Chương
I
Nhận Thức Tổng Quát
-oOo-
I. Tác Giả Soạn Dịch
Kinh Bát Ðại Nhân Giác
Kinh Bát Ðại Nhân Giác do Ngài An Thế
Cao dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào thời Hậu Hán đời vua Hán Tuyên Ðế,
niên hiệu Kiến Hòa năm thứ hai (147. TL). Ngài là Thái tử nước An Tức
(nay là Ba Tư). Ngài còn có tên là An Thanh hay An Hầu, nhường ngôi vua cho
chú mà đi xuất gia. Ngài là một người con hiếu hạnh, kiến thức uyên
bác, thông thiên văn địa lý, y dược và châm cứu. Ðối với Phật học
Ngài thông hiểu Tam Tạng Kinh Luật Luận nhất là đối với thiền
học, đặc biệt Ngài hiểu cả tiếng chim thú. Ngay khi còn ở tại
gia Ngài đã giữ gìn giới pháp tinh nghiêm, thâm cảm lẽ vô thường của đời
sống, chí nguyện xuất gia canh cánh bên lòng. Vì vậy, sau khi mãn tang cha
Ngài nhường ngôi cho chú. Ðây là một yếu tố quan trọng: Ngài thấu
hiểu vai trò người cư sĩ tại gia vẫn có thể tu hành thanh tịnh và
làm lợi ích chúng sanh. Cũng có lẽ vì vậy mà Ngài đã thiết lập hướng
đi kinh Tám điều Giác ngộ của Bậc Ðại Nhân có đường lối tu tập đặc
biệt so với kinh Nguyên thủy.
Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa bằng
đường biển vào năm 146-147, là người đầu tiên dịch số lượng kinh sách
lớn ra Hán văn, nhất là các kinh sách về tu thiền. Vì vậy, Ngài
được coi là người lập ra thiền tông vào thời kỳ đầu của Phật giáo
Trung Hoa. Mặc dù đến Trung Hoa Ngài mới học Hán văn nhưng khả năng
dịch thuật của Ngài rất chính xác như Ngài Ðạo An nhận xét: "Trước
sau truyền dịch đa số lầm lẫn, duy của Ngài dịch đứng đầu tất cả"
(HT Trí Quang). Ðược như vậy là nhờ Ngài thành lập những bộ phận chuyên
môn dịch kinh sách một cách có hệ thống. Cuộc đời của Ngài có nhiều
kỳ tích đặc biệt như Ngài biết trước những duyên nghiệp của
mình, Ngài đã sắp đặt mọi việc để kết thúc đời mình:
-"Ngài nhờ người bán rương thuê một người giúp việc và đặt tên
cho người ấy là Phước Thiện, Ngài nói là "Thiện tri thức"
của ta. Quả nhiên về sau người nầy đâm bên hông của Ngài và Ngài
mất" (Trí Quang - Dịch giải Kinh Bát Ðại Nhân Giác).
Ngài ở Trung Hoa hơn hai mươi năm (147-171)
chuyên dịch kinh số lượng dịch từ 34 đến 40 bản chia làm hai loại: kinh
tạng và các tác phẩm tu tập thiền định,tiêu biểu như Kinh An Ban Thủ
Ý, Ấm Trì Nhập, A Tỳ Ðàm, Ngã pháp Tứ Ðế, Thập nhị nhân duyên,
Chuyển pháp luân, Bát thánh đạo, Thiền hành pháp tưởng, Tu Hành
đạo... Ngài được coi là vị Tổ khai sơn của Phật giáo Trung Hoa.
