PHẦN GIỚI THIỆU
Những kinh nghiệm của chúng ta
nơi sự vật thường sai lạc do nhiều loại vọng tưởng hiện khởi vô số lần trong
đời sống hằng ngày. Chúng ta thấy một con rắn trên mặt đất, và khi nhìn kỹ thì
đó chỉ là một sợi dây. Trên đường đi chúng ta thấy một hồ nước phía trước, và
khi đến gần thì cái hồ biến mất. Về đêm chúng ta nhìn lên những ngôi sao, và từ
nơi đó có những nguồn ánh sáng lấp lánh, tuy nhiên người ta biết rằng nhiều
ngôi sao này đã tắt từ lâu, bây giờ chỉ là những hạt bụi lửng lơ bị cuốn hút
trong khoảng không vũ trụ. Thời xưa những nhà tư tưởng do căn cứ vào tính
cách mâu thuẫn của tưởng đã dẫn đến nhiều loại học thuyết, một số nghi ngờ tính
xác thực của bộ máy nhận thức của chúng ta, nhóm khác thì nghi ngờ thực tại của
thế giới bên ngoài. Tuy nhiên dù có những nghi ngờ và bất đồng những nhà tư
tưởng này có thể đã ấp ủ về cái thực trong những tưởng của chúng ta. Đó là điểm
chủ yếu của việc định hướng hiểu biết qua kinh nghiệm của chúng ta đối với thế
giới cũng như nền tảng của việc xem xét triết lý. Ngay cả Descarte, người sẵn
sàng lái chủ nghĩa hoài nghi quanh lò sưởi của ông đến điểm loại bỏ toàn thể
lãnh vực của tưởng như một sự phô bày ảo giác được biến ra bởi loại quỷ tinh
ranh nào đó, cuối cùng bị đưa trở lại bởi chính sự kiện hoài nghi của ông với
kết luận không thể tránh khỏi: 'Tôi suy nghĩ, do đó tôi hiện hữu.' Và vì thế
trong tất cả cách suy nghĩ truyền thống, từ chủ nghĩa hiện thực kinh nghiệm thô
kệch nhất đến chủ nghĩa lý tưởng siêu hình khó hiểu nhất. Tất cả nhất trí trong
việc xác định thực tại của chủ thể đằng sau tiến trình nhận thức, ta là người
cảm nhận, suy nghĩ, và biết.
Tuy
nhiên chính là ý tưởng về một chủ thể tự tồn này mà Đức Phật lấy làm mục tiêu
cho lời dạy của ngài, vạch ra cho thấy đó chỉ là một giả thuyết không thể chứng
minh theo kinh nghiệm. Trong bất cứ hình thức nào - hoặc như là 'cái ta' trong
tư tưởng thông thường, linh hồn của tôn giáo, hoặc cái ngã của triết học - nó
vẫn là một bóng ma ý thức, một quan niệm không có vật đối chiếu trong
thực tại. Theo lời dạy của Đức Phật, ý tưởng về ngã tính cách biệt này không
phải là sự lầm lẫn đơn giản và vô hại hoặc sự sơ xuất bất cẩn trong lý luận
triết học. Trái lại, nó là một tà kiến tai hại mang lại những hậu quả nghiêm
trọng trên toàn thể đời sống cảm xúc và ý thức. Ý tưởng về ngã là cái neo của
những động lực của chúng ta để nắm lấy và chiếm hữu, cái gốc của những ham muốn
và những ác cảm, và qua đó là cội nguồn đau khổ của chúng ta. Đó là thành kiến
mang chúng ta đến sầu, bi, khổ, ưu và não, cạm bẫy lôi cuốn chúng ta trong vòng
sinh tồn, khi ngã kiến được dựng lên trong mỗi hành động thì đau khổ luân hồi
là vô lượng.
Đức Phật
thuyết kinh Mūlapariyāya vì mục đích vạch trần những hoạt động của quan niệm về
ngã khi bản thân nó lồng vào lãnh vực của tưởng, hậu quả là mang lại những
phiền não sao chép.Theo báo cáo truyền thống, kinh này bắt nguồn từ việc đáp
lại một sự kiện đặc biệt. Như được tường thuật trong chú giải, năm trăm tỳ kheo
dòng bà la môn là những học giả Vệ đà, quá tự mãn vì học thức của họ, bằng cách
ấy bỏ phế những bổn phận tinh thần của họ. Nhận thấy tình huống này, Đức Phật
đã thuyết kinh trên để đập vỡ kiêu mạn của họ và khiến cho họ sẵn sàng đón nhận
lời giáo huấn như trước. Nhưng mặc dù phát sanh dưới những điều kiện đặc biệt,
thông điệp của kinh vượt qua thời gian và hoàn cảnh ban đầu, vì chủ đề
của kinh không có gì khác hơn cốt lõi của chánh pháp - vấn đề đau khổ và sự
diệt khổ. Trong một loạt những lời diễn đạt cô đọng, Đức Phật phơi bày cái cách
mà ngã tưởng tự áp đặt trên tiến trình kinh nghiệm, kết lại dữ liệu để khớp với
bức tranh của riêng nó trước thực tại hiện bày. Ngài biết làm thế nào thiên
kiến liên quan đến ngã sinh ra ái và sự luân chuyển của sanh hữu,
và làm thế nào bằng việc cải chính ảo tưởng về một cái ngã tách biệt, ái có thể
diệt và đau khổ luân hồi kết thúc.
Kinh này
triển khai bốn phần chính giải thích mô hình nhận thức của bốn hạng người, mỗi
hạng liên hệ với hai mươi bốn đối tượng nhận thức có thể xảy ra. Bốn hạng người
là 'phàm phu' thiếu hiểu biết về Dhamma và vì thế nhiều lần khuất phục trước
trò chơi của ngã thức; bậc 'hữu học' đã thấy qua sự sai lạc của ngã tưởng và
đang tu tập để diệt hoàn toàn tưởng này; bậc A la hán hoặc bậc thánh toàn hảo
là hạng đã thành tựu sự giải thoát khỏi các ách phược của ngã chấp thủ; và 'Như
Lai', Đấng giác ngộ là người tiên khởi giáo pháp mà ngài đã khám phá qua sự
chứng ngộ không cần trợ giúp bên ngoài. Những hạng người này và mô hình
nhận thức của mỗi hạng sẽ được thảo luận đầy đủ hơn dưới đây.
Hai mươi
bốn đối tượng hoặc 'các cơ sở' của nhận thức bao phủ toàn bộ quy mô dữ
kiện kinh nghiệm, được phân loại trong một số cách bổ sung hỗ tương. Nhóm thứ
nhất gồm có tứ đại - đất, nước, lửa và gió, những biểu trưng cho mô hình tác
động căn bản của vật chất- sự giản nở, sự dính liền, sự tỏa nhiệt, và sự chuyển
động. Nhóm phân loại kế tiếp xuyên suốt các cõi được nhìn nhận bởi vũ trụ quan
Phật giáo truyền thống, tiến hành tuần tự từ những loại chúng sanh thấp bao gồm
dưới thuật ngữ tập hợp 'chúng sanh' (bhūta), đến các loại chư thiên trong dục
giới và phạm thiên giới, cao hơn nữa là những chúng sanh có tâm thanh tịnh
trong bốn vô sắc giới. Nhóm kế tiếp phân loại lại những đối tượng nhận thức thành
bốn loại cảm quan cơ bản sở kiến, sở văn, sở đối xúc (qua mùi, vị, và xúc), và
sở tri. Cuối cùng nhóm còn lại sắp xếp các cơ sở thành bốn loại trừu tượng: sai
biệt và đồng nhất liên quan đến tưởng và thiền; tất cả được hiểu rõ bằng
kinh nghiệm thần bí hoặc được thừa nhận về mặt trí thức; và niết bàn, mục đích
tối cao khi được quan niệm theo những hệ thống suy tư khác nhau.
Trong
phần trình bày đầu tiên kinh căn bản pháp môn tường thuật mô hình nhận thức của
'phàm phu'(assutavā puthujjano), liên quan đến người mà không quan tâm
đến các bậc thánh và các bậc chân nhân, và do vậy vừa thiếu sự hiểu biết lẫn kỷ
luật thực tiễn cần thiết để xua tan những hoạt động của ngã thức. Tiến trình
nhận thức của phàm phu theo kinh văn, đi qua một số giai đoạn, mỗi giai đoạn
bộc lộ một khía cạnh khác nhau đưa đến hình thành nội tâm cơ bản. Giai đoạn đầu
tiên phát biểu trong kinh là: 'Vị ấy tưởng tri đất là đất,'(xin dùng đất làm
khuôn mẫu cho các cơ sở còn lại ). Sự 'tưởng tri' đề cập ở đây không phải là
một tưởng mà nắm lấy đối tượng trong thực tính, y theo chân tướng; đúng hơn,
như chú giải phát biểu, nó là một 'tưởng lầm lạc' (viparītasaññā) và mở đầu cho
sự méo mó sơ khởi trong luận cứ của nó. Chúng ta có thể cho rằng trước khi
tưởng tri 'đất là đất' này chợt xảy ra, một hành động thô sơ, đơn giản của
tưởng phát sanh chỉ ghi nhận đối tượng trong một tính cách mờ nhạt và không rõ
ràng. Nếu ấn tượng đầu tiên thiếu chú ý thì tâm sẽ nhanh chóng buông nó và
chuyển đến một đối tượng khác. Nhưng nếu ấn tượng được tìm thấy đáng chú ý thì
đối tượng sẽ trở thành tiêu điểm cho sự nối tiếp của tưởng và khiến cho những
đặc điểm của nó thành sâu sắc hơn. Tuy nhiên, những hành động của tưởng theo
sau này sẽ không cần thiết định rõ bản chất của đối tượng một cách rõ ràng và
chính xác. Chúng có thể nắm đầy đủ hơn những phẩm chất nổi bật của đối tượng:
nhưng đồng thời, do sức mạnh của vô minh (ít ra luôn luôn có mặt tiềm tàng
trong sự cấu thành tâm của phàm phu), chúng cũng sẽ thường khúc xạ đối tượng
qua môi trường méo mó chủ quan nảy sinh trong tưởng sai lạc. Tuy nhiên
tiến trình rối rắm, phức tạp này xảy ra quá nhanh dường như đối với người nhận
thức chỉ là sự ghi nhận tự động thuần túy của tưởng. Do vậy kinh diễn tả: 'Vị
ấy tưởng tri đất là đất.'
