Chương
II
Giải Thích Nội Dung Kinh Bát
Ðại Nhân Giác
-oOo-
Kinh Bát
Ðại Nhân Giác, bố cục thành ba phần:
- Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như
là giới thiệu tám điều giác ngộ.
- Phần hai là nội dung tám điều giác
ngộ ấy.
- Phần ba là phần khuyến khích tu tập
theo tám điều giác ngộ ấy, phần này coi như là phần kết thúc của
kinh.
Ðể giải thích sát với kinh văn chúng
tôi trình bày theo cách thông thường, nghĩa là mỗi Bài gồm phần chánh
văn (xem thêm bản chữ Hán ở Phụ lục), dịch nghĩa, giải thích và kết luận.
A. Phần Mở Ðầu
Bài I
I. Chánh Văn
Vi Phật đệ tử
Thường ư trú dạ
Chí tâm tụng niệm
Bát Ðại Nhân Giác.
II. Dịch Nghĩa
Là đệ tử của Ðức Phật thì ngày cũng
như đêm chí thành đọc tụng và quán niệm tám điều giác ngộ của
Bậc Ðại Nhân.
III. Giải Thích Nội Dung
Lời mở đầu ngắn gọn và đơn giản, có
tính cách giới thiệu chủ đề, không như phần mở đầu của các kinh
khác thường có. Ðiều nầy chứng tỏ Ngài An Thế Cao đã trích lục,
soạn thảo tám điều giác ngộ, Ngài chủ động giới thiệu để
người đọc có thể đi thẳng vào nội dung.
Mặc dù ngắn gọn nhưng tha thiết, vừa
nói lên trách nhiệm và bổn phận của người Phật tử vừa chỉ dẫn những
điều cụ thể phải thực hành.
Trách nhiệm của người Phật tử là gì?
Ở đây không nói là người xuất gia, vậy từ Phật tử chỉ chung cho tại gia
và xuất gia. Mang danh con của Phật thì phải thể hiện tính của Phật,
đấy là chỗ khác biệt giữa người Phật tử và không là Phật tử; đấy
là trách nhiệm của người Phật tử, những biểu hiện ở hành vi và
ngôn ngữ cũng như tâm ý của người Phật tử luôn có sự cao thượng, lợi
ích và hạnh phúc cho những người xung quanh.
Ðể xứng đáng với danh nghĩa là con của
Phật, người Phật tử phải có quá trình tu tập bản thân; không phải tụng
kinh, niệm Phật theo thời khóa nhất định mà sự tu tập ấy phải diễn ra
mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, lời mở đầu gọi là Trú Dạ, là ngày
cũng như đêm. Như vậy mới đủ năng lực chuyển hóa tính phàm phu của
mình.
Tụng niệm không có nghĩa là đứng
trước bàn Phật tụng kinh gõ mõ là đủ. Tụng là đọc tụng, còn niệm
là an trú tâm vào đối tượng, còn gọi là chánh niệm, là hướng tâm,
an trú tâm vào đối tượng, ở đây chính là Tám Ðiều Giác Ngộ của Bậc
Ðại Nhân. Do tụng và niệm thường xuyên làm huân tập chủng tử thiện
pháp, trí tuệ ngày càng lớn, thân tâm càng thanh tịnh, càng ngày càng
gần với tính Phật như vậy xứng đáng là con của Phật.
Bậc Ðại Nhân là người lớn, là người
trưởng thành, chỉ cho những người không còn bị sai khiến hay bị chế
ngự bởi các phiền não, dục vọng. Theo truyền thống Ðại thừa thì
chỉ cho Phật và Bồ Tát, theo truyền thống Nguyên thủy, đó là những vị
chứng quả A La Hán hay trên đường chứng quả A La Hán.
IV Kết Luận
Lời mở đầu Kinh Bát Ðại Nhân Giác tuy
ngắn gọn nhưng nói lên được mục đích và yêu cầu của một người Phật
tử. Dù tại gia hay xuất gia người Phật tử cần phải tu tập quán chiếu
ngày đêm các thiện pháp để tăng trưởng công đức và thành tựu cứu
cánh Niết Bàn.
Ðiều quan trọng là những gì mà chư
Phật, các bậc Thánh hiền đã tu tập, đã thành tựu thì con của Phật phải
làm theo, không nhiều thì ít để phần nào xứng đáng với danh xưng
Phật tử.
B. Phần Nội Dung Kinh
Bài II
I. Chánh Văn
Ðệ nhứt giác ngộ
Thế gian vô thường
Quốc độ nguy thúy
Tứ đại khổ không
Ngũ ấm vô ngã
Sanh diệt biến dị
Hư ngụy vô chủ
Tâm thị ác nguyên
Hình vi tội tẩu
Như thị quán sát
Tiệm ly sanh tử
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ nhất, giác ngộ rằng cuộc đời
là vô thường, vũ trụ mong manh tạm bợ. Sự cấu tạo của bốn đại là trống
rỗng và có tác dụng gây đau khổ, tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh
diệt thay đổi không ngừng, không thực và không có chủ thể. Tâm ta là
cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi. Quán
chiếu như thế dần dần thoát ly sanh tử.
III. Giải Thích Nội Dung
Ðiều giác ngộ thứ nhất, được coi là
tu quán Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứ là pháp tu đặc biệt của
Phật giáo, là pháp môn quan trọng, là con đường duy nhất dẫn đến
Niết Bàn (Ekayana-maggo). Tác dụng của pháp quán này được Ðức Phật dạy
rất rõ trong Kinh Niệm Xứ, Trung A Hàm 98: "Nếu Tỳ Kheo nào trong
từng khoảnh khắc lập tâm chánh trụ nơi bốn Niệm Xứ, nếu buổi sáng
thực hành như vậy thì buổi tối liền được thăng tấn. Nếu buổi tối
thực hành như vậy thì nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn"
(Trung A Hàm I. T 578). Nội dung của chánh niệm chính là quán niệm
về Tứ Niệm Xứ. Vì vậy điều thứ nhất giác ngộ được coi là
tương đương với chánh niệm của kinh Bát Niệm, phép quán niệm
về bản chất của vũ trụ nhân sinh được đưa vào đầu tiên nhằm củng cố
cái nhìn của người Phật tử bằng chánh kiến, là sự nhận thức rõ về
sự vật hiện tượng. Quán niệm không phải là cái suy nghĩ hay nhận
thức thông thường mà là ý thức về đối tượng, duy trì ý thức
ấy trên đối tượng, đồng thời đi sâu vào lòng đối tượng ấy, nhờ đó mà
ta có cái nhìn rõ về đối tượng. Kết quả của sự quán chiếu đối
tượng như thế là sự hợp nhất giữa chủ thể và đối tượng, ta
hiểu đối tượng như chính ta.
Ðối tượng của sự quán chiếu thứ nhất
là nhân sinh và vũ trụ:
" Cuộc đời là vô thường
Vũ trụ mong manh tạm bợ".
Quán chiếu về tính cách vô thường
của đời sống con người và hoàn cảnh mà con người đang sống làm cho ta thấy
rõ bản chất của sự vật. Chúng ta đau khổ vì chúng ta ngu si không thấy rõ
tính chất vô thường mong manh tạm bợ của cuộc đời, vì không thấy rõ nên ta
tham đắm chấp thủ cuộc đời rằng cái này là ta, là của ta, từ đó phiền
não sinh ra: tham, sân, kiêu căng, hoài nghi, sợ sệt ...
* Thân thể là vô thường: Ðây là
điều dễ hiểu dễ thấy nhưng ít người chấp nhận một cách sâu sắc,
có sinh thì có già, có bệnh và chết. Sự chuyển biến hủy hoại
theo thời gian của thân thể là một sự thật khách quan. Sự đau khổ của
chúng ta không phải là do tính vô thường của thân thể mà chính là do
chấp thủ, tham đắm vào thân thể mà đau khổ phát sinh.
* Tâm lý là vô thường: Tâm của ta
không đứng yên một chỗ mà là chuyển biến liên tục như dòng
nước chảy xiết buồn, vui, thương, ghét, giận, lo lắng, những quan
điểm, khái niệm đúng, sai, tốt, xấu thay đổi không ngừng nhấp nhô
như sóng biển bất tận, vui đó rồi buồn đó, thương rồi giận... không ai
làm chủ được tâm lý của mình.
* Tình cảm là vô thường: Tình thương của
cha mẹ đối với con cái, vợ đối với chồng, anh em, bạn bè, quê hương đất
nước... không có gì là chắc chắn bền bỉ. Tình yêu rồi thù hận, trung
thành rồi phản bội, thương nhau lắm cắn nhau đau...
* Tài sản tiền bạc là vô thường: Có
rồi không, được rồi mất, giàu rồi nghèo, hết sức mong manh tạm bợ, dễ
bị lửa cháy, nước trôi, nhà nước tịch thu, trộm cướp và con cái phá tán.
* Danh vọng địa vị là vô thường: Công
danh sự nghiệp chức tước địa vị thăng giáng vô thường, vinh quang rồi
tủi nhục, kính trọng hay khinh bỉ không có gì tồn tại mãi.
* Hoàn cảnh vô thường: Hoàn cảnh xã hội,
đường lối sách lược luôn luôn thay đổi, đất lở, sông bồi, núi non hay
biển cả, mây gió trăng sao đều luôn luôn chuyển biến
"thương hải biến vi tang điền" là điều thường thấy.
Tất cả đều nằm trong qui luật : vô
thường, hoại diệt. Quán chiếu về tính chất vô thường của vũ trụ
nhân sinh không nhằm mục đích đưa đến thái độ bi quan yếm thế
mà chính là hướng dẫn ta có cái nhìn chính xác về sự thật của đời
sống. Nhờ có cái nhìn rõ ràng và sáng suốt như vậy mà ta được an ổn,
trầm tĩnh, không ưu tư sầu muộn, đau khổ về đời sống, ta đạt được
giải thoát, tự do. Trong kinh Pháp Cú, Ðức Phật dạy:
"Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như huyễn cảnh
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp"
Ðối tượng quán chiếu tiếp theo là
bốn đại và năm uẩn để thấy được tính chất vô ngã của chúng, nghĩa
là thấy được sự trống rỗng không có chủ thể của bốn đại và năm
uẩn. Bốn đại là bốn nguyên tố vật chất theo quan điểm triết học
Ấn Ðộ cổ đại tất cả hình thể vật chất đều do sự cấu thành
của bốn nguyên tố nầy. Nhưng khi diễn tả sự cấu thành thân thể con
người, đạo Phật không dừng ở đó mà thêm hai nguyên tố nữa là không đại
và thức đại. Năm uẩn là năm nhóm tạo thành con người gồm: Sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. Sắc là thân thể bao gồm bốn đại ở trên; thọ là
nhóm cảm giác; tưởng là nhóm tri giác; hành là nhóm động lực tâm lý
và thức là nhóm nhận thức. Nói một cách tổng quát thì con người do bốn
đại và năm uẩn cấu thành, ngoài bốn đại và năm uẩn không có cái gì
gọi là con người cả.
Quán chiếu về bốn đại tức là bốn
yếu tố vật chất để thấy rõ bản chất trống rỗng của chúng. Cần
chú ý là vật chất ở đây chỉ cho thân thể của ta. Thân ta nếu
phân tích sẽ thấy nó gồm có đại địa, tức xương thịt, các chất rắn; Thủy
đại tức nước tiểu, mồ hôi, nước mắt nói chung là chất lỏng; Hỏa đại
là hơi ấm, nhiệt độ thân thể, còn nhiệt độ là còn sống; Phong
đại là thể khí như không khí để thở, khoảng không chứa đựng các
loại khí... Nếu bốn yếu tố nầy đầy đủ điều hoà thì thân
thể ta khỏe mạnh, nếu một trong bốn yếu tố mất thăng bằng thì
thân thể bị bệnh hoặc khó chịu ngay. Bản chất của chúng là không có
tự tính, chúng phải dựa vào nhau mà tồn tại hay nói cách khác chúng tồn tại
do duyên sinh. Vì vậy không có gì là chắc chắn bảo đảm, chúng vô thường.
Thân thể chúng ta là vô thường như phép quán đầu tiên, chúng vô
thường vì chúng trống rỗng, nghĩa là vô ngã. Chúng vô ngã vì chúng tồn
tại có điều kiện. Ðó là qui luật của thực tại. Vì vậy kinh văn
nói: "Sự cấu tạo của bốn đại là trống rỗng". Sự vô thường,
vô ngã của bốn đại là qui luật khách quan, nhưng tại sao trong kinh văn cho
là "khổ"? Thực ra cái khổ không do vô thường hay vô ngã của thân
thể mà do nhận thức chấp thủ rằng thân thể là thường, là ngã, là
tôi, là của tôi mà sinh ra cái khổ, nên kinh văn (được) dịch là "có
tác dụng gây ra đau khổ". Vậy đau khổ ở đây là do không quán chiếu
để thấy rõ bản chất của thân thể (hay của bốn đại) là "vô
ngã" mà chấp vào nó nên "khổ".
Quán chiếu về bốn đại tức là quán
chiếu về yếu tố sắc uẩn trong năm uẩn. Tiếp tục quán chiếu
về bản chất của con người chính ta, bằng cách soi chiếu sâu sắc vào
năm uẩn, về mặt tinh thần, tâm lý thì được chia thành bốn nhóm:
1. Nhóm cảm giác (Vedanà):
Là thọ hay
cảm thọ. Nhìn sâu vào nhóm cảm thọ ta sẽ nhận diện bộ mặt thật
của chúng; chúng sinh trưởng và hoại diệt như thế nào? Cảm thọ
có nhiều loại, khái quát có ba loại chính: Cảm thọ khổ, cảm thọ
vui sướng, cảm thọ trung tính (không khổ, không vui). Một cảm giác sinh
khởi nó tùy thuộc các điều kiện nhân duyên. Nó không tự tồn tại và
không có giá trị lâu bền. Một cảm giác dễ chịu thoải mái do đâu mà
sinh? Nguồn gốc của nó có thể từ vật chất như ta có một món tiền
lớùn hay một bữa ăn ngon chẳng hạn. Nguồn gốc của nó có thể từ tâm
lý như khi ta thương yêu hay thưởng thức một bài thơ hay, ta khoan khoái
dễ chịu. Quán chiếu sâu hơn ta thấy các cảm thọ còn tùy thuộc rất
nhiều yếu tố như không gian, thời gian, trình độ văn hóa, thời
tiết, điều kiện xã hội.... rõ ràng là cái cảm giác buồn hay vui
chứa đựng cả một bầu trời duyên sinh chỉ cần thiếu đi một yếu tố,
chi tiết nào đó cảm thọ vui sẽ giảm hoặc mất đi. Vậy ở trong cảm
thọ cái gì là cái ta, cái của ta? Chúng không thực và không có chủ
thể.