II. Xuất Xứ
Kinh Bát Ðại Nhân Giác do Ngài An Thế
Cao dịch vào thế kỷ thứ II. Mặc dù gọi là kinh nhưng không phải
là một bản kinh theo truyền thống, tức là có Phật thuyết và đối
tượng nghe thuyết, mà chỉ là những Phật ngôn hay những Bài kệ cô
đọng được rút ra từ kinh tạng, hoặc từ những ý nghĩa giáo pháp tâm
đắc của tác giả. Hòa thượng Trí Quang trong tác phẩm: "Dịch giải kinh
Tám Ðiều Thượng Nhân giác ngộ" nhận định: "Kinh nầy trích lục
Phật ngôn mà tập thành không phải là một pháp thoại tức là một bản kinh. Do
đó mà có bản ghi là "Hiền Thánh Ðất Ấn biên tập". Tôi
ước lượng có thể chính tác giả trích và dịch thành kinh nầy"
(sđd). Ðồng với quan điểm trên, Hòa thượng Thanh Từ cũng nhận xét: Ngài (An
Thế Cao) phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong
nhiều bộ kinh mà dịch, phân ra thứ nhất, thứ hai, thứ ba... đến thứ
tám tập thành kinh Bát Ðại Nhân Giác để cho người mới phát tâm tu
học, dễ nắm được những điểm cần yếu trong Phật pháp" (Kinh
Bát Ðại Nhân Giác giảng giải, NXB Thuận Hoá- Huế 1996).
Như vậy, bản Kinh Bát Ðại Nhân Giác được
xác định là trích lục từ các Phật ngôn ở trong các kinh, tác giả của
việc trích lục và sắp xếp từ một đến tám là do chính Ngài An
Thế Cao dịch và soạn.
Một vấn đề đặt ra là Ngài trích lục
biên soạn từ kinh nào? Tại sao lại tám điều chứ không bảy hay chín?
Chúng tôi cho rằng Ngài An Thế Cao không
hoàn toàn tự ý trích lục hay sáng tác mà có cơ sở để Ngài dựa vào
đó mà xây dựng tám điều giác ngộ của Bậc Ðại Nhân. Cơ sở nầy chính
là kinh tạng A-Hàm; chính xác là Kinh Bát niệm, tức là kinh tám điều
suy niệm của Bậc Ðại Nhân. Nội dung của kinh Bát niệm nêu lên tám
điều suy niệm của một người trên đường giải thoát, nhờ suy niệm
quán chiếu tám điều ấy mà được chứng đạt chân lý tối hậu.
Tương đương với Kinh Bát niệm của Trung A Hàm, kinh Tăng Chi (Anguttara
Nikàya) chương Tám pháp, phẩm Gia chủ, mục Anuruddha cũng đưa ra tám
điều tư niệm của Bậc Ðại Nhân, nội dung hoàn toàn giống nhau,
đều thuộc về kinh Tạng Nguyên thủy. Cần nói thêm rằng trong Di Giáo
tám công đức xuất thế chính là tám điều tư niệm nầy.
Như vậy, có thể nói Kinh Bát niệm
của Trung A-Hàm và Kinh Anuruddha (Sutta) của Tăng Chi cũng như nhiều Kinh
khác tương đương trong hệ thống Kinh tạng Nguyên thủy, đã làm cơ sở
cho Ngài An Thế Cao soạn dịch Kinh Bát Ðại Nhân Giác ra Hán văn.
III. Liên Hệ Các
Kinh Bát Niệm, Anuruddha Sutta Và Kinh Bát Ðại Nhân Giác
1. Những điểm giống nhau
1.a. Ðề kinh: Kinh Bát Ðại Nhân
Giác dịch là Tám điều giác ngộ của Bậc Ðại Nhân,kinh Bát niệm dịch
là Tám điều suy niệm của Bậc Ðại Nhân trong Anuruddha Sutta dịch là
tám điều tư niệm của Bậc Ðại Nhân. Từ giác ngộ, suy niệm hay tư
niệm ý nghĩa là một. Kinh Bát Ðại Nhân Giác có khi dùng Giác tri như
điều một Giác ngộ, điều hai, ba bốn dùng Giác tri, điều năm Giác
ngộ, điều sáu Giác tri, điều bảy Giác ngộ, điều tám Giác tri.
Dùng từ ngữ Giác ngộ và Giác tri lẫn lộn có nghĩa là cả hai từ ngữ là
một, cả hai đều chỉ cho trí tuệ quán chiếu, là tư duy sâu sắc
chớ không phải nhận thức thông thường. A-Hàm dịch Tư niệm hay Suy
niệm cũng chỉ cho sự tư duy sâu sắc an trú đối tượng, là sự thấy rõ
và thường xuyên đối tượng quán chiếu. Như vậy, Giác ngộ, Giác tri, Suy
niệm, Tư niệm chỉ là một mà thôi.