Nơi khác
trong các kinh Đức Phật kê ra bốn loại nhận thức điên đảo (vipallāsa) căn bản,
trong mỗi loại có thể xảy ra ở ba mức độ khác nhau (A.IV.5.9). Bốn điên đảo này
chấp giữ bất tịnh là tịnh, khổ là lạc, vô thường là thường, và vô ngã là ngã.
Những điên đảo này có thể xảy ra trên ba mức độ là tưởng (saññā), tâm (citta),
và các kiến giải (diṭṭhi). Tưởng điên đảo xảy ra khi
đối tượng chỉ được chú ý qua một trong bốn cơ cấu méo mó không có phát triển
thêm nữa. Nếu sau đó đối tượng được hồi tưởng tương tự thì tâm điên đảo xảy ra.
Và nếu, qua sự hồi tưởng lập lại, sự tin chắc phát sanh rằng cơ cấu này mang
lại một bức tranh chính xác về đối tượng, sự méo mó đã tiến triển thành kiến
điên đảo.
Từ cái
nhìn xa hiểu rộng của Phật giáo những tưởng điên đảo này không phải là những
sản phẩm cố hữu của sự nhận thức, nhưng là những lớp bao bọc ngoại lai cho hành
động trí năng đơn thuần mà tạo ra vẻ ngoài của chúng qua các duyên riêng biệt.
Những yếu tố chịu trách nhiệm cho các tưởng điên đảo là các phiền não (kilesa),
được dẫn đầu bởi tham, sân và si. Từ điều kiện tiềm tàng của chúng ở đáy của
tâm hộ kiếp, chúng thâm nhiễm những mức độ cao hơn của ý thức để rồi dẫn đến
cái nhìn lệch lạc qua toàn thể tri thức. Sự méo mó này có thể phân ra nhiều
loại từ những phản ứng sơ cấp của chúng ta đến các cảm thọ, đi qua những
xét đoán và tin tưởng phức tạp hơn, cho tới những hệ thống tư tưởng siêu hình
và tôn giáo tinh vi nhất. Mỗi phần như vậy làm nền móng cho phần kế tiếp, toàn
thể cấu trúc vẫn giữ nguyên vị thế chừng nào các phiền não còn tồn đọng.
Căn bản
nhất trong ba điên đảo là tưởng điên đảo, chính tưởng này mà Đức Phật ám chỉ
trong lời phát biểu rằng phàm phu 'tưởng tri đất là đất.' Do phi như lý tác ý
(ayoniso manasikāra) với các ngoại trần, các phiền não do duyên tưởng phát
sanh. Các ngoại trần này phô bày nhiều điểm sai khác, trong đó có sự khích động
của các phiền não tùy miên. Qua sức ép dồn nén, chúng điều khiển chức năng chú
ý của tâm để bám trụ vào các pháp này và tái diễn nhiều lần. 'Phi như lý tác ý'
này do duyên tưởng trên các pháp đó gán cho đối tượng những đặc tính mà nó
không thật sự có nhưng chỉ có theo hình thức qua lực áp đặt của các khuynh
hướng thuộc bất thiện tâm. Như vậy dưới ảnh hưởng của tham tùy miên đối tượng
sẽ có vẻ tịnh (subha); và lạc (sukha); dưới ảnh hưởng của sân đối tượng sẽ có
vẻ đáng ghét (paṭigha); và dưới ảnh hưởng của si đối tượng sẽ có vẻ
thường tại (nicca) và ngã (attā). [2]
Ta nên chú ý, sự áp đặt lầm lạc này có thể xảy ra ngay cả ở mức độ ý thức tiền
ngôn ngữ, ở nơi mà đối tượng chưa được giải thích và diễn dịch rõ ràng về
phương diện khái niệm.
Những
tưởng sai lạc do duyên các tùy miên phiền não có thể luân phiên phát ra những
phiền não và hiện khởi trên bề mặt bằng một hình thức khởi động. Tưởng về những
đối tượng là đẹp và khả ái sẽ kích thích tham và sự cố gắng chiếm hữu, hưởng
thụ chúng; tưởng về các pháp là khả ố sẽ kích thích sân và sự cố gắng để hủy
diệt chúng; tưởng về các pháp là thường tại và ngã sẽ cô động thành giáo điều,
do đó mà mang lại si nhiều hơn. Như vậy trong công việc của tâm hợp thế một
hoạt động hỗ tương cho thấy rõ: một mặt các tùy miên phiền não toát ra
những tưởng méo mó; mặt khác những tưởng méo mó này đánh thức các phiền não và
tăng cường những gốc rễ ăn sâu bên dưới. Nhưng toàn thể tiến trình này xảy ra
quá nhanh và vi tế đến nổi phàm phu không ý thức về nó. Kẻ đó lấy các tưởng làm
bản sao đáng tin cậy từ các pháp như chúng thực sự hiện hữu. Bằng cách đó phàm
phu bị đánh lừa, vì không nhận ra sự lừa bịp này, kẻ đó tiếp tục dựng lên trên
các tưởng méo mó cái tòa tháp của những phán đoán, giá trị và tín điều. Tòa
tháp này tạo thành quán tính của phàm phu.
Sau khi
tưởng tri 'đất là đất', trong giai đoạn nhận thức kế tiếp kẻ phàm phu tiếp tục
'tưởng tượng' đối tượng của mình. Phàm phu có thể tưởng tượng bằng cách này
hoặc cách nọ theo bốn cách trong kinh văn: 'Vị ấy tưởng tượng đất; tưởng tượng
trong đất; tưởng tượng từ đất; tưởng tượng 'đất là của ta.'[3]
Trước khi chúng ta có thể đề cập đến bốn cách này theo những ngụ ý đặc biệt,
điều cần thiết đầu tiên là xem xét hiện tượng chung về bản thân sự tưởng tượng.
Từ Pāli mà chúng tôi đã chuyển dịch là 'sự tưởng tượng,' maññanā, xuất phát từ
ngữ căn man, 'suy nghĩ'. Nhưng những gì được chỉ định bởi từ này không phải là
tầm đơn giản (vitakka), vốn mang đặc tính thiện hoặc bất thiện và có thể bao
gồm sự nắm lấy đối tượng đúng hoặc sai. Từ maññanā biểu thị một loại suy nghĩ
sai biệt và phát triển hơn, dứt khoát nó là bất thiện và luôn luôn bao gồm sự
nắm lấy sai lạc về đối tượng. Maññanā là sự suy nghĩ méo mó, mà dưới sự chi
phối của sở thích ô nhiễm, nó gán cho đối tượng của nó là những sở hũu hoặc
những tương quan khắn khít không phải dựa vào bản thân pháp đó, nhưng trong cấu
trúc hoạt động của sự tưởng tượng chủ quan. Đó là khuynh hướng tư tưởng hiểu
sai đối tượng của nó, dựa vào tưởng điên đảo đi trước nó tóm lấy đối
tượng bằng một cách trái ngược với thực tính. Chúng tôi đã cố gắng nắm
lấy sắc thái của từ Pāli này bằng cách dịch nó là 'sự tưởng tượng' mặc dù
từ tiếng Anh 'conceiving' hầu như không đánh giá đúng toàn nghĩa của
nguyên ngữ.
Mặc dù
được gắn liền với nhau mật thiết trong sự hợp nhất hành động ý thức, tuy thế
những yếu tố này có thể được chia thành hai bình diện trợ giúp qua lại: một mặt
là bình diện ý thức hoặc chủ quan bao gồm tâm và các tâm sở của nó; mặt khác,
là bình diện khách quan bao gồm những đối tượng nhận thức. Trung gian cho cả
hai mặt là các căn môn cung cấp xúc xứ cần thiết cho tâm và các ngoại xứ. Dưới
ảnh hưởng của vô minh, sự không hiểu biết căn bản về bốn thánh đế, những thành
phần vô ngã do duyên sinh của lãnh vực kinh nghiệm trải qua một sự biến
đổi đơn giản qua tầm nhận thức của phàm phu, kết tinh thành một sự đối mặt rõ
ràng giữa cái ngã và thế giới của nó như là đối lập với thực tại hiện tiền.
Bình diện nhận thức về kinh nghiệm phức tạp tự biểu hiện như là một chủ
thể riêng biệt với chính hành động nhận thức, người kinh nghiệm chấp giữ mỗi
trường hợp nhận thức thoáng qua. Bình diện khách quan đến lượt nó chấp nhận vẻ
ngoài của một thế giới kiên cố, bền vững lan rộng ra trước khi sự nhận
thức làm phạm vi cho hành động và sự liên quan của ngã. Từ thành lũy nội tại
chủ quan tâm nhìn ra thế giới như là cái gì mà nó có thể có một cách tiềm tàng;
do vậy nó có ý định kiểm soát, thống trị, và vận dụng thế giới như là một
phương tiện xét đoán sự xác nhận ngấm ngầm đối với cách hiện hữu nội tâm đáng
ngờ [4].
