi thấy ánh sáng lan khắp mọi nơi (thấy là do
tưởng sinh). Rồi hành giả trên đối tượng ấy tác ý “Hư không là vô biên”(Aøkàsa
ananto) cho đến khi chứng đắc thực sự thiền Hư không vô biên xứ. Hành giả trú
tâm ở hư không vô biên mà tác ý Thức là vô biên (Vinnànam anantam) cho đến khi
thực chứng thiền thức vô biên xứ. Tiếp tục trú Hư không vô biên xứ mà tác ý:
không có gì cả (Natthi Kinci) cho đến khi chứng thực thiền này. Tiếp tục an trú
ở thiền này cho đến rất tế nhị về ý nghĩa tác tưởng này) khi chứng Phi tưởng
phi phi tưởng xứ (Nevasasannàyatana)
2. Theo Kinh Tạng thì ghi:
- Trú
tứ thiền sắc định (xả và nhất tâm) mà tác ý “Hư không là vô biên”, “Thức là vô
biên”, “Không có vật gì cả” thì sẽ lần lượt chứng đắc Không vô biên xứ, Thức vô
biên xứ, Vô sở hữu xứ. Tại đây hành giả không nên đi vào Phi tưởng phi phi
tưởng mà tác ý “Tứ vô lượng tâm” (đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả) để vào diệt
thị tưởng định. Nhưng nếu ở vô sở hữu định mà hành giả không tác ý gì cả, hay
nhàm chán hữu vi thì sẽ đi vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
3. Như thế ở Luận Abhidhamma có thêm phần
giới thiệu đối tượng trú là quang tướng thay vì là tứ sắc định. Phần thực hành
tiếp theo thì tương tự ơ ûKinh tạng.
I.4. VỀ SIÊU THẾ TÂM (LOKUTTARA):Có 8 siêu
thế tâm, đó là:
- Đạo và quả của 4 quả thánh (Thinh văn)
- Hay gọi là 4 siêu thế thiện tâm (4 siêu
thế đạo) và 4 siêu thế dị thục tâm (4 siêu thế quả tâm).
Tám siêu thế tâm trên là:
- Dự lưu đạo tâm (Sotàpattimaggacittam)
- Nhất lai đạo tâm (Sakadàgàmimaggcittam) 4
Siêu thế giới thiện tâm
- Bất lai đạo tâm (Anàgàmimaggacittam)
- A la hán đạo tâm (Arhattamaggacittam).
- Dự lưu quả tâm
(Sotàpattiphalacittam).
- Nhất lai quả tâm (Sakadàgàmiphalacittam). 4
Siêu thế dị thục tâm
- Bất lai quả tâm (Anàgàmiphalacittam).
- A la hán quả tâm (Arhattaphalacittam).
¢ Ghi chú quan trọng:
1. Abhidhammathangaha ghi chú về 10 kiết sử
phải đoạn để chứng 4 quả Thánh như sau:
1, Thân kiến (Sakàyaditthi); 2, Nghi
(Vicikicchà); 3, Giới cấm thủ (Sìlabbataparànàsa); 4, Dục (hay dục ái –Kàmàràga);
5, Sân (Patigha); 6, Hữu ái (sắc ái-Rùparàga); 7, Vô hữu ái (hay vô sắc
ái-Aøuparàga); 8, mạn (Màna); 9, trạo cử (Uddhacca); 10, Vô minh (Avijjà).
Phương pháp đoạn trừ 10 kiết sử ấy là quán
tưởng 3 pháp ấn (khổ, vô thường và vô ngã). Nét chính của phần giới thiệu trên
thì hệt như lời dạy ở Kinh.
2.Tuy nhiên, ở đây Abhidhammattha sangaha
chỉ giới thiệu chỉ một cách quán 3 pháp ấn; còn ở Kinh tạng thì giới thiệu
nhiều cách như là:
a)Từ Tứ sắc định hành giả thấy rõ sự thật
duyên sinh vô ngã của thân danh sắc (hay ngũ uẩn) nầy, chỉ việc tiếp tục an trú
ở thiền này và phát triển thiền quán (giác tỉnh) thì 10 kiết sử sẽ lần lượt bị
đoạn trừ.
b) Kinh trạm xe chỉ rõ hơn rằng:an trú vào
“như lý tác ý” để lần lượt đi vào giới thanh tịnh , tâm thanh tịnh , kiến thanh
tịnh , đoạn nghi thanh tịnh , đạo phi phi đạo thanh tịnh và thanh tịnh cái thấy
biết – tại đây , hành giả sẽ liền đi đến đắc quả A – la hán.