Tất cả các kinh trên đều dùng chữ Ðại
Nhân. Kinh Bát Niệm, Phật dạy: "Này A-na-luật-đà nếu thầy thành
tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân". Tăng Chi Phật dạy: "Này
Anuruddha khi nào người suy nghĩ đến tám tư niệm nầy của Bậc Ðại
Nhân..."
Như vậy đề kinh không có gì sai khác,
có thể nói rằng đề Kinh Bát Ðại Nhân Giác được dịch từ tám tư
niệm của Bậc Ðại Nhân trong kinh tạng Nguyên thủy.
1.b. Nội dung kinh:
Kinh Bát Ðại Nhân Giác đưa ra tám
điều thứ tự như sau:
1. Tứ niệm xứ
2. Thiểu dục
3. Tri túc
4. Tinh tấn
5. Trí tuệ
6. Bố thí
7. Yểm ly
8. Tu Hạnh chịu thay. (lợi tha tuyệt đối)
Kinh Bát Niệm và Anuruddha Sutta:
1. Vô dục (thiểu dục)
2. Tri túc
3. Viễn ly
4. Tinh tấn
5. Chánh niệm
6. Ðịnh ý
7. Trí tuệ
8. Không hý luận
Những điều giống nhau gồm
có:
1. Tu Tứ Niệm Xứ tương đương Chánh
niệm
2. Thiểu dục tương đương Thiểu dục hay vô dục
3. Tri túc tương đương Tri túc
4. Tinh tấn tương đương Tinh tấn
5. Trí tuệ tương đương Trí tuệ
6. 7. và 8 không tương đương A Hàm và Nikàya
2. Những điểm khác nhau:
2.a.Về hình thức:
Kinh Bát Ðại Nhân Giác do Ngài An Thế Cao soạn dịch như một tác phẩm văn
học trình bày ngắn gọn, ngôn từ văn vẻ, tương tự như những Phật
ngôn của Kinh Pháp Cú, không nói riêng cho đối tượng cụ thể nào, không
mang hình thức pháp thoại như những kinh truyền thống. Còn Kinh Bát
Niệm và Anuruddha sutta là một thời pháp thoại do Ðức Phật dạy trực
tiếp Anuruddha và sau đó Ngài giảng rộng cho chúng Tỳ Kheo nên kinh mang
hình thức truyền thống.
2.b.Về mặt nội dung:
Kinh Bát Ðại Nhân Giác có ba điều cuối là bố thí, yểm ly, tu chịu
thay mà A Hàm không có. Ngược lại A Hàm có ba điều viễn ly, Ðịnh ý
và không hý luận thì Kinh Bát Ðại Nhân Giác không có.
Sự khác biệt giữa hai kinh qua ba
điều trên nói lên sự khác biệt về xu hướng tu tập và hành đạo
của Nguyên thủy và Ðại thừa hay nói cách khác giữa một vị Tỳ Kheo và một
vị Bồ Tát. Qua sự khác biệt trên chúng ta có một vài nhận xét sau:
Về căn bản tu tập thì cả hai kinh
đều giống nhau, những đức tính căn bản của người tu hành gồm có:
Thiểu dục, tri túc, chánh niệm, tinh tấn, trí tuệ, đều được
đề cập trong hầu hết kinh tạng Phật giáo. Bởi vì đó là những bước
đi phải có và đủ mới bước lên thánh đạo, dù là Nguyên thủy hay Ðại
thừa.
Con đường tu tập của Bát Ðại Nhân Giác
không qua thiền định. Trong khi đó yếu tố thiền định trong kinh
Bát Niệm là chủ yếu. Mục tiêu của Phật là phát triển trí
tuệ, khả năng đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng
đắc quả vị giải thoát tối hậu. Có thể do định phát tuệ nhưng có
thể do quán niệm mà phát tuệ hoặc cũng có thể do đại
nguyện mà tuệ sanh. Con đường quán niệm và đại nguyện là con
đường của Bát Ðại Nhân Giác.