Sự phát
sanh ý tưởng về một chủ thể tách rời mang lại kết quả là sự dựng lên quan điểm
ngã tính phức tạp nhiều hơn, nó tạo ra những cố gắng để định rõ và đồng hóa với
ngã thể lươn lẹo đó. Đức Phật nêu ra sự phát triển tuần tự như vầy:
'Ta là'
(asmi)- đây là một vọng tưởng (maññita). 'Ta là cái này'(ayaṃ ahaṃ asmi)-
đây là một vọng tưởng. 'Ta sẽ là'... 'Ta sẽ không là'... 'Ta sẽ là sắc'... ' Ta
sẽ không là sắc'... ' Ta sẽ là tưởng... không là tưởng... không có tưởng ...
không phải là tưởng cũng không phải không là tưởng - đây là những vọng tưởng.
Những vọng tưởng này là bệnh, mụt nhọt, nọc độc. (M. 140)
Đoạn văn
này làm cho rõ ràng ý nghĩa ban sơ khiến cho phát khởi nhận thức sai lạc là ý
tưởng 'Ta là', nó phát sanh như là một kiêu mạn (asmimāna) bắt nguồn từ sự đánh
giá hoặc ước lượng lầm lẫn về sự kiện khách quan, và như là sự ham muốn
(asmichanda) biểu lộ một thôi thúc căn bản để sinh thành. Một khi ý tưởng 'Ta
là' đặt vào tiêu điểm của nhận thức và được tiếp nhận như là một đề tài để suy
tư, nó được tìm thấy ẩn chứa tính mập mờ. Trong lúc ý tưởng ' Ta' chắc chắn có
mặt như một ngữ nghĩa của mỗi kinh nghiệm (Ta thấy, ta nghe, ta nói, ta làm),
nó vẫn là một ngữ nghĩa mà không có bề trong. Khái quát mà nói nó chỉ hiện thể
một cách tiêu cực, tuy nhiên đó là sự tiêu cực lạ lùng, vì nó có ý muốn trở
thành mục tiêu thiết yếu của toàn thể cơ cấu kinh nghiệm, trung tâm và sự nâng
đỡ không thể thay thế của nó. Do vậy ngay khi ý tưởng 'Ta' hiện ra trong
tầm mắt như là ý định có mặt khắp nơi của hành động nhận thức, nó bắt đầu tìm
kiếm sự thỏa mãn cho chính nó, tính tiêu cực thuần túy của ngã đòi hỏi hình
thức và điều kiện trong lãnh vực của thực trạng cụ thể. Sự đòi hỏi này phàm phu
cố gắng gặp gỡ bằng sự đồng hóa cái ngã tưởng tượng với thành phần danh sắc nào
đó của hắn. Kết quả là quan niệm ' Ta là cái này,' việc đặt ngang hàng cái 'Ta'
phi lý với 'cái này', phần nào đó trong năm uẩn tạo thành sự nắm lấy của ái. Sự
tin chắc ' Ta là cái này' gọi là 'thân kiến' (sakkāyadiṭṭhi), nó
có thể nắm lấy bất cứ hình thức nào trong hai mươi bốn cơ sở tùy thuộc vào cái
ngã được đồng hóa trực tiếp với năm uẩn, hoặc được nhận thấy như là kẻ sở hữu,
vật chứa, hoặc tâm điểm nội tại của năm uẩn.[5]
Bấy giờ
sự đồng hóa nào đó với cái ngã tưởng tượng đã được nêu ra, kế đó phàm phu tiếp
tục suy đoán về sanh thú tương lai. Ở mức độ đầu tiên những tư biện của hắn
hướng đến một trong hai cực đoan siêu hình - thường kiến (sassatavāda) khi phàm
phu cho rằng ngã sẽ hưởng sự hiện hữu vĩnh hằng sau khi chết (Ta sẽ là), hoặc
đoạn kiến (ucchedavāda) khi hắn nghĩ rằng ngã sẽ bị hủy diệt lúc chết (Ta sẽ
không là). Nếu phàm phu chấp nhận thường kiến lúc đó hắn phải xác định cách
thức mà sự sống bất diệt xảy ra. Phàm phu làm việc này theo đường lối năm đặc
tính loại trừ thuộc về ngã như 'có sắc,'v.v... Do vậy, khởi đầu từ sự
phân tán vị ngã lúc sơ khai, phàm phu bị kẹt trong cái lưới của những tư biện
về 'cái ngã' quy định của hắn, không những nó cản trở hắn thành đạt quán trí về
bản chất của thực tại, mà còn khiến hắn bị cột trói vào vòng sanh hữu. Trong
khía cạnh này có ý nghĩa rằng chú giải thích nghĩa từ maññanā cạnh từ papañca,
Đại đức Ñāṇananda
trong một bài nghiên cứu sắc sảo đã giải thích là khái niệm bành trướng phát
sanh qua sự xâm nhập của ngã tưởng trong tiến trình kinh nghiệm.[6]
Chú giải
chỉ ra, hoạt động của tưởng tượng bị thúc đẩy bởi ba yếu tố tinh thần cơ bản mà
truyền đạt đến nó sự thúc đẩy và sự điều khiển đặc biệt. Ba yếu tố này là ái
(taṇhā), mạn (māna), và các kiến
giải (diṭṭhi).
Dưới ảnh hưởng của ái ngã kiến đưa đến sự biểu lộ trong các tư tưởng mong cầu
và ham muốn. Dưới ảnh hưởng của mạn nó trở nên rõ ràng trong những xét đoán và
so sánh do đó mà chúng ta tự xếp loại trong tương quan với những người khác như
cao quý, bằng nhau và thấp kém. Và dưới ảnh hưởng của các kiến giải, tức là
khuynh hướng lý thuyết của tư tưởng, ngã kiến phát sanh trong các giáo điều,
chủ nghĩa, những tư biện liên quan đến thực tại và bản chất của tự ngã và chỗ
trú của nó, thế giới.
Ba khía
cạnh của ngã này tạo ra ba sự thiết lập khái niệm tương ứng mà phàm phu thiên
về để ghi dấu ấn trên những yếu tố đang dựng lên của kinh nghiệm, tức là, những
ý tưởng 'đây là của ta'(etaṃ mama),
'đây là ta'(esohaṃ asmi),
và 'đây là ngã của ta' (eso me attā).[7]
Sự thiết lập 'đây là của ta' là sự phản chiếu sinh từ ái, vì chính chức năng
của ái chiếm hữu các pháp làm sở hữu của ngã. Sự thiết lập 'đây là ta' là sự
dựng lên nền tảng mạn, sự kiêu mạn 'Ta là' (asmimāna), cái gốc của những xét
đoán so sánh sau này. Và sự thiết lập 'đây là ngã của ta' là sự diễn giải của
thân kiến, nó phát sanh khi tư tưởng 'Ta là' xảy ra nhiều lần và được nắm lấy
như là chứng cứ cho cái ngã trường tồn, sau đó được đồng hóa với năm uẩn. Cùng
bộ ba trong những yếu tố tinh thần này cũng nằm đằng sau cụm từ ' những tùy
miên tạo tác 'Ta', tạo tác 'của ta' và mạn (ahaṃkāramamakāramānānusaya) thường xảy ra trong các kinh.[8]
Ở đây, ái có chức năng làm nguyên nhân cho sự tạo tác 'của ta', các kiến giải
và mạn làm nguyên nhân cho sự tạo tác 'Ta', và riêng mạn làm 'mạn tùy miên.'Để
dịch một cách khá chính xác những thuật ngữ của cụm từ này thật là quan trọng,
ngay cả phải chấp nhận vụng về, để nhấn mạnh sự kiện rằng những sở hữu về 'cái
Ta' và 'cái của ta' mà chúng ta quy cho các pháp không phải là thực chất đối
với bản thân các pháp, nhưng chỉ là những giả pháp do tâm tạo ra và gán ghép
cho những yếu tố nhận thức bên dưới bức màn chắn của vô minh là do hướng ngoại.
Trong
kinh này, Đức Phật giải rõ bốn cách mà phàm phu tưởng tượng mỗi phần trong hai
mươi bốn cơ sở. Lấy đất làm ví dụ, không có bất cứ giải thích thêm nào nữa, mẫu
thức tưởng tượng của vị ấy có thể được diễn dịch như vầy: 'Vị ấy tưởng tượng
đất; vị ấy tưởng tượng trong đất; vị ấy tưởng tượng từ đất; vị ấy tưởng tượng
'đất là của ta.' Những cụm từ khó hiểu này tự nhiên phát khởi vấn đề về nội
dung chính xác. Đại đức Ñāṇananda
gợi ý rằng bốn sự phối hợp nên được hiểu như 'một minh họa về sự ràng buộc của
phàm phu đối với cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ,' trên những cơ sở mà ba hình
thức tưởng tượng đầu tiên nắm lấy đối tượng ngang qua một trường hợp riêng biệt
trong biến cách của danh từ chỉ định- tức là, qua đối cách, vị trí cách, và
công cụ cách một cách tương ứng.[9]
Tuy nhiên, trong khi sự thực là ba cách tưởng tượng được diễn đạt phù hợp với
mẫu biến tố của ngôn ngữ, nó đáng ngờ rằng cách lý giải thuần túy ngữ học có
đánh giá đầy đủ chiều sâu của tình huống hay không.