c) Từ vô sở hữu xứ định hành tứ vô lượng tâm
thì hành giả có thể đi thẳng vào Diệt thọ tưởng định và đắc Ala – hán. (xem Phật học khái luận)
d) Từ tứ sắc định cũng có thể hành tứ vô
lượng tâm để đi vào các thánh quả (vì thế tứ sắc định được gọi là phạm trú,
thánh trú)
e) Tương ưng bộ kinh ghi lại có hơn 10
trường hợp đệ tử Thế Tôn đắc A-la-hán quả mà không phải đi vào một sắc định hay
không định nào v.v… & Tổng luận về Tâm được trình bày trong Abhidhammattl
sangaha:
Có một số điểm về Abhidhammalsangaha cần
được chú ý:
1./ Sự phân tích về các tâm Dục giới, Sắc
giới, Vô sắc giới và Siêu thế giới rất là đặc biệt, rất là chi li. Đặc biệt là
sự giới thiệu các vô nhân tâm và cac dị thục tâm, nội dung mà chúng ta không thấy
đề cập ở Cu-Xá hay Duy thức.
2./ Sự phân tích có 2 loại tâm: một loại cần
được nhắc bảo, loại kia là không cần được nhắc bảo, tương tự sự hệ thống có 4
siêu thế đạo tâm và 4 siêu thế quả tâm, sự phân tích nầy nổi bật hẳn vẻ triết
lý, chia chẻ của triết lý. Trên thực tế, sau khi chứng Dự lưu quả, hành giả
tiếp liền chứng Nhất lai đạo.
3./ Riêng phần thích nghĩa thì có một số
điểm không thực sự phản ánh trung thành với lời dạy của đức Phật ở trong kinh
Nikàya-như có đề cập ở phần ghi chú trong các phần đã trình bày-nhưng đó là
phần giải thích của tác giả Anurudha và Kachiyap nên ở đây không bàn thảo
đến.
II. CÁC TÂM SỞ (CETASIKA)
A.TỔNG QUÁT:
Có một số điểm dưới đây cần được chú ý:
1. Mỗi tâm (hay mỗi tâm niệm) không phải là
một ngã thể cố định thường có mặt, mà là tập hợp của các nhân duyên (điều kiện
– conditions) gọi là các tâm sở (cetasika)
2. Các thức (viđđana) như Nhãn thức, Nhĩ
thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, và Ý thức, theo Abhidhamma, là các Tâm
vương (cittam) do bảy tâm sở kết hợp hình thành, đó là: Xúc (phassa), Tác ý
(manasikàra), Thọ (vedàna), Tưởng (sađđa), Tư (cetanà), Nhất tâm (ekaggatà), và
Mạng căn (jìvindriya). Các tâm sở này cùng khởi lên một lượt (không trước,
không sau).
3. Mỗi loại tâm (tâm vương) được hình thành
bởi các tâm sở khác nhau.
4. Các bất thiện tâm sở thì chỉ hình thành
(hay có mặt) trong các bất thiện tâm. Các thiện tâm sở thì chỉ hình thành (hay
có mặt) trong thiện tâm. Các thiện tâm sở này được Abhidhamma gọi một tên khác
nữa là: các tịnh quang tâm sở.
5. Các tâm sở cùng khởi và cùng diệt với tâm
vương
B. CÁC LOẠI TÂM SỞ:
Theo sự hệ thống của Abhidhammatthangaha, có
tất cả 52 tâm sở được xếp thành các loại như sau:
- Biến hành tâm sở có 7
(Sabbacittasàdhàranà: biến hành trong tất cả tâm).
- Biệt cảnh tâm sở có 6 (Pakinnacetasika)
- Bất thiện tâm sơ có 14 (Akusalacetasika)
- Tịnh quang tâm sở có 25 (Sobhanacetasika)
B.1. Biến hành tâm sở: có 7:
Xúc (phassa), Tác ý (manasikàra), Thọ
(vedàna), Tưởng (sađđa), Tư (cetanà), Nhất tâm (ekaggatà), và Mạng căn
(jìvindriya).
- Bảy biến hành tâm sở này hình thành nên
các thức: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý thức.