Hạnh bố thí là hạnh chung của người Phật
tử không kể là tại gia hay xuất gia. Thông thường thì người xuất gia
thực hành pháp thí, người tại gia thì thực hành tài thí. Bố thí là một
trong sáu hạnh Ba La Mật trong truyền thống Ðại thừa rất được nhấn mạnh.
Người Phật tử tại gia có điều kiện hơn để bố thí, vì theo kinh
văn thì chủ yếu là bố thí vật chất.
Hạnh yểm ly hay ly nhiễm chính là xa rời
năm dục, đối với người xuất gia thì đây là bước đầu, nhưng đối với
người tại gia là bước quan trọng vì họ sống giữa thế tục, kinh
văn đặt vấn đề nầy vào vị trí thứ bảy tức rất coi trọng nó. Cho
nên hạnh nầy như là dành cho người cư sĩ, chính cư sĩ mới dấn thân vào
cuộc sống để thực hành Bồ Tát hạnh, họ sống thế nào để như
hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Hạnh tu chịu thay là nguyện thay cho chúng
sanh chịu khổ để cho chúng sanh được hạnh phúc, đây là hạnh lợi tha
tuyệt đối, là lý tưởng của Bồ Tát, là một hạnh nguyện vĩ đại,
phải là người có tâm từ bi lớn và trí tuệ lớn mới thực hành nổi. Một
trong những Bồ Tát tiêu biểu cho hạnh nầy là Bồ Tát Ðịa Tạng. Ngài Ðịa
Tạng phát đại nguyện rằng khi nào địa ngục hết chúng sanh thọ
khổ Ngài mới thành Phật. Con đường Bồ Tát rất coi trọng về
nguyện lực, từ nguyện lực mà tuệ giải thoát sinh và dĩ nhiên công
hạnh tu tập phù hợp với người cư sĩ tại gia sống trong biển khổ. Ðây
là pháp môn tu tập đặt biệt của Phật Giáo.
Tóm lại ba hạnh sau cùng của kinh Bát Ðại
Nhân Giác biểu hiện hành động của một vị Bồ tát đi vào cuộc đời
hóa độ chúng sanh, chúng ta cũng nhận thấy rằng hình ảnh một vị Tỳ Kheo rất
khó xông xáo vào đời sống, vị cư sĩ có nhiều điều kiện hơn.
Tôi có cảm tưởng rằng tác giả đã gửi gắm lý tưởng nầy cho người cư
sĩ hơn là người xuất gia. Hòa thượng Tinh Vân, trong tác phẩm "Mười
bài giảng kinh Bát Ðại Nhân Giác" Ngài nói: "Phần đông các Ðại
đức đều thừa nhận kinh nầy rất thích hợp cho hàng Phật tử tại gia
thọ trì ... Theo tôi ( Ngài Tinh Vân) nghĩ, kinh này là một quyển bảo
điển tối trân quý để kiến lập nhân sinh Phật giáo, tu học
tại gia Phật giáo" (Minh Quang dịch). Mẫu người lý tưởng của Bát
Ðại Nhân Giác là một người cư sĩ thực hiện lý tưởng giải thoát
ngay trong đời sống vốn nhiều ô nhiễm và khổ đau. Ðó là mẫu người
tiêu biểu cho hạnh nguyện và giải thoát. Trong Phật Giáo đại thừa Bồ
Tát cư sĩ được đề cao như trường hợp Duy Ma Cật, vị trí của ông
được coi là siêu việt hơn các vị Bồ Tát xuất gia. Phật Giáo Bắc Tông,
Tỳ Kheo thường thọ thêm Bồ Tát Giới nhưng rõ rằng là hoạt động rất
hạn chế. Trong Bồ Tát Giới cũng dành khá nhiều giới được coi là của
người cư sĩ. Sự bao hàm đường lối của người xuất gia và tại gia vào trong
con đường Bồ Tát hạnh làm cho các tác phẩm Ðại thừa trở nên bao quát,
phong phú, rộng rãi nhưng cũng tạo ra một vài trường hợp thiếu nhất
quán.