Đối với
chúng ta ý nghĩa chính của mẫu thức có vẻ là thuộc bản thể học hơn là thuộc ngữ
pháp. Yếu tố ngữ pháp là chắc chắn, nhưng nó chỉ có mặt như là sự chuyển hóa
của bản thể học tuyệt đối, không phải là sự quyết định chính yếu. Về cách lý
giải được đề xuất ở đây, mỗi cách tưởng tượng trình bày sự nỗ lực bởi phàm phu
(ở mức độ tiền suy tư cũng như mức độ suy tư) để cho bản chất tích cực đối với
tính khái niệm tiêu cực của cái ngã đã định, bằng việc đặt sự liên hệ giữa
chính vị ấy như là chủ thể nhận thức và pháp được tưởng tri như là đối tượng
tương quan của nó. Kinh nghiệm luôn luôn có quan hệ hoàn toàn trong cấu trúc.
Các pháp tồn tại không như là những đơn vị biệt lập, nhưng như là những dự phần
trong một mạng lưới rộng lớn của các mối quan hệ mà có thể bị phân hủy
chỉ trong tư tưởng và không bao giờ trong thực tế. Những tương quan mà các pháp
mang đến nhau có những loại sai biệt. Chúng trình bày sự tương quan đồng nhất
khi hai pháp được coi như là những trường hợp riêng biệt của một loại tổng
quát, hoặc khi cùng pháp đó được xét từ những quan điểm khác nhau; sự liên hệ
cố hữu, khi một pháp được chứa bên trong một pháp khác; sự liên hệ nhân quả, khi
một pháp sanh khởi từ một pháp khác như là nguồn của nó; và sự liên hệ tương
phản khi hai pháp được phân biệt bởi những đặc tính khác nhau hoặc bởi sự tách
rời không gian. Ở mức độ kinh nghiệm tất cả những mối quan hệ này chỉ thuộc về
các pháp bị quan sát và đối với các quan hệ này, sự ứng dụng chính đáng bị hạn
chế. Tuy nhiên, do duyên căn bản vô minh phàm phu tiếp tục xây dựng (ngấm ngầm
hoặc công khai) trên nguyên lý của phép loại suy với những mối quan hệ kinh
nghiệm này, một mối quan hệ giữa những gì thực sự có mặt trong kinh nghiệm nhận
thức của vị ấy và những gì không bao giờ có thể có mặt nhưng chỉ được giả định,
tức là, 'Ta' hoặc 'ngã' của vị ấy. Do vậy, theo mẫu liên hệ của các pháp bị
quan sát, vị ấy sẽ có khuynh hướng đồng hóa với một pháp đặc biệt 'x', khi vị
ấy tưởng tri 'x'; hoặc coi chính mình như là thuộc về pháp đó, khi vị ấy tưởng
tri 'trong x'; hoặc coi chính mình như là khác với pháp đó, hoặc bằng cách
tương phản đơn giản hoặc bằng cách sinh khởi, khi vị ấy tưởng tri từ 'x'. Hoặc
vị ấy có thể cố gắng chiếm hữu pháp đó như là một vật phụ thuộc của chính bản
thân trong bất cứ phần nào của những cách này. Trường hợp tưởng tri thứ tư, tư
tưởng 'x là của ta,' nêu ra sự nhận thức tách rời đối với tính cách chiếm hữu
này của ngã thức; ở đây kẻ phàm phu vươn tay ra và đòi hỏi quyền sở hữu qua đối
tượng đó, mang lại chức năng thủ lợi của ái đến cực điểm.
Như vậy
sự kiện tưởng tượng hóa ra là một tiến trình kép của sự đồng hóa và chiếm hữu.
Qua ái phàm phu chiếm hữu các pháp là 'của ta', qua mạn và các kiến giải vị ấy
đồng hóa chúng là 'Ta' hoặc 'ngã của ta.'Nếu sự tưởng tượng chỉ bao gồm một
phóng ảnh tưởng tượng, như trong mơ mộng hoặc những trò chơi giả vờ, nó vẫn là
mối bận tâm vô hại, thậm chí chỉ giải trí. Tuy nhiên, bởi vì trọng tâm của sự
kiến tạo tưởng tượng này là ý tưởng về một cái ngã, một dòng năng lượng cảm xúc
hùng hậu nảy sinh để đầu tư trong tiến trình đó. Và bởi vì ý tưởng về một cái
ngã thiếu nền tảng, sự đầu tư cảm xúc này chỉ mang lại thất vọng như việc trả
lương để cho thôi việc. Nó liên tục bị phản bội bởi những sự kiện kinh nghiệm
khắc nghiệt, do sự vô thường của tất cả pháp bị nắm lấy là 'Ta' và 'của ta'
thường hằng, và đối với kẻ vô văn phàm phu kết quả là khổ trong tương lai.
Kẻ vô
văn phàm phu coi sắc, thọ, tưởng, hành và thức là ngã; hoặc ngã như là có những
cái này, hoặc chứa đựng chúng, hoặc bị chúng chứa đựng. Vị ấy bị ám ảnh với tư
tưởng: ' Ta là sắc, v.v...; sắc, v.v...là của ta' Sắc của vị ấy, v.v...thay đổi
và biến dạng. Do duyên cớ này trong vị ấy phát sanh sầu, bi, khổ, ưu và não.
(S.III.I.I.I.)
Đối với
bốn cách thay thế của tưởng tượng, Đức Phật thêm một cụm từ nữa để kết luận mô
hình nhận thức của phàm phu: 'vị ấy hoan hỷ trong đất' (pathaviṃ abhinandati). Động từ 'hoan
hỷ,' như chú giải vạch ra, chỉ sự hoạt động của ái, y như cụm tính từ của thánh
đế thứ hai diễn tả ái là ' hoan hỷ chỗ này chỗ nọ' (tatratatrābhinandinī). Sự
thêm vào này phát sanh nghi vấn tại sao, khi ái đã được chỉ rõ như là được ngụ
ý trong sự tưởng tượng, Đức Phật giới thiệu lần nữa dưới một đầu đề khác. Lý do
dường như là để tách riêng ra khía cạnh khác biệt và quan trọng đối với việc
hoạt động của ái. Theo phân tích của Phật giáo, bất cứ yếu tố tinh thần cá nhân
nào có khả năng sử dụng nhiều chức năng khác nhau dựa vào những ngữ cảnh sai
biệt mà nó xảy ra và để mang lại những chức năng khác nhau này trong tầm mắt
nhiều từ miêu tả tương đương là cần thiết. Ái không những chịu trách nhiệm cho
tưởng sai lạc trong các đối tượng khả ái và hấp dẫn, hoặc cho sự tưởng tượng
các pháp là 'của ta' và sự thúc đẩy để thu cho được chúng. Nó cũng chịu trách
nhiệm cho các tiến trình tâm do đó mà chúng ta hoan hỷ trong các đối tượng và
cố gắng khai thác chúng vì sự vui thích mà chúng ta tưởng tượng chúng có thể
sinh lợi. Khía cạnh cuối cùng này, nó là sự mở rộng đặc biệt của từ 'hoan hỷ,'
có được sự nổi bật đặc biệt từ phối cảnh Phật giáo bởi vì nó là sự khao khát
không thể thỏa mãn đối với sự hoan hỷ mà duy trì sự chuyển vận về phía trước
của bánh xe luân hồi. Khi tìm thấy sự thỏa mãn (assāda) trong những đối tượng
nhận thức của nó, tâm khao khát một sự lập lại niềm vui thích liên tục. Một khi
sự thỏa mãn tạm thời của nó giảm xuống và dục bị kích thích một lần nữa, sự tìm
kiếm niềm vui thích nhiều hơn được tiếp diễn. Vì ái không bao giờ có thể bị
diệt chỉ bằng sự quy phục những đòi hỏi của nó, sự chấm dứt sinh lực lúc chết
không kết thúc cái vòng luân hồi, nhưng chỉ mang lại cơ hội cho ái hồi phục sự
tìm kiếm niềm vui thích của nó trong một hình thể mới, sự thừa kế cho
cùng loại tâm tương tục mà nó đã trú trước đây: 'Vì chúng sanh bị chướng ngại
bởi vô minh và bị ái trói buộc. Sự tái sanh tương lai xảy ra vì lý do hoan hỷ
chỗ này chỗ kia (M.43). Như vậy từ sự phát biểu phàm phu hoan hỷ trong đối
tượng, Đức Phật chỉ ra bằng ngụ ý rằng chính vì tiến trình tâm hợp thế mà giữ
vị ấy trong kiết sử của khổ luân hồi. Chính Đức Phật kéo sự liên kết này thật
tỉ mỉ sau đó trong kinh khi mà trong phần giải thích về duyên khởi,
Ngài tuyên thuyết 'hỷ lạc là căn bản của đau khổ' (&13)
Ở đoạn
giải thích kế tiếp, Đức Phật truy ra lý do đằng sau những tư tưởng si ám của
phàm phu về sự tưởng tượng và hoan hỷ. Chính Đức Phật cho biết lý do, Ngài
tuyên thuyết: 'Bởi vì nó không được hiểu rõ bởi vị ấy.' Hiểu rõ bất cứ pháp đặc
biệt nào là lãnh hội nó bằng cách của ba loại trí sung mãn (pariññā) được đề
cập trong chú giải: Trí sung mãn thắng tri (ñātapariññā), trí sung mãn quán sát
(tīraṇapariññā) và trí sung mãn từ bỏ
(pahānapariññā).