- Tư tâm sở (Cetanà) có chức năng suy nghĩ,
phối hợp và chất chứa các tâm sở cùng đi với nó trong một đối tượng. Nó chi
phối và định đoạt mọi hoạt động của tâm.
- Bảy tâm sở trên luôn luôn có mặt trong các
loại tâm nên có tên là biến hành tâm sở.
- Tư tâm sở (cetanà) chính là nghiệp nhân
(tác thành ngiệp) biểu thị rằng các tam niệm đều tạo nên nghiệp (thiện, ác hay
duy tác).
B.2. Biệt cảnh tâm sở: có 6:
- Tầm (vitakka), Tứ (vicàra), Thắng giải
(adhimokkha), Tinh tấn (viriya), Hỷ (Pìti), Dục (chanda).
! Ghi chú:
* Sáu tâm sở biệt cảnh chỉ có mặt trong các
tâm tương ưng với chúng.
* Hỷ thì không có mặt trong các tâm đi cùng
với Xả, Ưu, Hận.
* Tinh tấn tâm sở thì không có mặt trong các
tâm đi cùng với hôn trầm, phóng dật.
* Tầm thì có mặt trong các Dục giới tâm
(ngoại trừ 10 thức trong 18 vô nhân tâm = 54 – 10); có mặt trong 11 đệ nhất
thiền Sắc giới tâm.
B.3. Bất thiện tâm sở: có 14:
1. Vô tàm (Ahirikam = không biết xấu hổ – hổ
với mình – khi làm điều ác).
2. Vô quý (Anottapam = không biết sợ hãi –
thẹn với người – khi làm điều ác).
3. Si (moha)
4. Tà kiến (ditthi hay micchàditthi)
5. Nghi (vicikicchà)
6. Trạo cử (uddddhacca)
7. Tham (lobha)
8. Mạn (màna)
9. Sân (dosa)
10. Tật (tật đố, ganh ghét, Isssà)
11. Xan (machariyam)
12. Hối (kukkuccam)
13. Hôn trầm (Thìna)
14. Thụy miên (middha).
Õ Các bất thiện tâm sở chỉ có mặt trong các
bất thiện tâm.
B.4. Tịnh quang tâm sở: Có 25
1/ Tín.
2/ Tàm
3/ Quý
4/ Vô tham.
5/ Niệm.
6/ Trung tánh hay xả (Kàyapassdhi)
7/ Tâm sở thư thái.
8/ Tâm sở khinh an
9/ Tâm khinh an
10/ Tâm sở nhu nhuyến
11/ Tâm nhu nhuyến
12/ Tâm sở thích ứng
13/ Tâm thích ứng
14/ Tâm sở tinh luyện
15/ Tâm tinh luyện
16/ Tâm sở chánh trực
17/ Tâm chánh trực
18/ Tâm thư thái.
19/ Vô sân.
Õ Các tâm sở này luôn có mặt trong các tịnh
quang tâm.
20 Õ24/ Ba tiết chế tâm sở (# vô si #
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng # giới uẩn) + Hai vô lượng tịnh quang tâm
sở (Bi và hỷ).
25/ Huệ căn tâm sở (# Tuệ uẩn)
! Ghi chú:
- Trong 25 tịnh quang tâm sở thì Ba tiết chế
tâm sở tương đương với Giới uẩn (hay Thánh giới uẩn)
- Huệ căn tâm sở (hay vô si) vốn là Tuệ uẩn.
- Tín, Niệm và các tâm sở khinh an.v.v… thì
thuộc Định uẩn (hay Thánh định uẩn)
- Tâm sở vô sân vốn là Từ tâm vô lượng.
- Tâm sở trung tánh hay Xả # Xả vô lượng
(cùng có mặt với Bi và Hỷ vô lượng tâm sở).
Õ Như thế 25 tịnh quang tâm sở vốn là Tâm Giới, Định, Tuệ và Tâm Tứ vô lượng.
Hẳn nhiên 25 tịnh quang tâm sở này sẽ hình thành các Thiện tâm và Giải thoát
tâm (Hay Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát).
Õ Đạo đế chính là con đường tu tập Tâm để an
trú và phát triển 25 Tịnh quang tâm sở nầy.
Õ 19 Biến hành Tịnh quang tâm sở thì có mặt
trong 59 Tịnh quang tâm (24 Dục giới tịnh quang + 15 Sắc giới tịnh quang + 12 Vô
sắc giới tịnh quang + 8 Siêu thế giới tâm).