Ðối với ba đức tính thuộc A-Hàm và Nikàya
mà Bát Ðại Nhân Giác không có là: Sống viễn ly, Thiền định và
Không
hý luận. Ba đức tính nầy có giá trị khác: Hình ảnh của một vị Tỳ Kheo
sống ở trong rừng hay xóm làng vắng vẻ, không thích tụ hội đông người, nhờ
đó vị Tỳ Kheo dễ dàng tu tập tâm định và chứng đạt chân lý, từ đó
thấy rõ bản chất của các pháp, chấm dứt những hý luận vô ích những tư
duy huyễn hoặc, đạt được an lạc tịch tĩnh Niết Bàn. Ðó là hình ảnh
của Tăng bảo, biểu tượng của đạo đức và giải thoát. Ðó không phải
là lối sống của mọi người, chắc chắn không phải là lối sống của người
cư sĩ. Có người cho rằng đời sống như vậy hơi tiêu cực chỉ lợi ích cho
bản thân mình... Thật ra nếu sống tiêu cực và chỉ lợi ích cho mình làm
sao mà giải thoát được? Nếu sự giải thoát khổ đau cho chúng sinh mà
không dựa trên căn bản giải thoát tự thân thì chỉ xây dựng lâu đài trên
cát. Tám điều tư niệm của Bậc Ðại Nhân trong A-Hàm và Nikàya Ðức
Phật dạy cho Ngài Anuruddha và chúng Tỳ kheo, nhờ hành trì tám điều ấy
mà Ngài Anuruddha đắc quả A La Hán, đại chúng Tỳ kheo cũng nhờ hành trì tám
điều nầy mà thành tựu được Bậc Ðại Nhân tức quả A La Hán hay đang
hướng về quả A La Hán.
Qua trình bày trên chúng ta đừng vội so
sánh và phê bình hình ảnh của vị Tỳ Kheo là Tiểu thừa hay vị Bồ Tát là
Ðại thừa. Vì như vậy ta chưa hiểu hết vấn đề, chúng ta không
thể coi pháp môn nào cao hơn pháp môn nào. Bởi lẽ, tất cả mọi pháp
môn mà Ðức Phật dạy đều là phương tiện là chiếc bè để qua
sông, dòng sông sanh tử. Mục đích chung và tối hậu là giải thoát Niết
Bàn.
IV. Giới Thiệu Nội
Dung "Kinh Bát Niệm" Của A-Hàm
1. Phần duyên khởi
Ðức Phật đang ở tại Bà Kỳ Sấu trong Ngạc
Sơn Bố Lâm, vườn Lộc Uyển. Bấy giờ Tôn Giả A- Na- Luật Ðà ở tại Chi
Ðề Sấu trong rừng Thủy Chử. Tôn Giả đang thiền tư như sau: "Ðạo
do vô dục mà chứng đắc chứ không phải do dục. Ðạo do tri túc mà chứng đắc
chứ không phải do không nhàm chán. Ðạo do viễn ly mà chứng đắc chứ không
phải do sự ưa tụ hội, sống ở chỗ tụ hội, hòa đồng nơi tụ hội. Ðạo do
tinh cần mà chứng đắc chứ không do nơi biếng nhác. Ðạo do chánh niệm
mà chứng đắc chứ không do nơi tà niệm. Ðạo do định ý mà chứng
đắc chứ không do nơi loạn ý. Ðạo do trí tuệ mà chứng đắc chứ
không phải do ngu si".
2. Phần nội dung
Ðức Thế Tôn biết được nội dung tư
duy của Tôn Giả A Na Luật Ðà, nên Ðức Thế Tôn đến gặp Tôn Giả,
tán thán bảy điều mà Tôn Giả đang thiền tư, đồng thời Ngài dạy cho
Tôn Giả thêm điều thứ tám rằng: "Ngươi hãy thọ trì thêm suy
niệm thứ tám của Bậc Ðại Nhân là đạo do không hý luận chứ không
phải do hý luận, thích hý luận, thực hành hý luận mà chứng
đắc".