2. Nhóm tri giác (Tưởng - sannakhandha):
Chúng
là sự nhận thức, sự cấu thành khái niệm về đối tượng là vật
lý hay tâm lý. Ðây là nhóm nhận thức sau khi các giác quan tiếp
xúc với ngoại cảnh; nó thu nhận đối tượng và biểu tượng hóa cái đối
tượng của giác quan. Tưởng thiết lập cơ sở các dữ liệu cho nhận
thức lý luận, cho sự nhận thức sâu hơn về thế giới vật lý hay
tâm linh. Nhóm tri giác có sáu loại tượng ưng với sáu giác quan tiếp xúc
với sáu đối tượng mà sanh nhận thức về các đối tượng ấy.
Cũng như Thọ (cảm giác), nhóm Tưởng
đòi hỏi và tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhiều điệu
kiện nhân duyên, sự cấu thành nhận thức, khái niệm về sự vật là
như thế nào; tùy thuộc vào yếu tố không gian, thời gian, thời
tiết, điều kiện văn hóa, xã hội ... ở trong chúng không có cái
gì gọi là bền vững hay riêng lẻ.
3. Nhóm tạo tác tâm lý (Hành -
sankhàra): Hành là quá trình tạo tác tâm lý, một loại ý định,chủ
tâm. Thực ra thọ hay tưởng đều thuộc về hành nhưng thọ và
tưởng không tạo tác kết quả nghiệp nên được tách riêng. Hành mới
có tác dụng tạo nghiệp đưa đến thiện, ác và tái sanh.
Những hiện tượng tâm lý gọi
chung là tâm hành, Duy thức học gọi là tâm sở -- cảm giác và tri giác
không phải là những hoạt động ý chí nên không bao gồm trong hành uẩn.
Hành uẩn gồm những tâm lý phát sinh động lực và tạo tác dụng thúc đẩy
năng lực đi tới như tham dục, sân hận, hãm hại hoặc ước muốn, tin tưởng,
tinh tấn ... Những hoạt động tâm lý thuộc hành uẩn diễn ra khi sáu giác
quan tiếp xúc với sáu đối tượng giác quan.Ví dụ khi mắt thấy sắc đẹp
sinh ra tham muốn, sự vướng mắc vào đối tượng tham đắm hay giận hờn, nó
tùy thuộc rất nhiều điều kiện khác nhau, nói cách khác nó cũng do
duyên sinh không có yếu tố tạo tác tâm lý nào là cố định, tự phát.
Chúng tùy thuộc vào nhân duyên mà sinh và nhân duyên mà diệt.
4. Nhóm Thức (Vinnàna): Thức là một phản
ứng căn bản khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, gồm sáu loại: Nhãn
thức, nhĩ thức,tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Về
sau, Ðại thừa duy thức triển khai thêm hai thức nữa là Mạt na thức và A
lại gia thức, gọi một cách tổng quát là tâm vương. Cần phân biệt
thức uẩn và tưởng uẩn. Thức thì nhận biết đối tượng - sự hiện
diện của đối tượng. Ví dụ khi mắt thấy sắc, thức nhận thức về sự
hiện của một đối tượng như bông hoa chẳng hạn. Còn tưởng là tri giác
sẽ nhận ra đấy là hoa hồng hay hoa lài, màu đỏ hay màu trắng.
Thức, theo Phật giáo, không phải là một linh
hồn tồn tại độc lập, Ðức Phật dạy: "Thức được gọi tên tùy theo
điều kiện nhờ đó mà đó sinh khởi: Nhờ con mắt và đối tượng con
mắt mà thức phát sinh, gọi là nhãn thức ... Thức tồn tại nhờ sắc
...nhờ thọ ... nhờ hành ..." Như vậy thức không tồn tại độc lập và
không có cái ngã trong thức.
Tóm lại quán chiếu để thấy rõ bốn
đại và năm uẩn là trống rỗng, là vô ngã, là duyên sinh. Nhờ thấy rõ
bản chất của chúng mà đoạn trừ được tham ái và chấp thủ vào chúng. Khi
đã buông xả ý niệm về thân tôi, về tôi, về tự ngã của
tôi thì mọi ảo tưởng về thân sẽ tan biến gọi là đoạn trừ
thân kiến, bước đầu của bậc Kiến đạo.
Ðối tượng quán chiếu thứ ba là khía
cạnh bất thiện của thân và tâm, cũng có nghĩa phải thấy rõ mặt tiêu
cực, nguy hiểm của thân và tâm để mà đề phòng, hạn chế xu
hướng phát triển của chúng.
Kinh văn dạy: "Phải quán chiếu tâm
ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội
lỗi". Trước hết cần xác định rằng: Ðiều ác, điều bất
thiện là do tâm tạo tác chứ không phải từ bên ngoài phát sinh, đây là
lập trường căn bản của giáo lý về nghiệp. Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức Phật dạy: "Trong các pháp tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác
tất cả. Nếu đem tâm nhiễm ô để nói năng hay hành động thì kết
quả đau khổ đi theo như bánh xe lăn theo con vật kéo xe... Nếu đem tâm
thanh tịnh để nói năng hay hành động thì kết quả hạnh phúc đi theo
như bóng theo hình". Thiện, ác, đau khổ hay hạnh phúc đều xuất
phát từ tâm ý. Tuy nhiên ở đây kinh chỉ đề cập đến khía cạnh
bất thiện, đau khổ mà thôi. Từ những nhận thức sai lầm dẫn đến các
tâm lý bất thiện tham, sân, si, mạn, nghi, tạo thành động lực cho ác
nghiệp. Cũng cần phải thấy rõ sức mạnh của nghiệp bất thiện nó
có mặt từ quá khứ, tức là nhiều đời kiếp về trước nên khó
đoạn trừ, đừng chủ quan, hời hợt và coi thường chúng; có quán chiếu
sâu sắc mới thấy những tiềm ẩn vi tế, gốc gác sâu xa của chúng. Thân
thể là nơi tích tụ tội lỗi, đây cũng là quán chiếu để thấy
rõ mặt tiêu cực của thân. Thân vật lý nó có những quy luật tồn tại
riêng của chúng; chúng có những nhu cầu (tồn tại ) sinh tồn. Những đòi hỏi
thỏa mãn nếu ta không nhận ra đâu là nhu cầu thực và chính đáng, đâu
là nhu cầu giả tạo không cần thiết của thân thì rõ ràng ta bị thân lôi
cuốn vào tội lỗi. Phần lớn những tội lỗi sinh ra do thân làm động
cơ, làm điều kiện; tất cả những nhu cầu ăn, mặc thỏa mãn sinh
lý, những lạc thú đều từ thân, do thân. Vì vậy, không nên coi thân
là quan trọng mà phải thấy rõ chúng đề sử dụng chúng như là phương
tiện tu tập và hành đạo.
IV. Kết Luận
Ðiều giác ngộ thứ nhất là quán
chiếu để thấy rõ pháp ấn: Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, ở nơi
thân tâm của con người với mục đích bỏ những vướng mắc tham đắm, chấp
thủ đối với con người và cuộc đời. Duy trì sự quán chiếu ấy trên đối
tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình; mình sẽ có thái độ ứng xử thích hợp
với chân lý. Ðây không phải là lối nhìn bôi đen đời sống, là lối
nhìn tiêu cực, mà chính là cách nhìn của tuệ nhãn đầy tích cực, nó có
tác dụng mang lại sinh lực cho chúng ta. Con người đau khổ mất mát sinh lực
chính là do nhìn đời ngược lại. Thành tựu các "niệm xứ" như
kinh đã dạy, tức là bước vào Thánh đạo, không có con đường nào khác.
Nhãn quan của đạo Phật về cuộc đời quá rõ như kinh Kim cương dạy:
" Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán".
Bài III
I. Chánh Văn
Ðệ nhị giác tri
Ða dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ hai giác ngộ rằng ham muốn
nhiều thì đau khổ nhiều. Những nỗi khốn khổ trong cõi sanh tử
đều do tham dục mà sanh. Người ít ham muốn, không tạo tác (nghiệp bất
thiện) nên thân tâm được tự tại.
III. Giải Thích Nội Dung
Ðiều giác ngộ thứ hai nói về nguồn
gốc đau khổ là do tham dục. Tham nhiều thì khổ nhiều, người ít tham
dục thì không bôn ba tìm kiếm, không tạo nghiệp bất thiện, không
bị các đối tượng của dục hay ngoại duyên chi phối nên được thảnh thơi,
thoải mái, an vui.
Ðiều này nói lên một chân lý: Khổ
và điều kiện sanh ra khổ, đó là lòng ham muốn nhiều của con
người. Cái khổ do tham là một kinh nghiệm thực tế mà ai cũng kinh qua.
Các đối tượng để mình tham muốn có năm loại tiêu biểu: Tiền
bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, hay nói cách khác, sắc đẹp,
tiếng hay, mùi thơm vị ngon, xúc chạm êm dịu. Tại sao tham muốn các đối
tượng nầy là khổ? Thực ra, khi ta tham muốn các đối tượng ấy là ta sướng
chứ không phải khổ, khổ không bao giờ là đối tượng mong cầu của ai cả. Khổ
có nhiều phương diện:
1. Khổ về cảm thọ hay cảm
giác: sung sướng, hạnh phúc là một cảm giác mà Phật học
gọi là lạc thọ, ngược lại đau khổ cũng là một cảm giác gọi là
khổ thọ. Cả hai loại cảm thọ này thường đi đôi với nhau, đôi khi
chúng làm điều kiện cho nhau: " cái này có nên cái kia có"
vui quá thì sẽ buồn quá " trèo cao té nặng" ... Cảm giác hạnh phúc
và khổ đau là bản chất của tham dục. Khi một đối tượng thích ý có mặt
nó đem đến cho ta khoái cảm, nhưng khi đối tượng ấy thay đổi, không có
mặt nữa nó đem đến cho ta đau khổ, cũng như có thương nên mới có hận,
nếu không thương thì làm gì có thù hận!
Trong Kinh Ðại Khổ Uẩn (Trung Bộ Kinh I),
Ðức Phật dạy: "Bản chất của dục có ba khía cạnh, mà người tu hành cần phải
biết rõ: Vị ngọt của dục, vị đắng của dục và sự giải thoát khỏi
chúng".
Vị ngọt của dục: Các đối tượng tham
dục đem đến cho con người khoái lạc, sung sướng, thích thú. Vì vậy ai
cũng mong cầu tham đắm chúng, những lạc thú này thỏa mãn cảm giác lạc
thọ của các giác quan và bản năng hưởng thụ của con người, làm cho cuộc
sống của con người trở nên thú vị, có ý nghĩa hơn. Sự hấp dẫn của
chúng không dễ thấy được một cách sâu sắc. Có một chuyện ngụ ngôn
Phật giáo kể rằng: " Có một người tử tù vượt ngục, bị các con voi
của vua rượt đuổi phía sau. Trong cơn nguy kịch, anh ta bị rơi xuống một cái
giếng sâu, may thay anh ta nắm được một sợi dây leo khá chắc. Các con voi
đã đến và gầm thét trên miệng giếng. Anh nhìn quanh giếng
thấy có ba con rồng đang há miệng chờ, bốn góc giếng có bốn con rắn
độc đang lăm le chực mổ, nguy hơn nữa là có hai con chuột đang gặm nhấm hai
đầu sợi dây leo mà anh đang bám vào, tình thế tuyệt vọng. Trong
lúc ấy có một bầy ong bay ngang qua, anh ta ngước cổ há miệĩng nhìn, bầy
ong tình cờ làm rơi xuống năm giọt mật ngay miệng anh. "Ôi!
giọt mật ngọt làm sao!" Anh thốt lên. Trong phút chốc anh ta quên
mất sự khốn cùng của mình". Năm giọt mật ấy dụ cho năm dục, nó tạo
nên lạc thú cho con người. Nói chung những gì đem đến hỷ và lạc đó
là vị ngọt của ngũ dục.
Cảm thọ lạc thú có một tính chất nữa
là rất chóng tàn. Khi lạc thọ đã qua đi sẽ để lại tâm hồn ta một
nỗi trống trải, lạc lõng, nó hình thành một nhu cầu, thúc đẩy tái tạo
lạc thọ ấy và chúng ta lên đường tìm kiếm. Nhưng những lạc thọ
đã kinh nghiệm không còn hấp dẫn nữa, không còn "lạc"
nữa, phải
tìm kiếm lạc thú mới, nghĩa là lạc thú có cường độ cao hơn... cứ
thế mà tiếp diễn, rồi nỗi khổ xuất hiện...
2. Khổ vì đấu tranh:
Ðể đạt được các đối tượng lạc thú không phải dễ dàng, phải có sự
mưu tính, nỗ lực, phải tranh đấu, phải hy sinh... mới có được. Trong kinh
Ðại Khổ Uẩn Phật dạy: Vị đắng của dục hay sự nguy hiểm của tham dục
cần phải hiểu rõ rằng:
- Ðể có các đối tượng tham dục,
để thỏa mãn nhu cầu của tham dục, con người phải nỗ lực tìm kiếm
chúng, phải đầu tắt mặt tối, phải vất vả, phải hy sinh... may ra mới có
được những gì mình muốn.
- Những người vất vả như vậy mà vẫn hai
bàn tay trắng không có kết quả gì, thất vọng buồn phiền.
- Có những nguời may mắn hơn, có được
những gì mình muốn nhưng phải lo giữ gìn, sợ hãi sẽ mất mát, hao mòn.