Ba khía
cạnh lãnh hội này theo nhau trong những giai đoạn nối tiếp. Trong giai đoạn trí
sung mãn thắng tri, đối tượng thô được phân tích thành 'các pháp' cấu tạo của
nó và mỗi pháp bị giới hạn trong tướng riêng biệt, chức năng, sự biểu hiện và
nhân gần của nó. Phương pháp này chỉnh lý sự giả định nghĩa chung của thực thể
đồng nhất đơn giản, phơi bày vị trí của chúng một thế giới của toàn thể tập hợp
được tạo thành bằng những thành phần khách quan và tạm thời gom lại qua một
chuỗi của các duyên. Trong giai đoạn thứ nhì, trí sung mãn quán sát, các pháp
vốn là kết quả việc phân tích ở trên được xem xét liên quan tới ba tướng phổ
biến - vô thường, khổ và vô ngã; theo đó xu hướng tưởng tri các pháp như là
thường, lạc và ngã bị chặn lại và đạo lộ đó đã mở ra cho sự quán chiếu rõ
ràng thực tính của chúng. Cuối cùng, trong giai đoạn thứ ba, dục và tham đối
với các đối tượng nhận thức bị diệt bằng trí sung mãn từ bỏ.
Từ việc
thiếu ba loại trí sung mãn này là nguyên nhân căn bản đằng sau các tưởng sai
lạc, các tưởng tượng, và hoan hỷ. Đức Phật ngụ ý rằng đạo lộ để diệt những nhận
thức si ám, chúng chỉ gia tăng vòng luân hồi và tích lũy đau khổ, là phát triển
trí tuệ- cả tuệ hợp thế khi quán về bản chất duyên sinh, vô ngã của các
pháp, và tuệ siêu thế trong thánh đạo nhận thức vô vi giới, niết bàn.
Mô hình
diễn giải tương tự, tác động từ tưởng sai lạc qua tưởng tượng và hỷ lạc đối với
sự thiếu hiểu rõ được áp dụng cho mỗi phần trong hai mươi bốn cơ sở bắt đầu với
đất. Để khảo sát những tưởng tượng trong tương quan với những cơ sở này một
cách riêng biệt sẽ đòi hỏi sự thảo luận chi tiết hơn nơi đây. Tuy nhiên, một
vài điểm phát sanh trong kinh đòi hỏi lời bình nào đó của riêng chúng ta. Mặc
dù những nhận xét của chúng ta sẽ chỉ nói đến những tưởng tượng sanh khởi qua
các kiến giải, nó phải luôn luôn được ghi nhớ rằng tất cả ba yếu tố- ái, mạn và
các kiến giải- thúc đẩy các tưởng tượng trong mỗi cơ sở. Những giải thích của
các phần khác có thể được tìm thấy trong truyền thống chú giải theo bản dịch
của kinh này.
Những
tưởng tượng của phàm phu về bốn nguyên tố- đất, nước, lửa và gió- có thể bị nắm
lấy để thể hiện những cố gắng của vị ấy muốn đặt bản thân trong tương quan với
thế giới vật chất. Phàm phu bị vô minh cưỡng chế khiến giải thích các sắc pháp
phù hợp với thành kiến ngã chấp, vị ấy có khuynh hướng tưởng tượng các sắc theo
những nhà duy vật như là giống với ngã, hoặc theo các nhà duy linh như là nhà
ở, xe, dụng cụ thuộc vật chất.
Những
tưởng tượng về các cơ sở từ 'chúng sanh' lên đến tận 'phi tưởng phi phi tưởng
xứ' biểu lộ những cách giải thích mối liên hệ của phàm phu với những chúng sanh
khác. Những tưởng tượng của vị ấy về Brahmā và Pajāpati, hai biểu tượng cổ Ấn
về thần sáng tạo (mặc dù chú giải đặt Pajāpati ngang với Māra) được quan tâm
đặc biệt nơi đây. Vì chúng sanh cõi trời được hiểu rõ như là một người riêng
biệt, phàm phu sẽ không đồng hóa trực tiếp. Nhưng bản thân vị ấy có thể tưởng
tượng ở trong chư thiên ('trong vị ấy chúng ta sống, di chuyển và hiện hữu')
hoặc sinh khởi từ chư thiên. Ta có thể hiểu những tưởng tượng về bốn cõi vô
sắc, trong lời giải thích mở rộng, như là những cụ thể hóa thuộc bản thể học về
các thiền chứng tương ứng, được nắm giữ để bộc lộ một cái ngã siêu việt tỏa đi
khắp nơi (trong không vô biên xứ), nhận thức khắp vũ trụ (trong thức vô biên),
không thể diễn tả về sự hiện hữu xác thực (trong vô sở hữu xứ), và không thể
diễn tả bằng những từ tích cực hoặc tiêu cực (trong phi tưởng phi phi tưởng
xứ.) Nhóm cơ sở kế tiếp phân loại những đối tượng nhận thức thành sở kiến, sở
văn, sở đối xúc và sở tri, nó đi vào phạm vi tưởng tượng của phàm phu khi vị ấy
gán cho đối tượng đó là những sở hữu thuộc về 'của ta', 'Ta' và 'tự ngã.' Ta có
thể so sánh giáo giới của Đức Phật sau đó cho người tu học để kềm hãm tưởng
tượng những đối tượng này với lời hướng dẫn tóm lược nổi tiếng của Ngài cho
Bāhiya Daruciriya- Sự khích lệ sâu sắc đến nổi Phật ngôn này đã đưa
Bāhiya đến giác ngộ tại chỗ: 'Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe
sẽ chỉ là cái nghe; trong cái đối xúc sẽ chỉ là cái đối xúc; trong cái thức tri
sẽ chỉ là cái thức tri. Này Bāhiya, đó là cách ngươi phải tự học tập' (Udāna.
I.10). Những gì phải được loại bỏ khỏi sự nhận thức chính xác là những gán ghép
chủ quan sai lạc, chúng bóp méo những đối tượng đang đến và đưa ra những phán
đoán và tin tưởng thuộc tà kiến.
Những cơ
sở về sai biệt, đồng nhất và tất cả trở thành đối tượng của những quan điểm bao
gồm một mức độ triết học trừu tượng cao cấp. Sự nhấn mạnh vào khía cạnh sai
biệt của kinh nghiệm nổi bật trong tưởng thông thường dẫn đến bản thể học đa
nguyên mà ca tụng tính cơ bản của sai biệt và đa dạng. Sự nhấn mạnh vào khía
cạnh hợp nhất nổi bật trong các thiền chứng dẫn đến bản thể học nhất nguyên đặt
trọng tâm vào tính cơ bản của nguyên lý hợp nhất- 'Nhất thể bất nhị.' Ý tưởng
về toàn thể mà đến qua kinh nghiệm thiền hoặc định đề trí thức dẫn đến triết
học kiểu phiếm thần hoặc nhất nguyên, dựa vào phương cách 'tất cả' được dung
dưỡng về mặt khái niệm. Hai vị trí cuối cùng có thể được thấy như là tiêu biểu
cho hai mặt của chủ nghĩa thần bí, siêu nghiệm và nội tại; chủ thuyết hợp nhất
duy trì bản chất siêu nghiệm của ngã hoặc nguyên lý thần học, chủ thuyết toàn
thể duy trì bản chất nội tại hoặc lan tỏa cùng khắp.
Cơ sở
cuối cùng, niết bàn, ở đây chỉ quan niệm của phàm phu về mục đích tối thượng
hoặc lợi ích tột cùng. Chú giải cắt nghĩa là năm hình thức của 'niết bàn hiện
tại'- đam mê trong các dục lạc và tứ thiền. Có lẽ cách giải thích này quá hẹp
và ta nên mở rộng ý tưởng về niết bàn để cũng bao gồm quan niệm của Phật giáo,
được thấy từ quan điểm của kẻ vô văn phàm phu. Nhưng điểm thiết yếu vẫn tương
tự- rằng trong vô minh kẻ bị mê hoặc thế giới không thể cưỡng lại sức cám dỗ để
hợp nhất ngay cả chi tiết này, mà đối với người Phật tử nghĩa là sự diệt ngã
chấp và những động cơ liên quan đến ngã, trong cái khung ảnh ngã kiến của vị ấy
về thực tại.
Trong
phần giải thích thứ nhì của kinh này, Đức Phật tiếp tục thảo luận mô hình nhận
thức của bậc hữu học (sekha)- vị thánh đệ tử đã vượt qua mức độ của các phàm
phu và đến mức độ của các bậc thánh. Về loại hình đặc trưng của chánh Pháp, bậc
hữu học là một trong ba loại thánh nhân đầu tiên- bậc dự lưu (sotāpanna), bậc
nhất lai (sakadāgāmī) và bậc bất lai (anāgāmī). Thánh nhân thứ tư và cuối cùng,
bậc A la hán, được gọi là vô học, không phải do thiếu học nhưng bởi vì vị
ấy đã đến đích của việc học, tức là chứng ngộ cứu cánh giải thoát.
Bậc dự
lưu là vị đệ tử mà đã thể nhập Pháp và đã diệt ba trong mười kiết sử buộc trói
vào vòng luân hồi- thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Vị ấy sẽ tái sinh trong
vòng trời người tối đa bảy đời sống trước khi chứng niết bàn hoàn toàn. Bậc
nhất lai, do tu tập đạo xa hơn, làm yếu đi tham, sân và si. Vị ấy sẽ trở lại
thế giới này một lần nữa trước khi đạt đến niết bàn. Bậc bất lai đã diệt những
kiết sử dục ái và sân, bằng cách ấy tự thân giải thoát năm hạ phần kiết sử và
bảo đảm tái sinh ở tịnh cư thiên (suddhāvāsa) thuộc phạm thiên giới bậc trên,
nơi đó vị ấy sẽ hoàn chỉnh sự tu tập nội tâm.Tất cả bậc hữu học vẫn còn lệ
thuộc năm kiết sử vi tế- sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử và vô minh- do vậy vẫn
có công việc để làm nhằm mục đích đạt đến giải thoát. Nhưng các bậc bất lai đều
được trang bị với các căn tinh thần có khả năng phát triển đạo đến cùng. Chư vị không tuột trở lại vị trí phàm phu nữa, nhưng tự
thân ứng dụng với sự tu tập trong tăng thượng giới, tăng thượng tâm và tăng
thượng tuệ, do đó chư vị có thể bứng gốc các chướng ngại còn lại và thực
hiện được mục đích. Bởi vì các bậc hữu học tu tập trong ba nhánh của tăng
thượng học, người ta gọi là các bậc hữu học.