Ðức Thế Tôn khích lệ thêm rằng
nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân thì có thể
chứng đắc tứ thiền và thành tựu bốn tăng thượng tâm một cách dễ dàng,
sống an lạc ngay trong hiện tại. Tôn giả sẽ mặc y phấn tảo mà chẳng khác
nào mặc hoàng bào, ăn cơm khất thực mà chẳng khác nào cao lương mỹ vị,
ngủ dưới gốc cây mà chẳng khác nào lầu son gác tía, nằm ngồi chỗ cỏ
rơm chẳng khác nệm ấm chăn êm.
Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm
của Bậc Ðại Nhân thì ở phương Ðông, Tây, Nam, Bắc hay bất cứ ở đâu Tôn
giả vẫn được an lạc, không có các tai họa đau khổ.
Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm
của Bậc Ðại Nhân thì thiện pháp ngày đêm được tăng trưởng không có
dừng lại và suy thoái.
Nếu Tôn Giả thành tựu tám suy niệm
của Bậc Ðại Nhân thì đối với hai quả sẽ được một: Hoặc là được cứu
cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc nếu còn hữu dư thì được A Na Hàm.
Sau khi Ðức Thế Tôn khích lệ Tôn
giả A Na Luật Ðà, Ngài trở về triệu tập chúng Tỳ Kheo và thuyết
tám điều suy niệm của Bậc Ðại Nhân một cách chi tiết hơn:
* Ðạo do vô dục: Vị Tỳ Kheo chứng đắc vô
dục, tự biết mình chứng đắc vô dục, không làm cho kẻ khác biết mình
vô dục. Ðối với sự chứng đắc về tri túc, viễn ly, tinh cần, chánh
niệm, định ý, trí tuệ và không hý luận cũng như vậy, gọi
là đạo do vô dục.
* Ðạo do tri túc: Tỳ kheo thực hành tri túc,
áo để che thân, ăn để nuôi thân, sàng tọa, dược phẩm cũng vậy.
* Ðạo do viễn ly: Tỳ kheo thực hành viễn ly
thành tựu hai hạnh viễn ly: Viễn ly thân và viễn ly tâm.
* Ðạo do tinh cần: Tỳ kheo thực hành tinh
cần đoạn trừ ác bất thiện pháp, tu các thiện pháp, thường tự khởi
ý chuyên nhất, kiên cố, vì các gốc rễ thiện mà không hề nề
hà khó nhọc.
* Ðạo do chánh niệm:
Tỳ kheo quán nội
thân như thân, nội thọ như thọ, nội tâm như tâm, nội pháp như pháp.
* Ðạo do định ý: Tỳ kheo ly dục, ly ác
bất thiện pháp cho đến chứng đắc tứ thiền thành tựu và an trú.
* Ðạo do trí tuệ: Tỳ kheo tu hạnh trí
tuệ quán pháp hưng suy, chứng đắc trí, thánh tuệ, minh đạt, phân
biệt rõ ràng để dứt sạch khổ đau.
* Ðạo do không hý luận: Tỳ kheo tâm
ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô dư Niết bàn, tâm
thường lạc thú, hoan hỷ ý giải.
3. Phần kết luận
Ðức Thế Tôn dạy đại chúng xong, Ngài
cho biết Tỳ kheo A Na Luật Ðà thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại
Nhân, sau đó an cư tại Chi- Ðề- Sấu trong rừng Thủy Chử. Vị Tỳ kheo ấy
đã tự thân chứng đắc và an trú vô thượng phạm hạnh.
Ðại chúng Tỳ kheo nghe Phật dạy xong
đều hoan hỷ phụng hành.
V. Vài Lời Giải Thích
1. So sánh với Kinh Tăng Chi
Kinh Tăng Chi III, chương Tám pháp, phẩm Gia
Chủ, mục Anuruddha. Nội dung kinh hoàn toàn giống nhau về đại thể và
có khác nhau một vài chi tiết như: A-Hàm nói vô dục, Tăng Chi là ít dục.