- Do mình có tài sản hay mình muốn tài sản,
lạc thú mà cha con tranh chấp, vợ chồng chia tay, bạn bè hãm hại, anh em
kiện cáo nhau, dối trá lường gạt, hãm hại... xảy ra.
- Do tham dục mà xóm làng, băng đảng, quốc
gia... gây chiến tranh đổ máu, chết chóc... xảy ra cục bộ hay toàn
diện.
Do tham dục mà con người sống như cầm thú,
sát sinh, trộm cắp, tà dâm, ác nghiệp...
Do vậy chết trong đau khổ, đọa vào
đoạ xứ, địa ngục... Ðó là ý nghĩa của kinh văn: "Những nỗi
khốn khổ trong cõi sinh tử đều do tham dục mà sanh".
Người ít dục, ít ham muốn lạc thú thì ít
khốn khổ hơn, được thanh thản thoải mái hơn như trong Kinh Ðại Khổ Uẩn
(sđđ), Ðức Phật dạy là sự xuất ly khỏi dục.
Trước hết, do nhận thức rõ vị ngọt
và sự nguy hiểm của dục nên sự hấp dẫn của chúng không đủ lực để
cuốn hút, chi phối ta nữa. Sau đó trong quá trình quán chiếu tu tập sự an
lạc của thiền hay của pháp sanh khởi, chuyển hướng tư duy của ta và
chuyển hóa bản năng hưởng thụ dục lạc. Nhờ đó, ta xuất ly khỏi tầm ảnh
hưởng của dục. Ðó gọi là thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.
IV. Kết Luận
Ham cầu nhiều thì vất vả,khổ sở
nhiều; đó là quy luật, đó là con đường phàm phu ngu muội. Con người cứ
tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là
họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh
phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra
chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả, như khi
chết chẳng hạn...
Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như
nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục,
ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt,ngọn lửa càng
yếu thì nước sôi sẽ bớt nhiệt độ và hết sôi.Cũng vậy, ngọn
lửa tham dục bớt đi thì đau khổ sẽ giảm, giảm mãi hằng ngày đến lúc
không còn gì để giảm nữa (vô vi) thì sự giải thoát tối hậu được
thành tựu.
Bài IV
I. Chánh Văn
Ðệ tam giác tri
Tâm vô yểm túc
Duy đắc đa cầu
Tăng trưởng tội ác
Bồ Tát bất nhĩ
Thường niệm tri túc
An bần thủ đạo
Duy tuệ thị nghiệp
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ ba giác ngộ rằng tâm ta không
bao giờ biết chán đối với dục lạc, luôn muốn dược nhiều, vì vậy
tội ác tăng trưởng. Bậc Bồ Tát thì không như vậy, họ luôn nghĩ
đến sự biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo, lấy trí
tuệ làm sự nghiệp của mình.
III. Giải Thích Nội Dung
1. Như đã trình bày ở Bài trước, dục lạc
có vị ngọt, sự hấp dẫn nhưng đồng thời nó cũng có vị đắng, sự nguy
hiểm. Sự nguy hiểm ấy chính là không bao giờ thỏa mãn. Vì vậy, không
bao giờ người ta biết dừng lại đối với các lạc thú thế tục. Con
người luôn tìm kiếm lạc thú, những kích thích mới; nó đẩy con người
đi về phía trước một cách mù quáng giống như những con thiêu thân lao
vào ánh lửa. Một người đã bị một lạc thú nào đó hấp dẫn, trở thành mục
tiêu hay lý tưởng của đời mình, như đối tượng là tiền bạc chẳng
hạn, thì lòng họ không bao giờ biết đủ hoặc biết dừng lại. Lòng
tham của họ sẽ là "vô đáy", như một guồng máy đã khởi động
là không ngừng quay cho đến khi nào bị hư hay hết nhiên liệu, đây
là một thực tế tâm lý. Vì vậy tội ác ngày càng nhiều do phải
chiếm đoạt cho được mục đích vô tận ấy.
Xu hướng tìm kiếm lạc thú là xu hướng
chung của loài người, các loài động vật cũng vậy, đó là bản năng thụ
hưởng. Hạnh phúc là từ ngữ văn vẽ của từ lạc thú; hạnh phúc là mục tiêu
của đời sống con người. Những quan niệm về hạnh phúc thông thường
là chiếm hữu càng nhiều càng tốt các đối tượng dục lạc, thỏa mãn
nhu cầu lạc thú của các giác quan mà trong kinh gọi là dục lạc, phàm phu
lạc. Vì nhu cầu hưởng thụ là bản năng nên nó không tự dừng lại được. Có
người đọc câu "Nghĩ đến thân thể đừng cầu không tật
bệnh. Vì không tật bệnh thì tham dục dễ sanh", ở trong luận Bảo
Vương Tam Muội, người ấy cho rằng đối trị tham dục bằng cách cứ để cho
tật bệnh rề rề như vậy không cần chữa chạy dứt điểm. Họ
quên rằng dù bệnh nặng tham dục vẫn tồn tại, chẳng qua "lực bất tòng
tâm" mà thôi.
Làm sao dừng lại được lòng tham dục? Phải
nỗ lực tu tập, phải "rèn luyện" mà thôi. Kinh Trung Bộ đưa ra
công thức: "Nhàm chán đưa đến ly tham, ly tham đưa đến đoạn
diệt, đoạn diệt đưa đến Niết Bàn". Vậy để dừng lại
tham dục phải có thái độ nhàm chán. Bằng cách nào để được nhàm chán?
Ðể giải quyết vấn đề, Ðạo Phật đưa ra tám vạn bốn ngàn pháp
môn. Do vậy, có người cho rằng Ðạo Phật là đạo diệt dục, khô khan.
Ðạo Phật chủ trương diệt dục nhưng dục ở đây là tham dục, dục
vọng vị kỷ không phải dục hướng thượng, thiện dục hay pháp dục.
Vấn đề nhàm chán trước hết tùy thuộc vào năng lực quán chiếu,
thấy rõ bản chất của dục, sự nguy hiểm và không đáng kể về giá
trị của chúng, một số phương pháp cụ thể được đưa ra ở trong kinh
Nhất Thiết Lậu Hoặc, An Trú Tầm... nhờ quán thấy rõ mà đoạn trừ mầm
móng tư duy bất thiện: Dục, sân, si. Sau đó là sự gần gũi, tu tập trong
chánh pháp phát triển xu hướng ngược lại của thói thường như trong kinh
văn gọi là "Thường niệm tri túc".
2.Vì biết rõ sự nguy hiểm của dục
lạc và lòng ham muốn vô tận là cội nguồn sanh tử nên các bậc Bồ tát không
nghĩ, không làm theo thói thường của phàm phu mà làm ngược lại. Bồ
Tát là
chữ viết tắt của Bồ Ðề Tát Ðỏa (Bodhisattva). Nghĩa là chúng sanh
giác ngộ (Bodhi: sự giác ngộ, trí tuệ, Sattva: chúng sanh). Người giác ngộ
gọi là Bồ tát (Hữu tình giác) và làm cho chúng sanh giác ngộ gọi là
Bồ tát (Giác hữu tình). Bồ tát là người giác ngộ nên thấy rõ qui luật của
hạnh phúc và khổ đau rằng tham muốn nhiều thì tội ác tăng trưởng, khổ
đau có mặt; ít ham muốn, biết đủ thì trí tuệ tăng trưởng, hạnh
phúc có mặt...
Người biết đủ là biết hài lòng
với những gì mình có được, đó là hạnh phúc và giàu có nhất trên cõi
đời nầy. Người giàu có là người thỏa mãn sung sướng. Ngược lại người
nghèo là người luôn thiếu thốn, khao khát, người không biết đủ luôn
luôn thiếu thốn khao khát, luôn tìm kiếm nên họ là người nghèo,
cho dù tài sản của họ nhiều đến đâu đi nữa. Giàu hay nghèo,
thiếu hay đủ, chỉ trong một ý niệm mà thôi. Trong kinh Di Giáo Phật
dạy: "Tri túc giả tuy ngọa địa thượng do vi lạc, bất tri túc giả tuy
xử thiên đường diệc bất xứng ý" (Người biết đủ dù nằm ở
trên đất cũng thấy an lạc, còn người không biết đủ dù được ở thiên
đường cũng không vừa ý).
- Người giác ngộ (Bồ tát) hay là người
Phật tử không có nghĩa là người hoàn toàn vô dục, vô cầu. Vô dục,vô cầu
là đối với dục lạc phàm phu vị kỷ, tác hại đưa đến đau
khổ.Người Phật tử hướng tâm mong cầu của mình về tha nhân và về
pháp mà kinh Trung Bộ gọi là Thánh cầu (Dhamma-chanda) kinh văn nầy gọi
là Duy Tuệ Thị Nghiệp. Kinh Thánh Cầu, Phật dạy: "Cầu cái không
sanh, không già, không bệnh, không chết, không sầu, không ô
nhiễm". Ðó là sự mong cầu của Bồ tát hay của các bậc Thánh nhân, các
đệ tử của Ðức Phật.
- Tại sao tu hành là: "An bần thủ
đạo"? Phải chăng đạo Phật muốn bần cùng hóa xã hội nhân sinh? Dĩ
nhiên là không. Mục tiêu của đạo Phật là đời sống an lạc và hạnh phúc
chân thật chứ không phải là đời sống giàu hay nghèo. Chấp thủ vào, bám víu
vào những cái gì mà bản chất chúng là vô thường, vô ngã thì chắc chắn sẽ
gặt hái khổ đau. Lòng tham là đầu mối của các bám víu, vướng mắc như
vậy, cho nên rũ bỏ đi lòng tham vô độ thì đời sống của ta và của người
mới nhẹ nhàng, thanh thản, mới có hạnh phúc. Vậy một người nghèo mà tham
đắm nhiều thì sẽ khổ vô cùng, còn một người giàu mà ít tham đắm thì
vẫn hạnh phúc, thanh thản như thường.
- Mặt khác sống đạm bạc để hành đạo
dễ hơn là sống với nhu cầu hưởng thụ cao."Giàu sang học đạo là
khó" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thật vậy, khi mình có quá nhiều nhu
cầu không chán thì phải hướng tâm tìm kiếm, phải đầu tư ý chí,
tình cảm, sức khỏe, trí khôn và thời gian để đạt được những gì mình
cầu mong. Như vậy, con người ta bị nô lệ cho dục vọng, bị cuốn hút
vào hướng đi và mục tiêu vô bổ. Trái lại, biết tri túc an phận thanh
bần để có thì giờ, sức lực, ý chí làm giàu đời sống tâm linh,
đời sống trí tuệ. Hướng đời mình vào hướng đi thánh thiện và
siêu thoát, chỉ có trí tuệ mới đáp ứng cho nhu cầu và hướng đi ấy nên
gọi là Duy Tuệ Thị Nghiệp.
IV.Kết Luận
Có hai con đường mà ta phải chọn lựa:
Một là lao đầu vào đời sống thế tục tìm kiếm lạc thú và đương
nhiên hưởng thụ cả đau khổ, con đường đó được làm bằng dục vọng và
tội lỗi. Hai là con đường xuất thế siêu thoát lên trên mọi cám
dỗ dục lạc, thành tựu những an lạc siêu thế, chấm dứt khổ đau, con
đường nầy được làm bằng tri túc và trí tuệ, đấy là con đường của
đệ tử xuất gia, của người tu sĩ Phật giáo, đây là con đường của
người cư sĩ thực hành Bồ tát hạnh.
Bài V
I. Chánh Văn
Ðệ tứ giác tri
Giải đãi trụy lạc
Thường hành tinh tấn
Phá phiền não ác
Tồi phục tứ ma
Xuất ấm giới ngục.
II. Dịch Nghĩa
-Ðiều thứ tư giác ngộ rằng lười
biếng sẽ đưa đến sa đọa. Vì vậy nên thường tinh tấn tu tập
để phá giặc phiền não, hàng phục bốn loài ma, vượt thoát ngục tù
của năm ấm và ba cõi.
III. Giải Thích Nội Dung
Ba điều đầu của tám điều giác ngộ
trang bị cho hành giả khả năng nhận thức về bản chất thế giới
(điều1), chỉ cho hành giả thấy rõ nguồn gốc của đau khổ là tham dục
(điều 2) và con đường khởi hành là tri túc, khai mở trí tuệ
(điều 3). Ðến bây giờ điều thứ tư, chính là sự dấn thân thực
hiện hành trì. Biết mà không làm thì cũng như không biết, học
mà không hành thì không có kết quả thực tiễn.
Nhận thức là bước đầu, sự thấy biết
một cách sâu sắc và triệt để về thiện và bất thiện,
về phàm phu và Thánh đạo sẽ tạo cho tâm thức hành giả một ước
vọng: Ước vọng đạt đến mục tiêu giải thoát. Ước vọng nầy
kích thích hành động để hướng dẫn hành động, tức là sự nỗ lực
hành trì..Sự tu tập hành trì có kết quả hay không, nhanh hay chậm tùy
thuộc vào nhân duyên mà hành giả có được, nhân duyên chủ yếu là ý
chí nỗ lực, kinh gọi là Tinh Tấn.
Tu tập là một quá trình, đòi hỏi duy trì
ước muốn và nỗ lực thường xuyên, như giọt nước tuy yếu nhưng
cứ nhiễu giọt không ngừng có thể làm thủng một tảng đá. Tảng đá
trong tâm ta là một nền tảng vô minh phiền não đã được kết tụ
rất lâu ngày. Vì vậy, chỉ cần thiếu nỗ lực nhiệt tâm trong một
khoảng thời gian ngắn nào đó, trong khoảng không gian, hoàn cảnh nào đó là
có thể làm đổ vỡ toàn bộ công trình mà ta đã xây dựng hoặc ít nhất
cũng làm chậm bước tu tập của mình. Nên Kinh văn gọi là "lười
biếng sẽ đưa đến đọa lạc".