Õ 3 Tiết chế tâm sở (chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng) thì tương đương với Giới uẩn chỉ có mặt trong các tâm như:
8 Dục giới thiện tâm, 8 Siêu thế tâm (+ 16 tâm).
- Hai vô lượng tâm sở (Bi và Hỷ): Bi (karunà)
là lòng thương xót trước sự đau khổ của muôn loài; Hỷ (mudità) là lòng hoan hỷ
trước sự thành tựu, hưng thịnh của muôn loài.
Õ Bi, Hỷ tâm sở được gọi là Vô lượng vì
chúng sinh có mặt vô lượng.
Õ Bi, Hỷ khởi lên tuỳ duyên, tuỳ lúc, và
riêng biệt nhau.
Õ Vô lượng tâm sở khởi lên trong các tâm sau
đây:
· Ở Đại hành tâm: có mặt trong các Tâm sắc
giới vàVô sắc giới (trừ Ngũ thiền, vì ngũ thiền thuộc xả). Do đó nó có mặt
trong 12 tâm ([ 15 sắc tâm + 12 vô sắc tâm] – [3 sắc + 12 vô sắc])
!Ghi chú quan trọng:
1.Theo kinh tạng Nikàya, hành giả có thể ở
Vô sở hữu xứ định tu tập Tứ vô lượng tâm (có khi có thể từ Tứ sắc định đã có
thể hành Tứ vô lượng tâm) – xem Phật học khái luận – Như vậy có nghĩa là Bi và
Hỷ có thể khởi lên từ Vô sở hữu xứ định, hay từ Tứ sắc định, do vậy Bi và Hỷ có
thể có mặt ở các cảnh thiền của Xả và Nhất tâm. Đây là điểm khác biệt giữa
Abhidhamma và Nikàya cần được khảo cứu lại
2.Có một điểm cần quan tâm khảo sát nữa,
rằng:
3.Theo Abhidhamma, Bi và Hỷ vô lượng tâm sở
không có mặt trong 8 siêu thế tâm, thì tại sao Abhidhamma lại chấp nhận rằng Bi
và Hỷ có mặt trong 8 Dục giới duy tác tâm? (vốn là tâm của các bậc A La Hán,
của các bậc Thánh).
Õ Nếu cho rằng Bi và Hỷ không có mặt trong 8
siêu thế tâm thì sẽ dẫn đến kết luận rằng: Bi và Hỷ không có mặt trong tâm các
bậc Thánh (đặc biệt là các thánh A La Hán), có nghĩa là các bậc Thánh không
quan tâm đến khổ đau và hạnh phúc của người đời sao? (!).
(Sẽ giải thích thế nào về trường hợp Ngài
Sumedha – Thiện Huệ – dưới thời đức Phật Nhiên Đăng đã không nhập Niết Bàn, mà
ở lại đời để độ khổ chúng sanh? Hiểu như thế nào về sự kiện Đức Thế Tôn đã rời
Cung Đâu Suất để giáng trần độ sinh?).
II. LỘ TRÌNH CỦA TÂM (Cittavìthi)
Hữu phần(Bhavanga) Õ Ngũ môn hướng tâm
(pancadvàra) Õ Tiền ngũ thức (pađcaviđđàna) Õ Tiếp thọ
tâm(sampaticchana) Õ Suy đạt tâm(Santìrana) Õ Xác định
tâm(Vatthapana) Õ Tốc hành tâm(Javana) Õ Chìm vào Hữu phần(Bhavangà)
1.[U1] Hữu phần hay tiềm thức,= chỉ trạng
thái thụ động đang trôi chảy của tâm thức. Trạng thái này gọi là Bhavangà.
2. Có một đối tượng kích vào tâm thức: đây
là thời điểm của ngũ môn hướng tâm.
3. Nhận ra có một đối tượng kích thích: đây
là thời điểm của Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức Õ chỉ là thức thuần tuý(chức
năng ghi nhận sự có mặt của sự vật) mà chưa có tư duy khởi lên. Do vậy, cho đến
thời điểm này chưa tác nghiệp (đây là giai đoạn của tiền ngũ thức).
4. Nhận ra đối tượng kích thích, ghi nhận có
sự kích thích đi vào tâm thức: đây là thời điểm của tiếp thọ tâm
(sampaticchina). Giai đoạn này cũng chưa tác nghiệp.