Về tri túc, Tăng Chi giải thích đủ về "Tứ vật dụng" của
một Tỳ kheo gồm thực phẩm, y áo, sàng tọa, dược phẩm, còn A-Hàm chỉ nói ăn
và mặc. Về điều ưa sống viễn ly A-Hàm giải thích là thân và tâm
đều viễn ly, còn Tăng Chi đề cập đến trường hợp nhiều
người đến thăm hay vấn đạo vị Tỳ kheo nhưng tâm vị ấy thuận về
viễn ly, hướng về viễn ly, thuyết pháp liên hệ đến viễn ly,
đây là một chi tiết rất hay. Về chánh niệm A-Hàm đề cập
đến Tứ niệm xứ, còn Tăng Chi nói một cách tổng quát rằng thành tựu
niệm tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những điều đã làm, đã
nói dù đã lâu. Về điều thứ tám không hý luận, Tăng Chi giải
thích đoạn diệt hý luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú
hướng đến cứu cánh phạm hạnh, còn A-Hàm giải thích tâm ý
thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô Dư Niết Bàn.
Tóm lại sự khác biệt thuộc A-Hàm và
Nikàya là không đáng kể, chỉ có tính cách sử dụng ngôn ngữ mà thôi.
2. So sánh với kinh Di Giáo
Kinh Di Giáo đưa ra tám công đức xuất
thế như sau: ít ham muốn, biết đủ, siêu thoát (viễn ly), tinh tấn,
chánh niệm, thiền định, trí tuệ và không hý luận. Tám công
đức xuất thế nầy chính là nội dung kinh Bát niệm hay tám điều suy
niệm của Bậc Ðại Nhân, có thể nói kinh Bát niệm là xuất xứ của
tám công đức xuất thế trong kinh Di Giáo. Trong tác phẩm dịch giải kinh Di
Giáo, H.T. Trí Quang viết: "Công đức xuất thế cũng gọi là
công đức thượng nhân. Các bậc Thượng Nhân ( Ðại Nhân) thường dùng tám
công đức nầy để tự giác, tự soát, hầu nuôi lớn phương tiện và
thành tựu cứu cánh". "Tám công đức nầy liên hệ và tương đồng
với mười pháp của Ðại Bát Niết Bàn". Ngài Thế Thân trong tác
phẩm Di Giáo kinh luận đã chia tám pháp công đức này thành hai phần:
- Phần một là bảy pháp đầu gọi là
nuôi lớn phương tiện.
- Phần hai là pháp thứ tám gọi là thành
tựu cứu cánh.
Như vậy pháp không hý luận có ý
nghĩa rất lớn trong tám công đức.
Tám công đức xuất thế trong kinh Di Giáo
về tiêu đề và thứ tự hoàn toàn giống kinh Bát niệm chỉ có sự
khác biệt chút ít về giải thích.
3. Vấn đề vô dục
Thông thường chúng ta hiểu vô dục là
không tham dục, hoặc ít dục là ít sự ham muốn về các nhu cầu ăn, mặc,
ngủ nghỉ, dược phẩm (đối với Tỳ Kheo) hoặc ít ham muốn hưởng thụ dục lạc,
giác quan như ngũ dục... Nhưng khi giải thích vô dục, Ðức Phật dạy vô dục
trong nghĩa rất rộng mang tính triết học hơn, tức là những sở đắc,
kết quả tu tập, những thành tựu trong quá trình quán chiếu, thiền
định, những công hạnh đạt được đều không chấp thủ, không được khoe
khoang hay khởi ước muốn mọi người biết đến mình, đến thành
quả của mình. Ðó gọi là vô dục. Ðây là một định nghĩa về vô dục
rất đặc biệt mà ở nơi khác không có. Qua định nghĩa này có thể
làm tiêu chuẩn cho chúng ta về mẫu người tu tập và giải thoát. Vị ấy
không khoe khoang về các thành quả của mình, kể cả các thành quả
về giới, về định, về tuệ và về giải thoát.