Lười biếng nghĩa là lười biếng làm
điều thiện, biết đó là điều tốt mà không thực hiện,
hoặc thực hiện mà không đến nơi đến chốn, nửa vời... Ðọa
lạc có nghĩa là rơi xuống hoặc thối lui, rơi xuống chỗ thấp kém hèn hạ
của phàm phu, thối lui tức có tiến bộ trong tu tập mà không giữ được
thành quả, không phát huy thành quả ấy được.
Người tu hành như là một chiến sĩ ra
mặt trận chiến đấu với giặc phiền não. Phiền não được gọi
là giặc vì chúng có khả năng tàn phá và gieo rắc đau khổ cho cuộc đời của
chính mình và tha nhân. Tham lam, sân hận, si mê.... là những phiền não có
hoạt động rộng và có lực lượng rất mạnh mẽ, nổi có chìm có, khả năng
biến hóa ẩn tàng khó phát hiện và rất khó đối phó. Thấy được
chúng là một chuyện, biết chỗ ẩn trú của chúng là một chuyện
khác và thắng nó hay tiêu diệt được nó lại là một chuyện khác nữa.
Vì vậy mà nội dung của tinh tấn được coi là Tứ Chánh Cần, tức là bốn
phương diện tinh tấn:
1. Nỗ lực đoạn trừ các điều ác
chưa sinh tức chúng còn trong trứng nước, chưa được sanh ra.
2. Nỗ lực đoạn trừ các điều ác
đã sanh, không cho chúng phát triển.
3. Nỗ lực thực hành, khơi dậy các
điều thiện chưa sinh được sinh ra.
4. Nỗ lực thực hành, phát huy các
điều thiện đã được tăng trưởng.
Bốn khía cạnh của tinh tấn là những sách
lược để chiến thắng. Một mặt kiềm chế, phát hiện và tiêu
diệt giặc phiền não; một mặt nhận chân thúc đẩy, hỗ trợ cho các
thiện pháp xuất hiện và tăng trưởng. Như vậy, trước hết là chặn
đứng sự bành trướng của phiền não, sau đó quân bình lực lượng giữa
trí tuệ và phiền não; cuối cùng phát triển khả năng và sức mạnh
trí tuệ để chiến thắng giặc phiền não.
Bất cứ một công việc gì, một công
trình gì, một pháp môn tu tập nào đều phải có sự nỗ lực cần
thiết và đủ để đưa đến thành công. Trên con đường tu tập
đoạn trừ các phiền não và phát triển các hạnh lành, tinh tấn là một
yếu tố quan trọng. Tính chất của tinh tấn là một năng lực tổng hợp
giữa sự thấy biết, ước muốn và chánh niệm tỉnh giác. Mục đích của
tinh tấn ở đây nói rõ, đó là đoạn trừ giặc phiền não, hàng phục bốn
loài ma, thoát khỏi ngục tù của năm ấm ba cõi.
Giặc phiền não là những tâm lý ô
nhiễm bất thiện, có loại thuộc bản năng tiềm ẩn, có loại thuộc mới
huân tập, mặt nổi. Căn cứ của giặc phiền não là vô minh và chấp ngã.
Bốn loài ma: Ma là những gì làm chướng
ngại sự tu tập.
a. Phiền não ma: Chính là giặc
phiền não, khi ma này xuất hiện thì đau khổ, rối loạn tăng trưởng,
thiện pháp tổn giảm.
b. Ngũ ấm ma: Do chấp thủ sai lầm
về thân thể, bị các nhu cầu bất thiện của thân thể lôi cuốn,
chi phối mà ta làm cho các ác pháp tăng trưởng, thiện pháp tổn giảm. Do
chấp thủ các cảm thọ sung sướng, ghét bỏ các cảm thọ đau khổ và
không tỉnh giác với cảm giác thọ không khổ, không vui mà tâm ta bị dẫn
dắt, bị đẩy vào vòng cương tỏa của chúng làm cho tâm bất an, ác pháp tăng
trưởng, thiện pháp tổn giảm. Do chấp thủ, vướng mắc vào khái niệm,
tư duy, thành kiến, sai lầm, tức là bị tưởng ấm chi phối làm ngăn che sự
sáng suốt của trí tuệ; do vậy các tưởng bất thiện sinh, trí tuệ
tổn giảm. Do chấp thủ, vướng mắc vào sự hoạt động thầm kín, tức động lực
tâm lý như tham lam, sân hận... tạo thành xu hướng nội tâm làm cho ác
pháp tăng trưởng, thiện pháp khó sanh. Do sự qui định và hạn chế của
tâm thức vốn chất chứa năng lực của cảm thọ, tư duy, ý chí bất
thiện ô nhiễm mà ta không có cơ hội để tăng trưởng thiện pháp.
Giải thích về ngũ ấm ma, có thể
hiểu hai phương diện: Chủ quan và khách quan. Chủ quan nghĩa là do sự
chấp thủ, sự vướng mắc của nhận thức về năm ấm mà cản trở sự hiểu
biết rõ về bản chất của chúng. Khách quan là chính năm ấm ấy tạo ra
năng lực chướng ngại cho sự giác ngộ như câu nói "hữu thân hữu
khổ". Cả hai mặt nầy bao gồm trong nghĩa ngũ ấm ma.
c. Tử ma: Là một loại chướng ngại
đưa đến chấm dứt sinh mệnh của con người, làm cho công trình tu tập
dang dở hoặc không tu tập được. Như vậy những gì được coi là tử ma? Có
thể đó là quỉ sứ yêu tinh tác họa, đó là bệnh tật hiểm
nghèo, những tai nạn, có thể đó là những thế lực hữu hình hay vô
hình nào đó. Tóm lại, những gì đưa đến chấm dứt sinh mệnh một
cách bất thường thì gọi là tử ma.
d. Thiên ma: Ðây là một loài ma
đặc biệt và siêu hình, còn gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương Ma hay
Ma-Vương-Ba-Tuần, chỉ cho thế lực siệu nhiên trong vũ trụ tạo lực cản
đối với một người sắp sửa giác ngộ, sắp vượt thoát khỏi sự cương tỏa
của ma giới.
Thoát khỏi ngục tù của năm ấm ba cõi: Năm
ấm đã giải thích. Ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Ba cõi được
coi là ngục tù, là nhà lửa. "Tam giới vô an du như hỏa trạch", là
những trói buộc giam hãm của dục và ái. Dục giới là nơi chúng sanh bị trói
buộc bởi sự tham dục, dục lạc của giác quan. Sắc giới là nơi chúng sanh bị
trói buộc bởi các ái nhiễm của thọ lạc vi tế. Vô sắc giới là nơi
chúng sanh bị trói buộc bởi sự ái nhiễm về tưởng. Dục hay ái đều
cùng một bản chất và cùng tác dụng trói buộc chúng sanh gắn chặt với dòng
sanh tử vô tận. Vì vậy, tinh tấn rất quan trọng, nó sẽ là sức mạnh
để vượt qua từng cửa ái hoặc từng giai đoạn tu tập. Nếu vượt qua
được các từng cấp của dục giới thì sẽ rơi vào sắc giới ...tiếp tục
tinh tấn sẽ vượt thoát trói buộc của ba cõi.
IV. Kết Luận
Sự tu tập cũng như chèo thuyền ngược
nước không chèo là bị dừng lại và thối chuyển, tinh tấn là một đức
tính cần thiết cho sự chèo con thuyền Bát Nhã vượt biển sanh tử.
Ðã là một đức tính thì cũng cần phải tu tập: Tinh tấn tu tập hạnh tinh
tấn, không có cái gì tự có hoặc ngẫu nhiên. Tất cả đều tuân thủ các
quy luật nhân quả, nghiệp báo, duyên sinh. Nhân như thế nào, duyên như
thế nào, thì quả báo như thế ấy.
Hạt nhân hay chủng tử vô minh chấp ngã
phiền não đã được tích lũy nhiều đời, có sức mạnh rất lớn, không
dễ đoạn trừ. Các loại phiền não, bốn ma, năm ấm, giới đều nằm trong
đó. Chánh kiến nhận thức được bản chất, chỗ trú ẩn của chúng rồi
mới dùng trí tuệ, tinh tấn đoạn trừ chúng. Những khả năng ấy cũng
đều nằm trong tâm thức. Tinh tấn là khai thác triệt để khả năng
ấy.
Bài VI
I. Chánh Văn
Ðệ ngũ giác ngộ
Ngu si sinh tử
Bồ Tát thường niệm
Quảng học đa văn
Tăng trưởng trí tuệ
Thành tựu biện tài
Giáo hóa nhất thiết
Tất dĩ đại lạc.
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ năm giác ngộ rằng: Do vô minh
mà bị trôi dạt trong ba cõi sanh tử. Vì vậy các vị Bồ Tát thường nhớ rằng
cần phải học rộng, nghe nhiều, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu khả
năng biện tài để giáo hóa cho tất cả mọi người đều đạt
được hạnh phúc chân thật.
III. Giải Thích Nội Dung
- Ðiều giác ngộ thứ năm nói đến
sự quan trọng của trí tuệ trong vấn đề tu tập và trong công cuộc
hóa độ chúng sanh. Trí tuệ cũng là khả năng quán chiếu để thấy
rõ nguồn gốc của đau khổ phàm phu là do tham dục, mong cầu nhiều, để
chấm dứt đau khổ ấy phải tu tập hạnh ít muốn, biết đủ và trí tuệ.
Ý nghĩa này đã được đề cập ở điều một, hai, ba.
Trí tuệ trong điều năm này có phạm
vi và tác dụng lớn hơn:
1. Trí tuệ là sự thấy rõ nguồn gốc của
sinh tử, nguồn gốc của sinh tử là vô minh. Ðau khổ của cuộc đời có mặt là
do tham lam, sân hận; tham lam, sân hận có mặt là do ngu si. Ngu si đồng nghĩa
với vô minh, cho nên cần phải rõ nguồn gốc của mọi thứ trên dòng sanh tử
luân hồi là do vô minh.
Vô minh là gì? Chính là sự không hiểu
rõ cuộc đời là vô thường, vô ngã, duyên sinh, không hiểu rõ khổ,
nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến khổ
diệt; không hiểu rõ lậu hoặc, nguyên nhân của lậu hoặc, sự đoạn trừ
lậu hoặc và con đường đưa đến sự đoạn trừ lậu
hoặc... Ðó là định
nghĩa về vô minh một cách căn bản và truyền thống. Vậy thì ta
hiểu rõ các nguyên lý trên nhờ học tập, nhờ tu tập quán chiếu
về đặc tính vô thường, vô ngã... Vô minh có chấm dứt hay không? Chưa
thể chấm dứt vô minh hoàn toàn được. Bởi lẽ vô minh là một động lực
tâm lý mù quáng thuộc bản năng, đó là tập khí được tích lũy qua
nhiều kiếp sống. Vì vậy nó có cội nguồn rất sâu trong tạng thức của
chúng sinh. Có khi ta biết rằng việc ấy là bất thiện, là không nên
làm nhưng ta vẫn cứ làm, không đủ sức cưỡng lại. Hình như nó có một sức
mạnh tiềm ẩn nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta. Ðấy là vô minh.
Vô minh đã được tích lũy, nay nó chỉ
biểu hiện ra những gì mà chúng vốn có. Tham dục, sân hận là biểu
hiện của vô minh, càng phát triển tham sân thì lực lượng vô minh càng
được củng cố vun bồi và nó tiếp tục có sức mạnh để biểu
hiện trong tương lai. Vì vậy, để chặn đứng dòng chảy của vô minh,
Ðức Phật dạy hãy khơi dậy, phát triển cái "minh", cái vô si có
trong mỗi người. Vô tham, vô sân, vô si là những động lực tích cực có
thể chặn đứng sự phát triển của vô minh. Ðể phát triển
được "minh", con người cần phải được giáo dục để kiềm
chế bản năng, để nâng cao nhận thức. Như vậy, giáo dục là con
đường đưa đến "minh". Bồ Tát là người giác ngộ nên biết
rất rõ quy luật đưa đến "minh", đó là "học rộng nghe
nhiều". Trong kinh Kitagiri (Kinh Trung Bộ Quyển II ) Ðức Phật dạy 14
giai đoạn tu tập đưa đến minh như sau:
1) Có lòng tin vào bậc Ðạo sư: Bước đầu
của lộ trình tu tập cần phải nương tựa vào một bậc Ðạo sư, bậc Ðạo sư
ấy mình đã biết và tin tưởng rằng có khả năng giúp mình khai mở trí
tuệ. Có lòng tin mình mới an tâm qui hướng về Ðạo sư ấy.
2) Ðến gần: Phải đến gần gũi với
vị Ðạo sư ấy mình mới có cơ hội tiếp nhận những gì cần thiết.
3) Tôn kính: Tỏ lòng tôn kính Ðạo sư,
phục vụ chăm sóc hầu hạ bậc Ðạo sư những gì cần thiết, bày tỏ thành
tâm của mình trên con đường tu học.
4) Lắng nghe: Là thái độ thành khẩn
thiết tha trong học tập, sẵn sàng lắng nghe bất cứ điều gì từ bậc
Ðạo sư. Với thái độ sẵn sàng như vậy, bậc Ðạo sư sẽ sẵn sàng dạy.
5) Nghe pháp: Ðây là giai đoạn bước vào
thế giới Phật pháp, những điều bậc Ðạo sư dạy luôn được nghe với
sự phấn khởi cần mẫn.
6) Thọ trì pháp: Nhờụ nghe một cách
phấn khởi thích thú ta sẽ nhớ những gì được nghe một cách đầy đủ.
7) Suy tư ý nghĩa: Là sự thọ trì
một cách đầy đủ lời dạy của bậc Ðạo sư. Qua đó, ý nghĩa sâu sắc
của lời dạy dần dần hiển lộ bởi sự suy tư của mình, càng suy tư ý
nghĩa càng sáng.
8) Chấp nhận học pháp: Sau khi suy tư
hiểu rõ nghĩa lý, tâm không còn thắc mắc chống đối, tâm thuận theo
pháp, chấp nhận học pháp ấy. Ðến đây, tư tưởng đã thông suốt.
9) Ước muốn sanh khởi: Sau khi chấp nhận
học pháp rồi, niềm hoan hỷ sẽ khởi lên trong tâm, tâm muốn dấn
thân thực hiện các học pháp ấy, muốn thực hành.