Tương
phản với phàm phu mà 'tưởng tri đất là đất,'v.v... vị hữu học được nói ' thắng
tri đất là đất'(abhiññā), theo chú giải, ngụ ý hai loại hiểu rõ bậc thấp, ít
nhất một phần nào đó- tức là, sự lãnh hội các pháp qua các tướng và các
duyên đặc biệt, sự quan sát chúng qua ba tướng. Trong các kinh (sutta) và vi
diệu pháp (Abhidhamma), từ abhiññā hoặc chuyển hóa ngữ của nó thường được
dùng để chỉ sự nhận thức tứ thánh đế. Do đó, trong khi phàm phu và hữu học đều
tưởng tri đối tượng ý thức trong giai đoạn ban đầu của tưởng không được đề cập
nhưng chỉ được ngụ ý bởi kinh này,[10]những
phương cách của hai hạng từ điểm này trở lên tách ra hai hướng khác nhau. Trong
khi phàm phu tiếp tục tưởng tri đối tượng qua tưởng sai lạc, bậc hữu học thấy
rõ đối tượng trong thực tính không bị bóp méo. Vị ấy hiểu nó là một tập hợp của
vô thường, các yếu tố do duyên sinh mà thánh đế về khổ đã bao gồm. Vị ấy biết
rằng những sức mạnh vật chất và tinh thần mà kết hợp trong tiến trình của tưởng
sinh khởi qua ái trước và do bứng gốc ái hiện tại qua sự phát triển thánh đạo
ta có thể làm cho tiến trình này dừng lại. Do vậy không giống như phàm phu vị
hữu học không bị vướng một cách vô thức trong mạng lưới của khái niệm bành
trướng, nhưng ứng dụng năng lực cho công việc cắt bỏ các triền phược cản trở
con đường giải thoát của vị ấy trong tương lai.
Do đó,
Đức Phật sách tấn vị hữu học khắc phục tưởng tượng và hoan hỷ: 'vị ấy đừng
tưởng tượng (chính mình) là đất; vị ấy đừng tưởng tượng (chính mình) trong đất;
vị ấy đừng tưởng tượng (chính mình) từ đất; vị ấy đừng tưởng tượng 'đất là của
ta'; vị ấy đừng hoan hỷ trong đất.'Lý do có giáo huấn này là vì một tàn tích
của các khuynh hướng về mạn và hỷ lạc còn dây dưa trong tâm tính của vị hữu
học. Vị ấy đã trừ tuyệt kiến tùy miên và vì thế không còn bị tấn công bởi các
tưởng tượng do duyên các tà kiến. Nhưng vị ấy chỉ làm yếu đi, chưa trừ tận gốc,
các phiền não của ái và mạn, vì vậy vẫn có kẻ hở cho các tưởng tượng công phá
mà phát sanh qua những động cơ này. Thỉnh thoảng khi buông thả niệm, vị ấy vẫn
còn chìu theo những ý nghĩ về 'Ta' và 'của ta', mặc dù vị ấy không bao giờ cho
phép những ý nghĩ này chai cứng lại thành những định kiến.
Vì thân
kiến (sakkāyadiṭṭhi) và mạn 'Ta là' (asmimāna) cả hai xoay quanh ý thức về ngã
tính, vấn đề có thể phát sanh trong mối liên hệ chính xác giữa hai pháp; đặc
biệt là ta có thể hỏi làm thế nào mạn có thể xảy ra trong sự vắng mặt của bất
cứ kiến giải về một cái ngã trong năm uẩn. Những điểm đang bàn cải này được đưa
ra và Tỳ kheo Khemaka đã giải thích trong một bài kinh mang tên vị ấy
(S.III.1.9.7). Đại đức Khemaka, là một bậc bất lai, được hỏi bởi một nhóm tỳ
kheo làm thế nào vị ấy có thể tự mình từ bỏ một kiến giải về ngã mà chưa phải
là một A la hán. Đại đức Khemaka trả lời theo nghi vấn của họ:
Tôi
không nói 'Ta là' (asmi) thuộc về sắc, thọ, tưởng, hành, hoặc thức. Tôi cũng
không nói có một 'Ta là' ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Tuy nhiên, một ý
thức rằng 'Tôi là' vẫn được tìm thấy trong tôi liên quan đến năm thủ uẩn; nhưng
tôi không suy xét 'Ta là cái này' ... Mặc dù vị thánh đệ tử đã từ bỏ năm hạ
phần kiết sử (trở thành bậc bất lai), tuy thế một mạn dư sót 'Ta là' (anusahagato
asmī ti māno), dục 'Ta là' (asmī ti chando), tùy miên 'Ta là' (asmī ti anusaya)
vẫn tồn đọng trong vị ấy liên quan đến năm thủ uẩn.
Ý niệm
'Ta là' là một ý tưởng tự phát, không chủ đề sanh từ sự vô ý thức
cơ bản về bản chất vô ngã của các pháp. Nó trở nên rõ ràng trong tâm bằng một
hình thức kép- như một mạn hoặc sự đánh giá sai lầm về chính mình trong tương
quan với thực tế và như một dục được hướng dẫn về phía sự hiện hữu bền vững của
mình. Về cơ bản hai hình thức này thuộc tiền suy tư. Mặc dù thường được củng cố
bởi sự suy tư sau đó, chúng không đòi hỏi phải có nó, nhưng có thể tồn tại
trong sự vắng mặt hoặc hiện diện của nó. Kiến giải về một cái ngã, mặt khác, là
một sự suy xét có chủ đề liên kết với sự phản xạ như một phần cấu trúc vốn có của
nó. Ngay cả khi được nắm giữ một cách giáo điều hoặc chấp nhận theo đức tin mà
không có kiểm chứng, ít ra nó cũng bao gồm một phần nhỏ sự cân nhắc mà đẩy mạnh
một lập trường lý thuyết như là sản phẩm nối kết của nó. Nền tảng cho sự
suy nghĩ chín chắn là ý tưởng nguyên sơ về bản ngã. Ý niệm 'Ta là,' tiến triển
thành một kiến giải về ngã khi phàm phu chấp nhận ý niệm đó ở giá trị bề ngoài
của nó- khi hướng về một cái 'Ta' thật- và cố gắng lấp đầy nó bằng sự đồng
hóa uẩn này hoặc uẩn nọ trong năm uẩn như là cái 'Ta' này. Vị hữu học
không bao giờ có thể phạm một lỗi lầm như thế nữa. Do thâm nhập giáo pháp vị ấy
đã thấu hiểu ảo tưởng về cái ngã và do vậy không có khuynh hướng đi tìm sự đồng
hoá trong số năm uẩn. Tuy nhiên, chừng nào dấu vết vô minh vẫn chưa xóa sạch
trong những tầng lớp sâu thẳm của tâm hộ kiếp, một cảm giác giảm nhẹ của ngã
tính còn vương vấn qua kinh nghiệm của vị ấy trong hình thức của ái và mạn vi
tế.
Đến đây
Đức Phật huấn thị cho vị hữu học khắc phục tưởng tượng để mà vị ấy có thể thành
tựu sự hiểu rõ các cơ sở. Trong khi đó kẻ vô văn phàm phu tưởng tượng các uẩn
qua ái, mạn, và các kiến giải, như 'Đây là của ta, đây là ta, đây là ngã của
ta,' vị hữu học biết đảo ngược cách suy xét này. Ứng dụng thắng trí đối với các
uẩn, vị ấy quán xét chúng như vầy: 'Đây không phải của ta, đây không phải
là ta, đây không phải là ngã của ta' (n'etaṃ, mama, n'eso'haṃ asmi, na m'eso
attā).[11] Do quán thứ nhất vị ấy giảm
nhẹ ái, do quán thứ nhì vị ấy giảm nhẹ mạn, do quán thứ ba, lợi ích cho tân tín
đồ trong sự tu học, đối với bậc hữu học chỉ dùng để củng cố sự giải thoát kiến
giải về ngã. Khi vị ấy kiên trì thực hành quán xét, tuệ của vị ấy dần dần phát
triển đến thuần thục, cho đến khi vị ấy trừ tuyệt những dấu vết cuối cùng của
vô minh, và với chúng, là những tưởng tượng chủ quan bắt nguồn từ ái và mạn.
Trong
phần giải thích thứ ba của kinh này diễn tả mô hình nhận thức của vị A la hán,
bậc thánh toàn thiện. Bậc hữu học và A la hán dự phần vào việc tự thân
chứng ngộ pháp. Sự khác biệt giữa hai bậc nằm ở mức độ mà sự chứng ngộ
này đã thâm nhập cấu trúc chủ quan. Đức Phật đã giải thích sự khác biệt
này như sau:
Ở đây,
một đệ tử của ta (tức là vị hữu học) thấy như thực tất cả sắc, thọ, tưởng, hành
và thức, như vầy: 'Đây không phải của ta, đây không phải là ta, đây không phải
ngã của ta.' Đến phạm vi này vị đệ tử là người tuân theo những chỉ dẫn và
khích lệ của ta, đã vượt qua nghi ngờ, từ bỏ do dự, đạt đến tự tin và sống
không lệ thuộc vào những người khác trong giáo pháp của bậc Đạo sư.