5. Tìm hiểu và phân tích đối tượng qua kinh
nghiệm mà tâm thức đã kinh qua: đây là giai đoạn hoạt động của Suy Đạt Tâm
(Santìrana). Đây đúng là hoạt động của tư duy (ý thức), nhưng chưa có phản ứng
của tâm lý đối với đối tượng như ưa, ghét đối tượng.v.v…đến đây, tâm vẫn chưa
tác nghiệp.
6. Tâm thức xác định đối tượng tác nghiệp là
gì, theo hiểu biết của cá nhân: đây là chức năng của xác định tâm(vatthapana).
Tại đây, nghiệp vẫn chưa được tác thành.
· Ghi chú: Nếu đối tượng là pháp trần khởi
lên từ ý(nội tâm) thì lộ trình tâm sẽ bắt đầu từ đây gọi là ý môn hướng
tâm(manodvàràvajjana), tương đương với xác định tâm (votthapana).
7. Tâm thức bấy giờ phản ứng, xử sự đối với
đối tượng: đây là thời điểm và là lúc quan trọng nhất của lộ trình Tâm. Chức
năng xử sự nầy là tốc hành tâm(Javana). Đây đúng là thời điểm tác nghiệp.
* Ghi chú: Khi sắc pháp rơi vào phạm vi
tiếp nhận của mắt hay 5 căn ở ngoài) thì hữu phần rung động hai lần rồi dừng
nghỉ; tiếp theo là ngũ môn hướng tâm khởi lên và diệt đi, làm phận sự hướng tâm
đến đối tượng sắc ấy (qua một sát na). Tiếp theo là các tâm sau đây theo thứ tự
khởi lên và diệt đi: Õ Nhãn thức thấy sắc (qua một sát na) Õ Tiếp thọ
tâm lãnh thọ sắc(qua một sát na) Õ Suy đạt tâm suy tư, tìm hiểu sắc (qua
một sát na) Õ Xác định tâm xác định sắc (qua một sát na) Õ Tốc hành
tâm xử sự với sắc (qua 7 sát na) Õ Đồng sở duyên tâm(tadàlambana) (qua 2
sát na) -tâm đồng sở duyên gìn giữ và ghi nhận vào trong tiềm thức và lập đi
lập lại trong 2 sát na. Bấy giờ đối tượng chìm vào hữu phần Õ Hữu phần
rung động trong 2 sát na và quá khứ hữu phần 1 sát na.
ð - Ngũ môn hướng tâm: một sát na.
- Nhãn
thức (5 thức đầu): một sát na.
- Tiếp tọ tâm: một sát na.
- Suy đạt tâm: một sát na.
- Xác định tâm: một sát na.
- Tốc hành tâm: 7 sát na
- Đồng sở duyên tâm: 2 sát na.
- Hữu phần rung động: 2 sát na.
- Quá khứ hữu phần: một sát na.
IV. KIẾT SANH THỨC (PATISANDHI)
I.TỔNG QUÁT:
Trong ba hệ thống Tâm lý thuộc Luận Tạng của
Nhất thiết hữu bộ, Thượng toạ bộ, và Phật giáo phát triển-Đại thừa) thì chỉ có
Abhidhamma của Theravada (Thượng toạ bộ) là có trình bày và trình bày khá đặc
biệt về Kiết sanh thức (hay kiết sanh tâm) liên hệ giữa đời này và đời sau cảu
nhiều cảnh giới từ Địa ngục cho đến cõi cao nhất của vô sắc giới. Ở đây phần
trình bày là theo quan điểm của Abhidhammatthansangha, phần ghi chú là nhận
định của người biên soạn.
Kiết sanh thức có 4 loại:
- Ác
thú Kiết sanh thức.
- Dục
giới thiên kiết sanh thức (con người thì được đề cập ở lộ trình tâm).
- Sắc
giới thiên kiết sanh thức.
- Vô
sắc giới thiên kiết sanh thức.
II. CÁC LOẠI KIẾT SANH THỨC:
1. Kiết sanh thức ở Dục giới thiên:
*
Nguyên văn của Abhidhammatthasangaha (HT Minh Châu dịch): “ Thiện dị thục suy
đạt tâm câu hữu với xã làm sự Kiết sanh thức, Hữu phần và Tử tâm cho những
người sinh ra đã mù v v… và những A–tu–la bị đoạ lạc. Còn 8 Đại dị thục trong
mọi trường hợp làm phận sự Kiết sanh thức, Hữu phần và Tử tâm cho những sanh
sanh ở Dục giới thiên. Chín (9) Kiết sanh thức nầy gọi là Kiết sanh thức trong Dục
giới thiên, chúng hợp thành Kiết sanh thức ở Dục giới ?