10) Nỗ lực hành trì: Do ước muốn khởi
lên nên tâm nỗ lực hành trì pháp mà Ðạo sư đã dạy để tự mình
đạt được những gì đã thông suốt trong lý thuyết.
11) Cân nhắc: Nỗ lực nhưng không bị mù
quáng, bởi sự xác quyết trong quá trình thực hành sẽ nảy sinh những mâu
thuẫn, lệch lạc. Ta cần phải tỉnh táo để cân nhắc suy xét để
tìm ra đường lối thích hợp nhất.
12) Tinh cần tu học: Sau khi vừa học,
vừa làm, vừa cân nhắc đã đầy đủ, con đường đã ổn định, sự phát
triển hướng đi bằng sự tinh tấn không gián đoạn sẽ có kết quả tốt.
13) Tự thân chứng sự thật: Với sự tinh cần
trên, ta sẽ đạt được kinh nghiệm tự thân về thực tại vô ngã,cảm
nhận được pháp vị giải thoát.
14) Trí tuệ thể nhập sự thật: Ðạt
được trí tuệ viên mãn, thành tựu giải thoát hoàn toàn.Nghĩa là "
minh" sanh, " tuệ" sanh, chấm dứt sanh tử luân hồi.
Thành tựu được trí tuệ tối thượng
bằng " quảng học đa văn" qua 14 giai đoạn như trong kinh Kitagiri
đề cập thì mới thật sự hữu hiệu. Có người học Phật vì nghĩ
rằng cần "quảng học đa văn" nên lao đầu vào học tập, môn
nào cũng học, trường nào cũng học, ai nói gì cũng nghe, thâm nhập
rất nhiều tư liệu gọi là "kiến văn quảng bác" nhưng
phiền não không vì vậy mà được đoạn trừ. Ðây là một sự hiểu lầm
tai hại, cả cuộc đời phung phí cho kiến thức bao la của thế gian.
2. Tác dụng của trí tuệ đặc biệt ở
chỗ giáo dục mọi người đạt được hạnh phúc trong cuộc sống mà kinh
văn gọi là "Thành tựu được biện tài để giáo hoá tất cả
đều được an lạc". Trí tuệ biện tài là một khả năng bén
nhạy về mặt lý luận để nhiếp phục tha nhân. Con người cảm
nhận, tiếp nhận thế giới qua âm thanh ngôn ngữ, do đó giáo dục chủ
yếu vẫn là ngôn ngữ, khả năng thuyết phục của ngôn ngữ rất cao làm
cho con người chấp nhận, hiểu biết và thực hành theo chánh đạo. Kinh
tạng Nikàya đưa ra bốn pháp Vô ngại giải. (Patisambhidà) là Nghĩa vô ngại
giải, Pháp vô ngại giải, Từ vô ngại giải, Biện tài vô ngại giải. Kinh
tạng Ðại thừa cũng có bốn pháp biện tài: Pháp vô ngại biện tài,
Nghĩa vô ngại biện tài, Từ vô ngại biện tài và Nhạo thuyết vô
ngại biện tài.
a. Pháp vô ngại biện tài: Là
thông suốt hệ thống tư tưởng Phật học, pháp môn nào cũng thông
suốt, cũng hiểu nguyên tắc, đường lối của pháp môn ấy.
b. Nghĩa vô ngại biện tài:Ý nghĩa
sâu xa của Kinh - Luật - Luận đều hiểu thấu, dù lời lẽ cổ xưa, phương
thức diễn đạt không hiện đại, thuật ngữ khó hiểu, nghĩa là hiểu
được ý tứ của bất cứ pháp nào.
c. Từ vô ngại biện tài: Hiểu
biết phong phú về từ ngữ để diễn đạt tư tưởng, từ ngữ chuyên
môn của các lĩnh vực khác nhau và hiểu được các loại ngôn ngữ khác
nhau.
d. Nhạo thuyết vô ngại biện tài:
Khả năng diễn đạt hấp dẫn dễ thuyết phục, phù hợp với căn cơ, trình
độ văn hoá, phong tục tập quán của con người và xã hội, làm cho người nghe
vui vẻ và chấp nhận.
Một người có được khả năng trí tuệ
biện tài như vậy là một ngôi sao sáng ngời giữa bầu trời Phật pháp.
Họ sẽ đem đến lợi ích rất lớn cho nhiều người, cho nhiều
quốc độ khác nhau, Phật pháp đuợc truyền rộng, và hạnh phúc mà Phật
pháp đem đến cho người tiếp nhận chính là niềm hạnh phúc chân
thật nhất.
IV. Kết Luận
Vô minh là cội nguồn của sanh tử, của đau
khổ. Chấm dứt vô minh là mục tiêu của đạo Phật và của người đệ tử
Phật. Con đường để đoạn trừ được vô minh là con đường phát
triển trí tuệ, tức là làm cho "minh" xuất hiện thì "vô minh diệt". Trí tuệ có được là qua quá trình học tập
biết nhiều qua văn huệ, tư huệ, tu huệ. Nhờ học rộng
biết nhiều mà thành tựu được khả năng trí tuệ biện tài tức
là hiểu biết và lý luận sắc bén.Nhờ vậy mà giáo hóa được
nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhiều quốc độ khác nhau. Phật pháp
được gieo rắc rộng rãi, sự hạnh phúc mọi loài chúng sanh được phổ
cập.
Trí tuệ trong Bài giác ngộ thứ năm nầy
là trí tuệ đi vào lĩnh vực chuyên môn, nghĩa là phát huy tác dụng độ
sanh, tác dụng giáo dục để thành đạt mục đích phổ cập hóa Phật pháp
vào đời sống con người và xã hội.
Bài VII
I. Chánh Văn
Ðệ lục giác tri
Bần khổ đa oán
Hoạnh kết ác duyên
Bồ tát bố thí
Ðẳng niệm oán thân
Bất niệm cựu ác
Bất tắng ác nhân.
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ sáu giác ngộ rằng sự nghèo
khổ sinh ra oán hận, tạo thêm duyên nghiệp bất thiện. Vì thế, Bồ
tát cần thực hành hạnh bố thí một cách bình đẳng giữa kẻ ghét với người
thương. Hãy quên đi những điều xấu ác mà họ đã gây cho mình,
không nên ghét bỏ những người ác.
III. Giải Thích Nội Dung
Ðiều giác ngộ thứ sáu nói về công
hạnh bố thí của người tu Bồ tát hạnh. Bài nầy có hai ý.
1. Hiểu rõ cái vòng lẩn quẩn
của người nghèo khó: Do nghèo nên con người dễ sinh ra bất mãn,
ganh tỵ, hận thù. Ðối với bản thân, họ không hài lòng với chính
mình, tâm lý xáo trộn bất an. Ðối với gia đình vợ con họ quạu
cọ không vui, dễ sân hận vì họ cảm thấy mình không đủ tài, không
được coi trọng, dễ gây đổ vỡ tình cảm. Ðối với bạn bè xóm giềng,
họ tự ty hoặc nghi ngờ và sanh tâm đố kỵ, ganh tỵ. Nói chung,
họ bất mãn và không có niềm tin vào cái thiện, cái chân. Do vậy,
cái nghèo dễ đẩy con nguời vào con đường tội lỗi, làm các việc bất
thiện để mau giàu. Họ vi phạm luật pháp, đánh mất nhân cách,
đạo đức... Vì vậy, cuộc đời của họ càng khốn đốn hơn, càng khốn
đốn họ càng bất mãn oán hận... Ðó là cái vòng lẩn quẩn của con người
bị cái nghèo khó bức bách.
Người thực hành hạnh Bồ Tát quán chiếu
thấy rõ sự nghèo khó sẽ dẫn con người đến phạm tội, sẽ đưa xã hội
vào sự bất an. Ðức Phật đã từng nêu lên thực trạng ấy rằng: "Do nghèo
khổ mà trộm cướp bạo hành, giết hại, dối trá tăng trưởng làm cho băng
hoại xã hội" (Kinh Trường Bộ: Chuyển Luân Thánh Vương và Sư Tử
Hống). Ngài đã từng khuyên các vị vua cai trị không nên dùng hình phạt độc
ác với ý nghĩa rằng nhờ đó mà trộm cắp cướp giật được diệt trừ.
Ngài dạy rằng: " Những người nào có khả năng về nông nghiệp,
chăn nuôi hãy cấp cho họ thực phẩm và thực vật; người nào có khả năng
về thương nghiệp thì cấp cho họ vốn đầu tư; người nào có khả
năng về quan chức thì cấp cho họ thực phẩm và lương bổng... tuỳ theo
khả năng ngành nghề chuyên môn mà ban cho họ cái cần thiết...
họ sẽ chuyên tâm vào công việc của mình, có phương tiện để
sống nên không còn phạm tội quấy nhiễu trị an mà còn đóng góp vào ngân
sách quốc gia" (Trường Bộ Kinh, Kutadanda). Ðể cho sự nghèo khổ giảm
bớt áp lực, để cho tâm tư của người nghèo được an ổn và để cho
xã hội được bình an thịnh vượng, Bồụ Tát phát nguyện thực hành bố
thí, nghĩa là bố thí tiền bạc, vật chất an ủi phần nào nỗi đau của
sự nghèo khó. Chúng ta có thể thấy rằng đây là một công hạnh tu tập mà
phần lớn là khả năng của người Bồ Tát tại gia, tức người Phật tử cư sĩ.
Có thể chúng ta có một cách lý giải
khác rằng: Nghèo khổ ở đây là nghèo về đạo đức, nghèo về trí
tuệ. Do vậy phiền não tham hận thù sinh ra, các ác nghiệp được
nối kết. Thế nên Bồ Tát phải thực hành pháp thí làm cho mọi
người được mở con mắt trí tuệ thấy được chân lý, đoạn tận
nghiệp duyên bất thiện. Nghèo tinh thần, nghèo trí tuệ sẽ đưa
đến phiền não sanh trưởng và nghiệp ác sẽ phát sinh. Bố thí ở
đây là pháp thí, đây là khả năng của Bồ Tát xuất gia. Tuy vậy ý nghĩa
của điều giác ngộ thứ sáu này nặng về hạnh bố thí tài vật, mà
hạnh nầy hợp với sở trường của người cư sĩ tại gia hơn là xuất gia. Trong
Ðại Trí Ðộ Luận nói: "Như Ðức Phật dạy: Ở đời có hai hạng
người khó được: một là trong hàng xuất gia, vị Tỳ Kheo được phi thời giải
thoát; hai là trong hàng tại gia, kẻ bạch y thường hành bố thí thanh
tịnh".
2. Bố thí bình đẳng:
Tức là bố thí với tâm vô chấp, tâm vị tha và tâm giải thoát. Thường thì
người bố thí có tâm phân biệt người mình thương hay người dễ thương,
mình sẽ đối xử rộng rãi hơn, mau mắn hơn; còn người dễ ghét hay người
nghịch với mình, có thể mình cũng cho nhưng có giới hạn hơn, ít hoan
hỷ hơn. Thái độ bố thí của Bồ tát không phân biệt như vậy mà bố
thí với tâm bình đẳng, vô chấp gọi là bố thí Ba la mật. Trong
Ðại-Trí-Ðộ-Luận, Bố thí Ba la mật là: "Nếu bố thí còn có ba thứ
chướng ngại chấp có ta cho, người kia nhận và tài vật bố thí thì rơi vào
cảnh giới ma, chưa lìa khỏi các nạn. Còn như Bồ tát bố thí cả ba thứ
đều thanh tịnh không chướng ngại thì được chư Phật khen ngợi, gọi
là Ba-la-mật" (ÐTÐL - trang 467 của HT Thiện Siêu dịch).
Bố thí mà tâm không bình đẳng, bị các
phiền não sai sử như thương, ghét, giận tức hay vui buồn thì bố thí rất
hạn chế, kết quả không cao và không phù hợp với con đường giải
thoát và chí nguyện độ sanh. Bố thí như vậy gọi là bố thí không
thanh tịnh. Theo Ðại-Trí-Ðộ-Luận bố thí không thanh tịnh là: "Hàng ngu
si bố thí mà không hiểu gì; hoặc vì cầu tài nên bố thí; vì sợ hiềm
trách nên bố thí; vì sợ sệt nên bố thí; hoặc vì muốn cầu ý người
nên bố thí; hoặc sợ chết nên bố thí; hoặc dối người làm cho họ
mừng nên bố thí; hoặc tự cho giàu sang nên bố thí; hoặc tranh hơn nên bố
thí; hoặc ganh ghét sân si nên bố thí; hoặc kiêu ngạo tự cao nên bố thí;
hoặc vì danh dự nên bố thí; hoặc vì chú nguyện nên bố thí; hoặc vì
giải trừ suy hoại cầu tốt lành nên bố thí; hoặc vì qui tụ đông người nên
bố thí; hoặc vì khinh hèn không cung kính nên bố thí. Cách bố thí như vậy
gọi là bố thí không thanh tịnh"(sđd T443). Quan điểm về bố
thí thanh tịnh thì ngược lại các điều trên, bố thí như vậy có ý
nghĩa rất cao dựa trên nguyên lý Không-VôTướng-Vô nguyện.
Trong kinh tạng Nguyên thủy, các động cơ bố
thí cũng được đề cập đến tương tự như trên:
1) Vì có người đến (đông đảo) nên
bố thí.
2) Vì sợ hãi nên bố thí.
3) Vì nghĩ rằng "nó đã cho ta" nên bố thí.
4) Vì nghĩ rằng "nó sẽ cho ta" nên bố thí.
5) Vì nghĩ rằng "Bố thí là tốt lành" nên bố thí.
6) Vì nghĩ rằng "mình giàu có, người kia nghèo thật không xứng đáng
nếu không cho" nên bố thí.
7) Vì nghĩ rằng "do ta bố thí mà tiếng tốt được truyền đi
xa" nên bố thí.
8) Vì trang nghiêm tâm, trang bị tâm nên bố thí.
Tám động cơ khác nữa là:
1) Vì lòng tham mà bố thí
2) Vì sân hận mà bố thí.