Ở đây,
một tỳ kheo, sau khi đã thấy như thực tất cả sắc, thọ v.v..., như vầy: 'Đây
không phải của ta, đây không phải là ta, đây không phải tự ngã của ta,' được
giải thoát không có chấp thủ. Đến phạm vi này vị tỳ kheo là một A la hán, bậc
thánh vô lậu ... vị ấy đã được giải thoát nhờ cứu cánh trí. (M. 35)
Đối với
bậc hữu học, sự thâm nhập chủ quan là từng phần. Vị ấy đã loại bỏ các tà kiến
tùy miên về ngã, nhưng vẫn phải phấn đấu để bứng gốc ngã thủ [12]
trong những hình thức vi tế hơn. Nhưng đối với vị A la hán, sự thâm nhập là
hoàn toàn. Vị ấy đã diệt tất cả mức độ của phiền não, do đó giải thoát ngay cả
khuynh hướng ý thức tự thân nhỏ nhặt nhất. Những cơ sở của nhận thức đã được
hiểu rõ, vô minh được từ bỏ tận căn để, ái, mạn và các kiến giải đã đến hồi cáo
chung.
Do vậy,
vị A la hán không còn tưởng tượng trong bất cứ đường lối nào. Vị ấy không
tưởng tượng các xứ, vị ấy không tưởng tượng trong các xứ, vị ấy không tưởng
tượng từ các xứ, vị ấy không tưởng tượng các xứ là 'của ta.' Điều này không có
nghĩa là vị A la hán không còn hiểu biết. Bộ máy nhận thức của vị ấy vẫn tiếp
tục hoạt động một cách đầy hiệu quả, thậm chí tinh tế và nhạy cảm hơn giai đoạn
trước khi vị ấy chứng ngộ. Nhưng bây giờ nó chỉ ghi vào tâm các pháp gây tác
động khi chúng xuất hiện, không có bóp méo hoặc xuyên tạc. Vị A la hán
không còn thấy các đối tượng khả ái như là hấp dẫn, vì vị ấy đã giải thoát
tham; vị ấy không còn thấy các đối tượng không khả ái như là ghê tởm, vì vị ấy
đã giải thoát sân; vị ấy không còn thấy các đối tượng khó phân biệt như là rối rắm,
vì vị ấy đã giải thoát si. Vị ấy không thủ không xả. Bất cứ pháp nào chính nó
có mặt thì tự hiện bày đúng như thực. Nó được thấy trong nguyên thể của thực
tại, nó bị tước bỏ tất cả sự tô son điểm phấn và những khái niệm bành trướng.
Đối với vị A la hán trong cái thấy chỉ có cái thấy, trong cái nghe chỉ có cái
nghe, trong cái đối xúc chỉ có cái đối xúc, trong cái thức tri chỉ có cái thức
tri. Không có ý tưởng 'Ta thấy, Ta nghe, Ta đối xúc, Ta thức tri,' không có ý
tưởng 'cái thấy, cái nghe, cái đối xúc và cái thức tri là 'của ta.'
Chắc
chắn vị A la hán hoàn toàn tự do sử dụng những từ và những chỉ danh như 'Ta' và
'của ta'. Sự giải thoát ràng buộc của các khái niệm không ngụ ý nghiêm cấm dùng
đến chúng. Nhưng vị A la hán phô diễn chúng chỉ như là những phương tiện vì mục
đích giao tiếp. Vị ấy không bị chúng đánh lừa nữa; vị ấy không còn nắm giữ
chúng làm động cơ cho những giả định. Vị ấy hiểu chúng như là những thành ngữ
chế định, không phải là những từ mô tả các loại thực tính.Vị ấy có thể nói '
Đây là y của ta,' nhưng vị ấy ý thức rằng cái 'của ta' chỉ phát sanh qua cách
dùng chế định và không phải là sự biểu thị cho một sở hữu chủ đích thực. Trong
những ý nghĩ của vị ấy chỉ có 'y này được khoác trên thân này.' Vị ấy có thể
nói ' Ta đang đi vào làng,' nhưng vị ấy biết rằng không có người đi, chỉ là sự
diễn hành của các uẩn được bao gồm trong hành động đi.
Bởi vì
vị A la hán đã bứng gốc mạn nên không còn tìm kiếm hỷ lạc khi đối mặt với những
đối tượng. Vị ấy không còn theo đuổi chúng vì sự mong mỏi vui hưởng. Trong sự
vắng mặt của hỷ lạc không có điều kiện cho sanh tử luân hồi. Do vậy, khi đến
cuối đời sống hiện tại, vị A la hán chấm dứt vòng luân chuyển dài lê thê và
cũng chấm dứt sanh, già và chết. Thành quả này chính là kết thúc đau khổ.
Tương tự
vị A la hán, Đức Phật cũng đạt đến sự tận diệt các phiền não, do vậy mô hình
nhận thức của Ngài như được cho thấy trong phần kế tiếp, về cơ bản giống như mô
hình của vị A la hán. Đức Phật thắng tri như thực mỗi phần cơ sở nhận thức và
không tưởng tượng chúng nữa vì Ngài đã bứng gốc ái, mạn và các kiến giải. Mức
tiến triển của Ngài vượt qua mức tiến triển của vị A la hán thanh văn trong hai
khía cạnh chính, một là liên quan đến phạm vi trí tuệ của Ngài. Khía cạnh kia
liên quan đến sự giác ngộ đầu tiên của Ngài.
Khía
cạnh đầu tiên được cho thấy bằng một thay đổi không đáng kể xảy ra trong
đoạn diễn giải phần 'Như Lai'. Trong khi vị A la hán thanh văn không tưởng
tượng các pháp chỉ vì vị ấy đã hiểu rõ chúng (pariññātaṃ), Đức Phật không tưởng
tượng chúng bởi vì Ngài đã hiểu rõ chúng đến cực biên (pariññātantaṃ). Sự biến
đổi nhỏ nhặt này, như chú giải giải thích, hướng đến sự sai biệt trong những
phạm vi riêng giữa thanh văn trí và Phật trí. Các vị thanh văn có thể đạt đến
giải thoát bằng sự lãnh hội một phân đoạn giới hạn của các pháp có thể biết
được, nhưng Đức Phật chứng nghiệm giải thoát qua nhất thiết chủng trí
(sabbaññutanāṇa). Ngài biết bất cứ pháp nào có thể được biết trong những cách
và những mối liên hệ của pháp đó. Không có điều gì thoát khỏi mạng lưới tuệ căn
của ngài. Chính là trí này chơn chánh giúp ngài thành một bậc chánh đẳng giác
(sammāsambuddha), cùng với thẩm quyền thành lập giáo pháp và khả năng giác ngộ
những kẻ khác.
Sự sai
biệt thứ hai giữa các thanh văn và Đức Phật liên quan đến trình tự chứng đắc.
Vị thanh văn thành tựu giải thoát dựa vào Đức Phật, nhưng Đức Phật chứng ngộ
không có đạo sư, hoàn toàn qua trí tuệ tự ngài triển khai. Trí này không phải
được thụ đắc qua quá trình chuyển giao như thanh văn trí, nhưng bừng lên trong
bóng tối vô minh từ việc tự ngài thực hành chánh quán các pháp. Khía cạnh giác
ngộ của Đức Phật được bao hàm bằng đoạn giải thích thứ hai trong phần 'Như
Lai', bàn về sự thực chứng lý duyên khởi của Đức Phật, nội dung vô song về sự
giác ngộ được khám phá khi ngài ngồi tham thiền dưới cội Bồ đề.
Sự lồng
vào chuỗi nhân duyên ở điểm này trong kinh đáp ứng thêm mục đích liên kết nội
dung của kinh này với hai trụ cột trung tâm của Phật Pháp - giáo lý Duyên khởi
và Tứ thánh đế. Phần giải thích đầu tiên vạch ra tiến trình nhận thức của phàm
phu, có nền móng là vô minh tùy miên, từ giai đoạn tưởng sai lạc, qua nhiều
cách tưởng tượng khác nhau, để rồi hoan hỷ trong các cơ sở nhận thức. Bây giờ,
do lời phát biểu rằng 'hỷ lạc là căn bản của đau khổ' và tiếp nối qua những chi
phần tiếp theo trong chuỗi duyên khởi, Đức Phật giải thích rõ ràng những hậu
quả của tưởng tượng và hỷ lạc. Tưởng tượng và hỷ lạc là cội nguồn của đau khổ
và khi ta tạo ra chúng thì sẽ sản sinh ra kết quả không thể tránh được: sanh un
đúc cái già, bệnh và chết mới, và những pháp này mang lại những hình thức đau
khổ phụ thuộc theo vết của chúng. Phương thuốc trừ tiến trình duyên khởi này,
như kinh cho thấy, nằm ngay trong sự thâm nhập chính hệ thống của nội
động lực. Vì khi những nguồn duyên khởi được phát hiện và phơi bày, chúng bị
kiệt quệ tiềm lực tạo ra nhân duyên và ngừng phát sanh những quả thường lệ của
chúng. Vô minh được chuyển thành trí, ái bị diệt do ly tham và vòng sanh hữu
kết thúc để mà không bao giờ có thể phát khởi lần nữa. Do vậy Đức Phật kết luận
rõ ràng kinh này với tuyên ngôn khải hoàn về sự giác ngộ vô thượng của chính
ngài- sự tỉnh thức vĩ đại đã giải thoát tận cội gốc phủ kín kiếp luân hồi. Ở
phần kết luận, kinh này nêu rõ rằng chư tỳ kheo không hoan hỷ trong những lời
dạy của Thế Tôn. Đây là một sự đảo ngược trực tiếp của phương thức hầu như
không thể thay đổi khi kết thúc một bài kinh, nó nêu rõ rằng: 'Nội tâm phấn
khởi, các tỳ kheo hoan hỷ trong những lời dạy của Thế Tôn.' Do vậy, sự phát
sanh của vấn đề này là một nguyên nhân cho sự ước đoán. Chú giải giải thích kết
cuộc đặc biệt này bằng sự đề cập đến mục đích khởi đầu của Đức Phật trong việc
làm sáng tỏ Mūlapariyāya Sutta (kinh căn bản pháp môn): để phá vỡ kiêu mạn của
năm trăm tỳ kheo, từ sự kiêu mạn trí thức, đã trở nên kiêu mạn trong các bổn
phận đạo pháp của các vị ấy. Bởi vì chư tỳ kheo này không thể hiểu một kinh
thâm thúy như thế, tâm trí của họ hoang mang và mạn bị bẻ gãy. Do bối rối nên
chư tỳ kheo không hoan hỷ trong những lời của bậc Đạo sư.