·Tuổi thọ (tương tự NiKàya, chỉ khác ở tuổi
thọ ở tuổi ở tứ Thiên vương thiên- có lẽ do dịch thuật-)
Tuổi thọ ở tứ thiên vương là 500 tuổi trời 9 triệu năm ở đời từ đó mỗi cõi trời
dục giới cao hơn thì có tuổi thọ dài 4 lần nhiều hơn tam thập tam(36 triệu
năm); dạ ma(144 triệu năm); đẩu suất thiên (576 triệu năm); tha hoá tự tại
thiên (9,216 tỉ năm); hoá lạc thiên (2,304 triệu năm);
2. Kiết Sanh Thức Ơû Sắc Giới:
· Nguyên văn: “ Sơ thiền dị thục tâm tác
động ở sơ thiền giới, phận sự kiết sanh thức, hữu phần và tử tâm, đệ tam thiền
dị thục tâm, và đệ tứ thiền dị thục tâm. Riêng đối với chúng sanh ở vô tưởng
thiên (thuộc đệ tứ thiền thiên giới) thì kiết sanh thức là sắc pháp và tiếp
theo đó cũng vậy trong đời sống và khi lâm chung, chỉ có sắc pháp tồn taị và
diệt mất. Những tâm này là 6 kiết sanh thức ở sắc giới.”
· Tuổi thọ của sắc giới thiên:
1) Phạm chúng thiên = 1/3 kappa.
2) Phạm phụ thiên = 1/2 kappa.
3) Đại phạm thiên = 1 kappa (tuổi thọ của
thế giới vật lý)
4) Thiện quang thiên = 2 kappas.
5) Vô lượng quang thiên = 4 kappas.
6) Quang âm thiên = 8 kappas.
7) Thiện tịnh thiên =16 kappas.
8) Vô lượng tịnh thiên = 32 kappas.
9) Biến tịnh thiên =64 kappas.
10) Quảng quả thiên và vô tưởng thiên =500
kappas.
11) Vô phiền thiên = 1.000 kappas.
12) Vô nhiệt thiên =2.000 kappas.
13) Thiện hiện thiên =4.000 kappas.
14) Thiện kiến thiên = 8.000 kappas.
15) Sắc cứu cánh thiên = 16.000 kappas.
· Ghi chú: - kappas đề cập ở trên là Đại
kiếp (Mahàkappa).
- Tiểu kiếp là thời gian con người có tuổi
thọ từ 10 tăng dần lên vô số, rồi tụt xuống lại 10 tuổi (tăng và giảm).
- Asankhiyyakappa (vô số kiếp) = một trung
kiếp.
- Vô số trung kiếp = một đại kiếp
(mahàkappa) = thời gian cần thiết để ném cho hết số hạt cải (ném từng hạt)
trong một đống có chiều dài, cao và rộng 1 do tuần (7 miles 10 km) và cứ 100
năm thì ném một hạt.
3. Kiết sanh thức ở vô sắc giới:
· Nguyên văn: “Những dị thục tâm của vô sắc
nhất thiền, vô sắc nhị thiền, vô sắc tam thiền và vô sắc tứ thiền hoạt động ở
cảnh giới vô sắc, tuỳ theo sự thích hợp với tính cách kiết sanh thức, hữu phần
và tử tâm. Đây là 4 kiết sanh thức của cõi trời vô sắc.”
· Ghi chú về tuổi thọ ở các cõi trời vô sắc:
- Thọ
mạng của không vô biên xứ chúng sanh (chúng sanh ở đệ nhất thiền vô sắc) =
20.000 kappas (mahàkappas-20.000)
-
Chúng sanh ở thức vô biên xứ = 40.000kappas (hay mahàkappas).
-
Chúng sanh ở vô sở hữu xứ = 60.000kappas (nt).
-
Chúng sanh ở phi tưởng phi phi tưởng xứ = 84.000 kappas (nt).
(Trong một đời sống, kiết sanh thức, hữu
phần và tử tâm thuộc một loại và cùng một đối tượng)
- Nguyên nhân của chết.
- Nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng.
- Lộ trình tâm của một người sắp chết.
- Kiết sanh thức và đối tượng của người sắp
chết.