3) Vì ngu si mà bố thí.
4) Vì sợ hãi nên bố thí.
5) Vì theo truyền thống nên bố thí.
6) Vì muốn quả báo cõi trời nên bố thí.
7) Vì nghĩ rằng: "Bố thí làm cho tâm được hoan hỷ" nên bố thí.
8) Vì trang nghiêm tâm trang bị tâm nên bố thí. (Anguttara Nikàya III, Chương
VIII Pháp).
- Như vậy mười sáu động cơ bố thí không
thanh tịnh của Ðại Trí Ðộ Luận và mười sáu động cơ bố thí của Kinh Tăng
Chi có khá nhiều điều giống nhau. Bố thí được coi là đúng chánh
pháp và đúng hành vi của một người có trí tuệ là "Ðể trang
nghiêm tâm, trang bị tâm" (theo Kinh Tăng Chi), nghĩa là tâm được thanh
tịnh vượt thoát các phiền não chấp thủ mà trong Ðại Trí Ðộ Luận
gọi là bố thí Ba La Mật: -Không chấp thủ người cho, kẻ nhận và của cho.
Ðó là tâm vô chấp, tâm bình đẳng xả bỏ được nhân ngã.
- Chấp thủ bất cứ một điều gì thô hay
tế, trong hay ngoài đều có tác dụng làm cho tâm ô nhiễm. Thông
thường, khi ta có thiện cảm với ai, thương mến ai thì ta rất dễ mở
rộng lòng mà cho một cách vui vẻ không tiếc, ngược lại đã không thương
thì cõi lòng khép lại, vì vậy tu tập lòng từ bi sẽ rất dễ dàng thực hành
bố thí; bố thí là sự thể hiện của tâm từ bi. Tâm chướng ngại cho
tâm từ bi là tâm sân hận; sự giận ghét đưa đến chướng ngại làm hạn
chế hành động bố thí. Cho nên, điều giác ngộ thứ sáu này nói rất
rõ rằng Bồ Tát tu hạnh bốù thí phải có tâm bình đẳng không phân biệt
người thương, kẻ thù và đặc biệt cần phải đối trị tâm sân hận và
"không nên nghĩ nhớ đến điều xấu ác mà kẻ khác đã làm cho
mình, cũng không nên có tâm ghét bỏ kẻ ác".Ðiều đó nói lên ý
nghĩa chân chính của hạnh bố thí theo Phật giáo.
Ðể có được hành động bố thí vô
chấp, vô cầu, vô nguyện thì người hành bố thí phải có trí tuệ,
thấy được tính vô ngã của vạn pháp. Nhờ đó mà tâm vượt thoát sự giới
hạn của tình cảm thông thường thương, ghét. Tâm thương ghét, thù hận, làm
trở ngại lớn cho hành động bố thí, như Jesus nói: "Nếu con chỉ
thương những người thương con thì con có công gì đâu?"( Ðó chỉ là
sự trao đổi mà thôi! ). Không những không có công mà có tội là gây thêm
sự bất mãn hận thù.
IV. Kết Luận
- Bố thí là một công hạnh có tác dụng lợi
ích rất đặc biệt, biểu hiện đủ hai mặt: Phước đức và trí
tuệ.
- Phước đức có được là do đem đến
cho chúng sanh bị đau khổ niềm an ủi, sự an tâm, sự đầy đủ, giảm cho
họ những áp lực của đời sống mà có thể đưa họ vào con đường
tội phạm tối tăm. Làm cho người khác được an vui hạnh phúc là ý nghĩa
của phước đức.
-Trí tuệ là do thực hành bố thí mà
quán chiếu thực trạng đau khổ của đời sống, nhận được chân lý khổ
đế. Mặt khác, mình thấy được tự tính vô ngã trong mọi thứ mà mình
nắm trong tay: Không có người cho kẻ nhận và của cho. Thực hành tâm bình
đẳng, xả bỏ chấp thủ nhân, ngã, bỉ, thử, chủ thể, đối tượng... đạt
được tâm thư thái thanh thản, giải thoát là ý nghĩa của trí tuệ.
Một người là đệ tử của Phật luôn
được trang bị giáo dục để có được hai đức tính căn bản này là
phước đức và trí tuệ. Qua hành động bố thí, ta có thể thành đạt
hai đức tính ấy.
Bài VIII
I. Chánh Văn
Ðệ thất giác ngộ
Ngũ dục quá hoạn
Tuy vi tục nhân
Bất nhiễm thế lạc
Thường niệm tam y
Ngõa bát pháp khí
Chí nguyện xuất gia
Thủ đạo thanh bạch
Phạm hạnh cao viễn
Từ bi nhất thiết.
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ bảy giác ngộ rằng: Năm loại
dục là nguyên nhân gây ra tội lỗi và tai họa. Vậy tuy làm người cư
sĩ mà sống không đắm nhiễm năm thứ vui phàm tục ấy. Tâm thường nghĩ
đến ba y và bình bát. Tâm nguyện hướng về đời sống xuất gia. Vì
vậy, sống thanh tịnh, giữ gìn đạo hạnh, tu tập phạm hạnh thanh cao, thương
yêu tất cả muôn loài.
III. Giải Thích Nội Dung
Ðiều thứ bảy giác ngộ về sự nguy
hiểm của các dục lạc thế gian mà người cư sĩ đang sống ở trong đó;
sự nguy hiểm ấy có hai mặt là phát sinh hành vi tội ác, nảy sinh những tai
ương hoạn nạn, khổ đau.
Là một người cư sĩ tại gia thực hành Bồ
tát hạnh, người Phật tử phải có đời sống biểu hiện sự giác ngộ,
nghĩa là phải vượt lên trên các dục lạc phàm tình, giống như hoa sen ở
trong bùn vượt lên trên bùn mà không hôi mùi bùn. Trên căn bản đạo đức
thanh tịnh ấy, người cư sĩ phát triển lòng từ bi và cứu độ chúng sanh
có hiệu quả.
Ðiều thứ bảy nầy có các quan điểm
khác nhau giải thích về nó; có người cho rằng đây là hạnh ly nhiễm của
người xuất gia, nghĩa là người xuất gia hành đạo giữa đời thường có
thể bị hệ lụy tham đắm năm dục. Như vậy cũng không có gì là sai.
Tuy nhiên Kinh văn ghi rất rõ là: "tuy vi tục nhân" thì ta phải
hiểu là người thế tục, "người đời". Các giảng sư Trung Hoa
như Ngài Thái Hư Ðại sư, Ngài Tinh Vân... đều giảng là người cư sĩ.
Trong tác phẩm "Dịch giải tám điều giác ngộ của Bậc Thượng
Nhân" Hoà Thượng Trí Quang viết: "Ðiều giác ngộ thứ bảy dạy
riêng cho Phật tử tại gia. Phật tử tại gia nên tâm niệm xuất gia, nên
sống theo hạnh ly nhiễm: "cái hạnh hoa sen". Chúng tôi cho rằng đây
là điều dạy cho người cư sĩ để họ thực hành mục đích giải
thoát trong đời sống thế tục. Nâng cao vai trò người cư sĩ trong đời
sống xã hội, thực hành Bồ tát hạnh, hoằng pháp lợi sinh như người xuất gia
là đường lối Phật hóa nhân gian của Phật giáo Ðại thừa.
Người cư sĩ đạt được giải thoát giữa
đời sống thế tục qua các giai đoạn tu tập nhưng không nhiễm dục lạc,
sống đời thanh bạch, phạm hạnh cao viễn và thương yêu muôn loài thì giá
trị của người cư sĩ rất lớn, tác dụng rất lớn đối với cuộc đời. Ðây
là đời sống lý tưởng của Bồ tát đạo. Thực ra, trong Kinh tạng Nguyên
Thủy, Ðức Phật đã đưa ra mô thức của đời sống giải thoát ở trong thế
tục, như trong kinh Tăng Chi, Ngài dạy có bốn hạng xuất gia:
1. Thân xuất gia mà tâm không xuất gia.
2. Tâm xuất gia mà thân không xuất gia.
3. Thân và tâm đều xuất gia.
4. Thân và tâm đều không xuất gia. - (Chương Bốn pháp)
Vậy, hạng thứ hai, tâm xuất gia mà thân
không xuất gia, chính là mô thức tu tập của Bồ tát cư sĩ.
Ðời sống của người cư sĩ tại gia bị vây
quanh bởi năm dục thật không dễ dàng đoạn trừ chúng để thực hành hạnh
ly nhiễm. Kinh Trung Bộ có ghi rằng: Có lần một vị cư sĩ đến gặp đức
Phật và trình bày rằng ông ta nhờ thâm hiểu lời Phật dạy, nên thấy rất
rõ năm dục là nguy hiểm, hạ liệt, ô uế, vui ít khổ nhiều...
nhưng tại sao ông ta không đoạn trừ được chúng? Ðức Phật đã dạy:
-"Sở
dĩ ông ta không đoạn trừ được năm dục là vì ông còn sống đời sống
thế tục, nên dù biết rõ về dục mà vẫn không đoạn trừ được
chúng".
Người tại gia sống với thói quen hưởng thụ
các dục lạc, lệ thuộc các cảm thọ lạc thú, bị ràng buộc rất khó
thoát ly. Hưởng thụ dục lạc là bản năng của sinh vật, của con người, vì
vậy chỉ cần chạm nhẹ là đánh thức bản năng ngay. Ðời sống của người cư
sĩ đối với các đối tượng của dục lạc luôn kích thích bản năng hưởng
lạc làm cho nó luôn tăng trưởng, rất khó xả ly chúng. Có những cư sĩ
học rộng hiểu nhiều, học vị cao, có công đức lớn đối với
đạo pháp, lãnh hội được Phật pháp cao siêu nên họ tưởng mình đã
được tự tại giải thoát giữa đời thường. Thực ra, họ rất khó vượt ra
cái thói quen hưởng thụ: ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nghỉ dễ chịu, nhu cầu tình
dục, và các thú vui tế nhị khác... Thói quen tiện nghi đã tạo cho
họ dấu ấn trên thân thể, não bộ... nên nó có sức mạnh tiềm ẩn
khó nhận ra, vì vậy mà khó đoạn trừ được chúng.
Ðể đạt được trình độ
"Bất
nhiễm thế lạc" như Kinh văn đã dạy: Người cư sĩ phải kiến tạo
cho mình một thói quen, một lối tư duy mới, đó là thường nhớ nghĩ
đến
ba y và bình bát. Ba y và bình bát là tài sản bất ly thân của người
xuất
gia. Ba y gồm có An-đà-hội, dịch là Tác-vụ-y, nghĩa là khi chấp tác
lao
động phục dịch... thì bận y này; Y Uất-đa-la-tăng dịch là Nhập chúng
y,
nghĩa là khi vào trong chúng Tăng làm các Phật sự như: Trai tăng,
nghe pháp,
tụng kinh, tọa thiền...thì bận y này; và y Tăng-già-lê dịch là
Tạp-toái-y nghĩa là loại y này gồm nhiều mảnh ráp lại (có loại: y 9
điều, y 11 điều, y 13 điều...) dùng để bận khi thăng tòa
thuyết pháp, vào làng khất thực, hàng phục ngoại đạo... Bình bát
Phạn
ngữ là Bát-đa-la dịch là ứng lượng khí nghĩa là phù hợp dung lượng
để đựng thực phẩm. Y thì hoại sắc không đẹp, mang ý nghĩa giải
thoát: giải thoát ý niệm đẹp đẽ của sắc tướng. Bình bát thể
hiện tính chất giải thoát sự hệ lụy của món ăn. Thường nghĩ
đến ba y và bình bát nghĩa là không tìm kiếm lạc thú ở nơi ăn và
mặc, do đó không hệ lụy vấn đề ăn mặc. Thường nhớ nghĩ đến y
bát tức đi ngược lại thói quen hưởng thụ về món ăn và mặc, đó là hai
thói quen quan trọng của đời sống thế tục.
Vậy bước đầu chú tâm giảm thiểu nhu
cầu hưởng thụ mang tính thô thiển bề ngoài, họ tạo được khoảng
cách giữa đức hạnh và sự cám dỗ của lạc thú. Mặc dù sống trong vòng
vây của các dục nhưng đã tạo được ranh giới cần thiết để có sự
bảo hộ đạo hạnh. Như người Bồ Tát cư sĩ ăn chay chẳng hạn, họ sẽ tự
tại với các lạc thú và sự tranh giành món ăn ngon của những người xung
quanh, họ cảm thấy "đứng ngoài" mặc dù ở chung với nhau.
Bước tiếp theo người cư sĩ nuôi dưỡng
một ước muốn, một "chí nguyện" từ bỏ đời sống thế tục.
Ðây là một bước đi quan trọng để thoát vòng vây của dục. Ngũ dục
là đối tượng của ước muốn, là nguyện vọng của đa số, của thường
tình; nay ta không nuôi dưỡng ước vọng đó nữa, ta nuôi dưỡng ước
vọng khác: đời sống giải thoát, đời sống viễn ly. Tâm dục bất thiện
nay biến thành tâm dục thiện, hướng thượng, nhờ vậy mà thay đổi xu
hướng của tâm, thay đổi được bản năng. Như vậy, ta tạo được một ranh
giới cần thiết cho tâm hướng thượng trong biển tâm nhiễm ô.
Qua hai bước trên, người cư sĩ có đươcĩ
sức mạnh căn bản của thân và của tâm, từ đó họ tiến lên bước thứ
ba: Thay đổi toàn bộ lối sống của mình và của cả gia đình mình; nghĩa là
sống một đời sống thanh bạch, đạm bạc về vật chất, về hình thức,
nhưng phong phú giàu có về tinh thần, mà kinh văn gọi là "thủ
đạo thanh bạch".