Mặc dù
truyền thống chú giải này hẳn nhiên có vẻ hợp lý, một giải thích khác cho phần
kết vô song của kinh căn bản cũng có khả năng. Chú giải cho chúng ta biết
rằng trước khi thọ giới tỳ kheo trong giáo pháp của Đức Phật, chư tỳ kheo này
là những người bà la môn đã thông suốt các tập Veda. Nó có thể được gợi ý rằng
lý do cho sự không hài lòng của các vị ấy không phải là sự thiếu khả năng để
hiểu bài kinh của Đức Phật, nhưng thật ra hiểu kinh này quá rõ. Vì những
thiên vị bà la môn tính của các vị có thể đã mang theo khi chuyển đến giáo pháp
và ảnh hưởng xấu đến sự hiểu pháp theo những cách mà chư tỳ kheo này không sẵn
sàng từ bỏ. Điểm chủ yếu về tà trí của các vị rất có thể là sự tin tưởng về một
cái ngã trường tồn bất diệt, Ātman, giáo điều chính của triết học bà la môn và
mục tiêu quan trọng của lời diễn giải của Đức Phật trong kinh. Một đoạn nổi
tiếng trong Brihadāranyaka Upanishad (áo nghĩa thư đoạn 3.7.3) trình bày một
điểm tương đương nổi bật đối với mô hình linh hoạt của những tưởng tượng được
nêu ra trong kinh hiện tại: Người cư trú trên đất, dù ở trong đất, đất không
biết nó, đất là thân người đó và người kiểm soát đất từ bên trong- người
đó là ngã của bạn, kẻ kiểm soát bên trong, đấng bất diệt. Những pháp khác được
bàn đến tương tự là: nước, lửa, bầu trời, không khí, thiên giới, mặt trời, các
phương, mặt trăng và các vì sao, không gian, bóng tối, ánh sáng, chúng sanh,
hơi thở, ngôn từ, mắt, tai, tâm trí, da, trí khôn và cơ quan sinh sản. Khi vạch
ra những cách tư tưởng như chỉ là những tưởng tượng của kẻ vô văn phàm phu, Đức
Phật có thể đã chạm mạnh vào tâm điểm những tín điều bà la môn còn dư xót của
chư tỳ kheo này, bằng cách ấy kích động sự phẫn nộ của họ. Tuy nhiên, chú giải
tường thuật một hệ quả vui vẻ cho toàn thể quá trình diễn biến các sự kiện. Sau
khi nghe Mūlapariyāya Sutta (kinh căn bản pháp môn) năm trăm tỳ kheo này trở
nên khiêm tốn và đầy vẻ kính trọng. Chư vị lại
tiếp tục những bổn phận đạo pháp, đến phụng sự Đức Phật và thường xuyên lắng
nghe pháp của ngài. Thời gian sau, khi Đức Phật biết rằng những thiện căn của
chư vị đã thuần thục và trí tuệ đã thâm trầm, Đức Phật giảng cho họ bài kinh
tên Gotamaka (Gotamaka Sutta A.III.13.3), tuyên thuyết những đức thù
thắng của chính ngài, giáo pháp và chúng Tăng đệ tử của ngài. Do lắng nghe kinh
này, tất cả năm trăm tỳ kheo được thoát khỏi các phiền não và đã hoàn mãn việc
tu tập với sự thực chứng cứu cánh giải thoát.
Bhikkhu
Bodhi
Phụ Lục
LƯỢC ĐỒ MÔ TẢ KINH CĂN BẢN PHÁP MÔN
(X
= bất cứ phần nào trong hai mươi bốn cơ sở)
Hạng
người
|
Nhận
thức chính *
|
Phản
ứng khởi đầu
|
Phản
ứng khái niệm
|
Phản
ứng cảm xúc
|
Duyên
cớ
|
Kẻ vô
văn phàm phu
|
tưởng
tri X
|
tưởng
tri X là X
|
tưởng
tượng X
tưởng
tượng trong X
tưởng
tượng từ X
tưởng
tượng X là của ta
|
hoan
hỷ trong X
|
bởi vì
vị ấy không hiểu rõ X
|
Bậc
hữu học
|
tưởng
tri X
|
thắng
tri X
|
vị ấy
chớ tưởng tượng X
vị ấy
chớ tưởng tượng trong X
vị ấy
chớ tưởng tượng từ X
vị ấy
chớ tưởng tượng X là của Ta
|
vị ấy
chớ hoan hỷ trong X
|
để mà
vị ấy có thể hiểu rõ X
|
Bậc A
la hán
|
tưởng
tri X
|
thắng
tri X
|
không
tưởng tượng X
không
tưởng tượng trong X
không
tưởng tượng từ X
không
tưởng tượng X là của ta
|
không
hoan hỷ trong X
|
bởi vì
vị ấy đã hiểu rõ X
bởi vì
vị ấy không có tham, sân và si
|
Đức
Phật
|
tưởng
tri X
|
thắng
tri X
|
không
tưởng tượng X
không
tưởng tượng trong X
không
tưởng tượng từ X
không
tưởng tượng X là của ta
|
không
hoan hỷ trong X
|
bởi vì
ngài đã hiểu rõ X đến cực biên
bởi vì
ngài đã hiểu lý duyên khởi
|
* Không
được đề cập rõ ràng trong kinh.
[1] Kandy
1978, Buddhist Publication Society (Tỳ kheo Giác Lộc đã dịch. )
[2] Bởi vì những phiền não này là những nhân duyên thật
sự cho các 'tướng' (nimitta) mà phàm phu tưởng tri trong các pháp, trong
các kinh văn chúng được gọi là ' các pháp tạo ra tướng'(nimittakaraṇa). Đối
chiếu. M.43: 'Này hiền giả, tham là một pháp tạo ra tướng, sân là một pháp tạo
ra tướng, si là một pháp tạo ra tướng.'
[3] Pathaviṃ maññati, pathaviyaṃ maññati, pathavito maññati,
'pathavī me' ti maññati. Trong bàn dịch này chúng tôi đã thêm những cụm từ
trong ngoặc để cho lời văn sáng tỏ hơn; nhưng căn cứ vào chú giải ta thấy
những cụm từ này còn được đơn giản hóa ý nghĩa hơn, do vậy phài dè dặt khi chấp
nhận.
[4] Không thể đủ nhấn mạnh, chống lại một số giài thích phổ
biến của quan điểm Phật giáo, rằng quan niệm ngã không phải là một sản phẩm của
ảnh hưởng xã hội hoặc của sự hiểu sai về tính cách trừu tượng của ngôn ngữ. Cấu
trúc căn bản của ngã tính đã có mặt hoàn toàn như là một tiềm lực trong sự hình
thành tâm của phàm phu từ sát na sinh. Nó là một đồng sanh cố hữu của vô minh
và ái, những nguyên nhân của tục sinh tiềm tàng trong tâm từ sát na sinh. Sự va
chạm của môi trường tạo ra ngã tưởng trong hình thức ăn khớp, nhưng một sự mở
ra như thế không thể có nếu khuynh hướng căn bản đối với sự méo mó ngã
tính không hiện diện một cách ngấm ngầm từ đầu. Trong liên kết này hãy xem M.
64.
[5] Xem M. 44, S. 1.1.1, v.v...
[6] Bhikkhu Ñāṇananda, Concept and Reality in Early Buddhist
Thought (Kandy: Buddhist publication Society, 1971), nhất là trang 2-13. (xem
bản dịch tiếng Việt của Tk. Giác Lộc)
[7] Xem M.22, v.v...Nghiêm chỉnh mà nói, tất cả ba ý tưởng,
có vai trò suy xét chủ tâm, là loại thân kiến. Nhưng tới mức độ những
kiến giải do đó mà ra có thể bị truy nguyên đến động cơ tâm lý sâu hơn, loại
thứ nhất và thứ nhì có được coi như là chủ đề biện minh của ái và mạn.
[8] Xem M.22, M.72, M.109, v.v...
[9] Concept and Reality, trang 49.
[10] Xem ở trên, p.4.
[11] Xem M.8, M.22, M.28, v.v...
[12] Lời người dịch: Nơi đây ý của
ngài Bodhi đề cập đến ý tưởng 'Ta là' theo lời giải của
tỳ kheo Khemaka vốn là một thánh A na hàm.