1) Nguyên nhân của chết:
Nguyên văn: “ Chết có 4 nguyên nhân: thọ
diệt, nghiệp diệt, cả hai diệt và sát nghiệp.”
Ghi chú: Nikàya (ở Trường Bộ kinh và Tăng
Chi I, phẩm 3 pháp) thì ghi 3 lý do của cái chết của con người là: “ Thân đoạn,
mệnh đoạn, nghiệp đoạn hay thân tận, mệnh tận và nghiệp tận”. Xét kỹ thì
Abhidhamma đề cập hệt với Nikàya về nguyên nhân của chết.
2) Nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng
Nguyên văn: “đối với những người sắp sửa
chết, trong khi lâm chung, do sức mạnh của nghiệp, một trong những tướng sau
đây được khởi ra trong một trong 6 cửa:
2.1. “Một nghiệp có khả năng khiến cho tái sinh
trong đời sau được khởi tuỳ theo trường hợp.”trường hợp mà vua trọng tăng,
thường cúng dường chư Tăng độ ngọ, và chỉ ăn trưa sau chư tăng. Trước khi chết,
ý tưởng khởi lên trong tâm nhà vua, gợi nhớ các nghiệp vua đã làm trong hiện
kiếp và vua rất bằng lòng về mình về hạnh trọng chư Tăng này, mỉm cười và liền
thác sanh về chư thiên. Được kiết tập ở Nikàya.
Ngũ suy tướng hiện của chư thiên lúc chết
(kiết tập ở Nikàya)
2.2. “Hay một nghiệp tướng là một vật như sắt.v.v…mà
trước kia đã từng được dùng trong khi làm nghiệp ấy.”
Chuyện người giết heo cả đời, trước khi chết
cứ hốt hoảng không trút hơi thở cuối cùng, mãi cho đến khi người nhà đem đến
giường bệnh con dao giết heo, và cái chậu đựng huyết heo thì người ấy mới tắt
thở) (tác giả đã tự chứng kiến).
3.3. “ Hay là một thú tướng phải được và phải
thực nghiệm trong đời sống khởi lên ngay tiếp theo đó. Liền theo đó, y cứ theo
đối tượng được khởi lên, tuỳ theo với nghiệp cần phải được thuần thục, hoặc
thanh tịnh hoặc nhiễm ô, và phù hợp với cảnh giới sẽ được tái sanh, dòng tiềm
thức luôn luôn được trôi chảy, hướng phần lớn về cảnh giới ấy. Hay cái nghiệp
có khả năng khiến cho tái sanh ấy hiện khởi đến với căn môn, với tư cách là một
tác đôïng mới.
3) Lộ trình tâm của một người sắp chết:
Nguyên văn: “Đối với người sắp chết, hoặc
đến cuối lôï trình tâm của người ấy, hoặc khi hữu phần bị diệt tử tâm, giai
đoạn cuối cùng của đời sống hiện tại, khởi lên rồi diệt. Khi tâm ấy được diệt
trừ, tiếp ngay sau tâm ấy, y cứ trên đối tượng được thâu nhận như vậy, hoặc có
tâm(hadaya) làm căn cứ địa hay không có, kiết sanh tâm khởi lên và được thiết
lập trong đời sau, kiết sanh tâm này được thúc đẩy bởi vô minh tuỳ miên, căn cứ
vào ái tuỳ miên, sanh ra bởi nghiệp, câu hữu với những tâm sở tương ưng, hành
động như tâm xung phong cho những tâm sở câu hữu, và tiếp nối những đời sống
với nhau.”
4) Kiết sanh thức và đối tượng của người sắp
chết:
Nguyên văn: “Ở đây, trong lộ trình của tâm
gần chết, chỉ có 5 tốc hành tâm yếu ớt được mong đợi. Do vậy, trong khi lâm
chung, khi các đối tượng hiện tại vào trong khu vực nhận thức thời Patisandhi
và Bhavanga cũng đều cùng một đối tượng.
“Như vậy, khi tái sanh ở
dục giới, Kammanimitta (nghiệp tướng) nhận thức bởi một trong 6 căn môn, hay
Gatinimitta (thú tướng) có thể quá khứ hoặc hiện tại, nhưng Kamma (nghiệp) được
nhận thức bởi ý môn chỉ thuộc về một đối tượng thuộc quá khứ. Tất cả những đối
tượng này phải được xem là thuộc tiểu pháp (Dục giới).”