Cuộc sống của người cư sĩ không phải là
một cuộc sống đơn độc mà còn có gia đình vợ con thân thuộc... Cho nên
những bước tu tập của mình phải đủ sức cảm hóa gia đình vợ con... để
họ cùng tu với mình, cùng nhìn về một hướng... đây là một điều
khó cho một người tu tại gia. Cuộc sống đạm bạc thanh cao của ta sẽ đổ vỡ
nếu không được sự trợ duyên của vợ con. Mặt khác, nếu ta không cảm
hóa thuyết phục được vợ con tu tập thì ta chỉ là người cư sĩ thường
thôi chứ không thực hành nổi vai trò và hạnh nguyện của một cư sĩ Bồ
Tát. Bởi lẽ, chúng sinh trong nhà mà mình không độ được làm sao độ được
chúng sanh ở ngoài. Thiền truyện Trung Hoa có đề cập đến gia
đình ông Bàng Long Uẩn đắc đạo cả nhà là một mô hình lý tưởng cho
người cư sĩ tại gia.
Thay đổi lối sống từ hưởng thụ dục lạc
qua lối sống thanh bạch đạo vị, tức là kiến tạo được một môi trường
thuận lợi cho sự tu tập, là tạo điều kiện quá độ cho một đời sống
mới: Ðời sống phạm hạnh và tình thương muôn loài.
Ðời sống phạm hạnh là đời sống không có
tình dục và các thú vui phàm tục, không coi trọng hay bị lệ thuộc vào
ân ái vợ chồng, không bị ràng buộc bởi tình yêu giới tính. Tình ân ái là
một loại tình thương mang tính trói buộc, vị kỷ có tác dụng làm con
người gắn chặt hơn nữa vào đời sống bản năng và sự đau khổ. Cho nên,
đời sống phạm hạnh là đời sống từ bỏ tình yêu vị kỷ, phát triển
tình yêu vị tha. Ðây là lý do tại sao kinh văn lại đưa công hạnh phạm
hạnh vào trong đời sống của Bồ Tát cư sĩ. Tâm từ đối với muôn loài không
thể có nơi Bồ Tát cư sĩ, nếu họ còn đắm nhiễm ân ái, lạc
thọ vị kỷ. Sống phạm hạnh trong đời sống thế tục không dễ dàng
và vấn đề giác ngộ đạo lý của vợ con là điều phải có. Vấn
đề phạm hạnh của người cư sĩ có thể có hai cách hiểu: Một là
đoạn trừ dâm dục; hai là không bị trói buộc và đắm nhiễm dâm dục, không
bị tình ân ái cản trở hay hạn chế sự phát triển từ bi tâm. Một đời
sống như vậy thì không khác nội dung đời sống của một vị Bồ Tát xuất gia.
IV. Kết Luận
Người cư sĩ sống đời sống thế tục có
kinh nghiệm phong phú, có sự hiểu biết sâu sắc về con người:
căn cơ, trình độ, tâm lý, ước muốn của họ; hiểu biết một
cách trực tiếp về bản chất của đời sống xã hội. Vì vậy họ có
thể hiểu biết cảm thông và thương yêu con người một cách chân
thật. Tuy vậy, để đạt được một đời sống lý tưởng "tâm xuất
gia mà thân không xuất gia", đạt được mục đích và hạnh nguyện của
một Bồ Tát cư sĩ thì họ phải thực hành tuần tự từng bước:
- Quán chiếu để thấy rõ bản chất
của năm dục lạc đưa đến tội ác và tai ương hoạn nạn, mà hoạn nạn
lớn nhất là bị che khuất trí tuệ và chìm đắm trong vòng sanh tử. Phải tu
tập để chiến thắng sự kiềm tỏa của năm dục, phải triệt tiêu
áp lực của chúng trong nội tâm mình.
- Phải tạo thói quen, xu hướng mới cho tâm
thức, hướng tư duy về sự giải thoát, về đời sống viễn ly thành tựu
được chánh tư duy, thiện tâm bắt đầu tỏa sáng.
- Kiến tạo một đời sống đạm bạc thanh
cao. Trong đó bao gồm các đối tượng bên cạnh mình như vợ con...để
thiết lập cuộc sống chung giàu trí tuệ và an lạc.
- Từ đó, thiết lập đời sống phạm hạnh
coi nhẹ tình yêu ân ái vợ chồng giới tính biến thành tình yêu vị tha
đối với muôn loài, biến các chất liệu của tình thương đau khổ, hạn
chế thành chất liệu tình thương vô lượng, an lạc.
Như vậy, người cư sĩ có thể kiến
tạo đạo tràng giữa cõi nhân gian, hoàn thành hạnh nguyện độ tha của Bồ
Tát đạo.
Bài IX
I. Chánh Văn
Ðệ bát giác tri
Sanh tử xí nhiên,
Khổ não vô lượng
Phát đại thừa tâm,
Phổ tế nhất thiết,
Nguyện đại chúng sanh
Thọ vô lượng khổ
Linh chư chúng sanh
Tất cánh đại lạc
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ tám giác ngộ rằng lửa sanh tử
bừng cháy làm chúng sanh thọ khổ vô lượng. Vì vậy Bồ tát phát tâm Ðại
thừa cứu giúp tất cả. Nguyện thay thế cho chúng sanh chịu các khổ não
vô lượng ấy. Làm cho mọi loài chúng sanh đạt được niềm vui tối
thượng.
III. Giải Thích Nội Dung
Ðiều thứ tám là điều giác ngộ sau
cùng của Kinh Tám Ðiều Giác Ngộ của Bậc Ðại Nhân. Ðiều giác ngộ
này là đỉnh cao của Bồ Tát hạnh, hay nói cách khác đây là đỉnh điểm
của từ bi tâm. Có thể nói, điều giác ngộ thứ tám này là tư tưởng
chủ đạo, là mục tiêu của Kinh Bát Ðại Nhân Giác.
Như đã nói ở phần nhận thức tổng quát,
hướng đi của kinh Bát Ðại Nhân Giác là cổ xúy tư tưởng Ðại thừa. Khai
triển Bồ Tát hạnh và có hướng nghiêng về Bồ Tát cư sĩ. Ðiều
thứ bảy tình thương vị tha đã được xây dựng, tình thương ấy đã được
trí tuệ bình đẳng làm nền ở điều thứ sáu, đến đây lộ
trình tâm đã lên đến đỉnh cao, sự hợp nhất của trí tuệ và từ bi
trí tuệ và từ bi này được thiết lập trên nền tảng tâm thanh
tịnh, qua quá trình tu tập lâu dài (điều 1, 2, 3, 4, 5). Ngài An Thế Cao
đã xây dựng lộ trình tu tập một cách hệ thống, biện chứng. Ðỉnh
điểm của trí tuệ và từ bi gồm có:
1. Sanh tử xí nhiên, khổ não vô
lượng: Sự giác ngộ về thế giới chủ quan và khách quan bao
gồm lục đạo, ba cõi đều nằm trong biển lửa, nói cách khác chúng là
lửa, như Kinh nói: "Tam giới vô an du như hỏa trạch"-(ba cõi không
yên giống như ngôi nhà lửa) - Thế giới ấy được kiến tạo bằng lửa
tham dục, lửa sân hận và lửa ngu si mê muội. Như vậy chúng sanh nói chung, con
người nói riêng đang sống ở trong đó phải chịu đựng nhiều nỗi đau
khổ bất tận, chịu những kết quả của tham, sân, si, tứùc nghiệp báo
nặng nề. Hình ảnh ngôi nhà lửa hay ngọn lửa bùng cháy của cõi sanh
tử tạo ấn tượng mạnh mẽ về những nỗi khốn đốn thương đau của
mọi loài. Chỉ nói về con người cũng thấy rõ nỗi khổ là vô
lượng: có những loại khổ thuộc về thân thể sinh lý, có những
loại khổ thuộc về tâm lý, có những nỗi khổ thuộc về hiện
tượng, có những nỗi khổ thuộc về bản chất... Những nỗi khổ ấy
có mặt thường xuyên hoặc âm ỉ, hoặc bộc phát, làm cho sự có mặt của con
người luôn kéo theo sự có mặt của bất an, khổ đau và rối loạn. Bề
ngoài thì có người giàu sang, kẻ nghèo hèn; người thông minh tài trí, kẻ
thì đần độn ngu si; người thì thành công rực rỡ, kẻ thì thất bại chua cay;
người thì mạnh mẽ vẹn toàn, kẻ thì yếu đuối bịnh hoạn... Nhưng tất cả
mọi người đều có một mẫu số chung: đó là nỗi Ðau Khổ, mỗi
người đều có nỗi đau khổ riêng tùy theo tâm trạng, hoàn cảnh, địa
vị... mà mỗi người gánh lấy niềm đau nỗi bất an của riêng mình,
làm như đau khổ là tài sản của nhân loại như Ôn Như Hầu nói:
"Thảo nào khi mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu..."
Nhờ trí tuệ mới nhận chân ra được
dòng sanh tử bùng cháy và nhờ từ bi mà cảm được nỗi khổ vô lượng.
2. Phát tâm Ðại thừa phổ tế
nhất thiết: Tâm Ðại Thừa có nghĩa là tâm Ðại Bi, tâm cứu
giúp tất cả chúng sanh đều được thoát khổ, là tâm ước muốn và hành
động vì lợi ích cho muôn loài. Ðể phát được tâm này ta phải thấy rõ
và cảm thông được nỗi khổ vô tận của mọi người trong dòng đời
đen bạc.
Khi ta thấy rõ nỗi khổ thực sự của
người nào thì ta sẽ thương người ấy, ta không còn buồn, giận, đố kỵ
với người ấy. Quán chiếu cái khổ của mọi người để phát khởi
tình thương là một pháp tu tập từ bi tâm. Có những người hung dữ độc ác
nhưng khi ta thấy họ bị đánh đập đầy thương tích, đang quằn quại trong
vũng máu ta liền thay đổi thái độ: không ghét hay giận họ nữa mà ta
thương xót và giúp đỡ họ.
Khi ta thấy ai khổ thì ta thương người ấy,
đó là cái thấy hạn chế, nghĩa là cái thấy bằng mắt đòi hỏi phải có
hình ảnh cụ thể, trường hợp cụ thể ta mới xúc động, ta mới thương.
Vì vậy người được ta thương phải là người đang bị tai ương hoạn nạn và
phải gần ta, ta mới thấy, mới gặp. Có người không có tình thương ai khi ở
nhà, nhưng khi vào bệnh viện thấy cảnh đau đớn của bệnh nhân
liền khởi tâm thương yêu. Ðó là tình thương bình thường, không phải
là Ðại bi tâm.
Ðể đạt được tâm đại bi cần phải
quán chiếu, phải thấy bằng tuệ nhãn đưa tâm từ bi đến với muôn
loài không giới hạn, nhờ thấy được ngọn lửa sanh tử bùng cháy nên thấy
nỗi khổ vô lượng của chúng sanh. Vì vậy phát triển tâm đại bi cứu
giúp tất cả. Trong Kinh Từ Bi, Ðức Phật dạy: Người tu tập tâm thương yêu
luôn tâm niệm rằng " Nguyện cho tất cả loài sinh vật trên trái
đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những
loài cao, những loài thấp,những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ở gần
những loài ở xa, những loài đã sanh và những loài sắp sanh ..." "Ta
hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn
loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ
cái gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút gì hờn oán hoặc
căm thù. Bất cứ lúc nào khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn
thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi" (Metta
Sutta - Nhất
Hạnh dịch).
Lòng đại bi thương yêu một cách vẹn toàn
viên mãn không có chỗ khuyết hay khoảng hở như được diễn tả trong
kinh Từ Bi và đối tượng của tâm đại bi cũng đầy đủ viên mãn không
thiếu sót, không hạn chế, đó là ý nghĩa của "Phát đại thừa
tâm phổ tế nhất thiết"
3. Nguyện đại chúng sanh
thọ vô lượng khổ: Tâm đại bi đã viên mãn chín mùi thì sẽ
tạo ra tác dụng tích cực một cách tự nhiên; như ta thương ai một cách đầy
đủ thì ta sẽ có hành động, bước đầu là hành động giúp đỡ cho họ
cái gì mà họ cần để bày tỏ sự cảm thông hoặc để thỏa mãn nội
tâm chất chứa đầy tình thương của mình. Giả sử người kia không muốn nhận
sự giúp đỡ của mình, họ từ chối... điều đó làm mình đau xót lắm!
Ðó là thái độ tâm lý của một bà mẹ thương đứa con của mình.
Bước thứ hai là muốn chia sẻ nỗi đau
mà người kia đang gánh chịu mình không thể thờ ơ trước sự đau khổ của
kẻ khác, mình không muốn đứng ngoài, hay nói cách khác mình không thể
đứng ngoài được khi chánh niệm từ bi luôn có mặt. Với tâm từ bi bao
trùm mọi loài viên mãn cả không gian và thời gian mình cảm được cái
khổ của mọi người nên nỗi đau của người sẽ là nỗi đau của
mình. Dưới trí tuệ quán chiếu duyên khởi thì mọi loài, mọi
người và mọi vật tương quan tương duyên và tương tác với nhau, làm sao
ta có thể tách rời khỏi vạn vật được?
Tâm đại bi muốn thay thế cho chúng sanh
thọ khổ là đỉnh cao của công trình tu tập từ bi tâm, tiêu biểu cho
hạnh nguyện đại bi này là Bồ Tát Ðịa Tạng Vương: "Ðịa ngục vị
không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng bồ
đề" ( nếu chúng sanh trong địa ngục chưa hết, ta chưa thành
Phật, chúng sanh đã độ hết rồi mới chứng quả Bồ Ðề). Ðây là một
tâm nguyện, một ước vọng vĩ đại mà tâm vô ngã làm nền- ta và
chúng sanh là một, ta ở trong chúng sanh, chúng sanh ở trong ta. Vậy chúng sanh
chưa thành Phật ta làm sao thành?!
Có cách giải thích điều "Nguyện
thay thế chúng sanh thọ khổ vô lượng" là một nghịch hành pháp
môn, trong Túc Sanh truyện có khá nhiều chuyện minh họa cho pháp
môn nầy như thí thân cho cọp đói, bố thí vợ con... Ðó là một đời
sống mang tính chất lý tưởng hơn là hiện thực. Ðiều thực
hiện ở đây chính là tâm thương yêu rộng lớn biểu hiện trí
tuệ thể nhập thực tại mà kinh sách thường nói: "vô duyên đại
từ, đồng thể đại bi". Tâm nguyện thay thế chúng sanh thọ
khổ chính là tâm từ bi viên mãn.