4. Vấn đề sống viễn ly
Ðây là vấn đề được coi trọng
trong quá trình tu tập theo truyền thống Nguyên thủy, các kinh cả A-hàm và
Nikàya đều nói đến rất nhiều, cho nên thường bị các bộ phái
cấp tiến phê phán cho rằng xa rời quần chúng, ích kỷ, làm cho Phật
giáo không phổ cập mọi người. Thật ra đời sống viễn ly rất cần
thiết cho hành giả tu tập đoạn trừ ái dục, nếu đang tu tập thiền
định mà bị quấy rầy hoặc chi phối bởi ngoại cảnh thì công phu thiền
định sẽ mất. Ðức Phật và Thánh tăng thời xưa dù sống viễn ly mà vẫn hoá
độ chúng sanh, nhờ viễn ly mà "Tùy duyên" vẫn giữ được "Bất
biến". Nếu đừng quá cường điệu, cực đoan thì đời sống
viễn ly là tốt cho cả hai mặt tự lợi và lợi tha. Kinh Tăng Chi khi đề cập
đến hạnh viễn ly cho rằng khi tiếp xúc với mọi người mọi giới
hoặc làm việc mà tâm vẫn an trú, hướng về viễn ly hay nói cách khác
nếu giữ tâm vững chãi không bị ngoại cảnh tác động thì dù gặp cảnh
nào cũng không bị rối loạn, đó là ý nghĩa của viễn ly. Như vậy cũng
có thể nói hạnh ly nhiễm của kinh Bát Ðại Nhân Giác cũng có thể coi
là tương đương hạnh viễn ly này. Ðiều thứ bảy giác ngộ đã nói lên
xu hướng và quyết tâm từ bỏ năm dục thực hành phạm hạnh ngay trong đời
sống thế tục, đó là hạnh viễn ly đặc biệt.
5. Vấn đề không hý luận
Trong Kinh Bát Niệm có nói rõ, Tôn Giả
Anuruddha tư duy bảy pháp, Ðức phật xuất hiện dạy Tôn Giả tư niệm
thêm pháp thứ tám là: "Ðạo do từ không hý luận mà chứng đắc".
Vậy vấn đề không hý luận rất quan trọng và siêu việt nếu
so với các vấn đề trên. Anuruddha thiền tư không phát hiện đạo
lý này, mà nhờ Ðức phật dạy, cho biết giá trị của "không hý luận"
rất cao. Không hý luận là gì? Nghĩa đen là không nói chơi hay luận bàn
một cách vô ích. Kinh Bát Niệm giảng rằng: "An lạc trú trong vô dư
Niết Bàn, tâm thường lạc thú, hoan hỷ,ý giải". H.T. Trí Quang
nói rất rõ ý nghĩa của không hý luận:
"Hý luận nghĩa đen là
bàn chơi. Hý luận diễn biến từ sự bàn cãi chơi đùa đến sự thảo
luận vô ích đến vấn đề đặt sai vấn đề, cuối cùng thì chính
là sự thảo luận và đặt vấn đề thực chất đã không như thực. Chính
cái nghĩa sau này cho thấy tất cả những cái gì thuộc phạm vi tư duy, mô tả
thuộc "Tâm hành xứ" và "Ngôn ngữ đạo" đều là Hý
luận. Vậy không hý luận là "Bất tư nghì" là ngôn ngữ đạo
đoạn, tâm hành xứ diệt, đó là cứu cánh hay tự tánh siêu thoát như ở
đây nói, là giải thoát Niết Bàn như kinh Ðại Niết Bàn nói, là
Không của Bát Nhã nói, là Trung đạo của Trung Luận nói: "Hý luận là
ngôn ngữ của tư tưởng, thực chất của tư tưởng là đối chiếu, diễn
dịch: Có-không, cũng có cũng không - không phải có, không phải không. Nhưng
sự đối chiếu diễn dịch này không ngừng ở đây mà còn tiến xa hơn
nữa..." Tư tưởng và ngôn ngữ tư tưởng như vậy gọi là hý luận. Trí
tuệ thuộc lãnh vực này gọi là trí tuệ" (Dịch giải kinh Di
Giáo - Trí Quang).
Tóm lại vấn đề "không hý luận" là
vấn đề cứu cánh siêu việt đúng như kinh Bát niệm giải thích là
an lạc trú trong Vô Dư Niết Bàn, tâm thường lạc thú ý giải. Ðó là
cứu cánh giải thoát, là nội dung chứng đắc của một vị A La Hán./.