4. Linh chư chúng sanh tất cánh
đại lạc: - Diệu dụng của tâm từ bi là đem đến sự an vui
hạnh phúc cho mọi người. Ðể đạt được kết quả tốt đẹp ấy,
người tu Bồ Tát hạnh phải dùng các phương tiện khác nhau để cảm
hóa con người. Phương tiện độ sanh của Bồ tát rất đa dạng, đôi khi thi
hành các phương tiện bề ngoài như là không tốt nhưng đạt được
mục đích hóa độ, có thể nói phương tiện có đến tám vạn bốn
ngàn môn. Trong kinh Nguyên Thủy cũng như Ðại thừa, Ðức Phật khái quát bốn
cách độ sanh chính, gọi là Tứ Nhiếp pháp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành,
Ðồng sự.
Khi ta đã có sẵn tâm từ bi bao la thì tác
dụng độ sanh là một nhu cầu thiết yếu như ăn, uống, hít thở... không
kể Nguyên thủy hay đường lối Ðại thừa đều như vậy, vì vậy ta sẽ
có phương cách độ người, giúp người. Sự cứu giúp chúng sanh ở đây không
còn đơn giản là bố thí vật chất hay tinh thần để con người có được
niềm vui mà ta làm thế nào để mọi người đều đạt được
niềm vui tối thượng, nghĩa là giải thoát hoàn toàn sanh tử. Nếu chưa
đạt được như vậy thì Bồ Tát không thể nào thỏa mãn được như hạnh
nguyện của Bồ Tát Ðịa Tạng Vương. Vì vậy, lời nguyện hằng ngày của
Phật tử biểu hiện ý chí mạnh mẽ, lòng từ vô biên:
" Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành"
IV. Kết Luận
Ðiều giác ngộ thứ tám là đỉnh cao của
lộ trình tu tập Bồ Tát hạnh. Ở đó thể hiện trí tuệ và từ bi
viên mãn, đồng thời thể hiện tác dụng hóa độ chúng sanh một cách
cao độ. Tất cả những khả năng ấy đều được nói đến trong Kinh tạng
Nguyên Thủy cũng như Ðại Thừa. Ở đây biểu hiện rất rõ hướng
đi của mẫu người lý tưởng: Bồ Tát nhập thế. Ðây là con đường mà
người Bồ Tát cư sĩ có rất nhiều điều kiện và cơ hội thực
hành.
- Khổ và thoát khổ là mối tư duy chân
chính xuyên suốt mọi pháp môn tu tập. Làm cho mình hết khổ, giúp cho
người bớt khổ là một công trình đòi hỏi trí tuệ, sức lực và thời
gian. Còn hòa vào đời chịu cảnh tối tăm lem luốc để dẫn dắt chúng sanh
lên bờ giải thoát là một hạnh nguyện vĩ đại của những Ðại Sĩ, cũng
gọi là hạnh nguyện hay sự giác ngộ của Bậc Ðại Nhân mà Kinh này
đề cập đến.
C. Phần Kết Thúc
Kinh
Bài X
I. Chánh Văn
Như thử bát sự
Nãi thị chư Phật
Bồ Tát Ðại Nhân
Chi sở giác ngộ
Tinh tấn hành đạo
Từ bi tu huệ
Thừa pháp thân thuyền
Chí Niết Bàn ngạn
Phục hoàn sanh tử
Ðộ thoát chúng sanh
Dĩ tiền bát sự
Khai đạo nhất thiết
Linh chư chúng sanh
Giác sanh tử khổ
Xã ly ngũ dục
Tu tâm thánh đạo
Nhược Phật đệ tử
Tụng thử bát sự
Ư niệm niệm trung
Diệt vô lượng tội
Tiến thú Bồ Ðề
Tốc chứng chánh giác.
Vĩnh đoạn sanh tử
Thường trụ khoái lạc
II. Dịch Nghĩa
Tám điều nói trên là những điều
giác ngộ của chư Phật, các vị Bồ Tát và các Bậc Ðại Nhân. Các Ngài đã
tinh tấn hành đạo, tu tập từ bi và trí tuệ, nương thuyền pháp thân
mà lên bờ Niết Bàn, rồi lại trở về cõi sanh tử để giúp chúng
sanh được giải thoát. Các ngài lấy tám điều giác ngộ này mà chỉ dẫn
chúng sanh. Làm cho mọi chúng sanh giác ngộ được nỗi khổ sanh tử mà
buông bỏ năm dục lạc hướng tâm về con đường Thánh.
Nếu là đệ tử của Phật thì phải
đọc tụng tám điều này. Ở nơi mỗi ý niệm đều như
vậy diệt được vô lượng tội, hướng đến giác ngộ, mau lên chánh
giác. Vĩnh viễn đoạn trừ sanh tử, thường ở trong sự an lạc Niết Bàn.
III. Giải Thích Nội Dung
Phần kết thúc Kinh là những lời nói lên
tác dụng siêu việt của tám điều giác ngộ của Bậc Ðại Nhân nhằm
khích lệ tinh thần tu tập của các hành giả Phật tử. Phần nầy có thể
chia thành hai ý chính:
1. Tác dụng xuất thế của tám
điều giác ngộ:
Tám điều giác ngộ nầy không phải là
pháp môn thông thường mà nó có giá trị và lợi ích rất lớn: Là phương
tiện để giải thoát của chư Phật, Bồ tát, Thánh Hiền... Các Ngài
nhờ nỗ lực tu tập theo tám điều giác ngộ nầy mà viên mãn được
đức tánh từ bi và trí tuệ, nhờ từ bi và trí tuệ viên mãn mà tạo
thành chiếc thuyền pháp thân dẫn đến bến bờ Niết Bàn -
giải thoát tối hậu.
Tác dụng xuất thế gồm những gì? Ðó là
tu tập quán chiếu Tứ Niệm Xứ, trang bị cho mình nhận thức rõ về
thân, về thọ, về tâm và về pháp. Tu tập hạnh thiểu dục tri
túc sống đời thanh bạch từ bỏ các lạc thú ở đời. Nhờ vậy trí tuệ
được tăng trưởng - tuệ giải thoát phát sinh.
- Con đường tu tập để làm thanh tịnh
Thân - Khẩu - Ý, đoạn trừ các ác nghiệp và các ô nhiễm tâm lý, làm
chủ được các hành vi bản năng, mở rộng đường cho trí tuệ và giải
thoát; đó là con đường tu tập chung của mọi người Phật tử. Dĩ nhiên
người xuất gia có lợi thế hơn. Ðây là công hạnh căn bản, là hiện
tướng giải thoát của người tu, nếu không có hay không đạt được hoặc
không qua lộ trình tâm thanh tịnh nầy thì không có lộ trình giải thoát nào,
nghĩa là muốn qua sông thì phải biết bơi, còn sử dụng khả năng biết
bơi để cứu người hay không là chuyện khác. Vì vậy không thể
chấp nhận một người Phật tử, nhất là Phật tử xuất gia mà tham lam, sân hận
quá lớn, không có lý do chính đáng nào biện minh cho các việc làm
hay hành vi bất thiện.
- Con đường Bồ tát hạnh hay Ðại thừa cũng
dựa trên cơ sở giải thoát và thanh tịnh nầy mà hướng tâm về cứu độ
chúng sanh.
- Thuyền pháp thân được làm bằng trí
tuệ và từ bi, trí tuệ và từ bi được làm bằng chất liệu thanh
tịnh không ô nhiễm. Con thuyền ấy đưa hành giả đến bờ giải thoát.
2. Tác dụng nhập thế của tám
điều giác ngộ:
- Tu tập hạnh thanh tịnh giải thoát xuất
thế đối với đường lối của Kinh tám điều giác ngộ có hai mục
đích: Một là trang bị cho mình khả năng giải thoát khỏi sự trói buộc của
sanh tử. Hai là sử dụng khả năng ấy để giúp cho chúng sanh cũng được
lợi ích giải thoát như mình. Thực ra, bản chất của giáo pháp mà Ðức Phật
dạy luôn bao hàm hai khả năng ấy.
- Trong lời kết thúc nói rằng: sau khi
các Ngài đắc đạo nhờ tu tập tám điều giác ngộ, các Ngài từ cõi
Niết Bàn trở về cõi sinh tử giúp chúng sanh giải thoát. Ðiều nầy
rất rõ ràng, trước khi hóa độ chúng sanh thì phải hóa độ mình trước,
mình có giác ngộ, có giải thoát mới "trở về" hóa độ chúng
sanh, chứ không phải mình chưa giải thoát mà vội độ sanh chỉ tăng trưởng
phiền não và tội lỗi. Vì vậy, ta không có lý do gì để phê
bình những người đang nỗ lực tu tập "độ mình" là những người
tiêu cực, ích kỷ.
Tuy nhiên, nếu mình "độ mình"
lâu quá, chúng sanh đang đau khổ mà mình chưa "công viên quả mãn"
thì có phải đang bỏ rơi chúng sanh hay không? Có lẽ đó là một điều lo
xuất phát từ thiện ý nhưng cũng như lo "voi chết không có
hòm", kiểu nói của tục ngữ Việt Nam.
Con đường tu tập của Phật giáo không nên
phân cách quá cứng ngắc giữa độ mình và độ người. Nếu quán chiếu
theo chân lý duyên sanh, ta sẽ thấy: Ðộ mình là độ người, độ người
cũng là độ mình. Chất liệu tu tập có chất liệu từ bi thì hệ quả
tất nhiên là có độ chúng sanh. Vì vậy, không thể nói Ðại thừa mới hoá
độ chúng sanh được, còn các đường tu tập khác thì không!
Tác dụng nhập thế của tám điều
giác ngộ là thành tựu biện tài thuyết pháp cảm hóa chúng sanh, giúp
đỡ cho chúng sanh về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ bớt
khổ, tạo cho họ cơ hội để họ tu tập hướng thượng, hướng
thiện. Lấy nếp sống mẫu mực thanh bạch và vô dục của mình làm tấm
gương, làm thân giáo để mọi người quay về chánh đạo. Cuối cùng
nếu cần thiết, mình có thể nhập cuộc nhận lãnh khổ đau nếu
đó là điều giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui. Ðó là con đường
nhập thế của Bồ tát, của Kinh Tám Ðiều Giác Ngộ.
Tất cả mọi phương tiện mà Bồ tát
thực hành đối với chúng sanh đều phải hướng đến các tác dụng cụ
thể:
a."Linh chúng sanh giác sanh tử khổ":
Làm cho chúng sanh có được trí tuệ nhận chân khổ đế mà cái khổ
lớn nhất là cái khổ của sự sanh tử luân hồi. Ðiều nầy không dễ, người
ta dễ dàng nhận thức hay chấp nhận chân lý khổ như: khổ về sanh, lão,
bệnh, tử, thương yêu mà phải xa nhau, ghét mà phải gần nhau, hoặc cầu
mong mà không toại ý, tức là những cái khổ mang tính hiện tượng, còn
cái khổ bản chất thì họ không biết và rất khó biết. Vì vậy,
họ chỉ mong hết khổ thông thường chứ không mong được giải thoát.
b. "Xả ly ngũ dục": Làm cho
chúng sanh nhận chân được Tập đế là nguyên nhân của khổ, tham ái ngũ
dục. Chúng sanh đang ở trong cuộc đời, đang hưởng thụ ngũ dục, đang hướng
tâm trí đến các đối tượng của dục và vì vậy mà họ đang đau khổ.
Làm cho chúng sanh thấy rõ bản chất của dục là nguy hiểm luôn gây ra hậu
quả đau khổ, để họ dần dần nhận thức và từ bỏ chúng.
c. Tu hành thánh đạo: Làm cho chúng
sanh hiểu được Ðạo đế, tu hành con đường dẫn đến đoạn trừ
khổ đau.
- Tu hành thánh đạo là gì? - Chính là tu
tập hành trì Bát Chánh Ðạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nếu
chúng sanh tu tập thánh đạo nầy thì chắc chắn thoát ly khổ ách.
- Ðoạn cuối cùng nhắc nhở khích lệ
người đệ tử Phật phải đọc tụng và nhớ nghĩ đến tám điều
giác ngộ nầy. Ðược như vậy thì trong từng ý nghĩ tiếp diễn chỉ có
thiện pháp, không có ác niệm, ác pháp. Nhờ đó mà ác nghiệp
được tiêu diệt, dẫn đến giác ngộ, thành tựu thánh quả và khổ sanh
tử chấm dứt, hưởng niềm vui tối thượng, an lạc Niết Bàn.
IV.Kết Luận
- Lời kết thúc kinh bao hàm ý nghĩa
khái quát con đường tu tập của kinh, đó là thực hành sự thanh tịnh làm cho
tâm hết ô nhiễm thành tựu các đức tính trí tuệ và từ bi, nhờ đó
mà được giải thoát tối thượng. Sau khi đạt được sự giải thoát thực hành
hạnh lợi tha dùng khả năng giải thoát giác ngộ của mình giúp cho mọi
người có điều kiện hướng về chân lý và giải thoát như
mình.
- Ðồng thời, lời kết thúc cũng đưa ra
mục tiêu cụ thể cho hành giả thực hành công cuộc hóa độ làm cho chúng
sanh nhận chân về sự khổ, về nguyên nhân đưa đến khổ và con
đường đưa đến diệt khổ.
-Cuối cùng là khích lệ tu tập bằng cách
nêu bật lên công dụng quán chiếu chánh niệm đưa đến đoạn trừ
ác nghiệp thành tựu Niết Bàn.
Con đường mà kinh Bát Ðại Nhân Giác giới
thiệu là con đường thuận tiện cho đời sống của người cư sĩ thực
hành để đáp ứng nguyện vọng của Bồ Tát dấn thân vào đời cứu
độ chúng sanh. Con đường ấy đặc biệt ở chỗ sống giữa cuộc đời
bụi bặm mà không dính bụi, ngược lại có thể chuyển hóa bụi bặm ô
nhiễm thành thanh tịnh thanh lương./.